Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

SKKN sử dụng đồ dùng dạy học trong môn vật lí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.72 KB, 10 trang )

Đề tài: Sử dụng dụng cụ, thiết bị thí nghiệm vật lý trong dạy học ở bậc trung học cơ sở
Phần I - Đặt vấn đề.
Nh chúng ta đã biết, mục tiêu của giáo dục trong đó hoạt động cơ bản là dạy học là
hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Dạy học không chỉ đơn thuần cung cấp
cho học sinh những tri thức và kinh nghiệm mà loài ngời đã tích luỹ đợc mà phải góp
phần tích cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh theo mục tiêu đào
tạo. Học sinh cùng đợc tham gia tích cực chủ động vào các hoạt động học tập thì các
phẩm chất và năng lực cá nhân cá nhân sớm đợc hình thành và phát triển hoàn thiện. Năng
động sáng tạo là những phẩm chất cần thiết trong cuộc sống hiện đại nó phải đợc hình
thành ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trờng .
Chính vì lẽ đó trong các môn học nói chung và môn vật lí nói riệng, việc đổi mới phơng
pháp dạy học theo hớng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh đã đợc các giáo viên
áp dụng từ nhiều năm nay, trong đó phơng pháp tự nghiên cứu giúp học sinh tự học, tự
sáng tạo đợc đánh giá là phơng pháp có giá trị trí đức dục lớn nhất. Các thí nghiệm thực
hiện theo phơng pháp nghiên cứu vấn đề giúp học sinh tự học tự sáng tạo, khuyến khích
các em tự tìm tòi phát hiên vấn đề qua đó giúp các em nắm chắc cả kiến thức lí thuyết lẫn
kĩ năng thực hành. Để đạt đợc điều đó thì việc hớng dẫn học sinh sử dụng dụng cụ thí
nghiệm và thực hiện các thí nghiệm trong mỗi bài học là rất quan trọng nó có thể quyết
định đến việc thành công của tiết dạy .
Là một giáo viên dạy môn vật lí ở bậc trung học cơ sở, ta cần phải làm gì để có thể
làm tốt đợc các thí nghiệm trên lớp đồng thời hớng dẫn học sinh thực hiện tốt đợc các thí
nghiệm?
Qua thực tế giảng dạy bản thân tôi đã rút ra đợc một số kinh nghiệm về vấn đề Sử
dụng dụng cụ thiết bị thí nghiệm vật lí trong dạy học ở bậc trung học cơ sở. Xin đợc trao
đổi cùng đồng nghiệp.

Phần II . Nội dung
I- Cơ sở lí luận:
Bộ môn vật lí là bộ môn khoa học thực nghiệm, các nội dung kiến thức mới đợc
hình thành phần lớn thông qua các thí nghiệm, các tri thức vật lí là sự khái quát các kết
quả nghiên cứu từ thực nghiệm và các hiện tợng diễn ra trong đời sống. Lứa tuổi học sinh


