Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Quy hoạch môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.35 MB, 109 trang )

1

CHƯƠNG 1
QUY HOẠCH MÔI TRƯỜN
G


Tóm tắt
Cải thiện chất lượng sống của nhân dân là chính sách mục tiêu chính của phát triển
kinh tế xã hội trong tất cả các nước trên thế giới. Cho đến nay phần lớn các nước đã thử
nghiệm để đạt điều này bằng việc hình thành và thực hiện các kế hoạch phát triển
nhưng không với bất kỳ một nỗ lực nghiêm túc nào để lồng ghép các cân nhắc môi
trường vào trong quá trình này. Tuy nhiên, để đảm bảo rằng các hoạt động của con
người chỉ can thiệp đến độ chấp nhận được đến chức năng của các hệ thống hỗ trợ cuộc
sống hoặc các quá trình sinh thái tự nhiên, quy hoạch môi trường hiện nay đang trở nên
một đòi hỏi ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thế giới tự do và lớn mạnh không
ngừng.
Chương này chứa đựng một tổng quan các tài liệu về chủ đề đang nổi cộm này và quan
điểm để khai thác chủ đề này có ý nghóa thực sự như thế nào, cùng với tổng quan về
phạm vi và ứng dụng của quản lý môi trường. Những vấn đề cơ bản liên quan đến sức
khoẻ môi trường và quy hoạch môi trường được xác đònh đầu tiên. Sau đó, quan niệm
phức tạp về môi trường được giải thích và tiếp đến là xem xét đánh giá các xu hướng
trong quy hoạch môi trưøng. Sau cùng, chuyển vấn đề trọng tâm là quy hoạch môi
trường, với thảo luận về quy hoạch và quản lý môi trường chiến lược.
Mục tiêu khoa học
Sau khi đọc xong chương này, người đọc có thể:

Hiểu khái niệm môi trường, hiểu rõ các vấn đề môi trường phát triển nhanh như thế
nào và cùng với nhận thức và quan tâm của công chúng cao hơn để thúc đẩy chính phủ
thảo ra các hệ thống quản lý và quy hoạch môi trường thích hợp hơn.
Trang bò một cách nhìn tổng thể về kế hoạch hoá phát triển và quy hoạch môi trường,


Thiết lập một mối liên kết giữa phát triển, quy hoạch môi trường và quản lý môi
trường,
Hiểu sự tham gia của các nhà hoạt động và công chúng trong quy hoạch môi trường và
quản lý sức khoẻ môi trường là cần thiết; và nhận thức sâu sắc vai trò tương ứng của
họ trong quá trình tham gia của cộng đồng.
Giới thiệu
Mặc dù các nhà khai thác những nguồn tài nguyên thiên nhiên khác nhau có quan
điểm khác nhau để biện hộ cho hành động của họ, việc tăng tốc độ cạn kiệt tài nguyên
2

thiên nhiên của trái đất đang là một vấn đề cơ bản và ngày càng trầm trọng. Các nhà
khai thác và sử dụng tài nguyên thường có cái nhìn thiển cận về hệ thống môi trường
và chỉ nhìn thấy những phần trong phạm vi hoạt động hoặc quan tâm của họ. Thật vậy,
vì cách nhìn thiển cận đó mà sự can thiệp của con người vào môi trường thường có xu
hướng chống lại nhau. Vì các vấn đề môi trường là phức tạp, không chắc chắn và có
bản chất chính trò cao (Bardwell, 1991), do đó cần sự quan tâm, hơn là từ trước đến
nay, đến việc quy hoạch và thực hiện các hoạt động của con người để bảo đảm tiến
đến phát triển bền vững.
Việc đưa các hệ thống quản lý môi trường vào cấp quốc gia trong nhiều nước và đòi
hỏi các hệ thống đó phải phục hồi lại các huỷ hoại môi trường để giảm và loại bỏ ô
nhiễm đã chỉ ra rõ tầm quan trọng của quy hoạch môi trường trong việc chặn trước các
huỷ hoại tiếp theo đến môi trường tự nhiên. Không có gì là ngạc nhiên khi những chính
sách kinh tế không lồng ghép với quy hoạch môi trường, hoặc không đề cập đến các
vấn đề bảo vệ môi trường một cách đầy đủ, sẽ có xu hướng gây ô nhiễm môi trường.
Sự huỷ hoại môi trường trầm trọng gây ra do việc khai thác các sản phẩm rừng,
khoáng sản, đất nông nghiệp và các nguồn nước là triệu chứng thiếu quy hoạch môi
trường. Hơn thế nữa, quy hoạch cho phát triển kinh tế-xã hội và sức khoẻ môi trường
liên kết chặt chẽ với nhau. Thí dụ, nếu đất đai bò mất sức sản xuất, mức sống của dân
liên quan đến nó cũng bò giảm; và khi cảnh quan bò mất tính thẩm mỹ, giá trò của nó
cũng bò giảm xuống. Vì vậy, rõ ràng là cần phải tiến hành và thực hiện quy hoạch môi

trường trong một phương thức tổng hợp tại cấp cộng đồng đòa phương, cũng như tại các
cấp vùng, quốc gia và quốc tế. Rosenbaum (1973) đã xác đònh một số các trở ngại
ngăn cản việc quy hoạch môi trường hiệu quả:
...trong quá khứ, các Chính phủ đã là những người huỷ hoại môi trường chính vì các nhà
hoạch đònh của họ thường xử lý các hậu quả môi trường của chính sách như một -hậu
quả thứ cấp- không được nhận biết, không được quy hoạch và hiếm khi được nhấn
mạnh....hoặc thông qua sự không khác nhau, thờ ơ, hoặc tính thích hợp chính trò, các
công chức, bằng việc loại bỏ các giá trò sinh thái, thiết lập quá trình chính trò không
chính thức hoặc chính thức ổn đònh cao để che đậy các vấn đề môi trường do họ gây ra..
Ngày nay thế giới đang phải đối mặt với một vấn đề ngày càng trầm trọng khác là ô
nhiễm môi trường không có biên giới. Số nước vừa là người tạo ra và vừa là nạn nhân
của ô nhiễm do nước khác gây ra ngày càng tăng và hậu quả là các nước không thể
bảo vệ môi trường riêng của mình mà không có sự hợp tác vùng hoặc quốc tế. Một vấn
đề chính trò chủ chốt khác cho phần lớn các Chính phủ, đặc biệt là ở trong thế giới thứ
ba, là chi phí cao mà các cơ quan Chính phủ phải chòu cho việc đầu tư trong quản lý
môi trường. Rosenbaum (1973) cung cấp một thí dụ chứng minh là:
...Nhà Trắng và Nghò viện nhìn nhận bất kỳ một đề xuất nào về quy hoạch môi trường
như một vấn đề chính trò chính, hoặc như vô số các quan tâm cá nhân liên quan đến việc
quy hoạch đó cần được cân nhắc, quyền lợi của họ trong chính sách hiện tại và tương
lai được đánh giá thận trọng. Các chi phí bầu cử của việc hỗ trợ hoặc làm thất bại để
hỗ trợ cho các kế hoạch toàn diện phải được cân nhắc.
3

Hơn thế nữa, nhiều nước đang phát triển đang có bất lợi nghiêm trọng do cấu trúc hành
chính và quy hoạch hạn chế. Khả năng quy hoạch hiệu quả của họ thường bò hạn chế
bởi sự nghèo đói (thỉnh thoảng bởi sự quá nghèo đói), nhận thức công cộng thấp, sự
tham gia của cộng đồng yếu hoặc không có và sự thờ ơ của dân chúng (OECD, 1995a).
Một trở ngại khác cho quy hoạch và quản lý môi trường là sự thiếu các quy trình hành
chính và pháp lý có hiệu quả để lồng ghép số liệu sinh thái vào quá trình ra quyết
đònh. Theo Stohr và Taylor (1981), bởi vì các nguyên nhân chính đó, nhiều nước đang

phát triển cho đến nay đã thất bại trong nỗ lực quy hoạch của họ nhằm đạt được các
mục tiêu dự tính phát triển được đề ra trong chính sách.
Cách tiếp cận quy hoạch phát triển ở phần lớn các nước này là "từ trên xuống"; và
điều này dẫn đến: sự quá tập trung của bộ máy quy hoạch hoá; tập trung nỗ lực phát
triển lên các ngành lựa chọn của nền kinh tế mà không có mối liên kết thích hợp giữa
các ngành hoặc với phần còn lại của nền kinh tế; và tập trung hoạt động kinh tế xã hội
vào một số ít các trung tâm đô thò. Slocombe (1993) bổ xung thêm rằng trong khi các
tác động xã hội và môi trường tiêu cực của các dự án siêu lớn, các khu ngoại ô và tăng
trưởng đô thò đã được biết từ lâu, nhng chỉ mới đây các vấn đề môi trường mới được
đưa vào các điều khoản quy hoạch. Devuyst (1983) nhấn mạnh một cách đúng đắn
rằng "Mối quan tâm môi trường trong các nước đang phát triển cần được nhấn mạnh
bởi sự xác đònh đạt được phát triển bền vững trong một phương thức hợp với môi
trường".
Những trở ngại chính trò và tổ chức đã hạn chế khả năng của Chính phủ trong các nước
đang phát triển hình thành các hệ thống quản lý môi trường thích hợp (Carley và
Christie, 1992). Cũng vậy, kỹ năng quản lý bản đòa bò thiếu trầm trọng tại gần nh tất cả
các cấp đã tạo ra trở ngại chính để đạt được phát triển kinh tế-xã hội. Sự không có khả
năng của các hệ thống quy hoạch và quản lý hiện hành để hoặc đối mặt với các thay
đổi mạnh mẽ hoặc với mối kết hợp giữa các tổ chức, nhà doanh nghiệp và môi trường,
gọi là "hạn chế lãnh đạo". Mối tác động qua lại giữa các nhà hành động gây ra mối
xáo trộn mạnh mẽ trong môi trường, mà tiếp tục làm xói mòn khả năng của Chính phủ
và các tổ chức để đạt được phát triển bền vững. Hai vấn đề cấp thiết cản trở quy hoạch
môi trường bền vững có hiệu quả trong cả các nước phát triển và đang phát triển là sự
rời rạc của chính sách và các tổ chức và mối căng thẳng có thể xuất hiện giữa các cấp
chính quyền Trung ương, vùng và đòa phương. Chính phủ thường theo đuổi các chính
sách mâu thuẫn nhau. Các nhà chính trò và công chúng dường như thiếu ý chí và động
lực cần thiết để thúc đẩy thực hiện các nhiệm vụ khó khăn để trung hoà các mục đích
môi trường kinh tế xã hội cho việc bảo vệ môi trường.
Một khó khăn tiếp theo trong quy hoạch môi trường bò gây ra bởi sự cạnh tranh quốc
tế. Nó tạo ra căng thẳng trong các mối quan hệ quốc tế và làm sự hợp tác giữa các

quốc gia khó đạt được. Một ví dụ điển hình về lónh vực này là sự chênh lệch tăng
trưởng kinh tế xã hội rộng lớn giữa các quốc gia giàu và nghèo mà thường là một vấn
đề cấp thiết trong tất cả các cuộc thảo luận về quản lý và quy hoạch môi trường ở cấp
quốc tế. Thực tế là, các nước đang phát triển đã nhận ra một số vấn đề, mà họ tuyên
4

bố là ngăn cản sự hợp tác quốc tế trong việc quản lý và quy hoạch môi trường, được
liệt kê dưới đây:

