Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Mô hình kinh doanh thương mại điện tử của công ty trách nhiệm hữu hạn Hiệp Đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.34 KB, 117 trang )

MỤC LỤC
1.5.2.3. Các nhân tố quốc tế.................................................................30
- Thị trường khu vực phát triển mạnh: Trong những năm gần đây, khu
vực hóa kinh tế - thương mại đã trở thành trào lưu chung ở khắp các
châu lục. Nhiều khu vực mậu dịch tự do được hình thành (AFTA,
ACFTA, APEC) đã tạo cho hoạt động thương mại của các quốc gia
trong khu vực được tiến hành một cách tự do. Việc thực hiện tự do hóa
thương mại khu vực đang trở thành tiền đề quan trọng cho việc hình
thành một thị trường tự do toàn cầu. Thông qua việc thực hiện khu vực
mậu dịch tự do sẽ giúp cho các DN ở các nước có thêm sức mạnh, có
thêm điều kiện thuận lợi để vươn ra thị trường thế giới. Mặt khác, liên
kết khu vực sẽ giúp cho các DN ở các nước thành viên có thể liên kết
với nhau để cạnh tranh với các đối tác là các công ty, các tập đoàn kinh
tế lớn trên thế giới. Trong bối cảnh đó, các DN Việt Nam cần quan tâm
và ứng dụng phát triển TMĐT nhằm chiếm lĩnh thị trường trong khu
vực, từ đó vươn ra thị trường các nước khác.......................................31
- Cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ: Trải qua nhiều
thập kỷ, khoa học và công nghệ ngày càng phát triển. Đến cuối thế kỷ
20, đầu thế kỷ 21, khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin
đã có những bước đột phá mạnh. Sự phát triển của công nghệ thông tin
đã có ảnh hưởng lớn đến việc định hình phương thức tiến hành hoạt
động thương mại (đặc biệt là TMĐT), cách tổ chức kinh doanh và các
bước của tiến trình sản xuất. Việc sử dụng Internet và các ứng dụng
của nó sẽ làm biến đổi phương thức kinh doanh, làm thay đổi cách
thức đàm phán, ký kết hợp đồng và kiểm tra, giám sát việc thực hiện
hợp đồng của các bên tham gia............................................................31
- Nền kinh tế tri thức, nền kinh tế số: Đây là nền kinh tế mà theo đó
hàm lượng tri thức trong mỗi sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đạt mức
cao. Điều này là một tiền đề quan trọng cho việc ứng dụng và phát
triển phương thức kinh doanh TMĐT ở mỗi DN. Như vậy, bối cảnh



quốc tế đang có nhiều nhân tố thuận lợi cho việc ứng dụng và phát
triển hoạt động TMĐT nhưng cũng đặt ra cho các DN Việt Nam những
thách thức không nhỏ. Việt Nam là nước đang phát triển, năng suất lao
động chưa cao, lợi thế so sánh là sức lao động và tài nguyên thiên
nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ đang ở trình độ thấp. Để đáp
ứng được những đòi hỏi về việc ứng dụng và phát triển hoạt động
TMĐT, Chính phủ và các DN Việt Nam cần một sự nỗ lực lớn thì mới
có thể ứng dụng và phát triển thành công phương thức kinh doanh này.
.............................................................................................................32
2.5.2.3. Các nhân tố quốc tế.................................................................74
- Thị trường khu vực phát triển mạnh: Trong những năm gần đây, khu
vực hóa kinh tế - thương mại đã trở thành trào lưu chung ở khắp các
châu lục. Nhiều khu vực mậu dịch tự do được hình thành (AFTA,
ACFTA, APEC) đã tạo cho hoạt động thương mại của các quốc gia
trong khu vực được tiến hành một cách tự do. Việc thực hiện tự do hóa
thương mại khu vực đang trở thành tiền đề quan trọng cho việc hình
thành một thị trường tự do toàn cầu. Thông qua việc thực hiện khu vực
mậu dịch tự do sẽ giúp cho các DN ở các nước có thêm sức mạnh, có
thêm điều kiện thuận lợi để vươn ra thị trường thế giới. Mặt khác, liên
kết khu vực sẽ giúp cho các DN ở các nước thành viên có thể liên kết
với nhau để cạnh tranh với các đối tác là các công ty, các tập đoàn kinh
tế lớn trên thế giới. Trong bối cảnh đó, các DN Việt Nam cần quan tâm
và ứng dụng phát triển TMĐT nhằm chiếm lĩnh thị trường trong khu
vực, từ đó vươn ra thị trường các nước khác.......................................75
- Cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ: Trải qua nhiều
thập kỷ, khoa học và công nghệ ngày càng phát triển. Đến cuối thế kỷ
20, đầu thế kỷ 21, khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin
đã có những bước đột phá mạnh. Sự phát triển của công nghệ thông tin
đã có ảnh hưởng lớn đến việc định hình phương thức tiến hành hoạt

