Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Quyền thừa kế theo luật dân sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.69 KB, 44 trang )

CHƯƠNG 3. QUYỀN THỪA KẾ
3.1. Khái niệm về quyền thừa kế
3.1.1. Khái niệm thừa kế
Cùng với quan hệ sở hữu, quan hệ thừa kế phát sinh gắn liền với sự hình thành và phát triển
của xã hội loài người. Thừa kế được hiểu là việc chuyển dịch tài sản (của cải) của người chết cho
người còn sống theo huyết thống, truyền thống, phong tục tập quán của từng dân tộc. Người
hưởng tài sản có nghĩa vụ duy trì, phát triển giá trị vật chất, giá trị tinh thần và truyền thống, tập
quán mà hệ trước để lại. Trong xã hội có giai cấp, quan hệ thừa kế là đối tượng điều chỉnh của
pháp luật, Nhà nước điều chỉnh quan hệ thừa kế nhằm đạt được những mục đích nhất định.
Nghiên cứu về nguồn gốc vấn đề thừa kế, có thể kết luận thừa kế là một vấn đề thuộc phạm
trù lịch sử, phạm trù kinh tế và phạm trù pháp lý.
Thừa kế có mầm móng và xuất hiện ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người. Ngay
dưới chế độ mẫu quyền trong thời kỳ nguyên thuỷ của xã hội loài người, khi mà xã hội chưa có
sự phân chia giai cấp, chế độ sở hữu còn dưới dạng cộng đồng nguyên thuỷ, chỉ là những công cụ
lao động thô sơ và những vật phẩm tự nhiên thì vấn đề thừa kế đã được đặt ra. Lúc đó thừa kế
được phát sinh dựa trên quan hệ huyết thống theo dòng máu của người mẹ. Ph.Ăngghen viết:
“Theo chế độ mẫu quyền nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên mẹ theo tập tục thừa kế
nguyên thuỷ trong thị tộc mới được thừa kế những người trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại
trong thị tộc, vì tài sản để lại không có giá trị lớn, nên lâu nay trong thực tiễn có lẽ người ta vẫn
trao tài sản đó cho những bà con thân thích nhất, nghĩa là trao cho những người cùng huyết tộc
với người mẹ”.
Theo tiến trình phát triển của xã hội cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, năng
suất lao động ngày càng được nâng cao, từ đó xuất hiện sự dư thừa sản phẩm. Những người có
quyền hành trong thị tộc, bộ lạc tìm mọi thủ đoạn để chiếm hữu số của cải dư thừa đó làm của
riêng. Chính sự phân hóa giàu nghèo này đã làm phát sinh những mâu thuẫn mới và dẫn đến sự ra
đời của nhà nước. Khi nhà nước và pháp luật ra đời, quan hệ sở hữu tư nhân đã được xác lập. Đến
thời điểm này, khi một người chết đi thì tài sản của họ không để lại cho cộng đồng nữa mà để lại
cho một số người nhất định. Những người này có thể được xác định theo nguyện vọng trước đó
của người chết hoặc theo pháp luật. Nói cách khác, lúc này, quá trình dịch chuyển di sản từ một
người đã chết cho một người còn sống đã có sự tác động bằng ý chí của nhà nước, phù hợp với
lợi ích của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị thông qua bộ máy nhà nước, ban hành các quy


định để điều chỉnh các quan hệ trong việc xác định phạm vi chủ thể, nội dung, hình thức, điều
kiện chuyển dịch tài sản và những vấn đề khác có liên quan đến việc thừa kế tài sản.
Tóm lại, thừa kế có thể được hiểu là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho một chủ
thể - có thể là cá nhân, tổ chức, theo ý chí của người để lại di sản hoặc theo các quy tắc của xã
hội, mà mỗi chế đó xã hội khác nhau có những quy tắc khác nhau do điều kiện kinh tế, chính trị xã hội,... quyết định.
3.1.2. Khái niệm quyền thừa kế
Quyền thừa kế là một phạm trù pháp lý, là căn cứ phát sinh một quan hệ pháp luật, quan hệ
sở hữu.
1


Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc dịch
chuyển tài sản của người chết cho những người khác theo ý chí của người đó khi còn sống hoặc
theo một trình tự nhất định đồng thời quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ và phương thức bảo vệ
các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế. Hiểu theo nghĩa hẹp, là quyền dân sự cụ thể của cá
nhân trong việc để lại di sản và hưởng di sản thừa kế cùng với quyền kiện hay không kiện yêu
cầu chia di sản thừa kế,...
Thừa kế với tư cách là một quan hệ pháp luật dân sự trong đó các chủ thể có những quyền
và nghĩa vụ nhất định. Trong quan hệ này, người có tài sản, trước khi chết có quyền định đoạt tài
sản của mình cho người khác. Những người có quyền nhận di sản họ có thể nhận hoặc không
nhận di sản (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác). Đối tượng của thừa kế là các tài sản ,
quyền tài sản thuộc quyền của người chết để lại ( trong một số trường hợp người để lại tài sản có
thể chỉ để lại hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản). Tuy nhiên, một số quyền tài sản gắn liền với
nhân thân người đã chết không thể chuyển cho những người thừa kế ( tiền cấp dưỡng, tiền lương
hưu…) vì pháp luật quy định chỉ có người đó mới có quyền được hưởng.
Tóm lại, về mặt pháp lý, quyền thừa kế được hiểu là quyền của cá nhân được để lại tài sản
của mình cho người khác hưởng sau khi chết và quyền của chủ thể được hưởng di sản của người
khác để lại. Quyền này được ghi nhận trong các văn bản pháp luật với các quy định cụ thể về
trình tự, thủ tục, điều kiện chuyển dịch tài sản của người chết sang người còn sống.
Điều 32, Hiến pháp năm 2013 quy định: “ Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp

pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh
nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp
luật bảo hộ”; Và tại Điều 609, BLDS 2015 quy định: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định
đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản
theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di
chúc”.
3.1.3. Mối quan hệ giữa quyền thừa kế và quyền sở hữu
Quyền thừa kế và quyền sở hữu đều là những phạm trù pháp lý, song song tồn tại trong
cùng một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Giữa chúng có mỗi liên quan mật thiết và chặt chẽ,
mỗi phạm trù là tiền đề và cũng chính là hệ quả đối với nhau. Nếu sở hữu là yếu tố đầu tiên để từ
đó làm xuất hiện thừa kế thì đến lượt mình thừa kế lại là phương tiện để duy trì, củng cố và xác
định quan hệ sở hữu.
Nếu sở hữu và thừa kế là hai vấn đề liên quan mật thiết với nhau song song tồn tại bên nhau
thì pháp luật về thừa kế với pháp luật về quyền sở hữu cũng có mối quan hệ hết sức mật thiết với
nhau. Thông qua việc quy định hình thức sở hữu về tài sản của cá nhân và theo đó pháp luật quy
định cho họ các quyền năng trong lĩnh vực thừa kế. Nói cách khác, pháp luật về sở hữu là cơ sở
cho việc ban hành các văn bản pháp luật về thừa kế.
Trong xã hội phong kiến hoặc trong xã hội tư bản - những xã hội dựa trên chế độ sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất, thì pháp luật về thừa kế là một trong những công cụ pháp lý quan trọng
để duy trì sự bóc lột sức lao động người khác và củng cố địa vị xã hội của những người thừa kế.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, một chế độ dựa trên nền tảng công hữu hoá tư liệu sản xuất chủ
2


yếu như đất đai, núi rừng, sông, hồ,... Thừa kế là sự kế thừa thành quả lao động của cá nhân gia
đình và các giá trị văn hoá của thế hệ này đối với thế hệ khác, nên pháp luật về thừa kế, trước hết
nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động, thành quả lao động của họ được chuyển sang cho
những người thừa kế của họ.
Quyền thừa kế là thừa hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp mà Nhà nước cho phép chuyển
dịch. Công dân có quyền để lại thừa kế những tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người

khác, Nhà nước không hạn chế quyền để lại thừa kế và tiếp nhận thừa kế của công dân (trừ
trường hợp quy định tại Điều 621, BLDS 2015). Mặt khác, Nhà nước khuyến khích công dân
bằng sức lao động của mình tạo ra nhiều của cải cho xã hội, làm giàu cho gia đình, đất nước; góp
phần xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3.1.4. Bản chất của quyền thừa kế
Thừa kế là sự kế quyền tổng hợp của những người sống đối với quyền, nghĩa vụ của người
đã khuất. Việc kế quyền toàn bộ hay một bộ phận quyền, nghĩa vụ do người chết để lại còn phụ
thuộc vào các quy định của pháp luật và ý chí của người để lại di sản, người hưởng di sản. Quyền
thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật của các quốc gia công
nhận. Tuy vậy, trong mỗi chế độ xã hội khác nhau thì sự quy định cũng khác nhau, tùy thuộc vào
tính chất của chế độ sở hữu trong xã hội đó.
Quyền thừa kế có quan hệ chặt chẽ với quyền sở hữu, hình thức sở hữu quyết định việc
thừa kế trong xã hội, vì vậy quyền thừa kế mang bản chất giai cấp sâu sắc. Trong chế độ phong
kiến và tư bản, giai cấp bóc lột chiếm hữu những tư liệu sản xuất của xã hội; di sản họ để lại cho
con cháu không những là những quyền lực về kinh tế mà còn cả quyền lực về chính trị để duy trì
sự áp bức, bóc lột của những giai cấp đó đối với nhân dân lao động. Trong các xã hội có các chế
độ sở hữu khác nhau, thừa kế là một trong những phương thức để củng cố và phát triển chế độ sở
hữu đó.
Sự kế thừa, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác là quy luật khách quan, nhưng các quan
hệ thừa kế ở mỏi chế độ xã hội được giải quyết như thế nào là do chủ quan con người quyết định.
Quyền sở hữu cá nhân là cơ sở khách quan việc thừa kế. Trong điều kiện nước ta hiện nay, quyền
thừa kế còn là một trong những phương tiện để củng cố và phát triển các quan hệ hôn nhân gia
đình, bảo vệ lợi ích của những người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả
năng lao động; bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể trong lĩnh vực thừa kế, qua đó góp
phần bảo đảm quyền sở hữu chính đáng mọi cá nhân trong xã hội.
Pháp luật của Nhà nước ta bảo vệ những lợi ích cơ bản của công dân trên cơ sở bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, lợi ích chung của toàn xã hội, góp phần xóa bỏ những tàn tích của xã hội thực
dân phong kiến để lại, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, làm cho nhân dân lao động yên tâm lao
động, sản xuất ra nhiều của cải vật chết cho xã hội. Quyền thừa kế xuất phát từ quan điểm coi gia
đình là tế bào của xã hôi, phải bảo đảm quyền lợi chính đáng của các thành viên trong gia đình và

sự ổn định của từng gia đình. Mặt khác, thông qua quyền thừa kế, giáo dục tinh thần trách nhiệm
của các thành viên đối với gia đình. Xác định diện những người thừa kế cũng như phương thức
chia di sản thừa kế trong pháp luật về thừa kế có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các chức
năng vai trò xã hội của nó.
3


