Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận: ĐẠO CAO ĐÀI NAM BỘ – MỘT TÔN GIÁO NỘI SINH LỄ NGHI VÀ LUẬT LỆ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.25 KB, 14 trang )

ĐẠO CAO ĐÀI NAM BỘ – MỘT TÔN GIÁO NỘI SINH
LỄ NGHI VÀ LUẬT LỆ
___________

1- Lý do chọn chủ đề
Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, trong quá trình tồn tại và phát triển,
dù chủ ý hay tự nhiên, tôn giáo đã tác động khá sâu sắc và toàn diện từ đời
sống văn hóa, xã hội đến tâm lý, đạo đức, lối sống; từ các quan điểm triết học
nhận định thế giới đến những ứng xử xã hội; từ các dạng thức nghệ thuật đến
phong tục, tập quán… của nhiều quốc gia, dân tộc.
Bản thân mỗi tôn giáo chứa đựng nội dung phong phú về lịch sử, tư
tưởng, triết học, đạo đức, văn hóa… riêng biệt. Việc tìm hiểu sâu để có cái
nhìn đúng đắn về các tôn giáo để củng cố, phát triển tôn giáo trong tính nhân
văn. Đó là điều cần thiết trong bối cảnh xã hội hiện nay, đặc biệt trong việc
phát huy các giá trị nhân bản, ưu việt của các tôn giáo vì mục đích chung
phục vụ cuộc sống và sự phát triển của xã hội.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc chọn đề tài này là vì Đạo Cao Đài
đã kết hợp những giáo lý của các tôn giáo lớn trên thế giới để trở thành một
trong những tôn giáo bản địa độc đáo của người Việt tại Nam Bộ. Bài viết đặt
vấn đề nghiên cứu về đạo Cao Đài ở Nam Bộ, từ sự ra đời đến các luật lệ và
lễ nghi hành đạo.
2- Nội dung
Nam Bộ là vùng đất tụ cư của nhiều thành phần dân tộc như Việt,
Khmer, Hoa, Chăm… và cũng là nơi hội tụ của nhiều nền văn hóa khác nhau
giữa các tộc người. Trong đó, nổi trội hơn hết có thể kể đến là văn hóa của
người Việt, với vai trò chủ thể về mặt dân số, kinh tế và chính trị từ hàng trăm
năm qua đã làm cho yếu tố văn hóa Việt có sự ảnh hưởng mạnh mẽ trên toàn
vùng; sau đến là văn hóa của người Khmer, người Hoa và các dân tộc thiểu số


2


khác… Do đó có thể nói, văn hóa Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
là vùng văn hóa của sự pha trộn, dung hòa mạnh mẽ giữa các tộc người.
Chính sự hỗn dung, pha trộn văn hóa ấy mà Nam Bộ trở thành vùng đất xuất
hiện nhiều tôn giáo bản địa nhất trong cả nước, trong đó tiêu biểu có thể kể
đến các tôn giáo như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Hòa Hảo, và
đặc biệt là Cao Đài – một tôn giáo mang tính tổng hòa một số tôn giáo lớn
trên thế giới.
2.1- Sự ra đời của Đạ Cao đài
Nguyên nhân ra đời của đạo Cao Đài là một vấn đề còn có những cách
nhìn nhận khác nhau; hoặc nhấn mạnh vào yếu tố chính trị, căn cứ vào thành
phần xuất thân của người sáng lập và những hoạt động của họ, hoặc đơn giản
đạo Cao Đài ra đời như một hiện tượng lấp chỗ trống đơn thuần về mặt tín
ngưỡng. Cũng như những tôn giáo khác, đạo Cao Đài ra đời cũng dựa trên
những tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng nhất định. Hay nói cách
khác là, muốn tìm hiểu sự ra đời của đạo Cao Đài phải tìm hiểu bằng chính
môi trường đã sản sinh ra nó.
Môi trường xã hội nổi bật ở Nam Bộ trong những năm đầu thế kỷ XX
là việc thực dân Pháp đẩy mạnh hơn bao giờ hết cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ hai với một loạt chính sách về kinh tế để cố vơ vét được nhiều của cải vật
chất đưa về hàn gắn vết thương chiến tranh ở chính quốc. Trong cả nước,
Nam Bộ là vùng bị thực dân Pháp bóc lột nhiều nhất, nhất là trong lĩnh vực
nông nghiệp. Thực dân Pháp đã thực hiện triệt để hai hình thức bóc lột: chiếm
đất để lập đồn điền, tăng thuế và tăng cường thu thuế với nông dân. Kết cục
người nông dân Nam Bộ bị mất đất, bị bần cùng hoá, trở thành người nô lệ
cho thực dân phong kiến ngay trên chính mảnh đất của mình vì kiểu vô sản
hoá một chiều của Pháp. Cùng với việc bóc lột vơ vét về kinh tế, thực dân
Pháp tăng cường áp bức thống trị về chính trị, nô dịch về văn hoá đối với
nhân dân ta. Chính sách kinh tế, chính trị, xã hội của thực dân Pháp đẩy người
dân Việt Nam nói chung, nông dân Nam Bộ nói riêng lâm vào hoàn cảnh đói
khổ, lầm than hơn bao giờ hết.