động thương mại (đặc biệt là TMĐT), cách tổ chức kinh doanh và các

2


bước của tiến trình sản xuất. Việc sử dụng Internet và các ứng dụng
của nó sẽ làm biến đổi phương thức kinh doanh, làm thay đổi cách
thức đàm phán, ký kết hợp đồng và kiểm tra, giám sát việc thực hiện
hợp đồng của các bên tham gia............................................................75
- Nền kinh tế tri thức, nền kinh tế số: Đây là nền kinh tế mà theo đó
hàm lượng tri thức trong mỗi sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đạt mức
cao. Điều này là một tiền đề quan trọng cho việc ứng dụng và phát
triển phương thức kinh doanh TMĐT ở mỗi DN. Như vậy, bối cảnh
quốc tế đang có nhiều nhân tố thuận lợi cho việc ứng dụng và phát
triển hoạt động TMĐT nhưng cũng đặt ra cho các DN Việt Nam những
thách thức không nhỏ. Việt Nam là nước đang phát triển, năng suất lao
động chưa cao, lợi thế so sánh là sức lao động và tài nguyên thiên
nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ đang ở trình độ thấp. Để đáp
ứng được những đòi hỏi về việc ứng dụng và phát triển hoạt động
TMĐT, Chính phủ và các DN Việt Nam cần một sự nỗ lực lớn thì mới
có thể ứng dụng và phát triển thành công phương thức kinh doanh này.
.............................................................................................................76
2.6.1. Các yếu tố chính tạo nên sự thành công cho doanh nghiệp:. 76
2.6.3. Phương châm phát triển..........................................................92

3


LỜI MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử

trên thế giới đã góp phần làm thay đổi cách thức kinh doanh, giao dịch
truyền thống và đem lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Sự ra đời của
thương mại điện tử đã đánh dấu sự bắt đầu của một hệ thống mới nhằm
phát triển kinh tế, một trong những điều kiện cơ bản và có ý nghĩa quyết
định trong việc phát triển thương mại điện tử là việc hoàn thiện các dịch vụ
thanh toán điện tử.
Thương mại điện tử chính là một công cụ hiện đại sử dụng mạng
Internet giúp cho các doanh nghiệp có thể thâm nhập vào thị trường thế
giới, thu nhập các thông tin quản trị nhanh hơn, nhiều hơn, chính xác hơn.
Với Thương mại điện tử, các doanh nghiệp cũng có thể đưa ra các thông tin
về sản phẩm của mình đến các đối tượng khách hàng tiềm năng khác nhau
ở mọi nơi trên thế giới - những nơi mà có thể kết nối Internet. Khi đó với
chi phí đầu tư thấp và nhiều tiện ích khác, các doanh nghiệp có thu được
nhiều lợi ích như:
• Thu thập được các thông tin phong phú về thị trường và đối tác;
• Đưa thông tin của mình trên phạm vi không gian ảo rộng lớn không
bị giới hạn bởi vị trí địa lý hay biên giới quốc gia và tất cả những người,
những doanh nghiệp kết nối Internet có thể xem được thông tin này vào bất
cứ lúc nào.
• Trao đổi thông tin với khách hàng, đối tác nhanh hơn, nhiều hơn
với chi phí thấp hơn nhiều lần so với các phương pháp truyền thống.
Thực tế đã chứng minh thanh toán điện tử là một trong những điều
kiện cốt lõi để phát triển thương mại điện tử với vai trò là một khâu không
thể tách rời của quy trình giao dịch và còn là biện pháp xác thực việc kí kết

4


hợp đồng giữa người bán và người mua. Thương mại điện tử giúp giảm
thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị. Bằng Internet/web, một nhân viên

bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng, catalogue điện tử
trên các trang web không những phong phú hơn mà còn thường xuyên được
cập nhật so với các catalogue in ấn khuôn khổ giới hạn và luôn luôn lỗi
thời. Qua đó thương mại điện tử tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố
mối quan hệ giữa các nhân tố tham gia vào quá trình thương mại. Thông
qua mạng, các đối tượng tham gia có thể giao tiếp trực tiếp và liên tục với
nhau nhờ đó sự hợp tác lẫn sự quản lý đều được tiến hành nhanh chóng và
liên tục.
Trong quá trình hội nhập hiện nay, vấn đề đặt ra đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam là phải sẵn sàng thích ứng với môi trường
kinh doanh mới dựa trên cơ sở của nền kinh tế số hóa mà bước đi đầu tiên
là phải ứng dụng Thương mại điện tử vào trong chính quá trình sản xuất
kinh doanh của mình.
Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài: “Mô hình kinh doanh thương mại
điện tử của công ty trách nhiệm hữu hạn Hiệp Đồng” để hiểu thêm và
đóng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện và phát triển hệ thống thương
mại điện tử ở Việt Nam.