Do đó, quyền thừa kế vừa mang bản chất giai cấp sâu sắc vừa mang rõ nét tính xã hội.
3.2. Sơ lược quá trình phát triển pháp luật thừa kế của Việt Nam
3.2.1. Sơ lược về pháp luật thừa kế của chế độ phong kiến Việt Nam
Ở nước ta pháp luật thành văn về thừa kế đã có từ rất sớm. Đáng chú ý là các bộ luật của
các triều đại phong kiến như Bộ luật Hồng Đức (1843), Bộ luật Gia Long (1815) đã chứa đựng
nhiều quy định về thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Trong luật Hồng Đức quy định
các con (con trai, con gái, con nuôi) đều có quyền thừa kế của cha mẹ. Điều 390 Bộ luật Hồng
Đức quy định: “Cha mẹ làm chúc thư phân chia tài sản, thiết lập hương hỏa trong chúc thư”..
Thừa kế theo pháp luật chỉ áp dụng khi không có di chúc (Điều 388) hoặc có chúc thư nhưng
chúc thư vô hiệu (Điều 366). Còn Bộ luật Gia Long không thừa nhận quyền thừa kế của con gái
mà chú trọng đến quyền lợi của con trai. Vấn đề thừa kế theo di chúc được đề cập như Điều 388
quy định: “Nếu có mệnh lệnh của cha mẹ, phải theo đúng. Vi phạm điều này sẽ mất phần của
mình”.
Xét về mặt nội dung, các quy định về thừa kế trong luật Hồng Đức và Gia Long tương đối
chặt chẽ và đầy đủ.
Thời kỳ Pháp thuộc, ở Việt Nam áp dụng các bộ luật sau: Bộ dân luật Bắc Kỳ 1931 và
Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật 1936. Trong các bộ luật này đều có quy định về thừa kế theo di
chúc và thừa kế theo pháp luật
3.2.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đã khai sinh ra Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa. Một nhà nước non trẻ cùng một lúc phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp về
chính trị, văn hoá, kinh tế, xã hội,... Nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước lúc này là phải bảo vệ, củng
cố thành quả cách mạng, kể cả những vấn đề liên quan đến lĩnh vực dân sự. Để làm được điều đó,

Nhà nước cần phải có hệ thống pháp luật. Ngày 22/5/1950, nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh
97/SL để sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật cũ, quy định một số nguyên tắc mới để
áp dụng trong điều kiện của nên dân chủ nước ta. Riêng trong lĩnh vực thừa kế, bằng Sắc lệnh 97,
pháp luật về thừa kế ở Việt Nam đã có những nguyên tắc hết sức tiến bộ, phá vỡ sự cổ hủ, lỗi thời
trong pháp luật về thừa kế trước đó: quy định vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau; con
trai, con gái đều có quyền thừa kế di sản của cha mẹ; chồng góa, vợ góa, các con đã thành niên có
quyền xin chia di sản; con cháu hoặc vợ, chồng của người chết cũng không bắt buộc phải nhận
thừa kế của người ấy; các chủ nợ của người chết không có quyền đòi nợ qua số di sản để lại,...
Những nội dung trên của Sắc lệnh số 97 đã cụ thể hoá Điều 9, Hiến pháp năm 1946 “Đàn
bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” và Điều 12, Hiến pháp 1946 “Quyền sở hữu
tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”. Có thể thấy rằng, Sắc lệnh 97 đã đảm bảo quyền
bình đẳng về thừa kế của công dân. Tư tưởng tiến bộ này cho đến ngày nay vẫn còn được giữ
nguyên ý nghĩa chủ đạo trong việc hình thành và vận dụng các quy định của pháp luật về thừa kế
nói riêng và pháp luật dân sự nói chung.
Để hướng dẫn Tòa án các cấp thống nhất trong việc giải quyết tranh chấp về thừa kế, Bộ Tư
pháp đã ban hành Thông tư số 1742 ngày 18/9/1956. Nội dung Thông tư quy định rõ: “Vợ hoặc
chồng của người chết có quyền thừa kế ngang với các con, vợ lẽ và con nuôi chính thức của
4


người để lại di sản có quyền thừa kế như vợ và con đẻ của người đó. Vợ góa của người để lại di
sản đều có quyền thừa kế di sản của chồng và hưởng di sản ngang với các thừa kế cùng hàng
khác”. Quy định trên đã củng cố nguyên tắc “người đàn bà có chồng có toàn năng lực về mặt hộ”
mà Sắc lệnh 97 đã quy định.
3.2.3. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
Điều 19 Hiến pháp 1959 đã công nhận vấn đề thừa kế thành nguyên tắc “Nhà nước chiếu
theo pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân” và Điều 16 Luật HNGĐ 1959 “vợ và
chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau”; “các con có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trong
quy định nói chung và trong lĩnh vực hưởng thừa kế nói riêng” (Điều 19).
Để đáp ứng kịp thời yêu cầu công tác xét xử, trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án

nhân dân tối cao đã ban hành nhiều thông tư hướng dẫn cụ thể để Toà án các cấp có sự thống nhất
chung về đường lối xét xử các tranh chấp trong lĩnh vực thừa kế: Thông tư 594/NCPL ngày
27/8/1968 hướng dẫn đường lối xét xử các việc tranh chấp về thừa kế, Thông tư 02/TATC ngày
2/8/1973 hướng dẫn giải quyết tranh chấp về thừa kế di sản liệt sĩ...
Ngoài ra ở miền Nam, còn có Bộ luật của chính quyền Sài Gòn (1972) đã quy định khá cụ
thể về thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật nhằm bảo vệ các quyền lợi chính đáng của
người được hưởng di sản thừa kế.
Vấn đề thừa kế trong giai đoạn 1945 – 1980 tuy cơ bản vẫn tiếp tục duy trì theo ba bộ pháp
điển là Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ và Pháp quy giản yếu (1873) nhưng lại mang một nội
dung mới rất tiến bộ, hướng tới việc xóa bỏ những quan niệm lạc hậu, tư tưởng trọng nam khinh
nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ, bình đẳng mọi công dân trong lĩnh vực thừa kế.
3.2.4. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm nay
Để phù hợp tình hình mới trong sự thay đổi sâu sắc mọi mặt của đất nước, kỳ họp thứ 7 của
Quốc Hội khoá VI đã chính thức thông qua bản Hiến pháp mới của nước ta. Hiến pháp 1980 là cơ
sở, nền tảng cho bước phát triển mới của pháp luật về thừa kế. Tại Điều 27 Hiến pháp 1980 quy
định “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về thu nhập hợp pháp của cải để dành, nhà ở
tư liệu sản xuất, pháp luật bảo hộ quyền thừa kế của công dân”.
Để phục vụ cho công tác xét xử giải quyết tranh chấp về thừa kế, đồng thời bổ sung một số
vấn đề cho phù hợp với quy định của Hiến pháp mới, qua tổng kết rút kinh nghiệm công tác xét
xử, ngày 24/7/1981 Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư 81 để hướng dẫn giải quyết
các tranh chấp về thừa kế. Thông tư 81 là văn bản tương đối hoàn chỉnh về các quy phạm liên
quan đến thừa kế. Thông tư đã quy định nhiều vấn đề như: di sản thừa kế, thừa kế theo di chúc,
thừa kế theo pháp luật, phân chia di sản thừa kế,... Đặc biệt, lần đầu tiên Thông tư quy định về
những trường hợp những người tuy được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật hoặc di chúc nhưng
lại không có quyền hưởng di sản thừa kế do người đó có hành vi trái phap luật xâm phạm đến
quyền thừa kế của người khác. Bên cạnh đó, Thông tư còn bào vệ quyền lợi của cha me, con cái
chưa thành niên hoặc người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động khi di chúc của
người để lại di sản không cho họ hưởng. Những người này được ưu tiên hưởng ít nhất 2/3 suất
thừa kế theo pháp luật mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc.


5


Ngoài ra Thông tư 81 còn quy định trong trường hợp những người thừa kế lẫn nhau chết
cùng một thời điểm hoặc không thể xác định ai chết trước thì không ai được thừa kế của ai, di sản
của người nào chia cho thừa kế của người đó. Mặt khác, nếu các con dâu, rể, con cháu sống
chung trong gia đình, người nào có đóng góp đáng kể vào việc duy trì và phát triển khối tài sản
chung thì khi bố mẹ, ông bà chết trước được tính chia một phần tương xứng với công sức đóng
góp của người đó với danh nghĩa là người có quyền lợi chung.
Có thể nói Thông tư 81 là văn bản pháp lý đầu tiên quy định khá chi tiết về thừa kế trong
giai đoạn này, là văn bản được áp dụng chung thống nhất trong cả nước, đóng vai trò là căn cứ
pháp lý để giải quyết các tranh chấp về thừa kế. Tuy nhiên, Thông tư 81 còn có những hạn chế
nhất định, chưa thật sự bảo đảm quyền của những người thừa kế. Trước tình hình đó, đòi hỏi phải
có một văn bản pháp luật chuẩn mực hơn, có nội dung đầy đủ và hoàn chỉnh hơn để điều chỉnh
các quan hệ về thừa kế.
Tiếp đó, Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 được ban hành, quy định một số điều liên
quan đến quyền thừa kế của vợ, chồng.
Khắc phục những hạn chế của Thông tư 81, ngày 30/8/1990 Hội đồng nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam đã thông qua Pháp lệnh thừa kế, có hiệu lực từ ngày 10/9/1990. Pháp lệnh thừa
kế gồm 38 điều, chia làm 6 chương, trong đó đã xác định được những nguyên tắc cơ bản của thừa
kế, về quyền bình đẳng thừa kế của công dân, thừa kế theo di chúc, diện và hàng thừa kế, thời
hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế,...
Qua hơn 5 năm thực hiện Pháp lệnh thừa kế và thực tiễn xét xử cho thấy pháp lệnh này đã
đi vào cuộc sống, về cơ bản vẫn phù hợp với thực trạng các quan hệ thừa kế hiện nay, bảo đảm
được quyền thừa kế của công dân được các tầng lớp nhân dân đồng tình, chấp nhận.
Để đáp ứng với sự biến đổi, phát triển không ngừng của xã hội, cũng như khắc phục những
nội dung còn thiếu và chưa phù hợp với đời sống thực tế của các văn bản pháp luật trong lĩnh vực
dân sự nói chung và thừa kế nói riêng, ngày 28/10/1995, Quốc Hội khoá IX kỳ họp thứ 8 đã
thông qua Bộ luật Dân sự đầu tiên nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và có hiệu lực từ
ngày 01/07/1996. Thừa kế được quy định tại Phần thứ tư BLDS năm 1995, kế thừa hầu hết các