Mối lo sợ về kém phát triển ở các nước phía Nam đang tăng lên,

Mối lo sợ các quan tâm môi trường hiện hành ở các nước phát triển sẽ ảnh
hưởng bất lợi về thương mại, viện trợ và chuyển giao công nghệ đến các nước
đang phát triển,

Mối lo sợ ‘Tự vệ", nghóa là các quốc gia giàu có có thể phân biệt chống lại các
sản phẩm của các nước đang phát triển trong thương mại quốc tế bởi vì họ
không thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường có thể chấp nhận được,

Mối lo sợ các nước phát triển có thể chuyển ngân quỹ viện trợ nước ngoài cho
các dự án sinh thái của chính họ,

Mối lo sợ các nước tài trợ có thể gắn việc thực thi các giải pháp bảo vệ môi
trường có thể chấp nhận được ở các nước đang phát triển như là một điều kiện
cần thiết cho việc nhận viện trợ, và

Mối lo sợ các công nghệ không được mong muốn bò đẩy sang các nước đang
phát triển.
Các vấn đề tương tự của cả quy hoạch môi trường và quy hoạch phát triển cũng xảy ra
ở cấp tổ chức, như ở các cấp quốc tế và quốc gia. Daneke (1982) minh hoạ tình huống

như sau:
Đã có khích lệ cho các nhà quy hoạch để phân tích mối tác động qua lại lẫn nhau giữa
chính sách môi trường và xã hội nhằm giảm điều không chắc chắn trong đầu tư, nhưng
sự hợp tác lẫn nhau để đạt được được sự lựa chọn ưu tiên giữa những mối quan tâm môi
trường và kinh tế khó có thể đạt được.
Như vậy, rõ ràng là để bảo đảm một môi trường tốt và tiến tới phát triển bền vững, cần
phải có sự hiểu biết hoàn toàn về toàn bộ hệ thống môi trường cũng như các chức năng
chính trò, tổ chức và quản lý trong xã hội hiện đại. Nói cách khác, việc học để hiểu
mối tác động lẫn nhau giữa môi trường và xã hội là yêu cầu quan trọng đầu tiên cho
việc quy hoạch và quản lý môi trường hiệu quả.
1. Hiểu biết môi trường
Trong bước này, việc truyền đạt kiến thức được chú trọng về khái niệm phức tạp của
môi trường. Môi trường bao gồm nhiều hệ thống phụ, các hoạt động và các quá trình.
Các hệ thống phụ này gồm tất cả các thành phần dưới mặt (đất, nước) tất cả các thành
phần trên mặt tự nhiên và nhân tạo, cũng như các thành phần trong khí quyển. Cộng
đồng đòa phương, tổ chức công cộng, hiệp hội chuyên môn, các nhà phát triển tài sản,
các chủ tài sản và dân chúng nói chung là các nhà hoạt động chính trong quá trình ra
quyết đònh môi trường.
5

Việc ra quyết đònh môi trường thường bò ảnh hưởng rất nhiều bởi các phương diện cư
xử hoặc văn hoá và dựa vào bối cảnh đó các quyết đònh có thể là đặc biệt riêng cho
vùng hoặc quốc gia. Mặt khác, chỉ có thể giải quyết các vấn đề môi trường toàn cầu
nghiêm trọng ngày càng tăng thông qua hợp tác và phối hợp quốc tế. Suy thoái tầng ô-
zôn, hiệu ứng nhà kính, suy giảm đa dạng sinh học là các vấn đề môi trường toàn cầu
chính hiện nay (Field, 1994). Một số các vấn đề liên quan đến sức khoẻ con người và
huỷ hoại mùa màng nông nghiệp có nguồn gốc từ mức tăng suy thoái của tầng ô zôn.
Hiệu ứng nhà kính làm tăng nhiệt độ trái đất, bò quy trách nhiệm cho sự thay đổi khí
hậu toàn cầu, và thay đổi khí hậu trái đất gây ra một loạt các tác động xấu. Trái đất
giầu đa dạng sinh học đang bò tàn phá ở mức độ báo động. Điều này dẫn đến mối nguy

hiểm cho việc hoạt động tốt của các hệ sinh thái toàn cầu, mà đó là việc sống còn cho
cả môi trường lành mạnh và hạnh phúc con người. Bởi vì, đa dạng sinh học cung cấp
cho hệ thống các phương tiện để thích ứng với thay đổi, trong khi sự đồng nhất sinh học
do thiếu (hoặc giảm) đa dạng sinh học, làm hệ thống không linh hoạt và làm yếu khả
năng đáp ứng với thay đổi.
Vì tính phức tạp của môi trường, nên sự phức tạp và mối tác động lẫn nhau cho đến
nay vẫn chưa được biết giữa rất nhiều hệ thống phụ của môi trường và các vấn đề môi
trường đang tăng do hoạt động của con người. Rõ ràng là cách tiếp cận thực tế cần
được tiến hành để nghiên cứu và hiểu nó. Do vậy, hiểu biết về các hệ thống phụ của
môi trường và các nhân tố tương ứng của chúng cần được cấu trúc trong một cách để
các nhà hoạt động và các bên có liên quan tham gia có thể dễ dàng giao tiếp và hiểu
chúng. Điều này có nghóa là cần chấp nhận các hình thức cho phép tranh luận không
chuyên môn, cho việc ra quyết đònh và giảm đến mức tối thiểu các rắc rối và mâu
thuẫn giữa các nhà hoạt động. Cần có cách tiếp cận để hiểu môi trường như một hệ
thống, cùng với mối tác động qua lại giữa hệ thống phụ, do đó cần phải dựa lên các
phân tích mối quan hệ nguyên nhân hậu quả giữa các phần cấu tạo khác nhau cũng
như giữa những người tham gia. Thêm vào đó, cần có phương pháp cho phép làm đơn
giản hoá và loại trừ sự nhân lên hoặc trùng lặp trong hệ thống hiện hành. Tuy nhiên
cần nhận biết rằng, kết quả cuối cùng của quá trình ra quyết đònh môi trường phụ
thuộc vào các giá trò mà cộng đồng gắn với môi trường. Trong bối cảnh này, cần ghi
nhận từng cộng đồng là một thể thống nhất với tập hợp các giá trò thống nhất phát sinh
từ một nhận thức và thái độ với môi trường thống nhất. Tính đồng nhất của từng cộng
đồng do đó cần là một yếu tố xác đònh chính về môi trường của họ cần được bảo tồn và
thay đổi như thế nào.
2. Các xu hướng trong quy hoạch
2.1. Đònh nghóa và tầm quan trọng của quy hoạch
Bản chất khó nắm bắt của quy hoạch được trình bày trong các tài liệu (Smith, 1993;
Wildavsky, 1973). Quy hoạch được bàn luận có thể là tất cả các việc cho tất cả mọi
người hoặc khả năng kiểm tra tương lai bằng các hành động hiện tại, sự ứng dụng kiến
thức hậu qủa, một hình thức của quyền lực chính trò và một hành động chân thực.

Benveniste (1989) nhìn nhận quy hoạch như "soạn thảo một tập hợp các chương trình
6

liên quan được thiết kế để đạt các mục đích nhất đònh ... [và] quá trình quy hoạch các
can thiệp và các hành động được thực hiện trong quá trình soạn thảo một kế hoạch".
Quy hoạch có thể được coi như một phương pháp thích hợp để tiến tới tương lai. Nó
bao gồm việc đònh ra một vấn đề cần được giải quyết, thiết lập các mục tiêu quy
hoạch, xác đònh các giả thiết mà quy hoạch cần dựa vào, tìm kiếm và đánh giá các
biện pháp hành động thay thế, và chọn một hành động cụ thể được thực hiện
(Compton, 1993).
Việc có thể quan trọng hơn là sự thật rằng phát triển hoặc hạnh phúc của con người là
mối quan tâm đầu tiên về quy hoạch. Sự phát triển bản thân nó được giới hạn nhiều
trong các điều khoản xã hội và môi trường. Sự tăng nhiều các lựa chọn của con người
gồm khả năng có cơ hội thu nhập và việc làm, giáo dục, sức khoẻ và môi trường trong
sạch và an toàn đã được quan sát. Beer (1990) bổ sung rằng sự cần thiết về lương thực,
nước sạch, không khí sạch và nơi cư trú là cơ sở cho sự tồn tại của con người. Carley và
Christie (1992) cũng ghi nhận ưu thế và tầm quan trọng của quy hoạch phát triển:
Phần lớn các nước đều có các kế hoạch kinh tế, kế hoạch rừng, kế hoạch du lòch, công
nghiệp, dòch vụ, chăn nuôi v.vv.. Nhưng không đề cập đến các kế hoạch cho phát triển
nông nghiệp ở nông thôn. Tất cả các kế hoạch và nỗ lực phát triển này tác động lẫn
nhau, mâu thuẫn với nhau... trong một cố gắng để hoà hợp phát triển kinh tế với các
mục tiêu của ngành. Sự xem xét quy hoạch đất sử dụng là cần thiết... Một khuôn khổ quy
hoạch cần được xây dựng để tất cả các bộ phận công cộng, khu vực tư nhân và các cá
nhân có thể dựa vào đó để hoạt động.
Baldwin (1985) ưu tiên cân nhắc quy hoạch hoá trong một phạm vi quản lý môi trường
rộng hơn như "khởi đầu, chuyển tiếp, phân phối và xắp xếp nguồn tài nguyên, với sự
phá vỡ ít nhất các quá trình vật lý, sinh thái và xã hội". Mặt khác, theo Slocombe
(1993), quy hoạch là quá trình thu thập, phân tích thông tin để phục vụ lợi ích công
cộng bằng việc thực thi hàng loạt các hoạt động kinh tế của con người và các hoạt
động phát triển khác.