5


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1. Khái niệm và vai trò của thương mại điện tử
1.1.1. Các khái niệm
Từ khi các ứng dụng của Internet được khai thác nhằm phục vụ cho
mục đích thương mại, nhiều thuật ngữ khác nhau đã xuất hiện để chỉ các
hoạt động kinh doanh điện tử trên Internet như: “thương mại điện tử”
(electronic commerce hay e-commerce); "thương mại trực tuyến" (online
trade); "thương mại điều khiển học" (cyber trade); "thương mại không giấy
tờ" (paperless commerce hoặc paperless trade); “thương mại Internet”

(Internet commerce) hay “thương mại số hoá” (digital commerce). Trong đề
tài này, tôi sẽ sử dụng thống nhất một thuật ngữ “thương mại điện tử”
(electronic commerce), thuật ngữ được dùng phổ biến trong tài liệu của các
tổ chức trong và ngoài nước cũng như trong các tài liệu nghiên cứu khác.
Thương mại điện tử theo nghĩa rộng được định nghĩa trong Luật mẫu
về TMĐT của Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế
(UNCITRAL): Thuật ngữ Thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng
để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương
mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại bao
gồm các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về thương mại về cung
cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện
hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các
công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo
hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh các hình thức khác
về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành
khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ.

6


Như vậy, có thể thấy rằng phạm vi của TMĐT rất rộng, bao quát hầu
hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, việc mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là
một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của TMĐT.
Ủy ban Châu Âu đưa ra định nghĩa về TMĐT sau: Thương mại điện
tử được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện
điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng văn bản
(text), âm thanh và hình ảnh. Thương mại điện tử gồm nhiều hành vi trong
đó hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ qua phương tiện điện tử, giao
nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ
phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế, tài

nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị trực tiếp tới người tiêu dùng và
các dịch vụ sau bán hàng. Thương mại điện tử được thực hiện đối với cả
thương mại hàng hóa (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên
dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ
pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khỏe,
giáo dục ) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo).
Theo nghĩa rộng thì TMĐT có thể được hiểu là các giao dịch tài
chính và thương mại bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử;
chuyển tiền điện tử và các hoạt động gửi rút tiền bằng thẻ tín dụng.
Thương mại điện tử theo nghĩa hẹp bao gồm các hoạt động thương
mại được thực hiện thông qua mạng Internet. Các tổ chức như: Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), Tổ chức Hợp tác phát triển kinh tế đưa ra các
khái niệm về thương mại điện tử theo hướng này. TMĐT được nói đến ở
đây là hình thức mua bán hàng hóa được bày tại các trang Web trên Internet
với phương thức thanh toán bằng thẻ tín dụng. Có thể nói rằng TMĐT đang
trở thành một cuộc cách mạng làm thay đổi cách thức mua sắm của con
người.

7


Theo WTO: Thương mại điện tử bao gồm việc sản xuất, quảng cáo,
bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng
Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả các sản phẩm được
giao nhận cũng như những thông tin số hóa thông qua mạng Internet.
Khái niệm về TMĐT do Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế của Liên
Hợp quốc đưa ra là: Thương mại điện tử được định nghĩa sơ bộ là các giao
dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như
Internet.
Theo các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu được rằng theo nghĩa

hẹp TMĐT chỉ bao gồm những hoạt động thương mại được thực hiện thông
qua mạng Internet mà không tính đến các phương tiện điện tử khác như
điện thoại, fax, telex... Hiểu theo nghĩa rộng thì hoạt động thương mại được
thực hiện thông qua các phương tiện thông tin liên lạc đã tồn tại hàng chục
năm nay và đạt tới doanh số hàng tỷ USD mỗi ngày. Theo nghĩa hẹp thì
TMĐT chỉ mới tồn tại được vài năm nay nhưng đã đạt được những kết quả
rất đáng quan tâm, TMĐT chỉ gồm các hoạt động thương mại được tiến
hàng trên mạng máy tính mở như Internet. Trên thực tế, chính các hoạt
động thương mại thông qua mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ
Thương mại điện tử.
Theo định nghĩa rộng rãi nhất, giản dị nhất và đã được chấp nhận phổ
biến, thì thương mại điện tử là việc sử dụng các phương pháp điện tử để
làm thương mại. Nói chính xác hơn, thương mại điện tử là việc trao đổi
thông tin thương mại thông qua các công nghệ điện tử, mà nói chung là
không cần in ra giấy trong bất kỳ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao
dịch.

8


Mô hình kinh doanh là mô hình mà doanh nghiệp tiến hành kinh
doanh nhằm đạt được chiến lược kinh doanh đã đề ra ( Rappa 2003 &
Turban 2004)
Mô hình kinh doanh điện tử: cho biết vai trò và mối quan hệ doanh
nghiệp với khách hàng, các nhà cung cấp trong việc cung cấp hàng hóa,
dịch vụ thông tin, trao đổi thanh toán và những lợi lích khác mà các bên có
thể đạt được (Weill and Vitale 2001)
Mô hình kinh doanh thương mại điện tử: là mô hình kinh doanh
có sử dụng và tận dụng tối đa hóa lợi ích của internet và website (Timmers,
1998).