quy định của Pháp lệnh thừa kế năm 1990. Ngoài ra bổ sung một số vấn đề mới trong lĩnh vực
thừa kế, đặc biệt là việc thừa kế quyền sử dụng đất của cá nhân và thành viên của hộ gia đình. Có
thể khẳng định, các quy định về thừa kế trong BLDS 1995 là một bước tiến quan trọng trong quá
trình lập pháp ở Việt Nam, nhằm khắc phục kịp thời sự thiếu tập trung, không đầy đủ của pháp
luật về thừa kế được quy định trước đó, góp phần bảo vệ các quyền dân sự và lợi ích hợp pháp
của cá nhân trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng XHCN.
Quyền thừa kế tiếp tục được khẳng định trong phần thứ tư BLDS năm 2005 và mới đây
nhất là BLDS 2015, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, về cơ bản vẫn giữ nguyên nội hàm như
trong quy định BLDS 1995 nhưng có một số sửa đổi, bổ sung để khắc phục vướng mắc không
phù hợp với thực tế trong quá trình giải quyết tranh chấp về thừa kế trong thời gian qua.
3.3. Các nguyên tắc của quyền thừa kế

6


Nguyên tắc về thừa kế là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình
xây dựng và áp dụng pháp luật về thừa kế nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong việc xây
dựng và áp dụng pháp luật về thừa kế. Những nguyên tắc này được áp dụng chung cho cả hai
hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
Những nguyên tắc pháp luật về thừa kế ở Việt Nam có thể kể đến cụ thể như sau:
3.3.1. Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế của cá nhân
Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được Nhà nước bảo hộ. Với
tư cách là một tổ chức quyền lực chi phối toàn xã hội, Nhà nước có đủ các điều kiện về mặt pháp
lý và quyền lực để đảm bảo quyền thừa kế của các chủ thể trong xã hội được thực thi. Nhà nước
ban hành nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh về vấn đề thừa kế, xây dựng các thiết chế xã hội
bảo đảm cho việc thực thi các quyền trong quan hệ thừa kế, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các
tranh chấp về thừa kế, không ngừng nâng cao và bảo vệ lợi ích của người lao động, bảo vệ lợi ích
cộng đồng. Cụ thể, Khoản 2 Điều 32 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Quyền sở hữu tư nhân và
quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”. Thể chế hóa quy định này và trên tinh thần kế thừa BLDS

2005, BLDS 2015 đã dành 54 điều luật (từ Điều 609 đến Điều 662) để quy định về vấn đề thừa
kế. Bên cạnh đó, thừa kế còn được điều chỉnh trong các văn bản pháp luật khác như: Luật Đất
đai, Luật Hôn nhân và gia đình,...
Nhà nước đảm bảo cho mọi cá nhân đều có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình,
đều có quyền để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật. Điều quan trọng là mỗi cá
nhân đều có quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Thậm chí là quyền từ chối di
sản thừa kế.
Mặt khác, để bảo vệ và thúc đẩy quan hệ thừa kế phát triển, Nhà nước còn tạo điều kiện thuận
lợi để chủ thể tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh và đảm bảo cho mọi công dân có
quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất. Đặc
biệt là “tài sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng không bị giới hạn về số lượng, giá trị”1 ... Không ai
được tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu hợp pháp của người khác trừ trường hợp thật cần thiết
vì an ninh quốc phòng, lợi ích của Nhà nước thì Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi
thường theo quy định của pháp luật. Do đó tất cả mọi tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của cá
nhân sẽ trở thành di sản thừa kế khi người đó chết, được nhà nước tôn trọng và pháp luật bảo vệ.
3.3.2. Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền thừa kế
Bình đẳng là nguyên tắc Hiến định. Khoản 1, Điều 16 Hiến Pháp 2013 quy định: “Mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật”. Trên cơ sở đó, BLDS 2015 quy định tại Khoản 1, Điều 3:
“Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử;
được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản”. Từ sự quy định mang tính
khái quát đó, nên trong chế định riêng về thừa kế, BLDS đã xác định rõ: “Cá nhân có quyền lập
di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật;
hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, vợ và chồng có địa vị bình đẳng trong gia đình. Với tư
cách là đồng sở hữu tài sản chung hợp nhất đối với tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
1 Xem Khoản 2, Điều 205, BLDS 2015

7



nhân thì: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản chung”2. Vợ, chồng được thừa kế tài sản của nhau và đều thuộc hàng thừa
kế thứ nhất khi hưởng di sản thừa kế theo pháp luật. Khi một bên chết trước, bên còn lại được
hưởng di sản thừa kế của người chết. Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung được
chia đôi theo quy định của pháp luật về thừa kế. Quy định này đã xóa bỏ hệ tư tưởng lạc hậu của
chế độ phong kiến, đó là tư tưởng tôn ti, thế thứ, tư tưởng trọng nam khinh nữ, tam tòng “tại gia
tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” và tứ đức “công, dung, ngôn, hạnh” tồn tại trong xã
hội Việt Nam hàng ngàn năm.
Nguyên tắc này khẳng định, trong quan hệ thừa kế, không phân biệt các con là nam hay nữ,
trong giá thú hay ngoài giá thú, có năng lực hành vi dân sự hay không có năng lực hành vi dân
sự, họ đều được hưởng một phần di sản thừa kế theo pháp luật. Pháp luật còn quy định con nuôi
có các quyền và nghĩa vụ như con đẻ trong việc nhận di sản thừa kế.
Ngoài ra, Việt Nam với 54 dân tộc cùng tồn tại và phát triển, các dân tộc đều bình đằng với
nhau, không phân biệt, mỗi dân tộc có nền văn hóa và bản sắc độc đáo khác nhau, có tiếng nói,
chữ viết riêng cho nên bình đẳng còn thể hiện trong quy định mọi người được quyền dùng tiếng
nói, chữ viết của dân tộc mình trong việc lập di chúc định đoạt di sản thừa kế, bảo đảm cho việc
để lại di sản đúng với ý chí đích thực của người đó, vừa thể hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc.
Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền thừa kế, là một nguyên tắc cơ bản trong pháp luật về
thừa kế ở Việt Nam. Nó không những phản ánh chế độ chính trị nói chung mà điều quan trọng là
nhằm đảm bảo sự bình đẳng của mọi công dân trong lĩnh vực về thừa kế, tạo được sự đoàn kết tốt
giữa các thành viên trong gia đình, góp phần xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc, bền vững.
3.3.3. Nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt của người có tài sản, người hưởng di sản
Đây là nguyên tắc hết sức quan trọng, một mặt đã ghi nhận sự bảo hộ của pháp luật đối với
quyền về thừa kế, mặt khác nó còn thể hiện một cách đầy đủ nhất các quyền dân sự chủ quan của
mỗi cá nhân trong việc định đoạt toàn bộ tài sản của mình.
Trong quan hệ dân sự nói chung, quyền định đoạt của chủ thể được thể hiện thông qua việc
các chủ thể tham gia các quan hệ dân sự một cách hoàn toàn tự nguyện vì lợi ích của chính mình,
phù hợp với điều kiện của mình.
Đối với cá nhân người để lại di sản, với tư cách là chủ sở hữu hợp pháp đối với tài sản của
mình, quyền định đoạt của cá nhân được thể hiện qua các nội dung sau:

Một là, cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho bất kỳ ai mình
muốn, dành một phần di sản của mình vào việc thờ cúng hoặc di tặng cho cá nhân, tổ chức theo ý
chí của mình. Pháp luật không cho phép bất kỳ ai có hành vi cản trở, cưỡng ép, đe doạ... người
lập di chúc.
Hai là, có quyền truất thừa kế của người thừa kế theo pháp luật của mình không cần lý do.
Ba là, có quyền phân chia di sản theo ý chí của mình cho những người được chỉ định trong
di chúc.
Bốn là, có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập bất cứ lúc nào mà không
cần lý do.
2 Xem Điều 29, Luật HN&GĐ 2014

