Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

de cuong luan van : Dân ca trong đời sống văn hóa tinh thần của người Khmer Trà Vinh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.76 KB, 13 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
I.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trà Vinh là một tỉnh nằm giữa sông Tiền và sông Hậu thuộc miền Tây

Nam Bộ. Đây là vùng đất tụ cư lớn của dân tộc Khmer đồng bằng sông Cửu
Long. Toàn tỉnh có hơn 300.000 người Khmer, chiếm 1/3 dân số. Là một dân
tộc có chữ viết riêng từ rất lâu đời, người Khmer đã biết ghi chép những tri
thức dân gian trên lá buông (Satra), trên giấy xếp (Kờ răng)... Bên cạnh đó
Văn học dân gian truyền miệng vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống, rất
phong phú về thể loại lẫn đề tài, tồn tại hầu hết mọi sinh hoạt của người dân,
trong lao động sản xuất, trong hội hè vui chơi, trong sinh họat lễ nghi, phong
tục… đã tồn tại cho đến ngày nay.
Nói đến văn học dân gian của người Khmer, có lẽ chúng ta không thể
không nhắc đến những bài dân ca đậm đà màu sắc dân tộc. Đó không chỉ là
những câu hát ngắn dài với nhịp điệu say đắm, thiết tha nhằm làm nguôi ngoai
cảnh sống còn nhiều khó khăn, vất vả mà nội dung cũng như ý nghĩa của nó
sâu sắc và mang tính nhân văn rõ nét, thông qua những sinh hoạt, phong tục
tập quán, quan niệm sống được phản ánh trong tác phẩm. Dân ca Khmer được
các thế hệ nghệ nhân quần chúng sáng tạo nên, chắt chiu gìn giữ và lưu truyền
cho đời đời con cháu ngay trong quá trình khai phá thiên nhiên, chiến đấu
chống kẻ thù, lao động xây dựng quê hương đất nước. Vì vậy có thể nói rằng
dân ca Khmer là tấm gương trong suốt phản chiếu toàn diện đời sống vật chất
tinh thần của nhân dân địa phương trải qua nhiều thế hệ.
Dân ca là một phần của hồn thiêng dân tộc một phần của sông núi quê
hương. Thật là thiếu xót khi chúng ta chưa hiểu và chưa yêu cái hồn thiêng
của mảnh đất này qua dân ca cũng như các giá trị văn hóa khác. Bởi chưa hiểu
và chưa yêu nên lâu nay cái hồn thiêng ấy cứ bị mai một dần trước những làn


gió văn minh phương Tây. Rồi mai này thế hệ con cháu của chúng ta, lại lớn


2

lên cùng các tiết tấu ngoại lai vô cùng xa lạ. Tâm hồn nhân cách Việt Nam;
Tâm hồn nhân cách Trà Vinh sẽ phát triển theo chiều hướng nào khi các giá trị
hồn thiêng quê hương, sông núi ấy cứ phai nhạt dần theo thời gian. Vì vậy,
việc nghiên cứu, tìm hiểu Dân ca của người Khmer ở Trà Vinh sẽ giúp tôi hiểu
rõ hơn về văn hoá tinh thần của người Khmer trên mãnh đất này. Xuất phát từ
thực tế và cách nhìn nhận trên, luận văn đi vào việc sưu tầm và nghiên cứu
“Dân ca trong đời sống văn hóa tinh thần của người Khmer Trà Vinh. Đây
cũng là cách góp thêm một tiếng nói vào việc giữ gìn, bảo tồn những nét đẹp
của bản sắc văn hoá dân tộc Khmer Trà Vinh.
2. Lịch sử vấn đề
Những công trình có viết về văn hóa, văn học dân gian Khmer Nam Bộ
và Trà Vinh được chia thành hai giai đoạn lớn: trước 1975 và sau 1975 đến
nay.
Trước năm 1975:
- Tìm hiểu văn hóa và xã hội người Việt gốc Miên của nhà nghiên cứu
Thạc Nhân in trong tạp chí Văn hóa Nguyệt san số 1, T8,1965 – Nhà Văn hóa
- Tổng bộ Văn hóa xuất bản. Bài viết gồm 22 trang viết về lịch sử, văn hóa,
các ngày lễ tết trong năm của người Việt gốc Miên (người Khmer) là một tư
liệu có thể nói là làm cơ sở cho việc nghiên cứu về người Khmer sau này.
Nhưng trong bài viết này, nhà nghiên cứu Thạc Nhân đề cập đến tín ngưỡng
dân gian của người Khmer vẫn còn sơ lược. Nhưng dù sao, đây là một tư liệu
quý cho thấy việc nghiên cứu về người Khmer ở Việt Nam đã được các nhà
nghiên cứu người Việt quan tâm.
- Người Việt gốc Miên của Lê Hương xuất bản tại Sài Gòn năm 1969
có thể nói là công trình đầu tiên trình bày khá đầy đủ và công phu về người