1.1.2. Vai trò của thương mại điện tử
Thương mại điện tử đang phát triển mạnh mẽ và ngày càng nhân
rộng trên phạm vi thế giới. Cho dù các nguồn nghiên cứu khác nhau đưa ra
những con số chênh lệch khá lớn về ước tính về giá trị TMĐT toàn cầu,
những con số này vẫn cho thấy một tốc độ tăng trưởng hàng năm ở mức 6070%.
Thương mại điện tử không chỉ giải quyết những yêu cầu cấp thiết,
cấp bách trên các lĩnh vực như hệ thống giao dịch hàng hoá, điện tử hoá
tiền tệ và phương án an toàn thông tin..., mà hoạt động thực tế của nó còn
tạo ra những hiệu quả và lợi ích mà mô hình phát triển của thương mại
truyền thống không thể nào sánh kịp.
TMĐT mang tới những đột phá lớn về hiệu quả và tăng khả năng hội
nhập của DN trên cả thị trường trong và ngoài nước.
TMĐT sẽ giảm bớt các rào cản đối với việc cung cấp các dịch vụ hỗ
trợ kinh doanh, giúp cho DN có khả năng tiếp nhận các dịch vụ này một
cách dễ dàng và hiệu quả hơn.

9


TMĐT tạo được sự kết nối và mối quan hệ chặt chẽ giữa Chính phủ,
DN và người tiêu dùng trong việc mua bán, trao đổi hàng hoá và dịch vụ.
Chính vì vậy, việc ứng dụng TMĐT có tầm quan trọng đặc biệt và khác hẳn
so với việc áp dụng các phương thức kinh doanh khác trên thị trường. Cụ
thể là:
Ứng dụng và phát triển TMĐT sẽ giúp các quốc gia nhanh chóng trở
thành một nước công nghiệp hiện đại, tạo ra diện mạo mới, làm thay đổi
mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của quốc gia. Trên thực tế, kinh doanh
TMĐT không chỉ là một cuộc cải cách các phương thức kinh doanh mà
thực chất là một cuộc đổi mới về cơ cấu và phương thức vận động của nền
kinh tế. Đây là phương thức kinh doanh mà mọi hoạt động có liên quan đến

thương mại đều được đưa lên mạng, mở rộng cơ hội mua bán hàng hoá và
dịch vụ, hạ thấp chi phí, nâng cao hiệu quả giao dịch, nâng cao năng lực
cạnh tranh của các quốc gia cũng như của DN trên thị trường toàn cầu.
Theo phương thức kinh doanh TMĐT, khoảng cách giữa người bán
với người mua, giữa người sản xuất với người tiêu dùng được thu hẹp rất
nhiều. Người sản xuất, người bán hàng có thể giới thiệu hàng hoá của mình
trên mạng, người mua có thể nhìn thấy sản phẩm, biết được đặc tính của sản
phẩm. Sự ra đời và phát triển của TMĐT đã làm giảm đáng kể chi phí lao
động của toàn xã hội
Kinh doanh TMĐT giúp DN nắm được các thông tin thị trường một
cách đầy đủ, phong phú và từ đó có thể xây dựng được cho mình một chiến
lược sản xuất – kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển của thị trường
trong nước, thị trường khu vực và thị trường quốc tế. Điều này có tầm quan
trọng đặc biệt đối với các DN vừa và nhỏ, một lực lượng có vai trò như
động lực phát triển chủ yếu của nền kinh tế.

10


TMĐT giúp DN có thể giảm chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị.
Bằng các phương tiện hiện đại (Internet/Web), một nhân viên bán hàng có
thể cùng một lúc giao dịch được với nhiều khách hàng, một trang Web của
DN có thể giới thiệu đến nhiều khách hàng nhiều thông tin về DN, nhiều
thông tin về các sản phẩm của DN làm phong phú thêm điều kiện lựa chọn
của khách hàng.
Với sự trợ giúp của công nghệ thông tin và truyền thông, việc áp
dụng phương thức kinh doanh TMĐT sẽ làm tăng thêm khả năng cạnh tranh
cho DN. Internet có xu thế tạo lợi nhuận cho cả công ty lớn và công ty nhỏ,
kể cả các DN tư nhân và cá nhân người sản xuất. Vì đây là sân chơi bình
đẳng nên các DN dù nhỏ nhưng thông qua Website của mình họ cũng có thể