3
Nhân dân Việt Nam nói chung, nhân dân Nam Bộ nói riêng có truyền
thống yêu nước chống giặc ngoại xâm. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược
Việt Nam, nhân dân Nam Bộ đã không ngớt vùng lên đấu tranh chống Pháp
với những hình thức và xu hướng khác nhau, càng về sau càng sôi nổi quyết
liệt. Tuy nhiên do hạn chế về mặt giai cấp, nông dân không tự giải phóng
được; giai cấp tư sản, tiểu tư sản Việt Nam sinh sau đẻ muộn, lực lượng nhỏ
bé, trong khi ngọn cờ cách mạng tư sản trên thế giới đã tỏ ra lỗi thời. Lúc đó
lại chưa được sự lãnh đạo, dìu dắt của Đảng Cộng sản – một chính đảng của
giai cấp vô sản. Do vậy, các cuộc đấu tranh của nhân dân ta lần lượt bị thực
dân Pháp dìm trong biển máu. Thất bại, bế tắt trong cuộc sống và trong cuộc
đấu tranh càng thúc đẩy một phận quần chúng tìm đến với tôn giáo, đến với
đạo Cao Đài, mong ước sẽ được an ủi, chở che.
Trong chừng mực nhất định cũng có thể so sánh sự ra đời của đạo Cao
Đài với đạo Ki tô sơ kỳ - phản ánh sự bế tắt của nô lệ và các dân tộc ở phương
Đông trước sự xâm lược và thống trị của đế quốc La Mã thời cổ đại. Tuy
nhiên, có sự khác nhau giữa đạo Kitô và đạo Cao Đài: đạo Kitô những người
nô lệ khởi xướng, còn đạo Cao Đài do những tầng lớp trên (tư sản, địa chủ,
tiểu tư sản) chủ trương.
Do những đặc điểm riêng, trong cuộc đấu tranh chống áp bức cường
quyền, ngoài việc giáp mặt với kẻ thù bằng vũ lực, còn có những hình thức
đấu tranh bằng tôn giáo. Tôn giáo chủ yếu được sử dụng để tập hợp lực
lượng. Ngay trước khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân Nam Bộ đã dùng
hình thức tôn giáo để chống lại triều đình nhà Nguyễn.
Một vấn đề tư tưởng quan trọng dẫn đến việc ra đời và sự phát triển của
đạo Cao Đài là sự khủng hoảng, suy thoái của các tôn giáo, đạo lý đương thời.
Nhân dân Nam Bộ có nhu cầu tín ngưỡng rất lớn. Khi đạo Cao Đài chưa ra
đời, số đông nhân dân theo đạo Phật, đạo Nho và một số ít theo Công giáo.

Nhưng đến giai đoạn này, những tôn giáo ấy đều bị khủng hoảng, mất uy tín.
Đạo Công giáo lúc đó dưới con mắt của người dân Nam Bộ gắn liền với sự
xâm lược của thực dân Pháp nên bị nghi ngờ, thậm chí kinh ghét. Đạo Nho là