Một xu hướng quan trọng khác trong quy hoạch là sự cần thiết duy trì đa dạng văn hoá
trong khi đồng thời cung cấp cho dân chúng môi trường hỗ trợ cách sống của riêng họ.
Dân chúng với những nguồn gốc văn hoá khác nhau có các ý tưởng khác nhau về một
môi trường hoàn hảo. Do vậy, các nhà quy hoạch cần hiểu rõ dân chúng đối xử với
môi trường của họ như thế nào; nếu không, các chi phí xã hội không cần thiết có thể
nẩy sinh do việc tạo ra môi trường đối đòch với dân chúng.

2.2. Các tiếp cận quy hoạch
Có nhiều cách tiếp cận quy hoạch, gồm quy hoạch chủ thể và quy hoạch thủ tục. Quy
hoạch chủ thể liên quan đến quy hoạch vật chất, hoặc quy hoạch khách quan. Quy
hoạch thủ tục cũng gọi là mẫu cổ điển của quá trình quy hoạch (Faludi, 1973; Cayer và
Weschler, 1988), nó là phương tiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc ứng
7

dụng các qui trình nhận thức và hành động thích hợp. Faludi chỉ ra rằng quá trình quy
hoạch cần được tách riêng ra khỏi nội dung chủ thể của bản thân quy hoạch. Quy
hoạch thủ tục gồm các bước liên quan chặt chẽ sau: (Cayer và Weschler, 1988):

Xác đònh các nhu cầu

Cụ thể hoá các mục đích và mục tiêu ,

Xây dựng các phương tiện thay thế để đạt từng mục tiêu,

Ước tính các chi phí cho từng phương tiện thay thế, và

Lựa chọn các phương tiện thay thế hứa hẹn nhất.
Darke (1983) nêu ra sự lồng ghép của quy hoạch chủ thể với quy hoạch thủ tục. Ông
tranh luận rằng lý thuyết quy hoạch thủ tục chỉ là một cách tiếp cận không đầy đủ cho
việc giải thích quy hoạch bởi vì nó giới hạn trong một triết lý chính trò bảo thủ mà nhìn

nhận hành động xã hội từ một cách nhìn nhận chức năng nghiêm khắc. Tuy nhiên vai
trò của nhà nước như một tác nhân thay đổi không được tính đến trong quy hoạch thủ
tục, cả như một phân tích dựa trên giai cấp, giới hoặc ý tưởng chính trò. Các lý thuyết
quy hoạch thủ tục cũng có cơ sở phương pháp luận hạn chế và bò hạn hẹp bởi sự gắn
kết của nó đến tính thực tiễn. Sự yếu kém của cách tiếp cận này ngăn cản nó giải
quyết một cách thoả đáng các vấn đề xã hội lớn hơn của nỗ lực quy hoạch. Do đó,
được chỉ ra là các thành phần của quy hoạch không được chia cắt khỏi quá trình quy
hoạch.
Hudson (1979) đã đề xuất một cách tiếp cận quy hoạch khác dựa trên 5 bài học ý
tưởng quy hoạch. Theo ông quy hoạch là "nhìn trưùc việc hình thành và thực hiện các
chưng trình và chính sách". Ông xác đònh 5 bài học ý tưởng quy hoạch liệt kê sau:

Quy hoạch khái quát,

Mô hình quy hoạch lớn,

Tiếp cận tích cực đến quy hoạch,

Quy hoạch biện hộ, và

Quy hoạch nhánh
Steiner và Miner (1977) đã xác đònh 4 cách tiếp cận khác nhau cho kế hoạch hoá chính
thức: tiếp cận từ trên xuống, tiếp cận từ dưới lên và hỗn hợp của hai cách tiếp cận từ
trên xuống và dưới lên, và tiếp cận nhóm. Tại cấp vó mô kế hoạch nói chung gồm việc
thiết lập các mục tiêu doanh nghiệp và thiết lập các chính sách, thủ tục và chương trình
để thực tế hoá mục tiêu. Nó bao gồm việc xác đònh cái gì cần phải làm, do ai làm và
cho đến khi nào, để phân bổ trách nhiệm cho từng bộ phận. Nói cách khác là thiết lập
một số các hành động đònh trước trong khuôn khổ chính sách đã thoả thuận. Thông
thường kế hoạch được xác đònh như là chiến lược, sách lược hoặc chức năng, có thể ở
8


cấp cá thể, ở cấp nhóm làm việc hoặc ở cấp chức năng của một tổ chức. ở cấp cá thể,
kế hoạch được đòi hỏi để chuyển các nhiệm vụ được giao trong khi ở cấp nhóm làm
việc hoặc chức năng nó phải gồm thoả thuận về mục đích, nhiệm vụ và các trách
nhiệm riêng lẻ, điều phối các hoạt động, tăng cam kết cho mục tiêu nhóm và trao đổi
thông tin giữa các bên.
Mintzberg (1994) đã đưa ra một tổng quan xuất sắc về các đònh nghóa khác nhau của
kế hoạch hoá và sự giải thích chúng. Cho một số người nghó về tương lai, hoặc đơn
giản tính đến tương lai. Với một số người khác kế hoạch là về sự kiểm soát tương lai
hoặc không chỉ nghó về nó nhưng hành động về nó hoặc làm cho nó có hiệu lực. Dễ
hiểu hơn, kế hoạch là làm ra quyết đònh hoặc xác đònh các hành động đặt ra để hoàn
thành các mục tiêu hoặc thủ tục đặt ra cho việc đưa các kết quả rõ ràng vào trong một
hệ thống tổng hợp các quyết đònh.
Có rất nhiều nguyên nhân tại sao các tổ chức cần có kế hoạch. Vì kế hoạch bảo đảm
sự điều phối các hoạt động, chuẩn bò đối phó với những điều sẽ xẩy ra trong tương lai,
loại bỏ những điều không mong đợi và kiểm tra những điều có thể kiểm tra được. Các
tổ chức phải lên kế hoạch cho phù hợp. Quá trình kế hoạch hoá cũng đònh ra vò trí của
người quy hoạch hoá và chỉ ra cộng đồng có thể tham gia như thế nào và mức độ nào
(Slocombe, 1993),
3. Khái niệm và cách tiếp cận
3.1. Khái niệm về quy hoạch môi trường
Có một điều không may mắn là trong khi quy hoạch phát triển là phần lớn công việc
của các nhà kinh tế và các nhà chủ chốt quy hoạch đô thò và vùng, quy hoạch môi
trường vẫn là vấn đề bò loại trừ và riêng rẽ cho các nhà môi trường, nhà sinh thái học
và các nhà quản lý của các loại nguồn tài nguyên khác nhau. Beer (1990) nhìn nhận
vai trò của nhà quy hoạch, khi suy nghó rộng hơn về việc môi trường có thể được duy
trì hoặc tạo ra nh thế nào để bảo đảm phúc lợi con người trong những hạn chế kinh tế
xã hội, các điều kiện của cộng đồng liên quan và nhận thức của họ về môi trường. Nói
cách khác các nhà quy hoạch cần chuyển đổi các mối quan tâm của cộng đồng về nơi
cư trú trực tiếp của họ vào trong các chiến lược và chính sách để hướng dẫn quá trình

quy hoạch. Mối quan tâm về chất lïng môi trường ngày càng tăng, và do vậy việc
bảo tồn và duy trì thiên nhiên là mục đích cơ bản của quy hoạch môi trường. Quy
hoạch môi trường nhấn mạnh sự cần thiết tổng hợp cả hai khía cạnh môi trường và sức
khoẻ vào trong qúa trình ra quyết đònh của quy hoạch quốc gia. Rosenbaum (1973) chỉ
ra vai trò trung tâm của quy hoạch môi trường nh sau:
Không mục tiêu nào là trung tâm với sự biến đổi môi trường hoặc là tranh chấp có tính
chính trò hơn là quy hoạch môi trường toàn diện... Quy hoạch trở thành một trục trung
tâm tạo ra nhiều mâu thuẫn riêng rẽ về các khó khăn môi trường cụ thể.
Faludi (1987) nhìn nhận quy hoạch môi trường như ‘tổng của tất cả các biện pháp môi
trường công cộng mà cấp có thẩm quyền về môi trường có thể sử dụng". Theo ông,
9

một quy hoạch môi trường hoặc là một tài liệu sử dụng (các tài liệu) để hướng dẫn
việc ra quyết đònh về các biện pháp môi trường công cộng ủng hộ sự không tự do trong
quy hoạch môi trường. Westman (1978) xem xét quy hoạch môi trường về phương diện
đo giá trò của tài nguyên trái đất và dự đoán các thay đổi do các biến động gây ra.
Điều này liên quan đến việc phân tích các mối quan hệ xã hội, kinh tế và môi trường
do các hoạt động của con người gây ra và liên quan đến thiết kế chương trình và các
kế hoạch hành động để cải thiện phúc lợi con người và sức khoẻ môi trường. Westman
nhấn mạnh sự quan trọng của quy hoạch môi trường trong các từ sau:
Dường như rõ ràng rằng nếu chúng ta muốn bảo tồn cho thế hệ tương lai một tổng thể
sinh vật của thế giới trong qúa khứ và hy vọng cải thiện các tiêu chuẩn suy thoái của
sức khoẻ cộng đồng đô thò, thì khoa học môi trường và công nghệ cần phải nhanh chóng
trở nên một vai trò chủ chốt trong việc thiết kế cấu trúc công nghiệp và xã hội của
chúng ta trong tương lai... Dự đoán tác động có thể tạo thành một phần của các nhiệm
vụ trong quy hoạch và thiết kế môi trường, quản lý tài nguyên và sinh thái ứng dụng.
Do vậy các mục tiêu của quy hoạch môi trường bao gồm các biện pháp cần được thực
hiện trong các hoàn cảnh khác nhau, một số không thể biết trước. Quá trình quy hoạch
môi trường cũng thúc đẩy các quan chức nhà nước khẳng đònh một cách tích cực quyền
lực của Chính phủ trong các lónh vực kinh tế rộng lớn thuộc sở hữu tư nhân.