đạt được một doanh thu lớn mà điều này là khó có thể có trong việc áp
dụng các phương thức kinh doanh truyền thống. Mặt khác, khi áp dụng
phương thức TMĐT, doanh nghiệp có thể đáp ứng các yêu cầu của khách
hàng và cung cấp các dịch vụ tư vấn cũng như các thông tin cần thiết cho
khách hàng một cách nhanh chóng nhất.
Áp dụng phương thức kinh doanh TMĐT sẽ giúp cho các DN sớm
tiếp cận với kinh tế số hoá, tạo cho các nước đang phát triển một bước tiến
nhảy vọt để theo kịp các nước khác trong thời gian ngắn nhất. Trong điều
kiện hội nhập WTO của nước ta hiện nay, việc thiếu các phương tiện kỹ
thuật đủ mạnh và lực lượng cán bộ đủ năng lực đang là khó khăn lớn để các
DN thực hiện hiệu quả phương thức kinh doanh thương mại hiện đại này.
Tóm lại, đối với các DN, lợi ích lớn nhất mà TMĐT mang lại cho họ
chính là sự tiết kiệm chi phí và sự thuận lợi của các bên khi tham gia giao
dịch. Giao dịch bằng phương tiện điện tử nhanh hơn so với giao dịch truyền
thống, ví dụ: gửi fax hay thư điện tử thì nội dung thông tin đến tay người
nhận nhanh hơn là gửi thư theo đường bưu điện. Các giao dịch qua Internet

11


có chi phí rất rẻ, một DN có thể gửi thư tiếp thị, chào hàng đến hàng loạt
các khách hàng với mức chi phí bỏ ra chỉ bằng chi phí đối với một khách
hàng. Với TMĐT, các bên có thể tiến hành giao dịch khi ở cách xa nhau,
giữa thành phố với nông thôn, từ nước này sang nước kia, hay nói cách
khác là không bị giới hạn bởi không gian địa lý. Điều này cho phép các DN
tiết kiệm chi phí sản xuất, chi phí tiếp thị, chi phí bán hàng và chi phí giao
dịch. Bên cạnh đó, DN có thể mở rộng thị trường, tìm kiếm, liên lạc với đối
tác và khách hàng ở bất kỳ đâu với chi phí thấp hơn so với phương thức tiếp
cận thị trường truyền thống. Những lợi ích này chỉ có được với những DN
thực sự nhận thức được giá trị của TMĐT.

1.2. Các hình thức hoạt động thương mại điện tử
- Thư tín điện tử: Các đối tác (người tiêu thụ, doanh nghiệp, các cơ
quan chính phủ) sử dụng hòm thư điện tử để gửi thư cho nhau một cách
“trực tuyến” thông qua mạng, gọi là thư tín điện tử (electronic mail, gọi tắt
là e-mail). Đây là một thứ thông tin dưới dạng “phi cấu trúc” (unstructured
form), nghĩa là thông tin không phải tuân thủ một cấu trúc đã thoả thuận (là
điều khác với “trao đổi dữ liệu điện tử” sẽ nói dưới đây).
- Thanh toán điện tử: Thanh toán điện tử (electronic payment) là việc
thanh toán tiền thông qua thông điệp điện tử (electronic message) thay cho
việc trao tay tiền mặt, việc trả lương bằng cách chuyển tiền trực tiếp vào tài
khoản, trả tiền mua hàng bằng thẻ mua hàng, thẻ tín dụng v.v. đã quen
thuộc lâu nay thực chất đều là các dạng thanh toán điện tử.
+ Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính (Financial Electronic Data
Interchange, gọi tắt là FEDI) chuyên phục vụ cho việc thanh toán điện tử
giữa các công ty giao dịch với nhau bằng điện tử.
+ Tiền mặt Internet (Internet Cash) là tiền mặt được mua từ một nơi
phát hành (ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng), sau đó được chuyển đổi tự do
12


sang các đồng tiền khác thông qua Internet, áp dụng trong phạm vi cả một
nước cũng như giữa các quốc gia. Tất cả đều được thực hiện bằng kỹ thuật
số hoá, vì thế tiền mặt này còn có tên gọi là “tiền mặt số hoá” (digital cash).
Công nghệ đặc thù chuyên phục vụ mục đích này có tên gọi là “mã hoá
khoá công khai/bí mật” (Public/Private Key Cryptography). Tiền mặt
Internet được người mua hàng mua bằng đồng nội tệ, rồi dùng Internet để
chuyển cho người bán hàng.
+ Túi tiền điện tử (electronic purse; còn gọi tắt là “ví điện tử”) nói
đơn giản là nơi để tiền mặt Internet mà chủ yếu là thẻ khôn minh (smart
card, còn có tên gọi là thẻ giữ tiền: stored value card). Tiền được trả cho bất