học trung học cơ sở có tính hiếu động, tò mò thích tìm tòi khám phá tìm hiểu thế giới
xung quanh nên các em rất thích làm thí nghiệm để đợc trực tiếp quan sát, theo dõi hiện t-
ợng, tập làm những nhà khoa học nhỏ tuổi để tự nghiên cứu phát hiện vấn đề và do đó
việc ghi nhớ kiến thức mới tốt hơn, nó tạo cho việc học tập của học sinh hứng thú và nhẹ
nhàng hơn. Thông qua thí nghiệm, nhất là các thí nghiệm kèm theo màu sắc, âm thanh và
các hiện tợng mới lạ sẽ kích thích mạnh hứng thú của học sinh, tạo điều kiện rèn luyện kĩ
Ngời thực hiện: Nguyễn Thị Thuý Liễu THCS Trần Hng Đạo. Năm học 2008-2009
1
Đề tài: Sử dụng dụng cụ, thiết bị thí nghiệm vật lý trong dạy học ở bậc trung học cơ sở
năng quan sát cẩn thận tỉ mỉ, kĩ năng lắp ráp dụng cụ thí nghiệm chính xác và tác phong
làm việc khoa học; nó có sức thuyết phục lớn và tạo ra ở học sinh niềm tin vào bản chất
của sự vật và hiện tợng, vào các quy luật của tự nhiên. Tạo điều kiện tốt để rèn luyện ở
học sinh khả năng phân tích, so sánh, đối chiếu, trừu tợng, khái quát hóa, cũng nh khả
năng suy luận quy nạp trong quá trình xử lí kết quả thi nghiệm để rút ra kết luận, học sinh
áp dụng kiến thức vào thực tế cũng sẽ tốt hơn. Mặt khác đa số trong các bài dạy, nếu
không có thí nghiệm học sinh không có cơ sở để thc hiện các thao tác t duy và tiếp nhận
kiến thức mới, nên phần lớn tri thức mà giáo viên muốn mang đến cho học sinh về bản
chất là áp đặt. Chính cách dạy chay hoặc việc làm thí nghiệm không thành công là nguyên
nhân của tình trạng chất lợng học tập của bộ môn thấp, và là sự tách rời lý thuyết với thực
hành, giữa nhà trờng với đời sống thực tế.
II- Thực trạng về vấn đề thực hiện thí nghiệm vật lí trong bài dạy.
Hiện nay, song song với việc đổi mới phơng pháp dạy học, bộ giáo dục và đào tạo
đã đa về các trờng những bộ dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho việc giảng dạy, nhng thực tế
còn có nhiều giáo viên ngại làm thí nghiệm, ngại triển khai cho học sinh làm thí nghiệm
theo nhóm. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do thiết bị thí nghiệm
chất lợng kém, có những thiết bị mới chỉ sử dụng một vài lần đã hỏng. Ví dụ nh bộ mô
đun lắp ráp mạch điện ở vật lí 7; máy phát điện xoay chiều ở vật lí 9; Bộ thí nghiệm về
cân bằng lực - quán tính ( máy A tút ) ở lớp 8 ...Một số trang thiết bị còn thiếu chính xác
nh nhiệt kế, lực kế, đồng hồ vạn năngdẫn đến kết quả thí nghiệm giữa lí thuyết với
thực tế khác xa nhau, thiếu tính thuyết phục đối với học sinh.Trang thiết bị phục vụ cho

thí nghiệm còn thiếu thốn. Còn có sự không đồng bộ giữa việc hớng dẫn thí nghiệm ở
sách giáo khoa với đồ dùng thí nghiệm thực tế ( ví dụ thí nghiệm bài lực điện từ lý 9). Cơ
sở vật chất của các trờng cha đủ đáp ứng nhu cầu dạy học nh hiện nay, Hầu hết các trờng
ở ngoại thành cha có phòng học bộ môn, do đó tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm theo
nhóm gặp nhiều khó khăn. Bài dạy thì dài ( nhất là phần điện học vt lý 9 ) do đó làm thí
nghiệm theo nhóm khó đảm bảo thời gian trong một tiết học. Mặt khác học sinh còn cha
quen với việc sử dụng các thiết bị thí nghiệm ( nhất là học sinh có lực học trung bình,
yêú) các em thờng nghịch đồ dùng thí nghiệm và biến nó thành đồ chơi của riêng mình.
Phòng thí nghiệm cha đợc xắp xếp khoa học còn là kho chứa đồ dùng dạy học, việc lấy đồ
dùng thí nghiệm cha thuận tiện. Hiện nay nhiều trờng cha có phòng học bộ môn để tổ
chức các giờ học vật lí, nên việc di chuyển thiết bị thí nghiệm từ phòng học của lớp này
sang phòng học của lớp khác sẽ làm cho giáo viên và học sinh vừa vất vả lại mất nhiều
thời gian, công sức vào việc lắp ráp thí nghiệm, giữ gìn, bảo quản dụng cụ thí nghiệm
Tất cả những nguyên nhân trên và nhiều nguyên nhân khác nữa đều ảnh hởng lớn
đến chất lợng sử dụng dụng cụ thí nghiệm và việc thực hiện các thí nghiệm vật lí dẫn đến
chất lợng giáo dục trong các giờ dạy hiệu quả không cao.

III. Các giải pháp và ứng dụng.
Ngời thực hiện: Nguyễn Thị Thuý Liễu THCS Trần Hng Đạo. Năm học 2008-2009
2
Đề tài: Sử dụng dụng cụ, thiết bị thí nghiệm vật lý trong dạy học ở bậc trung học cơ sở
1)Chuẩn bị điều kiện để thực hiện thí nghiệm.