4
một học thuyết đạo đức, chính trị chỉ phù hợp với chế độ quân chủ chuyên
chế, đến nay không còn phù hợp với xã hội Nam Bộ thuộc địa mà Pháp thực
hiện chế độ trực trị đang chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự phát triển
của công nghiệp và xu hướng Âu hoá. Đạo Phật tiểu thừa với phương châm
“tự độ, tự tha” chỉ giải thoát cho ai xuất gia tu hành, khó hoà nhập với phong
tục lối sống của nhân dân Nam Bộ. Đạo Phật Đại thừa bị suy vi từ mấy thế kỷ
trước nay bị chia rẽ theo nhiều tông phái, nhất là sự thâm nhập nhiều yếu tố
mê tín dị đoan của đạo Lão thần tiên. Đạo Tin lành mới du nhập chưa gây ảnh
hưởng được bao nhiêu. Nói tóm lại, sự suy sụp của các tôn giáo và đạo lý
đương thời đã tạo ra khoảng trống về tư tưởng tín ngưỡng tạo điều kiện thuận
lợi cho đạo Cao Đài phát triển. Đạo Cao Đài ra đời đúng như Nguyễn An
Ninh nói: “Dân đã mê muội trong tôn giáo, mà các tôn giáo, các đạo lý của
nhà nước đều suy sụp làm sao không theo đạo Cao Đài cho được. Không
trông thấy, không suy ra, gặp Đạo Cao Đài có màu sắc mới mẻ, lại dễ dàng
cho tâm trí ngựa quen đường cũ”.
Khởi nguyên của đạo Cao Đài là tục cầu hồn, cầu tiên và nhất là tư
tưởng “Tam giáo đồng nguyên” (Phật, Lão, Nho) vốn có ở nước ta từ lâu. Đặc
biệt vào đầu những năm 1920, phong trào Thần linh học – một hình thức mê
tín của các nước phương Tây, tương tự như tục cầu hồn, cầu tiên của người
Việt đã thâm nhập vào Nam Bộ được một bộ phận tư sản, địa chủ, tiêu tư sản,
công chức của Pháp đón nhận. Khi vào Nam Bộ, Thần linh học đã nhanh
chóng hoà nhập với tục cầu cơ trở thành phong trào cầu cơ, chấp bút (gọi là
cơ bút) khá sôi nổi trực tiếp dẫn đến việc ra đời của đạo Cao Đài.
Đạo Cao Đài ra đời năm 1926 tại chùa Thiền Lâm (Gò Kén) huyện Hòa

Thành, tỉnh Tây Ninh. Ngay khi mới thành lập, Đạo Cao Đài đã thu hút được
sự hưởng ứng của nhiều tầng lớp nhân dân, đặc biệt là giai cấp nông dân tham
gia đông đảo, bởi tinh thần dung hợp giáo lý, lễ nghi tam giáo (Nho – Phật –
Lão) của đạo Cao Đài vừa gần gũi trong đời sống văn hóa, vừa mang tính
huyền bí phù hợp với tâm linh của người dân Nam Bộ.


5
Cũng như các tôn giáo khác, đạo Cao Đài có lễ nghi phượng thờ, tế tự
và qui điều, giới luật. Một bên soi sáng lòng tín ngưỡng, một bên đôn đốc,
kìm giữ sự tu hành.
2.2- Lễ nghi
Tín đồ đến Toà thánh hoặc Thánh thất đều phải mặc lễ phục. Đặc biệt,
chức sắc của đạo có những bộ lễ phục với các màu khác nhau
như xanh (những người theo phái Thượng, đại diện cho đạo Lão), đỏ (người
theo phái Ngọc, đại diện cho đạo Nho), vàng (người theo phái Thái, đại diện
cho đạo Phật), được may rất công phu với những chi tiết phức tạp và đội mão
(mũ) rất cầu kỳ giống như trong hát bội. Mọi người khi hành lễ tại Toà thánh
hoặc Thánh thất đều phải quỳ lạy kính cẩn, có thứ tự, không ồn ào… biểu
hiện rõ sự tôn nghiêm và nghiêm túc trong tổ chức của đạo.
2.2.1 Thờ thượng đế
Chính giữa Bát Quái Đài, trên chỗ cao nhất, có một quả Càn Khôn hình
tròn như Trái đất. Trên có vẽ đủ ba ngàn bảy mươi hai ngôi sao và Thiên
Nhãn để thờ. Trong quả Càn Khôn thường đốt một ngọn đèn sáng, mạng danh
là Thái Cực đặng. Đó là tượng trưng thờ Đức Thượng Đế ngự trên ngôi Thái
Cực, mà điều khiển mối Đạo tự nhiên.
Khi tế lễ, đốt hai ngọn đèn hai bên: Tượng trưng Âm Dương (Thái Cực
sanh Âm Dương) và đốt năm cây nhang, cấm trong lư hương để giữa Thiên
bàn tượng trưng Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ ).
2.2.2 Thờ tam giáo và ngũ chi