cứ ai đọc được thẻ đó. Kỹ thuật của túi tiền điện tử về cơ bản là kỹ thuật
“mã hoá khoá công khai/bí mật” tương tự như kỹ thuật áp dụng cho “tiền
mặt Internet”.
+ Thẻ khôn minh (smart card, còn gọi là “thẻ thông minh”) nhìn bề
ngoài tương tự như thẻ tín dụng, nhưng ở mặt sau của thẻ, thay vì cho dải
từ, lại là một chip máy tính điện tử có một bộ nhớ nhỏ để lưu trữ tiền số
hoá. Tiền ấy chỉ được “chi trả” khi người sử dụng và thông điệp (ví dụ như
xác nhận thanh toán hoá đơn) được xác thực là “đúng”.
+ Giao dịch ngân hàng số hoá (digital banking), và giao dịch chứng
khoán số hoá (digital securities trading). Hệ thống thanh toán điện tử của
ngân hàng là một đại hệ thống, gồm nhiều tiểu hệ thống: (1) thanh toán giữa
ngân hàng với khách hàng (qua điện thoại, các điểm bán lẻ, các ki-ốt, giao
dịch cá nhân tại nhà, giao dịch tại trụ sở khách hàng, giao dịch qua Internet,
chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng, vấn tin...), (2) thanh toán giữa ngân hàng
với các đại lý thanh toán (nhà hàng, siêu thị...), (3) thanh toán trong nội bộ
một hệ thống ngân hàng, (4) thanh toán giữa hệ thống ngân hàng này với hệ
thống ngân hàng khác.

13


- Trao đổi dữ liệu điện tử: Trao đổi dữ liệu điện tử (electronic data
interchange, gọi tắt là EDI) là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “có cấu
trúc” (structured form) từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác,
giữa các công ty hay tổ chức đã thoả thuận buôn bán với nhau theo cách
này một cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người (gọi là
dữ liệu có cấu trúc, vì các bên đối tác phải thoả thuận từ trước khuôn dạng
cấu trúc của các thông tin).
- Bán lẻ hàng hoá hữu hình: Tận dụng tính đa năng phương tiện
(multimedia) của môi trường Web và Java, người bán hàng xây dựng trên

mạng các “cửa hàng ảo” (virtual shop) để thực hiện việc bán hàng. Người
sử dụng Internet/Web tìm trang Web của cửa hàng, xem hàng hoá hiển thị
trên màn hình, xác nhận mua hàng, và trả tiền bằng thanh toán điện tử. Lúc
đầu, việc mua bán như vậy còn ở dạng sơ khai: người mua chọn hàng rồi
đặt hàng thông qua mẫu đơn (form) cũng đặt ngay trên Web. Nhưng có
trường hợp muốn lựa chọn giữa nhiều hàng hoá ở các trang Web khác nhau
(của cùng một cửa hàng) thì hàng hoá miêu tả nằm ở một trang, đơn đặt
hàng lại nằm ở trang khác, gây ra nhiều phiền toái.
Để khắc phục, các hãng đưa ra loại phần mềm mới gọi là “xe mua
hàng” (shopping cart, shopping trolley), hoặc “giỏ mua hàng” (shopping
basket, shopping bag) mà trên màn hình cũng có dạng tương tự như giỏ
mua hàng hay xe mua hàng thật mà người mua thường dùng khi vào cửa
hàng, siêu thị. Vì là hàng hoá hữu hình, nên tất yếu sau đó các cửa hàng
phải dùng tới các phương tiện gửi hàng truyền thống để đưa hàng tới tay
khách. Điều quan trọng nhất là: khách hàng có thể mua hàng tại nhà (home
shopping), mà không phải đích thân đi tới cửa hàng.
1.3. Phạm vi của thương mại điện tử

14


Thương mại điện tử bao trùm nhiều lĩnh vực rộng lớn khác nhau. Một

số lĩnh vực cơ bản liên quan trực tiếp đến thương mại điện tử, bao gồm:
- Lĩnh vực công nghệ: Cơ sở để thực hiện thương mại điện tử là các
mạng thông tin toàn cầu, nơi diễn ra các hoạt động nghiên cứu thị trường,
các hoạt động giao dịch liên tổ chức và các quá trình kinh doanh. Trong số
các mạng này, Internet đóng vai trò quan trọng nhất. Ngoài ra, có nhiều
mạng thông tin khác như mạng giá trị gia tăng, mạng trao đổi dữ liệu điện
tử,... cũng đóng vai trò quan trọng.