8


Tuy nhiên quyền tự định đoạt của người để lại di sản thừa kế trong việc lập di chúc chỉ có
hiệu lực khi di chúc thỏa mãn những điều kiện được quy định tại Điều 630, BLDS 2015.
Ý chí của người có tài sản được pháp luật bảo hộ và tôn trọng nhưng quyền định đoạt của
họ không phải là tuyệt đối. Trong một số trường hợp, pháp luật có quy định về quyền của người
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc:
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người
thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được
người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Con thành niên mà không có khả năng lao động; trừ
trường hợp họ từ chối nhận di sản hoặc là những người không có quyền hưởng di sản theo quy
định của pháp luật.
Như vậy, quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc không nằm ngoài khuôn khổ của
pháp luật.
Ngoài ra, quyền định đoạt của người để lại di sản được thể hiện không những trong việc lập
di chúc để định đoạt tài sản của họ, mà còn thể hịên ngay trong việc họ không lập di chúc để định
đoạt tài sản để lại sau khi họ chết. Đây cũng là một cách thể hiện ý chí của cá nhân bằng việc

không lập di chúc để định đoạt tài sản của họ, mà chỉ để lại di sản của họ cho những người có
quyền thừa kế theo pháp luật.
Đối với người có quyền hưởng di sản, quyền tự định đoạt được thể hiện ở chỗ người được
hưởng di sản thừa kế có quyền từ chối nhận di sản thừa kế nếu việc từ chối đó không nhằm trốn
tránh một nghĩa vụ về tài sản của mình đối với chủ thể khác và phải thực hiện theo đúng trình tự,
thủ tục mà pháp luật đã quy định. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc đồng thời là
người thừa kế theo pháp luật thì việc thể hiện ý chí của người đó có thể xảy ra các trường hợp
sau:
Một là, chỉ từ chối hưởng di sản thừa kế theo di chúc mà không từ chối hưởng di sản thừa
kế theo pháp luật;
Hai là, từ chối hưởng di sản thừa kế theo pháp luật mà không từ chối hưởng di sản thừa kế
theo di chúc;
Ba là, từ chối cả hưởng di sản thừa kế theo di chúc và hưởng di sản thừa kế theo pháp luật;
3.3.4. Củng cố, giữ vững tình thương yêu và đoàn kết trong gia đình
Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc chung trong quan hệ dân sự, đó là: “Việc xác lập, thực
hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát
huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì
cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh
sống trên đất nước Việt Nam” (Khoản 1, Điều 7, BLDS 2015).
Từ truyền thống đoàn kết trong gia đình, từ mục đích của chế độ hôn nhân và gia đình nước ta
nhằm xây dựng những gia đình dân chủ hoà thuận, hạnh phúc trong đó mọi người đoàn kết,
thương yêu giúp đỡ nhau tiến bộ. Tinh thần đoàn kết tương trợ giữa những người trong gia đình
cần được giữ vững ngay cả khi những người trong gia đình chết và vấn đề thừa kế được đặt ra.

9


Nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định diện và hàng thừa kế theo pháp
luật dựa trên cơ sở huyết thống gần gũi, quan hệ hôn nhân trong việc bảo vệ quyền lợi của người
đã thành niên nhưng không có khả năng lao động.

3.4. Một số quy định chung về thừa kế
3.4.1. Người để lại di sản thừa kế
Người để lại di sản thừa kế là cá nhân chết hoặc bị tòa án tuyên bố chết có tài sản thuộc
quyền sở hữu hợp pháp để lại sau khi chết.
Cũng như các quốc gia khác trên thế giới, pháp luật thừa kế nước ta quy định người để lại
di sản thừa kế chỉ có thể là cá nhân, không phân biệt bất cứ điều kiện nào (thành phần xã hội,
mức độ năng lực hành vi,...). Người để lại di sản có thể là người để lại di sản thừa kế theo di chúc
hoặc để lại di sản thừa kế theo pháp luật.
Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở… Khi còn sống
họ có có quyền đưa các loại tài sản này vào lưu thông dân sự và có quyền lập di chúc cho người
khác hưởng tài sản của mình sau khi chết, người hưởng di sản có thể là cá nhân có quan hệ thân
thích, cũng có thể là người không có quan hệ thân thích với người để lại di sản, thậm chí là tổ
chức hoặc nhà nước.
Trường hợp người để lại di sản lập di chúc để định đoạt tài sản của mình thì phải đáp ứng
đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Để di chúc hợp pháp, người lập di chúc phải đáp
ứng các điều kiện sau:
- Người từ đủ 18 tuổi trở lên có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; Người từ
đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người
giám hộ đồng ý về việc lập di chúc;
- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ,
cưỡng ép;
Chủ thể lập di chúc là người định đoạt tài sản của mình thông qua hành vi pháp lý đơn
phương của họ. Vì vậy, điều kiện về độ tuổi và năng lực trí tuệ của cá nhân người lập di chúc là
điều kiện tiên quyết trong việc xác định di chúc có giá trị pháp lý hay không có giá trị pháp lý.
Trong trường hợp công dân có tài sản thuộc sở hữu riêng, không lập di chúc để định đoạt
tài sản của mình thì tài sản này sẽ chia theo quy định của pháp luật.
Chủ thể khác không phải là cá nhân (pháp nhân, cơ quan, tổ chức khác không phải là pháp
nhân) chỉ tham gia vào quan hệ thừa kế với tư cách là người được hưởng di sản thừa kế theo di
chúc.
3.4.2. Người thừa kế

Người thừa kế là người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật hoặc
vừa hưởng di sản theo di chúc, vừa hưởng di sản theo pháp luật. Người thừa kế theo di chúc có
thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc nhà nước. Người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá
nhân và phải là người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng đối với người để lại di sản.
*Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và
còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Quan hệ nhận di sản thừa kế là một quan hệ pháp luật dân sự, do vậy cá nhân phải là người
còn sống để thể hiện được quyền nhận hay từ chối hưởng di sản. Cá nhân chưa được sinh ra thì
10


chưa được coi là chủ thể của quan hệ xã hội cũng như quan hệ pháp luật dân sự nhưng pháp luật
quy định họ vẫn được hưởng di sản thừa kế nếu sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế
nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Qui định này nhằm bảo vệ quyền thừa kế
của cá nhân, bảo vệ quan hệ huyết thống trong quan hệ thừa kế.
Nhưng làm thế nào để xác định một đứa trẻ sinh ra sau bao lâu thì được xem là còn sống để
được quyền hưởng thừa kế? 01 phút? 01 giờ hay bao lâu? Về vấn đề này hiện nay chưa có quy
định cụ thể, tuy nhiên chúng ta có thể xác định dựa trên giấy khai sinh của trẻ. Giấy khai sinh là
loại giấy tờ tùy thân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp sớm nhất cho một con người để
xác nhận về mặt pháp lý sự hiện diện của cá nhân đó, chứng nhận cá nhân đó đã được sinh ra
(Điều 4, Luật Hộ tịch 2014). Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân. Giấy khai
sinh thường có nội dung ghi về họ, tên, chữ đệm, thông tin về ngày, tháng, năm sinh, thông tin về
giới tính, dân tộc, quốc tịch, quê quán thông tin về quan hệ cha, mẹ, con hoặc các thông tin cơ
bản khác tùy theo quy định đặc thù của từng quốc gia. Giấy khai sinh khác với giấy chứng sinh
do Cơ sở y tế (bệnh viện, trạm xá...) nơi trẻ em sinh ra cấp. Nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế thì
giấy chứng sinh được thay bằng văn bản xác nhận của người làm chứng (nhân chứng). Trong
trường hợp không có người làm chứng thì người đi khai sinh phải làm giấy cam đoan về việc sinh
là có thật.
Đối với một con người, khi có Giấy khai sinh (hộ tịch gốc) người đó đã được coi là một
công dân coi như có đủ mọi quyền và nghĩa vụ theo pháp luật đối với nhà nước và xã hội. Giấy

khai sinh còn có ý nghĩa, giá trị trong suốt cuộc đời của mỗi người, đặc biệt trong việc chứng
minh độ tuổi, quan hệ cha mẹ và con cái hay chứng minh quyền thừa kế tài sản.
Điều 15, Luật Hộ tịch 2014 quy định: “Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha
hoặc mẹ có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho con; trường hợp cha, mẹ không thể đăng ký khai
sinh cho con thì ông hoặc bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ chức đang nuôi dưỡng
trẻ em có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em.”
Bên cạnh đó, tại khoản 3, Điều 30 BLDS 2015 quy định: “Trẻ em sinh mà sống được từ 24
giờ trở lên mới chết thì phải được khai sinh và khai tử, nếu sinh ra và sống dưới hai mươi bốn giờ
thì không phải khai sinh và khai tử, trừ trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ có yêu cầu”.
Như vậy, có thể thấy rằng giấy khai sinh chính là bằng chứng để xác định trẻ em sinh và
còn sống để được hưởng quyền thừa kế.
Mặt khác, trong điều kiện hiện nay, khi mà việc mang thai hộ và sinh con bằng kỹ thuật hộ
trợ sinh sản ngày càng phát triển, thì quyền thừa kế của trẻ được sinh ra bằng thụ tinh ống nghiệm
và mang thai hộ sẽ được giải quyết như thế nào?
Thứ nhất, đối với trường hợp trẻ được sinh ra bằng kỹ thuật hộ trợ sinh sản
Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc
thụ tinh trong ống nghiệm (Khoản 21, Điều 3, Luật HN và GĐ năm 2014).
Trong trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ
được áp dụng theo quy định tại Điều 88 Luật HN và GĐ năm 2014: “Con sinh ra trong thời kỳ
hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được
sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ
11


có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa
nhận là con chung của vợ chồng”.
Như vậy, đối với cặp vợ, chồng sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì căn cứ xác định
cha, mẹ, con được xác định trên nguyên tắc suy đoán pháp lý, đó là căn cứ vào thời kỳ hôn nhân
của cha mẹ. Từ quy định này đã phát sinh vướng mắc, đó là, trong trường hợp đang tiến hành kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản mà người chồng chết hoặc trường hợp đứa con được sinh ra từ tinh trùng của

người chồng đã chết, đứa trẻ sinh ra đã quá 300 ngày kể từ khi hôn nhân chấm dứt thì đứa trẻ có
được xác định là con chung của vợ, chồng không? Trường hợp này hiện pháp luật chưa có quy
định cụ thể. Nếu theo nguyên tắc quy định tại Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2014,thì đứa trẻ trong
trường hợp này không phải con chung của vợ, chồng! Tuy nhiên, thực tế đứa trẻ đó mang huyết
thống của người cha đã chết và được sinh ra hoàn toàn dựa trên sự mong muốn của người đã
khuất. Do vậy, nếu xác định đứa trẻ sinh ra không phải con chung của cặp vợ chồng vô sinh thì sẽ
ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của đứa trẻ, như quyền thừa kế di sản của người cha để lại.
Theo quy định tại Điều 613 Bộ luật Dân sự 2015: “Người thừa kế là cá nhân phải là người
còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã
thành thai trước khi người để lại di sản chết”. Như vậy, chỉ trong trường hợp đứa trẻ được sinh ra
bằng kỹ thuật hộ trợ sinh sản trong thời hạn 300 ngày kể từ ngày chấm dứt hôn nhân thì đứa trẻ
mới được hưởng di sản thừa kế.
Thứ hai, đối với trường hợp mang thai hộ
Mang thai hộ (vì mục đích nhân đạo) là việc bên mang thai hộ tự nguyện, không mang mục
đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con
ngay khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; bằng cách lấy noãn của người vợ và tinh trùng của
người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người tự nguyện mang
thai để người này sinh con (Khoản 22, Điều 3, Luật HN&GĐ 2014).
Về nguyên tắc, thừa kế theo pháp luật khi cha hoặc mẹ chết thì con ruột sẽ được hưởng
thừa kế. Con ruột này phải được xác lập theo quy định của pháp luật và phải được pháp luật thừa
nhận.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì
mục đích nhận đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra
(Điều 94, Luật HN&GDD2014). Căn cứ xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo dựa trên yếu tố huyết thống, thời kỳ hôn nhân của người mang thai hộ. Đứa
trẻ này có thể thuộc trường hợp sinh con trong thời kỳ hôn nhân nhưng sự kiện sinh đẻ không
phải do người vợ thực hiện mà do người khác thực hiện.
Con sinh ra bằng phương pháp mang thai hộ xét về yếu tố huyết thống mang huyết thông
của bên nhờ mang thai hộ. Vì xét theo điều kiện kiện nhờ mang thai hộ thì: người chồng phải có
tinh trùng, người vợ phải có noãn đảm bảo chất lương thụ tinh. Bên mang thai hộ chỉ là phát triển