Khmer ở Việt Nam từ phong tục, tập quán, tín ngưỡng cho đến các nghề thủ


3

công truyền thống như đan lát, làm đường thốt nốt… Trong đó, ông cũng có
đề cập đến người Khmer ở tỉnh Vĩnh Bình (tỉnh Trà Vinh hiện nay).
Sau năm 1975:
- Người Khơ Me Cửu Long của Viện văn hoá phối hợp với Sở Văn hoá
thông tin Cửu Long năm 1987, thực hiện một chuyên khảo về người Khmer ở
tỉnh Trà Vinh và Vĩnh Long hiện nay, đó là Trong công trình này, các tác giả
có dành một chương (chương III: từ trang 109 đến trang 158 - do Huỳnh Ngọc
Trảng viết) để viết về văn học và nghệ thuật của người Khmer Nam Bộ, trong
đó có phần dành cho văn học dân gian nhưng còn khá sơ sài và chưa thể coi là
đại diện cho toàn thể văn học dân gian Khơ Me Nam Bộ được.
- Văn hoá và cư dân Đồng bằng sông Cửu Long (1990) do nhóm tác giả
Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường chủ biên đã tiếp cận nghiên
cứu người Khmer Nam Bộ về dân số, dân cư, kinh tế-xã hội, văn hoá vật chất
và đời sống tinh thần, trong đó, phần viết về người Khmer được viết xen kẽ
với người Hoa, Chăm, Kinh và các dân tộc khác. Riêng phần văn học dân gian
của người Khmer thì chưa được chú ý nhiều, chỉ thấy xuất hiện 5 bài dân ca
Khơ Me trong phần viết về phong cách ứng xử của người nông dân các dân
tộc Nam Bộ
- Văn hoá người Khơ Me ở Đồng bằng sông Cửu Long (1993) do giáo
sư Trường Lưu chủ biên là công trình có giá trị trong việc nhận diện sự biến
đổi văn hoá của người Khmer sau gần 30 năm kể từ công trình của Lê Hương.
Trong cuốn sách này, nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng, người phụ trách
phần viết về văn học Khmer Nam Bộ, đã dành đến 73 trang sách (từ trang 150
đến trang 223) cho phần văn học, trong đó phần văn học dân gian được tác giả
viết sâu sát và có nhiều kiến giải có giá trị.

- Người Khơ Me Kiên Giang của Đoàn Văn Nô (1995) công trình này là
một tài liệu tham khảo có giá trị trong việc nghiên cứu về người Khmer ở