- Lĩnh vực marketing và “tạo ra khách hàng mới”: Thương mại điện
tử tạo ra những kênh liên kết mới với khách hàng, tạo ra cơ hội mới để xúc
tiến, quảng bá các sản phẩm thông qua các phương tiện mới. Thương mại
điện tử mở rộng biên giới của các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tiếp cận
trực tiếp với khách hàng của mình.
- Lĩnh vực kinh tế: Thương mại điện tử là yếu tố cơ bản của nền kinh
tế mới, một nền kinh tế dựa trên cơ sở thông tin, hình thành từ các cơ quan
và các tổ chức kinh tế mới. Thương mại điện tử tạo ra các thị trường và các
hoạt động mới được mô tả bằng những dòng thông tin trực tiếp, sự xuất
hiện của những trung gian mới, sự thay đổi của các quy luật kinh tế và các
chức năng thị trường.
- Sự liên kết điện tử: Thương mại điện tử cung cấp các mối liên kết
mới nhằm tạo ra hiệu quả cao hơn cho các hoạt động kinh tế, bao gồm: a)
Giao diện giữa các doanh nghiệp và khách hàng; b) Sự liên kết giữa doanh
nghiệp với các kênh kinh doanh của nó; c) Sự phối hợp giữa các bộ phận
khác nhau trong nội bộ doanh nghiệp.
- Giá trị gia tăng của thông tin: Thương mại điện tử thúc đẩy sự tách
rời các chuỗi giá trị trên cơ sở thông tin khỏi các chuỗi giá trị gia tăng vật
lý. Các chuỗi giá trị trên cơ sở thông tin (còn gọi lỡ các chuỗi giá trị ảo) tạo
15


ra những phương thức mới để thu thập, tổng hợp, đóng gói, phân phối
thông tin về thị trường cũng như đối với các sản phẩm, dịch vụ của doanh
nghiệp.
- Phát triển thị trường: Mạng thông tin toàn cầu giúp thương mại điện
tử có cơ hội hình thành các thị trường điện tử phù hợp với người mua và
người bán.
- Cơ sở hạ tầng dịch vụ: Thương mại điện tử đòi hỏi những dịch vụ
khác nhau để hỗ trợ các chức năng tiềm tàng, các hoạt động, các yêu cầu và

các ứng dụng của nó. Để thực hiện các dịch vụ này, đòi hỏi phải xây dựng
cơ sở hạ tầng phù hợp như hạ tầng về mã khóa công cộng, về thanh toán và
ngân hàng, về dịch vụ thông tin cho các tổ chức, về công cụ tìm kiếm, truy
lục dữ liệu, tổ chức thông tin, tổng hợp thông tin, hạ tầng cho việc xử lý
giao dịch giữa các doanh nghiệp (B2B - Business-to-Business), chia sẻ
thông tin từ danh mục hàng hoá của nhà cung ứng và phối hợp các chuỗi
cung ứng...
- Luật pháp, tính riêng tư và các chính sách công cộng: Toàn bộ
những thay đổi về cấu trúc, tổ chức, quá trình và công nghệ do thương mại
điện tử đưa lại đòi hỏi phải có một khuôn khổ mới, cụ thể hoá các nhu cầu
về luật pháp, tính riêng tư và chính sách công cộng. Đây là một nhiệm vụ
rất khó khăn bởi số lượng và tính phức tạp của các lĩnh vực có liên quan;
nhưng nó cũng là một khía cạnh cần được quan tâm đầu tiên khi áp dụng
thương mại điện tử để bảo vệ quyền lợi của những người tham gia. Việc cụ
thể hoá các vấn đề liên quan cũng đòi hỏi phải có sự cân nhắc khi tiếp cận
để vừa đảm bảo quyền lợi, vừa tránh những xung đột tiềm tàng giữa các
bên tham gia thương mại điện tử.
1.4. Mô hình kinh doanh thương mại điện tử

16


Mô hình kinh doanh là bố trí các hoạt động kế hoạch hoá (trong một
số trường hợp được nói đến như các quá trình kinh doanh) nhằm mục đích
thu lợi nhuận trên một thị trường. Mô hình kinh doanh là trọng tâm của một
kế hoạch kinh doanh. Kế hoạch kinh doanh là tài liệu mô tả mô hình kinh
doanh của một doanh nghiệp. Một mô hình kinh doanh thương mại điện tử
nhằm mục đích khai thác và tận dụng những đặc trưng riêng có của Internet
và Web.
1.4.1. Các yếu tố cơ bản của một mô hình kinh doanh

Một doanh nghiệp khi xây dựng một mô hình kinh doanh trong bất
cứ lĩnh vực nào, không chỉ là thương mại điện tử, cần tập trung vào tám yếu
tố cơ bản là:
- Mục tiêu giá trị: Mục tiêu giá trị của một doanh nghiệp là điểm cốt
yếu của mô hình kinh doanh. Mục tiêu giá trị được hiểu là cách thức để sản
phẩm hay dịch vụ của một doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng. Đứng từ góc độ khách hàng, thành công của mục tiêu giá trị thương
mại điện tử bao gồm: sự cá nhân hoá, cá biệt hoá của các sản phẩm mà
doanh nghiệp cung cấp, giảm bớt chi phí tìm kiếm sản phẩm, giảm bớt chi
phí trong việc kiểm tra giá cả và sự thuận tiện trong giao dịch thông qua
quá trình quản lý phân phối sản phẩm.
- Mô hình doanh thu: Mô hình doanh thu là cách thức để doanh nghiệp
có doanh thu, tạo ra lợi nhuận, và mức lợi nhuận lớn hơn trên vốn đầu tư.
Chức năng của một tổ chức kinh doanh là tạo ra lợi nhuận và thu được
doanh lợi trên vốn đầu tư lớn hơn các hình thức đầu tư khác. Bản thân các
khoản lợi nhuận chưa đủ để khẳng định sự thành công của một doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp được xem là kinh doanh thành công cần tạo ra
mức lợi nhuận lớn hơn các hình thức đầu tư khác. Bằng không, doanh
nghiệp không thể tồn tại.