nuôi dưỡng phôi, vì vậy trẻ sinh ra sẽ không mang huyết thống của bên mang thai hộ.
Từ những quy định của pháp luật nói trên thì trẻ sinh ra bằng phương pháp mang thai hộ
chỉ được hưởng thừa kế theo pháp luật của cha, mẹ mình (tức là bên nhờ mang thai hộ) mà không
mặc nhiên được hưởng thừa kế từ bên nhận mang thai hộ (mặc dù đó là người “sinh” ra mình).
12


Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì con được hưởng thừa kế theo quy định của pháp
luật đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ (Khoản 3, Điều 98, Luật HN&GDD2014).
Trẻ sinh ra bằng phương pháp mang thai hộ chỉ được thừa kế bên nhận mang thai hộ khi:
- Người mang thai hộ để lại di chúc định đoạt di sản cho trẻ sinh ra bằng phương pháp
mang thai hộ. Mọi công dân đều có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho bất cứ ai.
Người lập di chúc có quyền chỉ định người hưởng di sản là người thân thích có quan hệ huyết
thống, hôn nhân, nuôi dưỡng với mình hoặc bất kỳ cá nhân tổ chức nào. Chính vì vậy khi người
mang thai hộ để lại di chúc thể hiện ý chí cho trẻ sinh ra bằng mang thai hộ thì pháp luật sẽ bảo
hộ quyền đứa trẻ.
- Người mang thai hộ nhận trẻ mà mình sinh ra làm con nuôi. Theo quy định của pháp luật
hiện hành thì con đẻ hay con nuôi đều được hưởng quyền thừa kế của bố mẹ mình. Xuất phát từ
yếu tố nuôi dưỡng pháp luật hiện hành đưa con nuôi là hàng thừa kế thứ nhất của bố mẹ nuôi.
Tuy nhiên để được hưởng thừa kế thì đứa trẻ và người mang thai hộ phải được pháp luật thừa
nhận có quan hệ cha mẹ nuôi con nuôi. Hơn nữa, cha, mẹ nuôi không truất quyền thừa kế của con
nuôi, cũng như con nuôi không bị tước quyền hưởng thừa kế theo quy định pháp luật thì lúc này
con nuôi mới được hưởng thừa kế theo pháp luật bố mẹ nuôi.
*Người thừa kế không phải là cá nhân phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.Người thừa kế
không phải là cá nhân có thể là pháp nhân, cơ quan nhà nước hoặc tổ chức khác không phải là
pháp nhân.
Người hưởng thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong phạm vi di
sản thừa kế, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhận di sản nhằm
trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình với người khác. Xuất phát từ tầm quan trọng

của việc từ chối di sản, khi một người thừa kế từ chối nhận di sản sẽ ảnh hưởng đến quyền của
những người thừa kế khác, nên pháp luật muốn đảm bảo từ chối phải minh bạch, công khai, rõ
ràng về ý chí.
Vấn đề này đã được đề cập trong BLDS 2005: “Việc từ chối nhận di sản phải được lập
thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ
phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa
điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày
mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế” .
Tuy nhiên, quy định trên đã tồn tại nhiều bất cập. Chính vì vậy, khi ban hành BLDS 2015,
các nhà làm luật đã có sự sửa đổi cần thiết để khắc phục những điểm bất hợp lý và thời hạn từ
chối nhận di sản quá ngắn của BLDS 2005. Theo đó, BLDS 2015 quy định thủ tục từ chối nhận
di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến những người quản lý di sản, những người thừa kế
khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết. Quy định này ngắn gọn, đơn giản và
phù hợp hơn BLDS 2005, người từ chối nhận di sản sẽ lập thành văn bản thể hiện rõ ý chí của
mình và gửi văn bản này đến chủ thể luật yêu cầu. Nhưng ngược lại, quy định này lại đưa ra thời
hạn quá dài, không xác định cụ thể và có thể ảnh hưởng đến những người thừa kế khác (nhất là
13


những người thừa kế thuộc hàng thừa kế tiếp theo nếu họ muốn được hưởng thừa kế trong trường
hợp người thừa kế từ chối nhận di sản) cũng như người thứ ba. Với thời hạn như hiện nay, tính ổn
định sẽ không cao và đây là mặt trái của việc sửa đổi về thời hạn từ chối nhận di sản.
3.4.3. Thời điểm, địa điểm mở thừa kế
3.4.3.1. Thời điểm mở thừa kế
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm phát sinh quan hệ thừa kế. Thời điểm mở thừa kế là thời
điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở
thừa kế do Tòa án xác định.
Việc xác định thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa rất quan trọng về mặt pháp lý. Cụ thể:
Thứ nhất, thời điểm mở thừa kế là căn cứ để xác định những người thừa kế của người đã

chết, vì theo quy định của pháp luật người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời
điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước
khi người để lại di sản chết, nếu là tổ chức phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Nếu những
người có quyền thừa kế di sản của nhau nhưng lại chết cùng thời điểm thì họ không được hưởng
di sản của nhau, trừ trường hợp thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 652, BLDS 2015: “Trường
hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì
cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu
cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản
mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.”
Thứ hai, xác định thời điểm mở thừa kế nhằm xác định chính xác tài sản, quyền và nghĩa
vụ về tài sản của người để lại thừa kế gồm có những gì và đến khi chia di sản còn bao nhiêu. Kể
từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế của người đã chết có quyền và nghĩa vụ tài sản dó
người chết để lại. Tuy nhiên, việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại chỉ trong phạm
vi di sản thừa kế, tương ứng với tỷ lệ mà họ nhận được, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Quy
định này thể hiện sự tiến bỏ trong hoạt động lập pháp, xóa bỏ tàn tích của xã hội cũ với những
quy định hà khắc, bóc lột người nghèo như: nợ truyền từ đời này sang đời khác, cha không trả hết
nợ thì con trả, con không trả hết thì cháu trả,...
Thứ ba, xác định thời điểm mở thừa kế là xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc. Theo
quy định tại Khoản 1, Điều 643 BLDS 2015, di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế. Thông
thường, sau khi một hành vi thực hiện xong sẽ làm phát sinh một quan hệ, tuy nhiên với hành vi
lập di chúc, di chúc chỉ có hiệu lực pháp luật khi có sự biến pháp lý xảy ra là người lập di chúc
chết.
Thứ năm, xác định thời điểm mở thừa kế là cơ sở để xác định thời hiệu yêu cầu chia di sản
thừa kế (khởi kiện hoặc không) và thời hiệu hưởng quyền đối với di sản. Khác với BLDS 2005
khi quy định thời hiệu yêu cầu Tòa chia di sản thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế áp
dụng chung cho mọi loại tài sản thì ở BLDS 2015, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản
được kéo dài 30 năm đối với bất động sản và 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa
kế. Đây là điểm mới tích cực của BLDS 2015, tạo cơ hội cho người thừa kế có thể khởi kiện nhờ
Tòa án giải quyết tranh chấp về phân chia di sản trong thời hạn dài hơn, bảo đảm quyền sở hữu
tài sản và quyền thừa kế của những người thừa kế.

14


3.4.3.2. Địa điểm mở thừa kế
Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định
được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn
di sản. Địa điểm mở thừa kế được xác định theo đơn vị hành chính cấp cơ sở (xã, phường, thị
trấn). Pháp luật quy định địa điểm mở thừa kế vì ở nơi đó thường phải tiến hành những công việc
như: kiểm kê ngay tài sản của người đã chết; xác định những ai là người thừa kế theo di chúc
hoặc theo pháp luật, người từ chối nhận di sản... Hơn nữa trong trường hợp có tranh chấp thì
TAND nơi mở thừa kế có thẩm quyền giải quyết.
Trong thực tế, một người trước khi chết có thể ở nhiều nơi khác nhau, do đó pháp luật quy
định điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản. Trong trường hợp không
xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di
sản.
3.4.4. Di sản thừa kế
Theo quy định tại Điều 612, BLDS 2015 di sản bao gồm: Tài sản riêng của người chết,
phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Như vậy, di sản thừa kế là toàn
bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đã chết, quyền về tài sản của người đó. Tài sản
là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động
sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. Tuy nhiên, nếu
nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại lớn hơn hoặc ngang bằng với giá trị di sản của người này
để lại thì khi đó sẽ không còn di sản để chia thừa kế.
Việc xác định đúng di sản thừa kế góp phần đảm bảo sự công bằng trong việc phân chia di
sản, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người thừa kế.
Di sản thừa kế bao gồm:
3.4.4.1. Tài sản riêng của người chết
Tài sản riêng của người chết được xác định khi người đó còn sống, có quyền sở hữu tài sản
của mình một cách độc lập, tự mình chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản theo ý chí riêng của
mình mà không bị ràng buộc vào ý chí của người khác và chỉ tuân theo pháp luật.