+ Tam giáo: thờ các đức chí tôn của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo.
Phật Thích Ca ở giữa, trái có Khổng Tử, phải có Lão Tử.
Tam trấn oan nghiêm: Lý Thái Bạch ở giữa, trái có Quan Thánh Đế
Quân, phải có Quan thế âm Bồ tát. Tam trấn đại diện ba vị giáo chủ trong đạo
Cao Đài.
+ Ngũ chi : Phật, Tiên, Thánh, Thần, Nhân


6
2.2.3 Hiến lễ tam bửu
Mỗi lần tế lễ, đều có hiến hoa, rượu, và trà gọi là Tam bửu, đại khái
như: Hoa tượng trưng cho Tinh, rượu tượng trưng cho Khí, trà tượng trưng
cho Thần. Hiến lễ Tam Bửu đại ý nhắc tín đồ nhớ rằng trong con người có ba
món báu. Tín đồ phải thu tập cho đầy đủ Tinh – Khí – Thần, thành một thể khí
vô vi thì mới đủ điều kiện giải thoát ra ngoài vòng sinh tử, hoặc nói cách khác
là luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần thành Hư.
2.2.4 Lễ nhạc
Trong đàn tế lễ có dùng lễ nhạc:
Lễ: Người Lễ sĩ áo mão chỉnh tề, hai tay nâng cúng vật lên ngang chân
mày, theo nhịp nhàng của âm nhạc, từ từ điện lễ đi lên.
Nhạc: Tiếng trống, chuông, đờn, kèn, tiêu thiều, nhiều thứ âm thanh
khác nhau, đồng thời dấy lên một lượt, đáng lẽ thì nghe hỗn loạn, nhưng sự
thật lại khác.
Theo đạo Cao Đài, ngày xưa Thánh nhân quan sát cảnh tượng vũ trụ,
nhận thức được luật trật tự và điều hòa của trời đất rồi theo đó mà chế ra lễ
nhạc, lễ nhạc có thể cảm hóa lòng người về đạo đức .
2.2.5 Lạy
Khi đứng trước Thiên Bàn hầu lễ thì tín đồ quỳ gối, hai tay chấp lại, bắt
ấn Tý, niệm Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng có nghĩa:
Bắt ấn Tý: Hai bàn tay chấp lại, ngón cái của bàn tay trái chỉ vào ngón

áp út tức chỉ sự chủ về kính Trời.
Nam Mô Phật: Hai bàn tay chấp lại, đưa ngay lên giữa trán và niệm
“Nam Mô Phật “. Ấy là nhắc lòng tôn kính Phật
Nam Mô Pháp: Chữ “ Pháp” là pháp luật tự nhiên, thể hiện nhân cách
người tu hành và giải kiếp trầm luân.
Nam Mô Tăng: Tôn kính người Đạo cao Đức đầy.


7
2.2.6 Cúng tứ thời
Mỗi ngày, người tín đồ phải hầu lễ bốn lần, gọi là cúng Tứ Thời (Tý,
Ngọ, Mẹo, Dậu). Đạo Cao Đài cho rằng khí của trời đất, mỗi ngày vượng bốn
thời: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu.
2.2.7 Thờ tổ tiên
Ngoài việc thờ Trời, kính Phật, nơi chùa chiền tín đồ đạo Cao Đài còn
thờ tổ tiên tại nhà. Tín đồ đạo tin tưởng rằng: Linh hồn con người bất diệt.
Người chết là chết phần thể xác, còn phần linh hồn thì siêu thăng. Tưởng
niệm Tổ tiên để tỏ lòng tôn kính nguồn gốc sinh thành, dưỡng dục; hai là cầu
nguyện Tổ Tiên hộ trì, giúp đỡ con cháu. Những người đó đức tin này, giàu
cũng như nghèo, khi xây xong một ngôi nhà rồi sẽ chọn một chỗ trang nghiêm
hơn hết, để lập bàn thờ, hằng ngày hương khói. Cách thờ tự trong gia đình tín
đồ cũng biểu hiện sự đặc biệt của nó. Bàn thờ luôn đặt ở nơi trang nghiêm
nhất trong gia đình, được che rèm cẩn thận (chỉ mở rèm khi hành lễ). Các đồ
vật trên bàn thờ được sắp xếp trật tự theo một nguyên tắc nhất định, không có
sự xáo trộn. Tín đồ hành lễ trước bàn thờ cũng mặc lễ phục, quỳ lạy kính cẩn,
đọc kinh theo cùng một giọng và rất rập khuôn.
Các ngày lễ
Ngoài cúng tứ thời, Đạo Cao Đài còn có các lễ khác như:
- Hàng tháng có 2 ngày lễ Sóc, Vọng (rằm và mồng một theo âm lịch),
Mỗi tháng có hai ngày đại lễ là: Sóc và Vọng. Ngày đại lễ cả tín đồ