Rosenbaum (1973) quả quyết rằng Chính phủ quốc gia phải thiết lập các ưu tiên cho
bảo vệ môi trường, phải tính toán và tạo ra các lựa chọn ưu tiên giữa bảo vệ môi
trường và các mục tiêu quốc gia khác và phải quy hoạch sử dụng và bảo vệ tài nguyên
cho nhiều thế hệ. Thêm vào đó qua trình quy hoạch cần nhấn mạnh cả phát triển kinh
tế xã hội của đất nước và chất lượng môi trường.
Một điều rất quan trọng là Chính phủ phải nhạy cảm hơn với các tác động môi trường
của các chính sách của họ và sẵn sàng hy sinh các mục tiêu khác cho bảo vệ môi
trường khi có nền sinh thái lành mạnh là rất cần thiết. Các dân tộc không chỉ chòu đựng
các chi phí môi trường nặng nề trong việc trì hoãn các quy hoạch như vậy mà cũng sẽ
nảy sinh các chi phí kinh tế và chính trò cao. Việc trì hoãn quy hoạch môi trường có thể
dẫn đến các chi phí môi trường nghiêm trọng, nó cũng dẫn đến các tình trạng gần như
khủng hoảng do việc quản lý chúng có thể sẽ phát sinh các chi phí xã hội cao hoặc rất
cao. Việc thiết kế và thực hiện các quy hoạch môi trường hiệu quả và thích hợp phụ
thuộc vào khả năng chuẩn bò Đánh giá Tác động Môi trường (EIA) chính xác, được đề
cập đến ở mục khác trong sách này.

3.2. Các tiếp cận cho quy hoạch môi trường
Tiếp cận cho quy hoạch môi trường cần rộng, dựa trên các cân nhắc và liên quan đến
tài chính và không tài chính. Các kỹ năng liên ngành tốt và cần thiết trong tiếp cận quy
hoạch tổng hợp. Ngay ban đầu nhà quy hoạch môi trường cần hiểu sự khác nhau giữa
‘đánh giá’ (assessment) và 'xác đònh giá trò' (‘evaluation’) môi trường. Có hai mục đích
10

của đánh giá tác động môi trường: thứ nhất, nó thử nghiệm xác đònh các chức năng nào
của nguồn tài nguyên bò ảnh hưởng cần được thay đổi bằng từng đề xuất thay thế; và
thứ hai là thử nghiệm dự đoán hướng và mức độ của bất kỳ sự thay đổi nào có thể là
kết quả từ từng quyết đònh hoặc hành động thay thế so với khi hành động đó không
được tiến hành. Mặt khác ‘xác đònh giá trò’ là sự kiểm tra tiếp theo của cả hai khuôn
mẫu thay đổi do các hành động và các hậu quả sau đó gây ra.
Faludi (1987) gợi ý rằng quy hoạch cần phụ thuộc vào bối cảnh trong đó quy hoạch

môi trường được tiến hành; trong khi Ryding (1994) đề xuất hai cách tiếp cận ra quyết
đònh và quy hoạch môi trường khác nhau nhưng liên quan chặt chẽ với nhau:

Tiếp cận thể chế, sử dụng trong quá trình quy hoạch xã hội (bao gồm các khu
vực nông nghiệp, lâm nghiệp, đô thò và giao thông), trong đó các biện pháp
giảm nhẹ thường là dưới dạng pháp lý, quy đònh, thuế và phí; và

Tiếp cận thương mại, sử dụng cho quy hoạch khu vực (bao gồm sản xuất năng
lượng và các khu vực công nghiệp, thương mại và bán lẻ), trong đó các biện
pháp giảm nhẹ có thể ở trong hình thức các khuyến khích cho việc cải thiện cho
các quá trình xử lý hiện hành, cho phát triển các quá trình và sản phẩm mới hợp
với môi trường, cho giảm thiểu chất thải thông qua các chương trình giảm tới
mức tối thiểu chất thải, và/hoặc cho việc cải thiện các cơ sở hạ tầng của giao
thông, kho chứa và bán sản phẩm.
Một mô hình ra quyết đònh và quy hoạch chung cho tất cả các khía cạnh bảo vệ môi
trường, do Ryding (1994) xây dựng, được trình bày trong Hình 1. Ba đặc trưng thích
hợp của quy hoạch môi trường có thể được suy ra từ hình này. Đầu tiên là bản chất đa
lónh vực của quy hoạch, nó bao gồm các cân nhắc thí dụ như kinh tế, xã hội, sinh thái,
sử dụng đất và kỹ thuật. Đặc trưng thứ hai và thứ ba liên quan đến sự tham gia công
cộng trong quá trình quy hoạch và liên quan đến cách tiếp cận có hệ thống của quá
trình bắt đầu từ thiết lập các mục tiêu đến thực hiện các chương trình giảm nhẹ, đánh
giá kết quả và cơ chế phản hồi lâu dài.
11


Hình 1: Trình tự chung của các khía cạnh ra quyết đònh và quy hoạch trong việc thực
hiện các chương trình giảm nhẹ,
Nguồn: Ryding, (1994) Quản lý môi trường, Quyển I, Chương 2.1, Boon
Đầu vào cho mô hình ra quyết đònh và quy hoạch chung được dẫn dắt từ các ưu tiên
riêng rẽ và lập ra trong các tiếp cận thể chế và thương mại, cũng như từ kết quả phân

tích các hậu quả tiềm năng dựa trên các nhân tố chi phí/lợi ích và người sử dụng. Các
vấn đề sau cần được cân nhắc trong quá trình quy hoạch:

Các vấn đề có hướng ảnh hưởng môi trường cần tập trung lên việc giảm tới mức
tối thiểu các đe doạ sinh thái gây ra bởi đầu vào của hỗn hợp các chất gây ô
nhiễm thải ra;

Các vấn đề có hướng kỹ thuật cần tập trung lên tất cả các nước có công nghệ có
sẵn tốt nhất;

Các vấn đề có hướng kinh tế cần tập trung lên các hậu quả tài chính tiềm năng
trước khi ra quyết đònh; cũng vậy cả chương trình viện trợ tài chính và các
phương thức chuyển giao công nghệ cần thiết cũng cần được quyết đònh, và
12


Các vấn đề có hướng người sử dụng cần tập trung lên các chiến dòch thông tin
để báo động cho tất cả những người có thể bò quyết đònh làm ảnh hưởng.
Cách tiếp cận ra quyết đònh và quy hoạch cần dựa trên:

Đánh giá khởi đầu các lónh vực môi trường bò đe doạ

Danh sách các hành động ưu tiên;

Kế hoạch hành động;

Quy trình các hành động giảm nhẹ; và

Kiểm toán thường xuyên
Để bảo đảm rằng tất cả các vấn đề khác nhau được giải quyết thoả đáng và không một

vấn đề quan trọng nào bò bỏ quên hoặc bỏ sót, từng bước trong việc xây dựng chiến
lược chung cần được đánh giá toàn diện và kiểm tra theo luật lệ. Từ viết tắt ACTION,
được giải thích dưới đây, cung cấp các luật lệ thích hợp cho điều này:

A Tính trước sự tham gia/lôi cuốn của tất cả các bên liên quan và quần chúng
trong quá trình ra quyết đònh và quy hoạch môi trường cũng như trong các kết
quả kinh tế, kỹ thuật và môi trường khác nhau;
C Chọn cách phát triển môi trường và kinh tế hợp lý nhất;
T Lập ra các thuận lợi và không thuận lợi có thể của tất cả các quyết đònh chính;
I Bắt đầu đánh giá các thuận lợi và không thuận lợi của các quyết đònh thay thế;
O Loại bỏ các giải pháp thay thế ít có lợi và nhấn mạnh những biện pháp được ưu
tiên;
N Đàm phán với các bên thích ứng để chấp nhận hành động lựa chọn

Nói chung, những điều sau đây đặc trưng cho một quy hoạch môi trường:

Tất cả các bên liên quan và công chúng cần tham gia trong việc lập ra và thảo
luận các ưu tiên môi trường;

Quy hoạch cần thích hợp và có khả năng đáp ứng các mục tiêu môi trường đề
ra;

Quy hoạch cần hoạt động tốt và có chi phí hiệu quả tốt cả ở phạm vi vùng và
toàn cầu (điều này yêu cầu phân bổ các đầu tư môi trường trên đường biên giới
quốc gia và vùng); và

Quy hoạch cần thực tế và linh hoạt.
13

4. Quy hoạch và quản lý môi trường chiến lược

Việc ứng dụng khái niệm kế hoạch hoá và quản lý chiến lược cho quy hoạch môi
trường, cùng với việc làm thế nào để bảo đảm sự thành công lâu dài của các quy
hoạch này, được thảo luận trong phần này. Trong bối cảnh này các thành phần tương
ứng của quản lý và kế hoạch hoá chiến lược bao gồm: lập các mục tiêu môi trường rõ
ràng và xác đònh các chính sách và chương trình thích hợp để đạt được các mục tiêu
đó; giáo dục và đào tạo môi trường hiệu quả; phát triển tổ chức và thể chế; sự tham gia
của cộng đồng; hợp tác và điều phối; sự hoà hợp của các chính sách và cuối cùng đánh
giá, giám sát và kiểm soát.