4

Kiên Giang. Phần viết về văn học (18 trang, từ 91-109) là một tư liệu tham
khảo có giá trị cho người viết.
Ca dao dân ca Nam Bộ do nhóm tác giả Bảo Định Giang – Nguyễn Tấn
Phát - Trần Tấn Vĩnh - Bùi Mạnh Nhị sưu tầm, giới thiệu. Công trình này
hoàn toàn bỏ quên mảng ca dao, dân ca Khmer Nam Bộ mà chủ yếu chỉ đề
cập, nghiên cứu giá trị nội dung, nghệ thuật ca dao dân ca của người Kinh
vùng Nam Bộ
Những công trình sưu tầm, nghiên cứu đi sâu vào thể loại dân ca vùng
Nam Bộ. Ở nhóm công trình này, chúng ta có thể kể đến những bộ sưu tập
công phu là Dân ca Kiên Giang của nhóm tác giả Lê Giang – Lư Nhất Vũ –
Nguyễn Văn Hoa (1985), Dân ca Hậu Giang của nhóm tác giả Lê Giang – Lư
Nhất Vũ – Nguyễn Văn Hoa – Minh Luân (1986), Dân ca Cửu Long của Lư
Nhất Vũ – Nguyễn Văn Hoa – Lê Giang – Thạch An (1986). Dân ca Trà Vinh
của Lư Nhất Vũ – Nguyễn Văn Hoa – Lê Giang – Thạch An (2005). Với bốn
công trình khá qui mô, các tác giả đã có những đóng góp đáng kể cho việc
giới thiệu, phổ biến dân ca của người Khmer Tây Nam Bộ đến với công
chúng. Gần đây, nhạc sĩ Nguyễn Văn Hoa đã bỏ ra 30 năm lặn lội miền Tây
Nam Bộ và sưu tầm được 100 bài dân ca, có cả nhạc và lời Khmer, có cả lời
dịch ra tiếng Việt. Nhìn một cách tổng thể, cả bốn công trình đã giới thiệu
được khá nhiều bài dân ca so với các công trình đã có từ trước và chủ đề của
các bài dân ca cũng khá phong phú, đa dạng.
Xét ở lĩnh vực các bài viết chuyên sâu về dân ca Khmer Trà Vinh, chúng
tôi vẫn chưa phát hiện được bài nào. Nhưng ở một góc độ khác, một số tác giả
đã đề cập đến thể loại dân ca của người Khmer Trà Vinh qua bài viết về dân ca

Nam Bộ nói chung. Cụ thể, năm 2007 với bài nghiên cứu Diện mạo văn học
dân gian Khmer Nam Bộ đã đưa ra lời nhận xét khá bao quát về dân ca
Khmer: “Sinh hoạt ca hát dân gian của người Khmer đặc biệt phổ biến, nó là


5

sân chơi cho cả cộng đồng, già trẻ, lớn bé, gái trai đều có thể tham gia. Hoạt
động ca hát không chỉ diễn ra vào các dịp hội hè (Chol chnam Thmay, hay Ok
Om Bok) mà cả trong sinh hoạt nghi lễ - phong tục, trong lao động sản xuất,
ngoài đồng ruộng, trên sông rạch và cả trong gia đình để bày tỏ tâm tình hay
xua tan đi nỗi mệt nhọc, vất vả trong lao động” [27, tr. 74 – 75]. Đặc biệt, tác
giả còn đưa ra nhận định vô cùng quan trọng: “Một điều đặc biệt cần nhấn
mạnh khi nghiên cứu văn học dân gian Khmer Nam Bộ là sự gắn bó chặt chẽ
giữa một số tích truyện và ca dao – dân ca với hình thức diễn xướng trong
sân khấu dân gian, lễ hội dân gian và thực tế cuộc sống hằng ngày của người
Khmer Nam Bộ” [27, tr. 75]. Ở bài viết Các dạng tồn tại có thể quan sát được
của văn học dân gian Khmer Nam Bộ, tác giả Lê Trung Vũ đưa ra ý kiến có
tính chất tổng hợp: “Hoạt động nhiều mặt của người lao động Khmer Nam Bộ
là tiền đề vật chất để sáng tạo ra nhiều đề tài của dân ca” [65, tr. 3]. Dựa vào
đặc điểm này, Lê Trung Vũ đã phân chia dân ca Khmer Nam Bộ thành ba loại:
hát lao động và hát nghề nghiệp, hát phong tục - nghi lễ, hát trữ tình - sinh
hoạt cùng với một vài nét phác họa về đặc điểm của nó.
Một vài thể loại văn học dân gian đồng bằng Sông Cửu Long của Châu
Ôn, 1981 lại phân biệt ca hát (châmriêng) với dân ca (Bât châmriêng). Theo ý
ông, ca hát là lời ca gắn với các làn điệu dân ca nhưng tiếc rằng ông không
đưa ra được cách hiểu của mình về dân ca.
Tổng quan về văn học dân gian Khmer Nam bộ của Nguyễn Thị Kiều
Tiên được đăng trên tạp chí Đại học Sài gòn số chuyên đề bình luận văn học
(2011) cũng khẳng định “đặc điểm quan trọng của dân ca Khmer là ít có mối

quan hệ với các dạng thức lao động. Điều này cũng ảnh hưởng ít nhiều đến
nội dung của dân ca Khmer. Dường như có sự phân định khá rạch ròi giữa các
hình thức trong nghi lễ với hình thức diễn xướng trong các hoàn cảnh khác’.