phải tựu về thánh thất hầu lễ và nghe lời giảng đạo thuyết pháp; trừ ra, người
vắng mặt có lý do chính đáng mới được châm chế.
- Hàng năm có các ngày lễ chính theo âm lịch,
. Ngày mồng 9 tháng giêng: Vía Ngọc Hoàng thượng đế,
. Ngày 15 tháng giêng: Lễ Thượng nguyên,
. Ngày 15 tháng hai: Lễ vía Thái Thượng lão quân,


8
. Ngày 8 tháng tư: Lễ vía Thích ca Mâu ni,
. Ngày 15 tháng bảy: Lễ Trung nguyên,
. Ngày 15 tháng tám: Lễ Hội yến diêu trì Kim mẫu,
. Ngày 15 tháng mười: Lễ Hạ nguyên và lễ Khai đạo,
. Ngày 15 tháng mười hai: Lễ các chư thánh thiên triều.
Ngoài ra các chi phái còn có các ngày lễ riêng kỷ niệm ngày thành lập
chi phái, ngày sinh, ngày giỗ của những người đứng đầu chi phái…
2.3- Luật lệ
Luật lệ, của đạo Cao đài thực hiện theo Tân luật, Pháp Chánh truyền,
Đại thừa chân giáo, Ngọc đế chân truyền, Thánh ngôn hợp tuyển. Tuy nhiên
vẫn có sự khác nhau ít nhiều trong những sách trên và các phái Cao Đài Tây
Ninh, Cao Đài Minh Chơn đạo, Cao Đài Tiên Thiên, Cao Đài Ban Chỉnh đạo,
…chủ yếu dựa vào Tân luật, Pháp Chánh truyền và Thánh ngôn hợp tuyển,
các phái Cao Đào Thượng đế, Cao Đài Bạch y Liên đoàn Chơn lý, Cao Đài
Chiếu minh…chủ yếu dựa vào Đại thừa chân giáo, Ngọc đế chân truyền nên
có sự khác về luật lệ, lễ nghi, sự thờ cúng, kinh kệ, đạo phục, cách thức hành
đạo.
2.3.1 Thu nhận tín đồ
Đạo Cao Đài cho rằng khi Đức Chí Tôn còn dùng cơ bút phổ độ, ai
muốn được nhìn nhận là Tín đồ thì phải hầu đàn. Đức Chí Tôn hoặc Tam Trấn
Oan Nghiêm (Đức Lý Thái Bạch, Quan Thế Âm Bồ Tát, Quan Thánh Đế

Quân) cho một bài thi và có để lời thâu nhận. Còn nay cơ bút phổ độ đã
ngưng, ai muốn nhập môn thì phải có hai người đạo đức tiến dẫn đến ra mắt
người đầu họ đạo. Vị chức sắc làm thủ tục cầu đạo và cấp cho vị tân đạo một
tờ chứng chỉ “ Nhập Môn “.
Hai người tiến dẫn có nhiệm vụ chỉ người mới nhập môn biết phép tu
hành: Thông hiểu lẽ đạo, Luật pháp tu hành, thuộc kinh, cách cúng lạy, bổn
phận đối với Hội Thánh và người đồng đạo.