4.1. Các mục tiêu quy hoạch và quản lý
Trong qua trình quy hoạch hoá, việc lập ra các mục tiêu môi trường rõ ràng là quan
trọng, bởi vì các mục tiêu giúp việc xác đònh các hành động và chính sách cụ thể cần
được xây dựng nh thế nào để đạt được các mục tiêu đó. Quản lý môi trường là để đạt
được các mục đích môi trường cụ thể và mục tiêu có thể được giới hạn rộng hơn trong
phương diện bảo vệ hoặc cải thiện chất lượng môi trường (Compton, 1993). Mục tiêu
môi trường có thể là tập hợp các mục tiêu về lượng chính xác, hoặc thể hiện như
nguồn gây cảm hứng rộng. Như chỉ ra trong phần 3.1, quy hoạch hoá là trung tâm cho
bất kỳ thử nghiệm quản lý môi trường hiệu quả nào, và bao gồm sự xác đònh các mục
tiêu và chọn các phương tiện để đạt được chúng. Faludi (1987) và Wyatt (1989) đề
nghò rằng việc thực hành quy hoạch hoá cần có khả năng thích ứng với cả sự thay đổi
chính trò và với sự tăng mức độ không chắc chắn.
Kế hoạch hoá chiến lược là một công cụ hiệu quả mà các tổ chức và các quốc gia có
thể sử dụng để ước tính mức độ rủi ro của các chính sách và các hành động của họ, do
đó giúp để tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực tế hoá các mục đích và mục tiêu môi
trường. Tuy nhiên các nhà quản lý cấp cao của một tổ chức phải hiểu khái niệm kế
hoạch hoá dài hạn thích hợp để có thể áp dụng công cụ này một cách có hiệu quả.
Daneke (1982) nhìn nhận kế hoạch hoá chiến lược như ‘một quá trình chiết xuất các
mục đích và mục tiêu xã hội, và thiết kế các kòch bản thay thế hoặc "các bản đồ đường
đi" mà có thể là cơ sở cho các lựa chọn tập thể có ý nghiã’: Theo Steiner và Miner
(1977) các đặc trưng cần thiết của kế hoạch hoá chiến lược là:


Giải quyết tác động trong tương lai của những quyết đònh và hành động;

Kiểm tra mối quan hệ nguyên nhân và hậu quả của quyết đònh và hành động dự
tính hoặc đã có qua thời gian;

Kiểm tra các hành động thay thế có thể được tiến hành trong tương lai và khi đã
được chọn, chúng cần hình thành cơ sở của các quyết đònh hiện tại như thế nào;

Cân nhắc các cơ hội và đe doạ cùng với số liệu thích hợp khác, do đó tạo ra một
chế độ quản lý để cải thiện những quyết đònh hiện hành cho việc khai thác các
cơ hội và tránh các đe doạ trong tương lai.
14


Nó là một quá trình bắt đầu bằng việc thiết lập các mục tiêu và xác đònh các
chiến lược và chính sách để đạt được các mục tiêu đó; cần xây dựng các kế
hoạch chi tiết để bảo đảm rằng các chiến lược thích hợp được thực hiện để đạt
được các mục tiêu đề ra;

Nó là một qúa trình liên tục để quyết đònh trước cái gì cần phải làm, khi nào cần
phải làm, như thế nào và ai sẽ làm.

Nó là một triết lý, thái độ và một cách sống. Được hiểu rằng kế hoạch hóa đòi
hỏi hành động thích hợp dựa trên dự tính đến tương lai; xác đònh lập kế hoạch
liên tục và hệ thống như một phần quản lý tổng hợp; và

Nó có thể được giới hạn như một cấu trúc kế hoạch hoặc cấu trúc lồng ghép các
kế hoạch chiến lược với các kế hoạch hoạt động ngắn hạn.
Rất nhiều nước đặc biệt là các nước đang phát triển phải đối mặt với các chi phí xã hội

lớn trong thời gian dài hạn vì thiếu quy hoạch và quản lý môi trường toàn diện. UNDP
(1995) nghiên cứu kinh nghiệm của một số các nước đang phát triển về việc hình thành
và thực hiện các chiến lược bảo tồn quốc gia, các kế hoạch hành động môi trường quốc
gia và chương trình nghò sự 21 của quốc gia đã tiết lộ các yếu kém sau đây:

Chiến lược không phải là ưu tiên cả ở cấp Chính phủ lẫn ở cấp đòa phương;

Quá trình được chỉ đạo từ bên ngoài, không có nguồn lực trong nước và ưu tiên
hoá;

Nhấn mạnh lên sản phẩm (thí dụ, chiến lược hoặc kế hoạch hành động như một
tài liệu) hơn là lên quá trình thực hiện;

Thiếu sự tham gia của các bên liên quan; và thiếu sự sở hữu hoặc quá trình thực
hiện;

Từng báo cáo hoặc chiến lược được thực hiện riêng rẽ; không có mối liên kết,
không có thu thập thông tin và ghi chép trình tự theo thời gian để có thể tạo điều
kiện dễ dàng cho công việc tiếp theo;

Thiếu kỹ năng quản lý có sẵn ở đòa phương, thỉnh thoảng chỉ là hình thức.
Hệ thống quản lý môi trường chiến lược hiệu quả cần phục vụ như một cơ sở để khắc
phục các thiếu sót trên. Trong bối cảnh này Ansoff (1977) đònh nghóa quản lý như "
hoạt động sáng tạo và sửa chữa thiếu sót để hãng có thể đạt được mục đích, sự kết
gắn, và bảo đảm thu hồi vốn đầu tư một cách thoả đáng". Mặt khác chiến lược được
coi là một tập hợp các chương trình hành động được điều phối nhòp nhàng nhằm bảo
đảm sự thuận lợi bền vững dài hạn. Do vậy quản lý chiến lược được coi là việc xác
đònh có hệ thống và sự đáp ứng với các cơ hội và các mối đe doạ, mà cả hai có thể
phát sinh từ thò trường trong nước và quốc tế của hãng. Như một quá trình thích hợp
liên tục được xây dựng trên nền tảng thực tế của việc thực hành quản lý tốt, như vậy

quản lý chiến lược tập trung lên chiến lược hiện tại của hãng, và được hỗ trợ bởi các
nguồn lực và điểm mạnh đã có trong quá khứ. Nó cũng tập trung lên thiết kế và thực
hiện một chiến lược mà sẽ mang lại thành công trong tương lai (Stahl và Grigsby,
1992). Sự phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và mối đe doạ được gọi là phân tích
SWOT. Phân tích này thường bao trùm cả môi trường trong và ngoài hãng.
15

Wheelen và Hunger (1995) đã đề xuất một mô hình quản lý chiến lược, trình bày ở
hình 2. Mô hình này phân chia các hoạt động khác nhau mà phải liên kết với nhau
trong việc ra quyết đònh chiến lược cho một tổ chức. Như được nhìn thấy từ hình vẽ,
quản lý chiến lược bao gồm việc hình thành, thực hiện, đánh giá và kiểm soát các kế
hoạch chiến lược của tổ chức được đề cập. Quản lý chiến lược cũng quan tâm đến việc
tổ chức đó làm thế nào để biến các chính sách, nhiệm vụ, mục tiêu, mục đích thành
kết quả. Tuy nhiên điều này chỉ có thể đạt được nếu tổ chức đó tiến hành đánh giá
thoả đáng môi trường trong và ngoài của nó.


Hình 2: Mô hình quản lý chiến lược
Nguồn: Wheelen và Hunger (1995) Quản lý môi trường, Quyển I, Chương 2.1, Boon

4.2. Giáo dục và đào tạo môi trường
Nhiệm vụ có thể được yêu cầu nhiều nhất trong quản lý môi trường là giáo dục và đào
tạo nhân sự về kỹ năng dự đoán hậu quả có thể xảy ra của các hoạt động con người
lên xã hội và môi trường. Để có điều này, khái niệm về quản lý môi trường chiến lược,
như đã thảo luận ở phần trước, phải được lồng ghép vào trong các chương trình giáo
dục môi trường (EE). Thực sự như vậy, tăng cường nhận thức công cộng về các vấn đề
môi trường là một mối quan tâm cấp thiết trong quản lý và quy hoạch môi trường
thành công (Buckley, 1991):
16


Về lâu dài điều này có thể được thông qua hệ thống giáo dục trường học bình thường.
Tuy nhiên các cải thiện lâu dài sẽ là quá muộn trừ phi nhận thức môi trường công cộng
được cải thiện trong thời gian này. Cần cấp thiết phải có các phương tiện hiệu quả hơn
để tuyên truyền sự quan trọng của các mối quan tâm môi trường đến các mối quan tâm
trong thương mại, đến Chính phủ và toàn bộ nhân dân.
Do vậy, rõ ràng là bất cứ nỗ lực nào để phát trriển và đổi mới hệ thống quy hoạch môi
trường hiệu quả sẽ không thành công nếu các quan chức Chính phủ chòu trách nhiệm
quản lý môi trường của đất nước không nâng cao mối quan tâm sinh thái của chính họ
(Rosenbaum, 1973). Như đã bàn đến ở phần khác trong sách này, giáo dục và đào tạo
môi trường là thích hợp nhất để trang bò cho các quan chức đó và các nhà hoạt động
môi trường khác kỹ năng cần thiết trong quản lý và quy hoạch môi trường. Cụ thể là
giáo dục môi trường sẽ giúp các nhà môi trường trong các nước đang phát triển có
được các kỹ năng cần thiết để hiểu và sử dụng các kỹ thuật phân tích cơ bản và các
công cụ như Đánh giá Tác động Môi trường (EIA), Đánh giá Tác động Xã hội (SIA) và
Đánh giá Tác động Kinh tế (EcIA) (Clark, 1989; Jain và Hutchings, 1978; Welford và
Gouldson, 1993).
Ngoài việc giúp đỡ để khắc phục sự thiếu kỹ năng như đề cập ở trên, giáo dục và đào
tạo môi trường cũng sẽ trang bò cho các nhà khoa học môi trường, đặc biệt là ở các
nước đang phát triển, các kỹ năng về các kiểu quản lý môi trường tổng hợp và thích
hợp, cũng như về phát triển thể chế và tổ chức thông qua nghiên cứu hành động. Tuy
nhiên, cách tiếp cận sẽ phải là đưa phương diện, như chỉ ra ở hình 3. Các vấn đề riêng
rẽ cần được phân tích trong khuôn khổ môi trường rộng hơn. Điều này đòi hỏi sự trang
bò kiến thức về môi trường rộng hơn và sâu hơn, được làm thành tài liệu và phổ biến
trong phương thức đơn giản nhưng hiệu quả, cho tất cả các khu vực xã hội liên quan.
Việc phổ biến thông tin sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thiết lập các ưu tiên môi trường
và hợp tác quốc tế trong quản lý và quy hoạch môi trường.
17