6

Tuy các ý kiến được trình bày có khác nhau nhưng đều thống nhất ở quan
điểm đề cao thể loại dân ca của người Khmer nói chung, đều thừa nhận sự
phong phú đa dạng và tính thực tiễn của loại hình nghệ thuật dân gian này.
Những nhận định đó là cơ sở quan trọng để chúng ta tiếp cận, phân tích dân ca
Khmer sẽ là bước đi quan trọng góp phần khẳng định giá trị của thể loại này
trong kho tàng văn học dân gian Khmer nói riêng, trong đời sống văn hóa tinh
thần của Người Khmer Trà Vinh nói chung
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích:
Trên cơ sở kế thừa những tài liệu khoa học đã công bố về người Khmer
Nam bộ nói chung, về người Khmer Trà Vinh nói riêng, luận văn được thực
hiện nhằm mục đích hệ thống lại các bài dân ca của người Khmer được sử
dụng ở Trà Vinh.. Trên nền tảng đó, chúng tôi đi vào phân tích để tìm hiểu đặc
điểm về nội dung văn hóa, nghệ thuật biểu đạt của dân ca Khmer nhằm nhận
diện thực trạng đời sống văn hoá tinh thần phong phú của cộng đồng người
Khmer trong tỉnh Trà Vinh
3.2 Nhiệm vụ:
Tập hợp các tài liệu về dân ca Khmer đã được công bố từ trước đến
nay. Song song đó tiến hành sưu tầm, điền dã ở một số địa phương có đông
đồng bào Khmer sinh sống nhằm hệ thống lại nguồn dân ca Khmer hiện đang
tồn tại trong tỉnh Trà Vinh
Tiến hành phân tích, đánh giá toàn bộ tư liệu có được để tìm ra đặc điểm
cơ bản nhất của dân ca Khmer về mặt thể loại cũng như những nét độc đáo

của nó đặt trong bối cảnh văn hóa và môi trường sống.
Khảo sát diễn hóa của loại hình này trong đời sống thực tiễn để tìm hiểu
tác động qua lại giữa nó với hoạt động tinh thần của người Khmer Trà Vinh.
Từ đó có thể hiểu thêm những tương đồng, dị biệt của loại hình này trong hệ


7

thống thể loại dân ca của dân tộc. Như vậy có thể nói mục tiêu của luận văn
hướng tới không chỉ là các biểu hiện về hình thức của loại hình mà còn tập
trung chú ý đời sống đích thực của dân ca trong lĩnh vực hoạt động tinh thần
của người Khmer Trà Vinh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng chính của luận văn là những sáng tác trữ tình dân gian của
người Khmer đang tồn tại trong đời sống sinh họat hằng ngày mang đặc điểm
của thể loại dân ca dân gian trong Tỉnh Trà Vinh.
Để thấy rõ giá trị, ý nghĩa của dân ca Khmer Trà Vinh, luận văn có sự so
sánh một vài phương diện về nội dung và nghệ thuật dân ca của dân tộc Việt,
dân tộc Hoa Trà Vinh
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu chính của luận văn được giới hạn ở khu vực có
đông đồng bào Khmer sinh sống của tỉnh như: Thành phố Trà Vinh, Trà Cú,
Cầu Ngang, Duyên Hải, Cầu Kè.
Về tư liệu, luận văn sử dụng những tư liệu thành văn những công trình
đã được công bố về văn hóa, văn học dân gian của người Khmer Nam Bộ xuất
bản bằng tiếng Việt lưu hành tại Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê: thu thập tư liệu thành văn, tư liệu điền dã, hệ
thống, xử lý và phân tích các nguồn thông tin liên quan về dân ca của người

Khmer Nam Bộ nói chung và ở tỉnh Trà Vinh nói riêng.
Phương pháp phân tích: nhằm bảo tồn và pháp huy các giá trị văn hóa
tinh thần về dân ca của người Khmer ở Trà Vinh.
Phương pháp so sánh, đối chiếu để tìm hiểu sự tương đồng và khác biệt
về dân ca Khmer ở Trà Vinh với dân ca Khmer Sóc Trăng và Kiên Giang.