9
Người đầu họ đạo phải đến tận nhà người mới vào đạo làm lễ Thượng
tượng Đức Chí Tôn để thờ, chỉ dạy phương pháp tu hành, học Đạo và cách
cúng Tứ Thời.
Tín đồ được chia ra làm 2 bậc : HẠ THỪA & THƯỢNG THỪA
Hạ thừa là bậc mới cầu đạo, có gia đình, phải làm tròn bổn phận làm
người đối với gia đình, xã hội, phải tập ăn chay kỳ, mỗi tháng 6 hoặc 10 ngày.
Ngoài phép nước, luật quan, họ còn phải tuân hành Thế luật của Đạo, giữ ngũ
giới cấm,….
Thượng thừa là người an chay trường, giới sát, tuân hành tất cả Luật
pháp Đạo, nhất là “ Tứ Đại Điều Qui “, phải để râu, để tóc, mặc toàn bằng vải
trắng. Chức sắc từ phẩm Giáo hữu trở lên phải lựa chọn trong hàng Thượng
thừa.
2.3.2 Lập họ đạo
Địa phương nào có hơn 500 tín đồ mới được phép lập riêng một họ đạo,
đặt riêng một thánh thất. Hội thánh sẽ phái chức sắc đến cai quản.
Muốn lập họ đạo phải xin phép Giáo tông. Tín đồ trong họ đạo phải
nghe theo vị chức sắc cai quản thánh thất. Chẳng ai có quyền tranh cải Luật
đạo.
2.3.3 Ăn chay
Tân luật buộc mỗi người phải tập ăn chay, mỗi tháng 6 ngày (lục trai),

hoặc 10 ngày (thập trai). Mãi đến khi tạng phủ quen dần rồi sẽ tiến tới ăn chay
trường.
2.3.4 Ngũ giới cấm
+ Bất sát sinh (Không được sát hại cuộc sống của loài vật)
+ Bất du đạo (Không được trộm cắp, tham lam, lừa gạt, hại người).


10
Tri túc : Là biết đủ, tức cầu cho mình đủ ăn, đủ mặc không nên vọng
cầu những của phi nghĩa. Nếu chẳng biết đủ thì lòng tham nổi lên mà vơ vét
của cải về cho mình.
Bố thí: Tín đồ tùy khả năng của mình mà bố thí không cần người trả
ơn, vì người mà bố thí chớ không phải buôn quyền bán danh.
+ Bất tà dâm (Không được lấy vợ (hoặc chồng) người khác, không
được đàng điếm, không được xúi giục người khác vi phạm luân thường đạo
lý).
Theo Đạo Cao Đài con người nhân duyên cấu sinh, mà hể có sinh thì ắc
có tử. Và khi tử thì duyên phải tan rã và trở về với đất nước gió lửa, thế thì
nhục thân. Gây ra tội tình phần hồn phải chịu muôn năm, ngàn kiếp. Nhất là
quyến rũ vợ, phá hại gia cang người khác.
+ Bất ẩm tửu (Không được uống rượu mà dẫn đến việc làm tội lỗi.)
Đối với đạo Cao Đài say rượu chẳng những loạn trí não mà ngũ tạng
cũng không còn giữ được chân lực. Đây là một điều cấm quan trọng.
+ Bất vọng ngữ (Không được nói dối, nói thô tục, nói không giữ lời.)
Theo giới cấm này người tu không được nói dối, dù việc lớn hay nhỏ,
trọng hay khinh cũng vậy. Đối với thế gian giữ tín nhiệm còn không làm được
huống chi đối với trời phật, cho nên phải nói chân thật và khi nói ra rồi phải
giữ lời.
Cấm lưỡng thiệt : Không được nói làm cho người khác phải mất lòng
nhau.

Cấm ác khẩu : Không được nói lời hung dữ, như chửi rủa chẳng hạn.
Trái lại, phải dùng lời nói hiền lành, bàn việc hữu ích, phải dùng lời dịu ngọt,
an ủi người khốn khó. Nói lời hoà giải, khuyên nhủ người khác khi họ thoái
chí.