Hình 3: Tiếp cận đa phương diện đến quy hoạch

Nguồn: Ryding, 1994
4.3. Phát triển thể chế và tổ chức
Phát triển thể chế và tổ chức cũng quan trọng cho quy hoạch môi trường hiệu quả. Phát
triển thể chế đề cập đến các hạn chế pháp lý, tổ chức và các hạn chế về nguồn nhân
lực, trong khi các cơ quan pháp lý đặt nền tảng cho một cơ cấu phát triển và kiểm soát
môi trường (Carley và Christie, 1992). Thí dụ, hệ thống sở hữu và kiểm soát quy hoạch
sử dụng đất là những nhân tố rất quan trọng trong bất kỳ quá trình phát triển nông thôn
hoặc nông nghiệp hoặc sáng kiến bảo tồn nào; nhưng các chương trình thường bắt đầu
mà không có sự phân tích các hệ thống cơ bản đó. Hệ thống pháp lý gồm các bộ luật
cần thiết, quy đònh, tiêu chuẩn môi trường và khung làm việc của Chính phủ để thực
hiện chúng. Hệ thống pháp lý cũng bao gồm các sắp xếp tập trung hoá hoặc phân cấp
quy hoạch và thực hiện, cũng như các sắp xếp thể chế của Chính phủ.
Trong một số nước, các quy hoạch môi trường thường được nhiều cơ quan thảo ra.
Những cơ quan quy hoạch đa ngành đó là tập hợp các tổ chức quy hoạch liên quan đến
nhau, cho phép có một đầu vào chuyên ngành rộng hơn cũng như điều phối các nhiệm
vụ tốt hơn (Faludi, 1987). Mục đích của sự phát triển liên tổ chức là để tạo ra những
mối liên kết mới, chính thức và không chính thức giữa các cơ quan Chính phủ, và trên
Chính phủ với các khu vực thương mại, tự nguyện và cộng đồng.
Hiện nay, việc xây dựng năng lực thể chế cho phát triển bền vững là điều cấp thiết
trong phần lớn các nước đang phát triển. Để thực hiện điều đó, các công cụ chính sách
môi trường được đề xuất lựa chọn là nhân tố quan trọng để tăng cường các cơ cấu thể
chế và pháp chế (Buckley, 1991). Có ba kiểu công cụ chính để làm cho các chính sách
18

môi trường có hiệu quả, đó là công nghệ, quy đònh và kinh tế. Đào tạo các nhà chuyên
môn và tăng cường cấu trúc thể chế là hai lónh vực cấp thiết mà các nhà tài trợ có thể
trợ giúp các nước đang phát triển (Buckley, 1991). Thí dụ, OECD (1995a), nhìn nhận
sự điều phối và hoà hợp các cách tiếp cận của nhà tài trợ trong việc hình thành và thực
hiện những hoạt động phát triển bền vững là các nhân tố chủ chốt để cải thiện tính
hiệu lực, hiệu quả và chất lượng của sự hợp tác phát triển. Những biện pháp được đề

xuất để cải thiện sự điều phối bao gồm: lập các mục tiêu thực tế; mạng lưới thông tin
tốt hơn; sự nhận biết "việc đếm người"; đào tạo nhà tài trợ và nhân sự tiếp nhận thích
hợp; và đánh giá các hoạt động điều phối là một phần trong quá trình đánh giá chuyên
môn.
Một thách thức chủ chốt trong việc hoà hợp các kế hoạch môi trường và các đòi hỏi
quy hoạch là tìm các cách thừa nhận tính có giá trò của các kế hoạch và chiến lược,
hoặc thậm chí các điểm hoặc lónh vực chung của các kế hoạch khác nhau. Cần xây
dựng một hiểu biết tốt hơn về việc làm thế nào để liên kết các chiến lược ngành với
khung quy hoạch tổng thể. Sự "phiên dòch"các kế hoạch cho phù hợp với những đòi hỏi
của các quốc gia khác nhau dựa trên cơ sở kinh nghiệm là một biện pháp quan trọng
để tăng tính hoà hợp. Thí dụ, các nhà tài trợ, hoặc song phương hoặc đa phương, cần
phải thận trọng để không nhấn mạnh đến các vấn đề tồn tại của nước nhận viện trợ.
Việc phát triển liên tổ chức và các mạng lưới tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi
thông tin và các nguồn cần thiết để giải quyết vấn đề môi trường. Các mạng lưới đóng
vai trò như hệ thống xã hội không đẳng cấp đã cho phép hợp tác và phối hợp trong
việc thực hiện các dự án môi trường bền vững. Thí dụ, nghiên cứu của Lee (1994) về
sự tham gia của cộng đồng trong quá trình quy hoạch chỉ ra rằng, với hỗ trợ cần thiết,
các công dân tại ngoại ô hoặc làng xã có thể quản lý ngõ xóm, nguồn nước, thu gom
chất thải và hệ thống thải; và họ có thể xây dựng và cỡng bức tuân thủ luật lệ và các
điều bắt buộc giữa các thành viên của cộng đồng.
Theo Carley và Christie (1992) có bốn kiểu mạng lưới làm việc phục vụ các chức năng
khác nhau. Chúng gồm mạng lưới chính sách, dựa trên những quan tâm chức năng
chính của Chính phủ. Mạng lưới này được đặc trưng bởi các mối quan hệ ổn đònh, sự
liên tục của số thành viên hạn chế, chia sẻ trách nhiệm thực hiện dòch vụ, và sự cô lập
với những mạng lưới làm việc khác. Mạng lưới chủ đề ít liên kết hơn nhiều so với
mạng chính trò trên. Những mạng lưới chủ đề này có một số lượng lớn thành viên nhng
mức độ phụ thuộc lẫn nhau ít. Một số dựa trên sự cần thiết chia sẻ thông tin kỹ thuật,
trong khi một số khác dựa trên mối quan tâm chia sẻ về vấn đề nh bảo tồn rừng ma.
Mạng lưới chuyên môn là kết hợp của hai mạng lưới chính trò và chủ đề, trong khi
mạng lưới người sản xuất quan tâm đến các chức năng kinh tế và mối quan hệ giữa

khu vực tư nhân và nhà nước.
Một trong những chìa khoá cho đổi mới tổ chức để cải thiện quá trình quản lý là đầu tư
trong kỹ năng cá nhân và nhóm, không chỉ về phương diện phát triển nhân sự và
chuyên môn, mà còn để nâng cấp tất cả các cấu trúc hỗ trợ tổ chức thể chế và pháp lý
khác. Các khuyến khích là những phương tiện quan trọng để tạo cam kết. Tại các cấp
19

cao hơn, mạng lưới làm việc và việc xây dựng sự đồng lòng là cần thiết và cần được
thực hiện để kính thích việc ra quyết đònh tốt, do vậy các quan chức cao cấp không có
thể bò bỏ qua trong quá trình này.

4.4. Tăng sự tham gia
Với Stohr và Taylor (1981) cách tiếp cận thích hợp nhất đến quy hoạch môi trường là
quy hoạch "từ dưới"; đó là quy hoạch hoá cho mọi người và với mọi người. Như Carley
và Christie (1992) chỉ ra, các vấn đề môi trường phải lồng ghép hoàn toàn vào kế
hoạch hoá kinh tế-xã hội và lôi cuốn sự tham gia công cộng tại tất cả các cấp hoặc cá
nhân, cộng đồng và toàn cầu. Faludi (1987) cũng đề cập đến việc quy hoạch như một
nhóm làm việc trong đó các thảo luận không chỉ được giới hạn giữa các nhà quy hoạch
và nhà chính trò, mà cũng phải lôi cuốn tất cả các thành phần của cộng đồng. Ông nhìn
nhận sự tham gia như một phương tiện góp ý thêm, do đó có thể mở rộng các lựa chọn
cân nhắc. Ryding (1994) cũng đề xuất rằng tại cấp cá thể, mọi người cần được trợ giúp
trong việc bảo vệ môi trường thông qua sự tham gia vào các tổ chức môi trường. Tại
cấp cộng đồng, các cân nhắc môi trường cần được lồng ghép vào trong tất cả các khu
vực của xã hội, trong khi trách nhiệm bảo vệ môi trường tại cấp toàn cầu cần được chia
sẻ bởi tất cả các nước cả giàu lẫn nghèo. Quy hoạch hoá không có sự tham gia của
cộng đồng là không hiệu quả, không dân chủ, gia trưởng và dẫn đến thất bại.