Chúng ta biết rằng để có thể lên lớp một tiết dạy thành công thì việc chuẩn bị bài
dạy vô cùng quan trọng, giáo viên cần nghiên cứu kĩ bài trong SGK sách giáo viên, tìm
hiểu thêm kiến thức có liên quan ở các sách tham khảo đọc thêm bài dạy kế sau đó (nếu
có liên quan ) để giúp chúng ta hiểu vấn đề toàn diện hơn, tìm hiểu xem kiến thức chính
của bài thí nghiệm cần cung cấp cho học sinh là gì? Thí nghiệm trong bài học là do giáo
viên làm hay học sinh làm? hay giáo viên và học sinh cùng làm từ đó bố trí thời gian làm
thí nghiệm, chọn không gian cho việc làm thí nghiệm đợc hợp lí. Giáo viện phải chuẩn bị

thí nghiệm cẩn thận trớc khi đa vào dạy học, cần suy nghĩ tới các tình huống thí nghiệm
không thành công, từ đó tìm ra nguyên nhân để khắc phục.Giáo viên cần cho học sinh thu
thập thông tin qua kênh chữ, kênh hình ở SGK để xác định mục tiêu của thí nghiệm ,
dụng cụ cần cho mỗi thí nghiệm là gì? cách thức tiến hành thí nghiệm, cách quan sát, ghi
chép những hiện tợng diễn ra .
Để làm thí nghiêm thành công, hạn chế tới mức thấp nhất sự cố diễn ra ngoài ý
muốn và đạt đợc kết quả thí nghiệm trong thời gian ngắn nhất thì trớc khi cho các em làm
thí nghiệm ngời giáo viên cần lu ý học sinh một số điểm trong quá trình làm thí nghiệm.
Ví dụ trong bài Lực đẩy ác si mét phần thí nghiệm kiểm tra SGK vật lý 8, giáo viên
cần lu ý học sinh :
- Hiệu chỉnh lực kế cho đúng trớc khi làm thí nghiệm.
- Bố trí thí nghiệm để lực kế dãn đều theo phơng thẳng đứng.
- Quả nặng khi thả vào nớc phải chìm hẳn và không chạm vào đáy, thành bình.
- Để cố định bình tràn, cần tráng nớc ở các cốc B, A trớc khi làm thí nghiệm
- Khi hứng nớc, đổ nớc từ cốc nọ sang cốc kia phải cẩn thận, tránh để nớc rơi vãi
dẫn đến thí nghiệm thiếu chính xác.
Việc lắp ráp dụng cụ thí nghiệm là rất cần thiết, tạo cho học sinh sự linh hoạt sáng
tạo nên phần lớn các thí nghiệm giáo viên không nên lắp sẵn từ trớc, mà phải để cho học
sinh tự lắp ráp thí nghiệm .
Hiện nay với bộ thí nghiệm của học sinh các nhà sản xuất cũng đã tính toán đến
thời gian và điều kiện lắp ráp của hoc sinh trong một tiết học, nên đã bố trí lắp ráp chúng
thành bộ ví dụ nh bộ thí nghiệm về tác dụng từ của dòng điện xoay chiều (thí nghiệm hình
35.2 + 35.3 SGK vật lý 9) hoặc bộ thí nghiệm về khảo sát từ phổ, đờng sức từ của ống dây
có dòng điện chạy qua ( Vật lý 9). Làm nh vậy rất tiện lợi cho việcbố trí thí nghiệm, tránh
mất nhiều thời gian vào việc không thật cần thiết. Nhng cá biệt có những bài mà giáo viên
có thể hớng dẫn một số học sinh lắp ráp trớc ví dụ nh lắp ráp máy phát điện xoay chiều
trong bài 38 SGK vật lý 9.
Kinh nghiệm cho thấy trớc mỗi bài dạy có thí nghiệm giáo viên cần chuẩn bị làm
trớc thí nghiệm trên đồ dùng thí nghiệm của mỗi nhóm, tìm sự cố xảy ra từ đó tìm cách
khắc phục. Những thí nghiệm khó thành công giáo viên phải làm thí nghiệm nhiều lần để