8

Phương pháp điền dã: Ngoài kế thừa các công trình đã được nghiên
cứu, thì tư liệu điền dã được thu thập qua việc áp dụng phương pháp quan sát
tham dự, phỏng vấn sâu, phỏng vấn hồi cố…trong cộng đồng người Khmer ở
Trà Vinh của tác giả là nguồn tài liệu cơ bản để hoàn thành luận văn này.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn chia thành ba chương viết:
Chương 1: Giới thiệu vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Đặc điểm dân ca Khmer lưu truyền ở Trà Vinh trên phương
diện ngôn từ
Chương 3: Diễn xướng, chức năng sinh hoạt văn hóa của dân ca
Khmer lưu truyền ở Trà Vinh. Thực trạng và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phần phụ lục của luận văn có một số tranh ảnh, bản đồ minh hoạ.


9

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU








Lý do chọn đề tài
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Bố cục của luận văn.

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Giới thiệu vấn đề nghiên cứu
I.1. Người Khmer ở Trà Vinh
- Đặc điểm địa lí – dân cư
- Đặc điểm xã hội
- Đặc điểm văn hóa tinh thần
I.2. Khái niệm dân ca và vấn đề phân loại
- Khái niệm dân ca
- Phân loại
I.3. Khái quát về dân ca Khmer và dân ca Khmer lưu truyền ở Trà Vinh
- Tình hình tư liệu
- Giới thiệu một số làn điệu dân ca Khmer tiêu biểu
Chương II: Đặc điểm dân ca Khmer lưu truyền ở Trà Vinh trên phương
diện ngôn từ
II.1. Nội dung văn hóa của dân ca Khmer lưu truyền ở Trà Vinh
- Tình yêu lao động, thiên nhiên, xứ sở
- Tình cảm gia đình, cộng đồng, làng xóm.
- Tình yêu lứa đôi

II.2. Nghệ thuật biểu đạt trong dân ca Khmer lưu truyền ở Trà Vinh
- Các biện pháp nghệ thuật biểu đạt qua việc xây dựng hình tượng
- Kết cấu


10

- Thể thơ
- Đóng góp trong công việc dịch lời thơ.
II.3. So sánh một số phương diện về nội dung và nghệ thuật giữa dân ca
Khmer với dân ca của dân tộc Việt, dân tộc Hoa Trà Vinh từ góc nhìn văn
hóa tộc người
Chương III: Diễn xướng, chức năng sinh hoạt văn hóa của dân ca Khmer
lưu truyền ở Trà Vinh. Thực trạng và kiến nghị
III.1 Diễn xướng và chức năng sinh hoạt văn hóa của nhóm dân ca – từ
góc nhìn thực tiễn
III.1.1. Nhóm dân ca lao động – sản xuất
III.1.2. Nhóm dân ca nghi lễ - phong tục
III.1.3. Nhóm dân ca sinh hoạt
III.2. Dân ca trong đời sống văn hóa hiện nay của người Khmer Trà Vinh –
một số kiến nghị

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Phan An (2009), Dân tộc Khmer Nam bộ, NXB Chính trị Quốc gia.


11


2.

Trần Văn Bính (2004), Văn hoá các dân tộc Tây Nam Bộ thực trạng và
giải pháp, Nxb KHXH.

3.

Trần Văn Bính (2006), Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá
trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Nxb Lí Luận Chính trị.

4.

Trần Văn Bổn (2002), Phong tục Lễ nghi vòng đời người Khmer Nam
bộ, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

5.

Nguyễn Khắc Cảnh (1998), Phum, sóc Người Khmer ở Đồng bằng sông
Cửu long, NXB Giáo dục

6.

Nguyễn Mạnh Cường (2002), Vài nét về người Khmer Nam bộ, NXB

7.

KHXH.
Chu Xuân Diên (Chủ biên) (2002), Văn học dân gian Sóc Trăng, NXB.

8.


Tp. Hồ Chí Minh.
Bảo Định Giang – Nguyễn Tấn Phát - Trần Tấn Vĩnh - Bùi Mạnh Nhị

9.

sưu tầm, Ca dao dân ca Nam Bộ.
Lê Giang – Lư Nhất Vũ – Nguyễn Văn Hoa (1985), Dân ca Kiên Giang
Sở VHTT Kiên Giang.