11
Cấm ỷ ngữ : Không được dùng lời khôn khéo để khêu gợi nguyệt hoa,
không được dùng lời bóng bẩy để xuyên tạc kẻ khác. Trái lại phải nói ít và
thật thà.
2.3.5 Tứ đại điều quy (4 điều trau dồi đạo đức)
. “Phải tuân theo lời dạy của bề trên, chẳng hổ chịu cho bậc thấp hơn
điều độ, lấy lẽ hoà người. Lỡ lỗi lầm phải ăn năn chịu thiệt” (Phải tuân theo
lời dạy của bề trên, lấy lẽ hoà người, kính trên nhường dưới, có lỗi lầm phải
thật lòng cải quá)
. “Chớ khoe tài kiêu ngạo, quên mình mà làm nên cho kẻ khác. Giúp
người nên đạo. Đừng nhớ cừu riêng, chớ che lấp người hiền” (Phải khiêm tốn,
quên mình mà làm cho kẻ khác, giúp đỡ người, quên thù riêng, đừng bỏ quên
người hiền)
. “Tiền bạc xuất nhập phân minh, đừng vay mượn không trả. Đối với
trên dưới đừng lờn dễ, trên dạy dưới lấy lễ dưới gián trên, đừng thất khiêm
cung” (Phải công minh, đừng vay mượn không trả, chiếm đoạt của người
khác, chớ mưu hại người, phải rộng rãi và thương người)
. “Trước mặt, sau lưng đều đồng một bậc, đừng kính trước rồi khinh
sau. Đừng thấy đồng đạo tranh đua mà ngồi xem không để lời hoà giải. Đừng
cậy quyền mà yểm tài người” (Phải thẳng thắn, công bằng, phải là “đại sứ hoà
bình” trong nội bộ đạo, đừng cậy quyền chức mà hại người).
Đó là 4 điểm răn dạy tín đồ Cao đài phải luôn luôn tuân thủ : Ôn hoà,
cung kính, khiêm tốn, nhường nhịn (Ôn – Cung – Khiêm – Nhường).
2.3.6 Giáo huấn

Đạo có mở trường dạy văn chương và dạy đạo lý trong trường học, có
thể lệ riêng. Người muốn dự cử vào hàng chức sắc phải có cấp bằng của
Trường đạo mới được.
Trường đạo có hai lớp :
Lớp dạy Giáo hữu và Lễ sinh do một vị Giáo Sư đảm nhiệm


12
Lớp dạy chức việc do Giáo hữu đảm nhiệm. Sự giáo huấn dưới quyền
Hiệp Thiên Đài kiểm soát, vì giáo huấn thuộc quyền Hiệp Thiên Đài.
Người nào theo học mãn khóa, mà không được cấp bằng thì phải tái
học nữa để thi đậu.
Trường học văn chương : Đại Đạo có mở trường dạy văn chương.
Người từ 7 tuổi trở lên phải đến trường học.
2.3.7 Răn phạt
Cách răn phạt của đạo cốt yếu là răn dạy. Đại khái như :
Người nào phạm giới luật, nếu có bạn khuyên can thì phải vui lòng
nghe theo mà cải quá, nếu có một hai lần được khuyên can rồi mà còn tái
phạm nữa, thì bị đem việc ấy đến trình bày với vị chức sắc cai quản thánh thất
sở tại. Nếu vị Đầu họ đạo đã răn dạy rồi mà người ấy còn phạm tội nữa thì có
thể đem đến Hội thánh xem xét, người phạm luật đạo có thể trục xuất, nếu tội
lỗi không thể tha thứ được.
2.3.8 Thế luật
Những hoạt động tôn giáo của đạo Cao đài được thực hành trong cộng
đồng thường chú trọng đến các nghi lễ trong gia đình liên quan đến phong tục
truyền thống của người Việt ở Nam Bộ như cưới hỏi, tang ma, cầu siêu…
Hôn nhân: Tín đồ phải kết hôn với đồng đạo, nếu muốn kết hôn với
người ngoại đạo thì trước khi kết hôn, người ngoại đạo đó phải được nhập đạo
trước. Người đàn ông nếu vợ không có con nối hậu thì được phép lấy vợ lẻ,
song phải được vợ cả ưng thuận. Vợ chồng không được bỏ nhau, ngoại tình,

thất hiếu,… Trước lễ thành hôn 8 ngày, nhà trai phải dán thông báo trước
thành thất tại nơi cư trú. Khi làm lễ cưới phải làm lễ cầu chứng tại thánh thất.
Con cháu bổn đạo sau khi sinh ra được 1 tháng phải được đưa đến
thánh thất để làm lễ “tắm thánh” và ghi vào sổ bộ danh của họ đạo. Trẻ con
phải có cha đỡ đầu, phòng khi bị mồ côi. Trẻ lên bảy tuổi phải cho học đạo,
học chữ (một hình thức giáo dục phổ cập bắt buộc trong đạo Cao Đài).