hớng dẫn học sinh học tập có kết quả tốt nhất.
Ngời thực hiện: Nguyễn Thị Thuý Liễu THCS Trần Hng Đạo. Năm học 2008-2009
3
Đề tài: Sử dụng dụng cụ, thiết bị thí nghiệm vật lý trong dạy học ở bậc trung học cơ sở
2) Quản lí hoạt động nhóm học sinh khi làm thí nghiệm
Trong khâu tổ chức lên lớp cần hớng dẫn học sinh học tập theo nhóm nh sau:
+Làm việc chung cả lớp: Giáo viên nêu vấn đề, nhiệm vụ nhận thức; yêu cầu học
sinh đọc thông tin SGK, nghiên cứu hình vẽ,nêu mục đích, dụng cụ thí nghiệm, cách
tiến hành thí nghiệm giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm hớng dẫn
cách làm việc theo nhóm.
+Làm việc theo nhóm :
- Nên chia nhóm có sự tham gia của cả học sinh nam và học sinh nữ, học sinh có
nhiêù trình độ khác nhau nh giỏi, khá ,trung bình, yếu để các em tơng trợ giúp đỡ lẫn
nhau tạo điều kiện tốt cho việc làm thí nghiệm.
- Giao nhiệm vụ cho nhóm trởng, nhóm phó: Nhóm trởng nhận, trả dụng cụ thí
nghiệm điều khiển các bạn trong nhóm cùng làm thí nghiệm. Nhóm phó (th kí ) ghi chép
lại các kết quả thí nghiệm, hiện tợng thí nghiệm cần quan tâm.
- Các thành viên trong nhóm đợc nhóm trởng phân công chịu trách nhiệm (hoặc
giám sát) một công việc nào đó.
- Mọi thành viên trong nhóm đều phải có trách nhiệm để hoàn thành thí nghiệm và
đảm bảo an toàn khi làm thí nghiệm.
-Cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm( không nhất thiết phải là nhóm
trởng hay th kí, mà có thể là một thành viên trong nhóm đại diện trình bày)
+Làm việc chung cả lớp: Các nhóm lần lợt báo cáo kết quả thí nghiệm; thảo luận
chung ( các nhóm nhận xét, dóng góp ý kiến và bổ sung cho nhau) giải thích nguyên
nhân sai số (nếu có).
Ví dụ trong bài thực hành Kiểm nghiệm mối quan hệ Q tỉ lệ với I
2
Sau khi giáo
viên cho học sinh nắm rõ yêu cầu của bài thực hành, dụng cụ thí nghiệm cần thiết, cách

tiến hành thí nghiệm, giáo viên lu ý học sinh về tính an toàn trong khi thí nghiệm, bố trí
thí nghiệm tránh để nhiệt kế chạm vào dây đốt, phải dùng lợng nớc tơng đối đủ, để làm
giảm sai số trong phép đo(vì trong thí nghiệm bỏ qua sự truyền nhiệt cho vỏ bình).
Nhóm trởng cần phân công một học sinh di chuyển con chạy của biến trở để điều
chỉnh cờng độ dòng điện: một học sinh theo dõi số chỉ của am pe kế , một học sinh theo
dõi nhiệt độ: Một học sinh theo dõi đồng hồ đo thời gian, một học sinh khuấy nớc trong
cốc. Một số học sinh khác giám sát việc đọc việc ghi chép, th kí làm nhiệm vụ ghi các kết
quả thí nghiệm ở bảng 1
Hoặc trong bài thí nghiệm độ cao của âm- Vật lí 7 nhóm trởng cần phân công
mỗi thành viên trong nhóm thực hiện một nhiệm vụ: Th kí ghi kết quả thí nghiệm một học
sinh đếm dao động của con lắc dài, một học sinh đếm số dao động của con lắc ngắn, hai
học sinh giám sát đọc: một học sinh bấm dây đồng hồCó nh vậy mới tạo cho mọi
thành viên trong nhóm ý thức trách nhiệm với công việc của mình, hiệu quả làm thí
nghiệm sẽ cao hơn.
Ngời thực hiện: Nguyễn Thị Thuý Liễu THCS Trần Hng Đạo. Năm học 2008-2009
4
Đề tài: Sử dụng dụng cụ, thiết bị thí nghiệm vật lý trong dạy học ở bậc trung học cơ sở
Trong khi tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm theo nhóm, giáo viên phải quản lí
tốt hoạt động nhóm nếu không một số học sinh ý thức kém không chú ý đến việc làm thí
nghiệm mà ỷ lại vào bạn, nghịch ngợm làm hỏng đồ dùng thí nghiệm. Trong giờ học thực
hành giáo viên cho điểm bài thực hành nên tổng hợp chung cả điểm ý thức và điểm nội
dung thực hành .