4.5. Hợp tác, điều phối và hoà hợp các chính sách và chương trình
Chechile và Carlisle (1991) liệt kê một số các thách thức môi trường mới, thúc ép các
bên liên quan khác nhau về môi trường thay đổi thái độ của họ với các vấn đề môi

trường. Những thách thức này gồm: sự không chắc chắn ở mức độ cao trong thời gian
lâu dài; các mối quan hệ nội bộ phức tạp của rất nhiều biến số và hạn chế thời gian;
rút ngắn khoảng cách; mở rộng phạm vi; và đa dạng văn hoá. Sự phức tạp của các
thách thức chỉ ra rằng những chính sách, kế hoạch và chương trình của từng nước cần
phải điều phối và hoà hợp một cách hiệu quả.
OECD (1995b) cũng nhận thấy rằng quy hoạch môi trường cần được điều phối có hiệu
quả tại cấp quốc tế, bởi vì các đòi hỏi quy hoạch đang phát triển và trở nên ngày càng
phức tạp. Cũng vậy, vì các kế hoạch môi trường được thảo ở các cấp đòa phương, vùng,
quốc gia, quốc tế, do đó quá trình quy hoạch thường lôi cuốn một số các tổ chức tham
gia, điều này chỉ ra rõ ràng rằng việc hợp tác giữa các tổ chức khác nhau là hết sức cần
thiết. Về điểm này Morell (1995) đề xuất rằng quá trình quy hoạch phải có hai mặt
đặc trưng: thứ nhất, một cơ cấu phổ biến rộng rãi các quyết đònh và thông tin; và thứ
hai, thiết lập các cấu trúc làm cho hoạt động liên chức năng có hiệu lực. Các phương
thức truyền thông có hiệu quả là cấp thiết cho cả hai đặc trưng trên và cần được phát
triển để đảm bảo các thông tin thích hợp để phổ biến rộng rãi. Thí dụ, video và các
20

phương tiện hội thảo viễn thông có thể giúp để giảm chi phí giao tiếp và đồng thời
tăng tần số giao tiếp giữa các cố vấn. Cũng vậy, các mạng lưới làm việc cần được phát
triển để hiểu và xây dựng sự đồng lòng một cách dễ dàng giữa những người với các
kiến thức, tầm nhìn và nền tảng văn hoá khác nhau.
Cả Chính phủ và các nhóm môi trường thường đóng vai trò quan trọng trong việc bảo
đảm rằng các chính sách, chương trình và hành động môi trường được điều phối hoà
hợp. Khung 1 đưa ra thí dụ điển hình của sự hợp tác trong chính sách và quy hoạch môi
trường của mạng lưới làm việc quốc tế của các nhà quy hoạch xanh (INGP). Việc thực
hiện thành công các quy hoạch môi trường đòi hỏi sự điều phối ở tất cả các cấp. Trong
trường hợp các nước đang phát triển cần có sự hợp tác ở mức độ cao giữa các nhà tài
trợ và nước nhận viện trợ để bảo đảm rằng họ hiểu nhau và không làm việc chống lại
nhau. (OECD, 1995c). Chính phủ quốc gia phải là ở vò trí trung tâm của sự điều phối
tại các cấp sau đây:


Giữa các Bộ ngành và các tổ chức liên quan của họ;

Giữa các cấp thẩm quyền, đòa phương và vùng;

Giữa các nhà hoạt động bên ngoài khác nhau như các cơ quan Liên hợp quốc,
các nhà tài trợ song phương và các tổ chức quốc tế.
Một số thử nghiệm hiện tại để cải thiện việc điều phối

Mạng lưới thông tin tốt hơn;

Sự nhạy cảm đến các đặc trưng dân tộc (văn hoá, truyền thống v.vv..);

Điều phối đa tầng; xây dựng thể chế và công cụ;

Điều phối tại cấp ngành như một điểm khởi đầu thực hành;

Đa các khuyến khích điều phối ở cấp riêng lẻ;

Đào tạo chuyên gia trong quy hoạch và thực thi đa ngành;

Các chỉ số bền vững; các chỉ số được thông qua để đo các thay đổi trong cả môi
trường tự nhiên và xã hội nhằm xác đònh tính bền vững của các hoạt động có đạt
được hay không.
Mạng lưới quốc tế của các nhà quy hoạch xanh được thành lập vào tháng 12,
1992 hưởng ứng kêu gọi các nước tại UNCED hợp tác trên tinh thần cộng tác
toàn cầu để bảo tồn, bảo vệ và khôi phục sức khoẻ và sự toàn vẹn của hệ sinh
thái Trái đất. INGP được thiết lập bởi một số các cố vấn chính sách môi
trường từ UNDP, UNEP, OECD, Liên bang Ma lai-xi-a, và Bộ Môi trường của
Canada và Hà Lan (INGP, Maastricht, 1994).

The INGP được thiết lập để hưởng ứng với "chuyên môn mới- đang nổi lên
của các nhà thực hành môi trường; đó là, dân chúng tham gia tích cực trong
phát triển và thực thi chính sách môi trường với mục tiêu lâu dài để đạt được
phát triển bền vững. Hiện nay, rất nhiều nước có một dạng chính sách môi
trường/mục tiêu-pháp lý quản lý tài nguyên để thiết lập một quá trình xây
21

dựng mục tiêu môi trường dài hạn, hoặc kế hoạch phát triển toàn diện hơn
bao gồm thành phần môi trường mạnh. Các chiến lược thay đổi nhiều trong
phạm vi, cách tiếp cận và mục tiêu của chúng, và các thay đổi khác nhau này
được đáp ứng bởi nhiều các nhà thực hành khác nhau.
INGP là một mạng lưới làm việc không chính thức, mục đích của nó là cung
cấp một diễn đàn cho các nhà xây dựng chính sách môi trường trên thế giới
để trao đổi ý tưởng, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm, và học hỏi thêm kinh
nghiệm từ các thành viên khác. INGP phát triển khái niệm và cung cấp hỗ trợ
thực tế cho các thành viên có trách nhiệm xây dựng và thực thi chính sách
môi trường dài hạn. Mạng lưới này sử dụng cách tiếp cận đa lónh vực và mở
rộng các thành viên cũng nh chủ điểm đến cả kinh tế và khoa học xã hội.
INGP kêu gọi việc chính sách cần tổng hợp nhiều các lónh vực hơn, cùng với
việc điều phối các mục tiêu để đạt được phát triển bền vững. Các mối quan
tâm chủ chốt của INGP được chiểu theo các vấn đề sau:

Các mục đích và quá trình là các nhân tố quan trọng trong quy hoạch
môi trường;

Các tổ chức tài trợ cần tính toán kỹ hơn các hoàn cảnh và ưu tiên quốc
gia;

Sự tham gia của cộng đồng là quan trọng, nhưng các tiếp cận phải phụ
thuộc vào các hoàn cảnh đất nước. Sự làm việc thông qua các nhà hoạt

động chính và các nhóm trong Chính phủ và xã hội khác là rất quan
trọng

Muốn chính sách môi trường thành công phải tính đến những người
chòu trách nhiệm thực hiện để cho chính sách môi trường thành công;
cần phải thiết lập các u tiên và cần sự rõ ràng và sáng suốt hơn để ra
quyết đònh về các ưu tiên;

Giám sát và xem xét lại kế hoạch môi trường: giám sát năng lực, quy
trình và các điểm kiểm tra cần đa vào qúa trình chính sách ngay từ đầu;

Các chính sách môi trường và hệ thống giám sát phải được thiết kế
trong thời gian dài nhất có thể, do vậy chúng có thể được so sánh dễ
dàng với nhau;

Các báo cáo hiện trạng là có giá trò; và

Cần lãnh đạo chính trò để thúc đẩy cả phát triển và thực hiện các kế
hoạch môi trường lẫn phát triển bền vững..
INGP tin rằng nhiều vấn đề mà các nhà quy hoạch xanh đối mặt với là phổ
biến dù là với sự khác nhau trong từng nước. Nó nhận ra sự quan trọng của
quá trình quy hoạch môi trường, các khía cạnh cụ thể là: quy hoạch và thực
hiện phải đi song song, các kế hoạch và quy trình cần phải đơn giản; quá trình
chiến lược môi trường cần được chỉ đạo trong toàn đất nước; các nhà hoạch
đònh chính sách môi trường không được phép quá chuyên môn; việc nghe ‘các
ý tưởng ngược lại’ là có ích; quá trình phát triển cần cởi mở và linh hoạt.
22

Khung 1: Thí dụ về sự hợp tác trong quy hoạch môi trường: Mạng lưới quốc tế của các
nhà quy hoạch xanh

4.6. Đánh giá, Giám sát và Kiểm soát
Đánh giá, Giám sát và Kiểm soát là các nhân tố quan trọng trong việc phát triển và
thực hiện các kế hoạch môi trường. Chúng cho phép các nhà quy hoạch có thể theo dõi
những hành động trong kế hoạch và để giám sát và so sánh việc thực thi thực tế các kế
hoạch đó với việc thực thi dự tính trước. Quá trình này cho phép thực hiện các biện
pháp sửa chữa khi cần thiết thí dụ trong trường hợp ở Mỹ, McAllister (1986) đã chỉ ra
quá trình đánh giá và giám sát các hành động môi trường có thể không đầy đủ nh thế
nào; ông đa ra rằng "rất thất vọng là chỉ có một phần nhỏ các quyết đònh do các Chính
phủ đòa phương ban hành là dựa trên cơ sở đánh giá có hệ thống các giải pháp thay
thế. Những đánh giá thường được dự tính trước, nhanh và gây ấn tượng".

Hình 4: Các giai đoạn đánh giá
Nguồn: McAllister, 1986



Việc giám sát và đánh giá phải được tiến hành trong cả quá trình quy hoạch là điều
quan trọng. Nói ngắn gọn, quá trình quy hoạch cần gồm các bước liên quan đến nhau
như sau:

Xác đònh vấn đề cần giải quyết;
23


Thiết kế các giải pháp thay thế cho vấn đề đó;

Đánh giá các thay thế;

Quyết đònh về các hành động cần được thực hiện thông qua quá trình chính trò
thích hợp, và thực hiện các hành động đó;