Pháp luật thừa nhận cá nhân có quyền có tài sản riêng ngay cả trong thời kỳ hôn nhân.
Trong quan hệ vợ chồng thì tài sản riêng của vợ, chồng được xác định gồm tài sản mà mỗi người
có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhânmà
người có tài sản riêng không có ý định sắp nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng thì tài sản
đó vẫn thuộc quyền sở hữu riêng của vợ, chồng; tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ,
chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập
hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng.
Tài sản riêng của vợ hoặc chồng còn được xác định trong trường hợp vợ, chồng đã có thỏa
thuận bằng văn bản chia tài sản chung hoặc yêu cầu tòa chia tài sản chung khi có lý do chính
đáng thì phần tài sản của vợ hoặc chồng được chia là tài sản riêng của mỗi người. Trong trường
hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ
chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng.
15


Tài sản riêng khác của vợ, chồng theo quy định của pháp luật, gồm: (Nghị định
126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2014)
- Quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ.
- Tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc
cơ quan có thẩm quyền khác.
- Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi
người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng.
3.4.4.2. Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác
Trong thực tế, có nhiều trường hợp do nhiều người cùng góp vốn để cùng sản xuất, kinh
doanh, nên có khối tài sản thuộc quyền sở hữu chung của nhiều người (đồng sở hữu với một khối
tài sản nhất định). Nếu một trong các dồng sở hữu chết thì di sản thừa kế của người chết là phần
tài sản thuộc sở hữu của người đó góp chung trong khối tài sản chung. Tài sản chung trong khối
tài sản chung với người khác còn bao gồm: phần tài sản của người chết trong những tài sản được

thừa kế chung, tặng cho chung, tài sản chung theo phần của con cái với bố mẹ, tài sản chung theo
phần của người đang sinh sống như vợ chồng với người khác,...
Khác với hình thức sở hữu chung theo phần, tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là
tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng (Khoản 2, Điều 33 Luật HNGĐ 2014). Vợ,
chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người, có quyền
ngang nhau trong việc chiếm đoạt, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Vì vậy, khi một bên chết
trước, phần di sản của người đó được xác định là ½ giá trị trong tổng giá trị tài sản chung hợp
nhất vợ chồng.
3.4.4.3. Quyền về tài sản do người chết để lại
Đó là các quyền dân sự được phát sinh từ các quan hệ hợp đồng hoặc do bồi thường thiệt
hại mà trước khi chết họ đã tham gia quan hệ này: quyền đòi nợ, quyền đòi lại tài sản cho thuê
hoặc cho mượn, quyền chuộc lại tài sản đã thế chấp, cầm cố, yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng,... Ngoài ra, quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp cũng là di sản thừa kế. Tuy nhiên,
các quyền về tài sản gắn liền với nhân thân của người chết (quyền hương trợ cấp, tiền lương hưu)
không là di sản thừa kế.
Đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, Nhà nước là người quản lý toàn bộ đất đai và giao
cho tổ chức, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài. Nhằm tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức đầu tư
công sức vào sản xuất, Nhà nước cho phép cá nhân có năm quyền, trong đó có quyền để lại thừa
kế quyền sử dụng đất. Tùy loại đất khác nhau mà quyền thừa kế cũng được quy định khác nhau.
Việc quy định quyền tài sản là di sản thừa kế do người chết để lại góp phần bảo vệ những
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tăng cường tinh thần trách nhiệm của các chủ thể khi
tham gia các quan hệ pháp luật dân sự.
3.4.5. Người quản lý di sản
Trong quá trình thừa kế di sản, công việc quản lý di sản là rất quan trọng và không thể
thiếu. Sau khi người để lại di sản qua đời, chủ thể của quyền sở hữu đối với tài sản không còn
trong khi những người thừa kế chưa xác lập quyền sở hữu đối với tài sản cụ thể trong khối di sản.
Mặt khác, theo phong tục thì việc chia di sản không tiến hành ngay khi người để lại di sản chết,
16



mà khối di sản cần phải được quản lý, bảo quán, tránh mất mát, hư hỏng. Chính vì vậy, pháp luật
có quy định cụ thể về vấn đề quản lý di sản của người để lại di sản
Người quản lý di sản thừa kế là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người
thừa kế đề cử ra để quản lý di sản của người chết để lại. Trường hợp di chúc không chỉ định
người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang
chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử
được người quản lý di sản. Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có
người quản lý thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.
3.4.5.1. Quyền của người quản lý di sản
*Người quản lý là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thoả
thuận cử ra hoặc người quản lý do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý phân công có các
quyền sau đây:
- Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản
thừa kế;
- Được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế.
- Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.
*Người quản lý trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những
người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di
sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản có
các quyền sau đây:
- Được tiếp tục sử dụng di sản theo thoả thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc
được sự đồng ý của những người thừa kế;
- Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.
Người quản lý di sản phải bỏ thời gian, công sức thậm chí phải chi phí tiền của để bảo quản
di sản thừa kế. Vì vậy khi chia di sản thừa kế phải thanh toán các chi phí mà người bảo quản di
sản đã bỏ ra. Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì
người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.
3.4.5.2. Nghĩa vụ của người quản lý di sản
*Người quản lý là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thoả
thuận cử ra hoặc người quản lý do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý phân công có các

nghĩa vụ sau đây:
- Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang
chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
- Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản
bằng các hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;
- Thông báo về di sản cho những người thừa kế;
- Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
- Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.
*Người quản lý trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những
người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di
sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản có
các nghĩa vụ sau đây:
17


- Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản
bằng các hình thức khác
- Thông báo về di sản cho những người thừa kế;
- Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
- Giao lại di sản theo thoả thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo yêu cầu
của người thừa kế.
3.4.6. Việc thừa kế của những người có quyền thừa kế của nhau mà chết cùng một thời
điểm
Những người có quyền thừa kế di sản của nhau nhưng chết cùng một thời điểm hoặc được
coi là chết cùng thời điểm do không xác định được người nào chết trước, người nào chết sau thì
không được hưởng di sản thừa kế của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người
đó được hưởng trừ trường hợp thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 652 BLDS 2015. Pháp luật
quy định như vậy là để việc chia di sản thừa kế được tiến hành bình thường, không ảnh hưởng
đến quyền lợi của những người thừa kế khác, bảo đảm sự công bằng và củng cố tình đoàn kết gia
đình.

3.4.7. Những người không được hưởng di sản
Người không có quyền hưởng di sản là những người có hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm
thuần phong, mỹ tục, trái luân thường đạo lý và xâm phạm nghiệm trọng đến người để lại di sản.
Pháp luật không cho những người có những người này được hưởng di sản thừa kế của người để
lại thừa kế. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi
nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của
người đó;
Pháp luật luôn bảo vệ những quyền lợi chính đáng của mọi công dân nhưng những công
dân có hành vi trái pháp luật thì tư cách chủ thể của họ vị hạn chế hoặc đình chỉ theo quy định
của pháp luật.
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
Nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc giữa cá nhân với cá nhân khi còn sống không chỉ là những
truyền thống văn hóa, đạo đức của xã hội mà còn được pháp luật quy định cụ thể trong Luật Hôn
nhân và gia đình.
Phổ biến nhất là các quan hệ nuôi dưỡng giữa cha-con, mẹ-con, anh, chị em ruột đối với
nhau; ông bà nội, ngoại với các cháu; vợ, chồng đối với nhau. Nghĩa vụ cấp dưỡng gắn liền với
thân nhân cá nhân, không thể chuyển dịch cho người khác và cũng không thể phân chia như các
nghĩa vụ dân sự khác. Vợ chồng có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau khi một bên không có khả năng
lao động và ngay cả khi đã ly hôn mà bên kia yêu cầu và được Toàn án chấp nhận.
Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản không những phải
chịu trách nhiệm hình sự mà còn bị tước đoạt quyền thừa kế do hành vi cố ý vi phạm nghĩa vụ đó
theo quy định của pháp luật
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng
một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

18


Người thừa kế khác được hiều là người có quyền hưởng di sản trong cùng hàng thừa kế với

người có hành vi bị kết án là cố ý giết người thừa kế khác. Người thừa kế khác cũng có thể là
người thừa kế ở hàng thừa kế liền kề tiếp theo với hàng thừa kế của người có hành vi phạm tội
trong trường hợp có người thừa kế thế vị.
Tuy nhiên, cần phải phân biệt người bị kết án hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa
kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng
với hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhưng không nhằm mục đích hưởng
lợi về di sản thừa kế. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác
nhưng không nhằm mục đích hưởng lợi về di sản thừa kế thì không bị tước quyền hưởng di sản
thừa kế.
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di
chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần
hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Di chúc thể hiện ý chí của người có tài sản lập ra, định đoạt tài sản của mình cho người
thừa kế sau khi họ qua đời. Ý chí của người lập di chúc phải hoàn toàn tự nguyện, tự do định đoạt
tài sản của mình cho người thừa kế được chỉ định. Người lập di chúc phải hiểu được mình định
đoạt tài sản như thế nào? Cho ai? Tại sao như thế này mà không như thế khác? Vì vậy, hành vi
cản trở đối với người lập di chúc là hành vi trái pháp luật, người có hành vi cản trở sẽ bị tước
quyền thừa kế của người để lại di sản.
Tuy nhiên, pháp luật luôn tôn trọng và đề cao quyền tự định đoạt đối với tài sản của mình
của các chủ thể trong quan hệ dân sự nói chung và quan hệ thừa kế nói riêng. Do đó, khoản 2
Điều 621 BLDS 2015 đã quy định: “Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được
hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ
hưởng di sản theo di chúc”.
Với quy định trên, pháp luật thừa kế Việt Nam hiện hành đã thể hiện rõ bản chất nhân đạo
và phù hợp với quan niệm của nhân dân ta là tha thứ cho những hành vi theo quy định của pháp
luật là phạm pháp nhưng trên phương diện của quan hệ xã hội thông thường, người có hành vi vi
phạm pháp luật vẫn được những người thân thích của mình tha thứ. Đây là bài học mang đậm nét
nhân văn cao cả giúp cho những người có hành vi trái pháp luật thông qua hành động nhân ái của
người để lại di sản mà tự tu dưỡng, tự cải tạo để trở thành người hữu ích cho xã hội.
3.4.8. Thời hiệu thừa kế

Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì quyền dân sự được
xác lập, nghĩa vụ dân sự được miễn trừ hoặc quyền khởi kiện chấm dứt. Đối với mỗi loại quan hệ
dân sự khác nhau thì thời hiệu cũng được quy định khác nhau. Trong quan hệ thừa kế, thời hiệu
khởi kiện được quy định như sau:
- Thời hiệu yêu cầu chia di sản (khởi kiện hoặc không): 30 năm đối với bất động sản, 10
năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế.
BLDS 2015 đã kéo dài thời hiệu đối với di sản là bất động sản so với BLDS 2005 khi chỉ
quy định là 10 năm, tạo sự tương thích với quy định của BLDS về xác lập quyền sở hữu theo thời
hiệu do chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật về mặt thời gian. Tuy nhiên việc áp đặt thời
hiệu cho yêu cầu chia di sản đã dẫn tới sự mâu thuẫn với chính các quy định của BLDS về quản
19


lý (Điều 216), sử dụng (Điều 217), định đoạt (Điều 218) và chia tài sản chung (Điều 219) khi
không có quy định nào buộc các chủ sở hữu tài sản chung phải phân chia tài sản trong một thời
hạn nhất định.
Vấn đề tiếp theo là số phận di sản hết khi hết thời hiệu sẽ được xử lý như thế nào? Một
điểm mới nổi bật của BLDS 2015 so với BLDS 2005 là bổ sung quy định giải quyết hệ quả khi
hết thời hiệu yêu cầu chia di sản.
Khi hết thời hiệu yêu cầu chia di sản thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản
đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
(i) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của
BLDS “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình,
liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở
thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật
khác có liên quan quy định khác”.
(ii) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu.
- Thời hiệu yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người
khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
- Thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản do người quá cố để lại là 03 năm, kể từ thời

điểm mở thừa kế.
Việc quy định về thời hiệu thừa kế nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của những người thừa
kế hoặc người có liên quan. Đồng thời còn nhằm bảo vệ trật tự công bằng xã hội, cân bằng lợi ích
giữa các chủ thể có quyền thừa kế với lợi ích xã hội, nhằm bảo đảm sự ổn định các quan hệ dân
sự, tránh tình trạng tranh chấp kéo dài.
3.5. Thừa kế theo di chúc
3.5.1. Khái niệm di chúc và thừa kế theo di chúc
3.5.1.1. Di chúc
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau
khi chết. Bản chất của di chúc là sự thể hiện ý chí đơn phương, hoàn toàn độc lập, tự định đoạt ý
chí cá nhân của người lập di chúc nhằm mục đích dịch chuyển tài sản từ người lập di chúc cho
người còn sống.
Trong cuộc sống còn có những di chúc không nhằm chuyển tài sản của người lập do chúc
cho những người thừa kế nhất định mà là thể hiện ý nguyện nào đó của người lập di chúc, như
căn dặn các con, các cháu phải đoàn kết, cố gắng học tập, chăm chỉ lao động và giúp đỡ lẫn nhau
trong lúc khó khăn, phải thăm nom mồ mả tổ tiên...Những loại di chúc này không nhằm định đoạt
tài sản cho người thừa kế nhưng có ý nghĩa nhất định đối với người còn sống. Xét về ý nghĩa của
quan hệ thừa kế, những di chúc này không thuộc loại di chúc được luật dân sự điều chỉnh và
những tranh chấp có thể có trong quan hệ xã hội này không được giải quyết bằng khởi kiện ra
Tòa án mà dựa trên cơ sở sự thỏa thuận, hòa gải giữa các bên. Tuy nhiên, tính chất và nội dung
của loại di chúc này không thể xác định là trái pháp luật mà là loại di chúc đề cập đến nghĩa vụ tự
nhiên, pháp luật không điều chỉnh hậu quả pháp lý của nghĩa vụ tự nhiên đó.
Di chúc theo quy định của pháp luật dân sự phải nhằm chuyển tài sản của người lập di chúc
cho những người thừa kế sau khi người lập di chúc chết. Di chúc có những đặc trưng sau:
- Di chúc chính là sự thể hiện ý chí đơn phương của người lập di chúc
20


Ý chí đơn phương này thể hiện qua việc người lập di chúc toàn quyền định đoạt tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác sau khi chết. Người lập di chúc không có nghĩa vụ

phải trao đổi với người thừa kế về nội dung di chúc. Người lập di chúc phải tự nguyện , không bị
đe dọa, cưỡng ép trong việc lập di chúc. Di chúc thể hiện ý chí của người lập di chúc, không bị sự
chi phối nào của người khác. Bằng việc lập di chúc, người để lại di sản đã xác lập một giao dịch
dân sự về thừa kế theo di chúc.
Ý chí đơn phương của người lập di chúc còn được thể hiện người lập di chúc toàn quyền
định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình cho bất kỳ ai và có quyền cho ai bao nhiêu phần trăm tài
sản thuộc sở hữu của mình mà không phụ thuộc vào việc người được hưởng thừa kế theo di chúc
có quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng hay thân thích với người lập di chúc.
Bất kỳ sự can thiệp nào ảnh hưởng đến sự tự nguyện của người lập di chúc trong việc lập di
chúc thì đều có thể làm cho di chúc trở nên vô hiệu.
- Di chúc nhằm chuyển dịch tài sản cho người khác sau khi người lập di chúc chết.
Nếu như các hợp đồng dân sự đều thể hiện ý chí thỏa thuận của các chủ thể nhằm chuyển
dịch tài sản từ người này sang người khác thì di chúc lại nhằm chuyển dịch tài sản của người lập
di chúc cho người thừa kế theo di chúc khi người đó chết. Trong trường hợp những người được
người có tài sản chỉ định hưởng di sản sau khi ngươi có tài sản chết nhưng đã nhận tài sản trong
khi người có tài sản đó còn sống thì trong trường hợp này không phải là thừa kế theo di chúc mà
đã mang tính chất của quan hệ hợp đồng tặng cho. Việc phân biệt thừa kế theo di chúc và nhận tài
sản tặng cho là rất cần thiết, đó là căn cứ để giải quyết những tranh chấp có liên quan.
Tuy nhiên, di chúc thể hiện ý chí chủ quan của người lập di chúc, do vậy ý định của người
lập di chúc nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết có thể không thực hiện
được do tài sản được định đoạt không còn vào thời điểm mở thừa kế hoặc những người thừa kế
được chỉ định trong di chúc đã chết trước hoặc cùng thời điểm với người lập di chúc hoặc đều
không có quyền hưởng, từ chối quyền hưởng di sản,... thì mục đích nhằm chuyển tài sản của
người lập di chúc cho người thừa kế không đạt được.
Ngoài ra, nội dung di chúc còn nhằm định đoạt di sản dùng vào việc thờ cúng, di tặng, giao
nghĩa vụ cho người thừa kế và đôi khi cũng thể hiện ý định truất quyền hưởng di sản của người
thừa kế theo pháp luật.
- Di chúc là một giao dịch pháp lý trọng hình thức
Đối với các giao dịch dân sự, hình thức không phải là điều kiện bắt buộc trừ trường hợp
luật có quy định. Riêng đối với di chúc, hình thức là điều kiện bắt buộc để di chúc có hiệu lực

pháp luật. Mặt khác, vì di chúc là hành vi pháp lý đơn phương mang tính cá nhân tuyệt đối nên
chỉ có thể do cá nhân trực tiếp lập ra mà không thể được lập thông qua người đại diện. Hợn nữa,
di chúc thường dễ bị người khác giả mạo, hoặc có thể di chúc được lập do bị người khác cưỡng
ép, lừa dối, hoặc gây ảnh hưởng. Chính vì vậy, pháp luật Việt Nam hiện hành rất chú trọng đến
hình thức di chúc và thủ tục lập di chúc. Di chúc được lập không tuân thủ hình thức, thủ tục do
pháp luật quy định thì đương nhiên vô hiệu.
- Di chúc chỉ có hiệu lực khi người lập di chúc chết.
Khoản 1 Điều 643 BLDS 2015 quy định: “ Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế”.
Khi người lập di chúc còn sống di chúc có phù hợp với các quy định của pháp luật về hình thức
21


và nội dung , thì di chúc cũng chưa phát sinh hiệu lực. Do di chúc chưa phát sinh hiệu lực ( khi
người lập di chúc chưa chết) nên những người thừa kế theo di chúc chưa có bất kỳ một quyền nào
đối với tài sản mà họ sẽ được hưởng. Quyền đối với tài sản vẫn thuộc về người lập di chúc cho
đến khi người lập di chúc chết.
- Trong lúc còn sống, bất kỳ lúc nào, người lập di chúc cũng có quyền sửa đổi, bổ sung,
thay thế hoặc hủy bỏ di chúc.
Trên nguyên tắc tôn trọng quyền tự do định đoạt bằng di chúc, pháp luật quy định người lập
di chúc khi còn sống và còn minh mẫn, sáng suốt, bất kỳ lúc nào cũng có quyền thay đổi quyết
định về việc lập di chúc, nếu thấy quyết định đó không phù hợp. Việc thay đổi quyết định về việc
lập di chúc có thể được thực hiện thông qua các hành vi như thay đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ
di chúc. Việc thay đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc cũng do người lập di chúc đơn phương
quyết định, không lệ thuộc vào ý chí của bất kỳ ai, kể cả người được chỉ định trong di chúc trước
đó cũng như trong di chúc mới. Nếu người chết để lại nhiều di chúc có nội dung mâu thuẫn nhau
thì chỉ di chúc hợp pháp sau cùng có hiệu lực.
3.5.1.2. Thừa kế theo di chúc
Thừa kế theo di chúc là một hình thức thừa kế quan trọng của chế định quyền thừa kế. Thừa kế
theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người khác còn sống theo quyết
định của người đó trước khi chết được thể hiện trong di chúc. Nội dung cơ bản của thừa kế theo