13
Lễ tang: Những nghi lễ trước đám tang, trong đám tang và những ngày
cúng Cửu, mặc dù được tổ chức theo nguyên tắc và triết lý của đạo Cao Đài,
nhưng lại không quá xa lạ với phong tục truyền thống của người Việt. Hơn
nữa, các nghi lễ này đều được tổ chức qui cũ, có sự tham gia đông đảo của
chức sắc, chức việc và đạo hữu, làm không khí trong các buổi lễ trở nên trang
trọng, tôn nghiêm, tạo được niềm tin trong lòng tín đồ và những người chứng
kiến, là người quá cố sẽ được siêu thoát. Chính những yếu tố ấy đã thu hút sự
chú ý của người dân để họ gia nhập trở thành tín đồ của đạo Cao đài. Việc ma
chay làm đơn giản, việc thờ cúng làm chay lạt, không xa xỉ, không giữ linh
cữu lâu ngày, không dùng đồ màu sắc, không yến ẩm. Việc cúng tế dùng đồ
chay. Nhạc lễ theo Tân luật, tang phục y như xưa.
Việc hành nghề phải lựa chọn, không được làm những nghề sát sinh,
hại vật, bại tục, đồi phong.
Anh em đồng đạo phải yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Đạo Cao Đài rất
chú trọng giáo dục tín đồ theo tiêu chuẩn đạo đức Nho giáo như Tam cương
(Vua – Thầy – Cha), Ngũ thường (nhân – nghĩa – lễ - trí – tín), đối với phụ nữ
thì Tam tòng (tại gia tòng phụ - xuất giá tòng phu – phu tử tòng tử), Tứ đức
(công – dung – ngôn – hạnh).
2.3.9 Tịnh thất
Tịnh thất là một giáo đường thâm nghiêm. Tín đồ vào đó để an thần,
dưỡng trí, tu luyện đến công viên quả mãn.

Hạng tín đồ này phải là bực tối thượng thừa, không còn qua lại với gia
đình, xã hội nữa mới được nhập Tịnh thất. Hội Thánh sẽ xem xét kỹ lưỡng
càng, trước khi thu nhận.
Tịnh thất có kỷ luật riêng, ngày giờ ăn nghỉ nghiêm khắc. Cấm người
trong tịnh thất giao tiếp với kẻ ngoài hoặc thơ tín hay bàn chuyện cũng vậy,
kẻ ở tịnh thất nhất định phải tuân theo kỷ luật ấy. Đó gọi là Luật Xuất Thế.


14
3- Kết luận
Với giáo lý, luật lệ, lễ nghi như trên đã xuất hiện một số nhân định của
một số độc giả rằng đạo Cao Đài là một tôn giáo hỗn hợp, chỉ là phép cộng
đơn thuần những cái đã có sẵn trong các tôn giáo; hoặc theo Nguyễn An Ninh
“Đạo Cao Đài là cái cũ của dân mê tín được sơn lại cái mới, mọi vật cũ ngày
xưa, nay đều mang một cái tên mới, coi có lạ mà lại có quen”.
Tuy nhiên cũng phải nhận thấy rằng đạo Cao Đài rất gần gũi và phù
hợp với trình độ nhận thức của số đông nông dân Nam Bộ trong những hoàn
cảnh kinh tế xã hội nhất định. Hơn thế nữa, với luật lệ, lễ nghi, cách thức hành
đạo kế thừa và lưu giữ những nét văn hoá truyền thống ở Nam Bộ nên đã
nhanh chóng ăn sâu vào cuộc sống, trở thành phong tục tập quán, lối sống của
đông đảo quần chúng, tín đồ.
Như vậy, đạo Cao Đài là sản phẩm của người Việt, được hình thành
trong bối cảnh xã hội Nam Bộ đang bị người Pháp độ hộ, nên nó trở thành
một trong những cứu cách về mặt tâm linh của người Việt lúc bấy giờ. Hiện
nay, đạo Cao đài vẫn đang hoạt động, và trở thành một trong những tổ chức
tôn giáo bản địa độc đáo của cư dân Nam Bộ nói riêng và của người Việt nói
chung. Góp thêm một mảng màu làm cho bức tranh tôn giáo nội sinh ở Nam
Bộ thêm phần đặc sắc./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Một số tôn giáo ở Việt Nam (tái bản lần thứ 8) – Nhà xuất bản Tôn
giáo, Hà Nội, năm 2008.
2. Tusachdaidao. .
3. Các vùng văn hoá Việt Nam – Nhà xuất bản đại học Quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh, 2011.



×