Giám sát các kết quả.
Công ty Metalloplastic (Ghana) là một công ty được đăng ký ở Ghana, nó sản
xuất hàng nhựa từ vật liệu thô nhập khẩu. Công ty được coi là đã nhập lậu
vào Ghana một số lượng vật liệu độc hại từ công ty Mỹ, Petroco Americas
Uniondale ở New York, để chôn vùi ở Ghana. Khi nhận được thông báo từ
nhà cung cấp, Công ty Metalloplastic (Ghana) đã lập th tín dụng không huỷ
ngang tại Ngân hàng Ghana thông qua Ngân hàng Đầu t Quốc gia để trả cho
"nguyên liệu thô-. Tổng hội Thanh tra tham gia (SGS) khẳng đònh sự thanh tra
của họ về các hàng hoá trước khi chuyển theo tàu từ Houston, Mỹ, vào ngày 9
tháng 3, 1992. Hàng hoá được chuyển đến cảng Tema, Ghana, ngày 15,
tháng4, 1992, và đã hoàn thành thủ tục hải quan theo -chứng nhận khẩn cấp-.
Sự nhập khẩu của các chất thải này đã gây ra một sự xáo động trong đất nước
và được chuyển đến Uỷ ban Nghò viện về Môi trường, Khoa học, và Công
nghệ để điều tra. Các điều khoản tham chiếu của Uỷ ban là để xác đònh các
điều sau: hoàn cảnh trong đó Công ty Metalloplastica(Ghana.) nhập khẩu chất
thải nhựa vào trong đất nước và hoàn thành thủ tục hải quan từ cảng Tema;
liệu có các xét nghiệm sau khi chuyển giao hàng về tính độc hại hoặc các
chất khác của nguyên liệu có được thực hiện không; ai xét duyệt việc thải
chất thải tại đòa phương và trong hoàn cảnh nào; có chứng minh nào về tính
độc hại trước khi thải vật liệu đó không; liệu lần chuyển các chất thải nhựa
lần thứ hai là do Metalloplastica (Ghana) nhập khẩu có xuất trả lại cho người
cung cấp không và nếu có, trong hoàn cảnh nào; tại sao lần chuyển vật liệu
chất thải nhựa đầu không bò xuất trả lại cho người cung cấp; tại sao Ban tiêu
chuẩn Ghana không tham gia trong việc kiểm tra trong phòng thí nghiệm chất
thải nhựa này; và bất kỳ các vấn đề khác ngẫu nhiên xảy ra.
Bốn mươi ba nhân chứng cung cấp các chứng cớ cho Uỷ ban, họ từ Công ty
Metalloplastica (Ghana); Cục Cảnh sát Ghana; Tổ chức Bảo vệ Môi trường
(EPA) của Ghana; Hội đồng Thành phố Accra (AMA); Uỷ ban Năng lượng
Hạt nhân Ghana (GAEC); Ban Tiêu chuẩn Ghana (GSB); Tổng hội thanh tra

(Ghana) (SGS); Hải quan, Cục Thuế Ghana (CEPS); và Bộ Ngoại giao Ghana.
Thêm vào các chứng cớ trên Uỷ ban đã đi thăm bãi thải của phòng Quản lý
chất thải Thủ đô Accra để kiểm tra xem Công ty Metropolitan chôn chất thải
đó ở đâu.
Việc thanh tra hàng hoá cất giữ trong kho của công ty đã tiết lộ rằng chỉ 1063
túi (10%) trong tổng số 9334 chứa vật liệu nhập khẩu. Điều này nói lên rằng
90% hàng hóa không phải là vật liệu để sản xuất sản phẩm nhựa. Mặc dù kết
24

quả xét nghiệm trong phòng thí nghiệm không đưa ra sự có mặt của chất
phóng xạ, nhưng vật liệu được tìm thấy có chứa các kim loại nặng như chì và
đồng. Một phần của hàng hoá là có chứa độc tố đối với tế bào.
Mặc dù có những kết quả trên, và Bộ Môi trường, Khoa học và Công nghệ đã
chỉ thò rằng vật liệu này không được thải ở Ghana, nhng EPA đã cấp giấy
phép cho Công ty Metalloplastica (Ghana) chôn chất thải trong bãi thải của
AMA. Tuy nhiên, rất ngạc nhiên là công ty không thể cung cấp cho Uỷ ban
bất kỳ một chứng cớ nào để chứng minh rằng chất thải thực sự được thải tại
bãi thải đó. Bởi vì không có kinh nghiệm xác đònh chất độc hại hoặc các tính
chất khác của vật liệu, đội đặc nhiệm chất thải độc hại quốc gia kiến nghò tái
xuất chất thải cho người cung cấp. Nhng Công ty Metalloplastica đã bỏ qua và
thải chất thải tại bãi thải của AMA ở Accra.
Lần chuyển thứ hai chất thải nhựa cập bến cảng Tema vào ngày 10, tháng 5,
1992, nhưng bò tái xuất cho bên cung cấp vào ngày 4, tháng 6, 1992. Một câu
hỏi tương ứng được đặt ra ở đây là, tại sao lần chuyển hàng đầu tiên không bò
tái xuất cho bên cung cấp mặc dù 90% trong số đó không tuân thủ các điều
khoản của quy đònh nhập khẩu? Hơn thế nữa, được nhận thấy rằng Ghana
không cần các chất thải như vậy và nó cũng không có một phương tiện nào để
xử lý chất thải đó. Hơn thế nữa, Chính phủ Ghana không có sự ưng thuận
trước cho việc tiếp nhận các chất thải loại đó, như đòi hỏi trong Công ước
Basel.

Một nguyên nhân phải chôn chất thải ở Ghana, mâu thuẫn với các chỉ thò, là
các cố gắng để trả nó cho bên xuất khẩu ở Mỹ thông qua Đại sứ quán Mỹ ở
Ghana và Hội Quốc tế Hoà bình Xanh không có kết quả. Cũng vậy, trong khi
các cuộc điều tra được tiến hành ở Ghana về hoàn cảnh dẫn đến việc nhập
lậu chất thải, thì không thể liên lạc được với Petroco Americas Uniondale ở
Mỹ.Trường hợp này chỉ ra rõ ràng và tiêu biểu là sự đánh giá, giám sát và
kiểm soát những hành động môi trường trong Ghana và trong nhiều nước đang
phát triển là rất không hiệu quả. Sự điều phối các vai trò của các tổ chức khác
nhau trong đất nước chòu trách nhiệm bảo vệ môi trường, là tương đối yếu
kém. Thật vậy, việc Ngân hàng Đầu tư Quốc gia và Ngân hàng Ghana đồng ý
phát hành thư tín dụng không huỷ ngang cho Công ty Metalloplastic (Ghana)
để nhập khẩu là một chứng cớ rõ ràng của sự yếu kém trong việc đánh giá,
giám sát và kiểm soát các hoạt động môi trường ở Ghana.
Nhân tố đóng góp chính trong quá trình trên là sự thiếu truyền thông hiệu quả
giữa các tổ chức tham gia khác nhau. Thí dụ, Ban Tiêu chuẩn Ghana không
được thông báo về việc nguyên liệu đó đến đất nước, cũng không được yêu
cầu lấy mẫu để xác đònh. Việc EPA ban hành chỉ thò cho phép Công ty
Metalloplastica (Ghana) tiến hành thải chất thải mặc dù đã có các quy đònh từ
Bộ Môi trường, Khoa học và Công nghệ không cho phép làm như vậy, là một
25

triệu chứng của việc phá vỡ hoàn toàn quá trình ra quyết đònh; điều đó cũng
minh hoạ rất rõ nét sự thiếu hợp tác, phối hợp và điều phối hiệu quả giữa các
cơ quan Môi trường trong đất nước.
Hơn thế nữa, năng lực của các cơ quan và cán bộ của họ để bảo đảm quy
hoạch môi trường hiệu quả là một câu hỏi. Thí dụ, đội đặc nhiệm chất thải
độc hại quốc gia không có kiến thức để diễn giải các kết quả thử nghiệm
trong phòng thí nghệm được gửi từ Bỉ. Cũng vậy các kết quả thử nghiệm trong
phòng thí nghiệm có các cách giải thích khác nhau bởi SGS, Viện Nghiên cứu
y học Nogouchi tại Trường Đại học Tổng hợp Ghana và Ban Tiêu chuẩn

Ghana. Điều này chỉ ra sự thiếu đồng nhất trong các tiêu chuẩn môi trường
quốc tế, cũng nh thiếu năng lực ở Ghana để đánh giá, giám sát và kiểm soát
các hoạt động môi trường. Cuối cùng, sự từ chối của Sứ quán Mỹ ở Accra và
Tổ chức Quốc tế Hoà bình Xanh để giúp tái xuất số chất thải của chuyến vận
chuyển đầu cho bên cung cấp US làm nổi bật vấn đề trong hợp tác và điều
phối quốc tế về các vấn đề bảo vệ môi trường.
Khung 2: Đánh giá, Giám sát, Kiểm soát và Điều tra về việc chôn vùi các chất thải
nhựa ở Ghana của công ty TNHH Metalloplastic (Ghana).
Hình 4 chỉ ra một hoạt động đề xuất có thể được đánh giá trong 2 giai đoạn như thế
nào (McAllister, 1986). Giai đoạn 1 gồm sự phân tích mà nó giới hạn và dự tính những
tác động khác nhau của hành động đề xuất. Giai đoạn này tạo điều kiện dễ dàng để
hiểu tốt hơn các hậu quả của hành động. Nhưng đồng thời nó có một khó khăn liên
quan đến việc đạt được sự gắn kết nhiều phần khác nhau của chương trình hành động
môi trường. Giai đoạn 2 là tổng hợp cơ bản để thử nghiệm giải quyết khó khăn trên
bằng việc tổng hợp các tác động vào trong một cách nhìn tổng thể, do vậy có thể phán
xét hành động đó cần hoặc không cần thực hiện.
Quá trình đánh giá phải bao gồm các điểm sau: giám sát thực hiện để kiểm soát sự sử
dụng đầu vào và sản xuất các đầu ra; giám sát quá trình để đánh giá hiệu quả và hiệu
suất của việc thực hiện kế hoạch; đánh giá tác động để ước tính ảnh hưởng về lượng
của dự án lên điều kiện kinh tế xã hội của nhóm dân cư mục tiêu; và phân tích chi phí-
lợi ích để so sánh các dự án thay thế về phương diện chi phí và lợi ích (Bamberger và
Hewitt, 1986). Bộ Môi trường (hoặc cơ quan tương đơng với nó) và các cơ quan liên
quan chòu trách nhiệm giám sát và đánh giá các kế hoạch môi trường. Các kế hoạch
này có thể được đánh giá tại chỗ, hoặc thông qua các dòch vụ tư vấn để có cách nhìn
độc lập. Để quá trình đánh giá hoạt động có ích, hệ thống quản lý cao cấp cần phải
tham gia tích cực trong việc lên kế hoạch và xem xét lại chương trình đánh giá. Lấy
việc điều tra của Uỷ ban Quốc hội, của Chính phủ Ghana về việc nhập trái phép những
chất thải nhựa độc hại vào trong nước như một thí dụ, khung 2 nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc đánh giá, giám sát và kiểm soát các hành động môi trường; nó cũng
cung cấp một cái nhìn sâu sắc về các vấn đề cơ bản mà các nhà có thẩm quyền môi

trường phải đối mặt trong quá trình này.
Kết luận

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×