10. Lê Giang – Lư Nhất Vũ – Nguyễn Văn Hoa – Minh Luân (1986), Dân
ca Hậu Giang, Sở VHTT Hậu Giang.
11.

Vũ Minh Giang (2006), Lược sử vùng đất Nam bộ Việt Nam, NXB Thế
giới, Hà Nội.

12. Cao Tấn Hạp (1973), Địa phương chí tỉnh Vĩnh Bình
13. Lê Hương (1969), Người Việt gốc Miên, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.
14. Nguyễn Văn Hoa (2004), 100 làn điệu dân ca Khmer, NXB Trẻ
15. Sơn Phước Hoan (1999), Chuyện kể Khơme, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
16. Sơn Phước Hoan (chủ biên), Sơn Ngọc Sang, Danh Sên (2002), Các lễ
hội truyền thống của đồng bào Khmer Nam Bộ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
17. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Văn học dân gian Việt Nam của NXB Giáo
dục.
18. Phạm Tiết Khánh, (2007), Luận Văn thạc sĩ Khảo sát truyện kể về Dân
gian Khmer Nam bộ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.


12


19. Đinh Gia Khánh (1993), Văn hoá dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn
hoá Đông Nam Á, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
20. Khoa Ngữ văn và Báo chí Đại học KHXH và NV TPHCM (2005), Văn
học dân gian Bạc Liêu, NXB Văn Nghệ TPHCM.
21. Đặng Văn Lung (1996), Giữ gìn và phát triển văn nghệ truyền thống của
các dân tộc thiểu số Việt Nam, Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 9, tr. 23-28.
22. Huỳnh Lứa (1987), Lịch sử Khai phá vùng đất Nam bộ, NXB TPHCM.
23. Trần Hồng Liên (chủ biên) (2002), Vấn đề dân tộc và tôn giáo ở Sóc
Trăng, NXB KHXH.
24. Đoàn Văn Nô (1995), Người Khmer ở Kiên Giang, NXB Văn hoá Dân
tộc, Hà Nội.
25. Thạc Nhân (1965), Bài viết Tìm hiểu văn hóa và xã hội người Việt gốc
Miên, Nhà Văn hóa - Tổng Bộ Văn hóa.
26. Nhiều tác giả (1986), Tìm hiểu Kiên Giang, Ban nghiên cứu lịch sử
Đảng tỉnh Kiên Giang.
27. Nhiều tác giả (1990), Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu Long,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
28. Nhiều tác giả (2006), Dân ca Việt Nam - Những làn điễu dân ca phổ
biến, NXB Âm Nhạc.
29. Nhiều tác giả (1993), Văn hoá người Khơ Me vùng đồng bằng sông Cửu
Long, NXB văn hoá dân tộc, Hà Nội.
30. Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ - Ca dao - Dân ca Việt Nam, NXB Khoa học xã
hội.
31. Châu Đạt Quan (1973), Chân lạp phong thổ ký, NXB Kỷ Nguyên Mới,
Sài Gòn.
32. Đào huy Quyền (2009), Nghệ thuật diễn xướng của người Khmer Nam
bộ, tạp chí khoa học và xã hội Việt Nam
33. Lý Minh Trân (2010), Luận văn Thạc sĩ Dân ca trong lễ hội của người
Khmer Sóc Trăng, Trường Đại học Cần Thơ.

34. Hoàng Túc (2011), Diễn ca Khmer Nam Bộ, NXB Thời đại.
35.

Huỳnh Thanh Tuấn (1997), Luận văn Thạc sĩ Diện mạo văn học dân
gian Khmer ở Trà vinh, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội


13

36.

Lê Trung Vũ, bài viết Các dạng tồn tại có thể quan sát được của văn
học dân gian Khmer Nam Bộ.

37. Lư Nhất Vũ – Nguyễn Văn Hoa – Lê Giang – Thạch An (1986), Dân ca
Cửu Long, Sở VHTT Cửu Long.
38.

Lư Nhất Vũ – Nguyễn Văn Hoa – Lê Giang, (2005), Dân ca Trà Vinh,
Sở VHTT Trà Vinh.

39.

Phạm Thu Yến (chủ biên) (2002), Văn học dân gian Việt Nam, (Giáo

trình dùng cho ĐHTX), NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
40. Viện văn hoá phối hợp với Sở Văn hoá thông tin Cửu Long (1987),
Người Khơ Me Cửu Long, NXB Văn hóa thông tin.




×