di chúc là chỉ định người thừa kế và phân định tài sản, quyền tài sản cho họ, giao cho họ nghĩa vụ
tài sản,...
3.5.2. Người lập di chúc
*Người lập di chúc là người có tài sản muốn định đoạt tài sản của mình cho người khác
hưởng sau khi chết. Họ thể hiện ý chí của bản thân thông qua việc lập di chúc. Pháp luật không
quy định cá nhân có thể lập bao nhiêu bản di chúc, nhưng nếu một người lập nhiều bản di chúc
thì chỉ bản di chúc cuối cùng có hiệu lực pháp luật.
Người lập di chúc chỉ có thể là cá nhân nhưng không phải mọi cá nhân đều có thể tự mình
lập di chúc để định đoạt tài sản nếu không có năng lực để lập di chúc. Pháp luật hiện hành quy
định năng lực lập di chúc của cá nhân như sau:
- Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền tự mình lập di chúc.
Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự có quyền thực hiện các
hành vi dân sự hợp pháp và phải tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, trong đó có hành vi
lập di chúc. Thông qua di chúc, người lập di chúc tự định đoạt tài sản của mình cho người khác
với ý chí hoàn toàn tự nguyện, minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép.
- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha,
mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc và di chúc của người này phải lập thành văn
bản. Như vậy, pháp luật cho phép người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập
di chúc nếu đáp ứng được một số điều kiện luật định: (i) di chúc đó phải được lập thành văn bản
và (ii) phải có sự đồng ý của người đại diện hợp pháp của họ.
Cá nhân từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi thường không có tài sản và đang
được cha mẹ hoặc người khác nuôi dưỡng nhưng cũng có cá nhân trong độ tuổi này có khối
lượng tài sản do được tặng cho hay cá nhân tạo lập do lao động trong các tổ chức kinh tế, dịch vụ
22


thương mại,... Pháp luật dự liệu cho người ở độ tuổi này lập di chúc là đã xem xét tới khả năng
thực tế có thể có trường hợp cá nhân bị mắc bệnh hiểm nghèo mà không thể kéo dài sự sống được
nữa...
Việc quy định như trên trước hết là nhằm bảo đảm nguyên tắc tôn trọng quyền tự do lập di

chúc của cá nhân, đồng thời nhằm bảo vệ quyền lợi cho người chưa thành niên, phòng ngừa
trường hợp những người này có thể bị người khác dụ dỗ, gây ảnh hưởng, chứ không nhằm mục
đích hạn chế quyền tự do định đoạt di sản thừa kế của họ.
*Người lập di chúc có các quyền:
- Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế
Pháp luật Việt Nam cho phép người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế là bất kỳ
người nào, kể cả cơ quan tổ chức làm người thừa kế để hưởng di sản theo di chúc của mình trên
cơ sở tự tự nguyện của người lập di chúc. Quyền định đoạt của người lập di chúc còn được thể
hiện thông qua việc họ có quyền phế truất quyền hưởng di sản của một người thừa kế nào đó (nếu
muốn). Mặt khác, để bảo vệ quyền lợi chính đáng và thiết yếu của một số người thừa kế theo
pháp luật, Bộ luật Dân sự đã hạn chế việc truất quyền của người lập di chúc trong một số trường
hợp.
- Phân định phần di sản cho từng người thừa kế
Người lập di chúc có quyền phân chia một cách cụ thể cho người thừa kế nào hưởng phần
di sản là bao nhiêu hoặc hưởng di sản là vật gì, việc phân chia di sản theo di chúc được tiến hành
cho phù hợp với ý nguyện của người để lại di sản.
- Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.
Người lập di chúc có quyền dành một phần tài sản trong khối di sản của mình để thực hiện
việc di tặng hay thờ cúng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi chính đáng
cho các chủ nợ của người chết, trong trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ
tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại
của người này và trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài
sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
- Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.
Người lập di chúc có quyền giao nghĩa vụ cụ thể cho người thừa kế( như giao cho người
thừa kế được hưởng một căn nhà nhưng phải để cho một người bạn thân tàn tật mà trước đây vẫn
sống nương nhờ vào người để lại di sản hoặc ở nhờ một phần căn nhà cho đến khi người đó chết;
hoặc giao cho người thừa kế phải trả một món nợ mà người để lại di sản chưa trả,...)
Người lập di chúc có thể giao cho nghĩa vụ cho người mà không cho họ hưởng di sản.
Trong trường hợp này không bắt buộc người được giao nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đó. Nếu

giao nghĩa vụ và cho hưởng di sản thì người được giao nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ trong
phạm vi di sản được hưởng đó. Tuy nhiên, người thừa kế không phải thực hiện những nghĩa vụ
về tài sản gắn liền với nhân thân của người để lại di sản.
- Chỉ định người giữ di chúc, người quản lí di sản, người phân chia di sản
BLDS quy định người lập di chúc có quyền chỉ định người giữ di chúc, người quản lí di
sản, người phân chia di sản. Việc chỉ định những người giữ di chúc, người quản lí di sản, người
phân chia di sản là hoàn toàn theo ý chí tự nguyện của người lập di chúc. Người lập di chúc có
23


thể cử một người vừa giữ di chúc, đồng thời vừa quản lí di sản và phân chia di sản. Nhưng người
lập di chúc vẫn có thể cử nhiều người mỗi người làm một việc riêng.
Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, người được chỉ định có thực hiện hay
không tùy thuộc vào ý chí chủ quan của họ. Đây không phải là nghĩa vụ pháp lí mà nó biểu hiện
tinh thần tự nguyện, đoàn kết giúp đỡ người khác.
Bên cạnh đó, pháp luật còn cho phép người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế,
hủy bỏ di chúc bất kỳ lúc nào nếu thấy quyết định trong di chúc không phù hợp. Trường hợp
người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như
nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có
hiệu lực pháp luật. Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc
trước bị hủy bỏ.
3.5.3. Người thừa kế theo di chúc
Người nhận di sản thừa kế (người được chỉ định trong di chúc) là những người có quyền
nhận di sản do người chết để lại theo sự định đoạt trong di chúc.
Người thừa kế theo di chúc có thể là người trong hàng thừa kế, ngoài hàng thừa kế, hoặc cơ
quan, tổ chức kể cả Nhà nước. Người thừa kế theo di chúc không bắt buộc phải là người có quan
hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản. Tuy nhiên, người thừa kế theo di
chúc cũng cần có những điều kiện: Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời
điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước
khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn

tại vào thời điểm mở thừa kế.
Người thừa kế theo di chúc có quyền nhận hoặc từ chối nhận di sản. Nếu nhận di sản thì
phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng với phần di sản mà mình đã nhận.
Trong trương hợp nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
3.5.4. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Pháp luật của bất kỳ quốc gia nào được ban hành đều nhằm mục đích điều chỉnh các quan
hệ xã hội nhất định và theo những nguyên tắc bảo đảm sự bình ổn về mặt xã hội đồng thời với
việc bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong những quan hệ nhất định, và pháp luật thừa
kế Việt Nam cũng vậy.
Thừa kế theo di chúc được đặt trên nền tảng của nguyên tắc tôn trọng quyền tự do định đoạt
của người để lại thừa kế, bằng cách cho phép người chủ tài sản, trước khi chết có quyền lập di
chúc để định đoạt tài sản của mình cho bất kỳ ai và có thể truất quyền hưởng thừa kế của những
người thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên, quyền tự do của cá nhân sống trong xã hội nhất định thì
không thể tách rời các quan hệ xã hội, do vậy tự do không phải tuyệt đối mà nằm trong khuôn
khổ của pháp luật. Mặt khác, để bảo vệ lợi ích của một số người trong diện thừa kế theo pháp
luật, củng cố tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình phù hợp với phong tục, tập quán, truyền
thống tốt đẹp của nhân dân ta, pháp luật đã hạn chế quyền lập di chúc được thể hiện qua việc quy
định những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc hay còn gọi là thừa kế bắt buộc
*Điều kiện để được hưởng thừa kế bắt buộc - hai phần ba suất của một người thừa kế theo
pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật:
24


- Là con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên mà không có khả năng lao
động của người để lại di sản.
- Không thuộc trường hợp từ chối hưởng di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc là những
người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS 2015.
- Cá nhân còn sống, tổ chức còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế
- Người thuộc diện thừa kế bắt buộc không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc

chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia
theo pháp luật.
Theo truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, các con phải kính trọng, nuôi dưỡng cha mẹ.
Ngược lại, cha mẹ phải nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên những không có
khả năng lao động; vợ chồng phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống; giữa những
người này ngoài nghĩa vụ về pháp lý họ còn có nghĩa vụ về đạo đức với nhau. Do đó, pháp luật
quy định trong mọi trường hợp họ phải được hưởng một kỉ phần nhất định từ di sản của người
chết. Điều này phù hợp với phong tục, tập quán của nhân dân ta. Tuy nhiên, những người này
không được hưởng thừa kế nếu họ vi phạm Khoản 1, Điều 621 BLDS 2015.
3.5.5. Các điều kiện có hiệu lực của di chúc
Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, là phương tiện thể hiện
nguyện vọng của cá nhân để lại tài sản của mình cho những người còn sống sau khi cá nhân mất
đi. Do đó, để đi chúc có hiệu lực pháp luật thì ngoài việc phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự nói chung còn phải tuân thủ các điều kiện để được coi là di chúc hợp pháp.
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc bao gồm:
3.5.5.1. Người lập di chúc phải có năng lực chủ thể.
Theo quy định của BLDS 2015 thì người lập di chúc phải đáp ứng được những điều kiện
nhất định thì di chúc mới có hiệu lực. Người lập di chúc phải đảm bảo được những điều kiện tại
Điều 625 và Điều 630 BLDS 2015 quy định về người lập di chúc. Như vậy, thông qua quy định
của BLDS có thể nhận thấy yêu cầu về người lập di chúc là phải có năng lực chủ thể.
3.5.5.2. Người lập di chúc tự nguyện.
Người lập di chúc phải tự nguyện khi lập di chúc, không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép.
Tự nguyện của người lập di chúc là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của họ. Sự thống
nhất trên chính là là sự thống nhất giữa mong muốn của người lập di chúc với hình thức thể hiện
ra bên ngoài. Các trường hợp như người lập di chúc bị cưỡng ép ( đánh đập, giam giữ…), đe dọa
( dọa một việc có thể làm mất danh dự, uy tín của người lập di chúc) hoặc bị lừa dối ( làm tài liệu
giả để cho người có tài sản tin rằng một người đã chết nên không lập di chúc để lại tài sản cho
người đó mà để lại tài sản cho người làm tài liệu giả) đều bị coi là vi phạm điều kiện có hiệu lực
của di chúc về tính tự nguyện.
3.5.5.3. Nội dung di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội

Nội dung của di chúc chính là "mặt bên trong" của di chúc. Nó thể hiện ý chí của người lập
di chúc về việc định đoạt tài sản của mình cho những người thừa kế. Vì vậy, ý chí của người lập
di chúc phải phù hợp với đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của luật. Vi phạm các điều này
thì di chúc sẽ bị vô hiệu.
3.5.5.4. Hình thức của di chúc không được trái với quy định của luật
25


×