3) Rèn tính tích cực sáng tạo của học sinh qua việc làm thí nghiệm.
* Khi tổ chức cho các nhóm học sinh làm thí nghiệm giáo viên nên chủ động giao
thời gian cho các nhóm hoàn thành thí nghiệm dể tạo sự thi đua giữa các nhóm giúp các
thành viên trong nhóm tích cực hơn sau đó giáo viên nhận xét, động viên các nhóm làm
việc tích cực nhất, hiệu quả nhất dể kịp thời động viên học sinh.
Trong nhiều bài học, sách giáo khoa chỉ đa ra một phơng án làm thí nghiệm cơ bản
nhất và giáo viên cũng hớng dẫn học sinh làm theo phơng án sách giáo khoa đa ra, nhng

giáo viên có thể đặt ra câu hỏi để học sinh đa ra các tình huống làm thí nghiệm theo ph-
ơng án khác cũng có thể đạt đợc mục đích của thí nghiệm .
Ví dụ trong thí nghiệm: Kiểm tra sự khúc xạ của tia sáng truyền từ nớc sang không
khí sách giáo khoa vật lí 9 đa ra phơng án thí nghiệm dùng phơng pháp che khuất nh-
ng học sinh có thể đa ra phơng án khác nh: Để nguồn sáng trong nớc chiếu ánh sáng từ
đáy bình lên, hoặc để nguồn sáng ở ngoài chiếu ánh sáng qua đáy bình qua nớc rồi ra
không khí. Giáo viên giúp học sinh cân nhắc xem có thể dùng phơng án nào dễ thực hiện
nhất và sẽ thực hiện theo phơng án đó. Hoặc trong thí nghiệm của bài Hiện tợng cảm ứng
điện từ.Thí nghiệm H31.4 SGK là cho nam châm quay quanh trục thẳng đứng trớc cuộn
dây dẫn kín để tạo ra dòng điện cảm ứng trong cuộn dây. Giáo viên đặt vấn đề: Nếu cho
nam châm đứng yên, ống dây quay quay quanh trục thẳng đứng có tạo ra đợc dòng điện
cảm ứng không? Học sinh nêu dự đoán giáo viên yêu cầu học sinh làm thí nghiệm kiểm
tra dự đoán và rút ra kết luận.
*Nếu thí nghiệm do giáo viên biểu diễn với sự tham gia tích cực của học sinh thì
cần chọn nơi bố trí thí nghiệm cho học sinh dễ quan sát giáo viên dễ thực hiện, bố trí thí
nghiệm không đợc lộn xộn gây khó khăn cho việc quan sát của học sinh và không làm cản
trở thao tác thí nghiệm của giáo viên. Đối với các bài thí nghiệm điện có mắc vôn kế, am
pe kế thì cần nối kín mạch điệnvới am pe kế trớc, vôn kế và các dụng cụ hỗ trợ nối sau,
dùng dây màu để phân biệt các cực của nguồn điện (đối với nguồn một chiều thờng dùng
dây màu đỏ nối với cực dơng, dây màu đen hoặc xanh nối với cực âm ). Những thí nghiệm
có dụng cụ đo nh vôn kế, am pe kế thì cần hiệu chỉnh số không trớc khi thí nghiệm, sử
dụng thang đo cho phù hợp để làm giảm sai số trong phép đo. Cần lu ý học sinh mắc xong
mạch điện, cha đóng khoá K mà mời giáo viên đến để kiểm tra cách mắc mạch điện rồi
mới đóng K (nhất là đối với học sinh lớp 7). Ví dụ làm thí nghiệm về sự phụ thuộc của
dòng điện vào hiệu điện thế trong bài 1 (sách giáo khoa vật lý 9) để mắc mạch điện nh
hình 1.1 nên dùng dây đỏ nối từ cực dơng của nguồn điện qua công tắc đến am pe kế, đến
điện trở khảo sát và kết thúc bằng dây xanh nối với cực âm của nguồn điện, vôn kế là
Ngời thực hiện: Nguyễn Thị Thuý Liễu THCS Trần Hng Đạo. Năm học 2008-2009
5

×