17


Thực tế có nhiều mô hình doanh thu thương mại điện tử được áp dụng
nhưng chủ yếu tập trung vào một (hoặc là sự phối hợp của một số) trong số
các mô hình cơ bản sau: mô hình quảng cáo, mô hình đăng ký (subscription
model), mô hình phí giao dịch, mô hình bán hàng và mô hình liên kết.
- Cơ hội thị trường: Thuật ngữ cơ hội thị trường nhằm để chỉ tiềm
năng thị trường của một doanh nghiệp (thị trường là phạm vi giá trị thương
mại thực tế hoặc tiềm năng mà ở đó doanh nghiệp dự định hoạt động) và

toàn bộ cơ hội tài chính tiềm năng mà doanh nghiệp có khả năng thu được
từ thị trường đó. Cơ hội thị trường thường được phân nhỏ theo các vị trí đặc
biệt của doanh nghiệp trên thị trường. Cơ hội thị trường thực tế được hiểu
là khoản doanh thu doanh nghiệp có khả năng thu được ở mỗi vị trí thị
trường mà doanh nghiệp có thể giành được.
- Môi trường cạnh tranh: Môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp
nhằm nói đến phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp khác kinh doanh các
sản phẩm cùng loại trên cùng thị trường. Môi trường cạnh tranh của một
doanh nghiệp chịu tác động bởi các nhân tố như: có bao nhiêu đối thủ cạnh
tranh đang hoạt động, phạm vi hoạt động của các đối thủ đó ra sao, thị phần
của mỗi đối thủ như thế nào, lợi nhuận mà họ thu được là bao nhiêu và mức
giá mà các đối thủ định ra cho các sản phẩm của họ là bao nhiêu.
Môi trường cạnh tranh là một trong các căn cứ quan trọng để đánh giá
tiềm năng của thị trường. Nếu trên một đoạn thị trường sản phẩm nhất định,
có nhiều đối thủ cạnh tranh với nhau, đó là dấu hiệu đoạn thị trường này đã
bão hoà và lợi nhuận khó có thể thu được. Ngược lại, nếu thị trường có rất
ít đối thủ cạnh tranh thì đó là dấu hiệu của, hoặc một đoạn thị trường hầu
như chưa được khai thác, hoặc khó có thể thành công trên thị trường này vì
nó không có khả năng đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Như vậy, việc

18


phân tích yếu tố môi trường cạnh tranh giúp doanh nghiệp quyết định nên
đầu tư vào đoạn thị trường nào có lợi nhất.
- Lợi thế cạnh tranh: Hiểu theo nghĩa chung nhất, lợi thế cạnh tranh
của một doanh nghiệp là khả năng sản xuất một loại sản phẩm có chất
lượng cao hơn và/hoặc tung ra thị trường một sản phẩm có mức giá thấp
hơn hầu hết (hoặc toàn bộ) các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên trong thực tế,
các doanh nghiệp còn cạnh tranh với nhau về phạm vi hoạt động. Một số

doanh nghiệp có khả năng hoạt động trên phạm vi toàn cầu trong khi một số
khác chỉ có thể hoạt động trên phạm vi quốc gia hoặc khu vực. Những
doanh nghiệp có khả năng cung cấp các sản phẩm chất lượng cao hơn ở các
mức giá thấp trên phạm vi toàn cầu là các doanh nghiệp có lợi thế cạnh
tranh thực sự. Đây là điều mà các đối thủ của họ không thể làm được, cho
dù điều đó chỉ xảy ra trong ngắn hạn.
Trong một số trường hợp, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp còn có
tính chất đòn bẩy. Đó là khi doanh nghiệp sử dụng các lợi thế cạnh tranh
hiện có để tạo ra các lợi thế ở các thị trường phụ cận. Tính chất đòn bẩy này
giúp doanh nghiệp ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động cũng như mở
rộng lĩnh vực kinh doanh của mình.
- Chiến lược thị trường: Trong quá trình hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, chiến lược và việc thực hiện chiến lược marketing thường
được các doanh nghiệp rất coi trọng. Mọi khái niệm và ý tưởng kinh doanh
sẽ đều trở nên vô nghĩa nếu doanh nghiệp không thể đưa các sản phẩm hay
doanh nghiệp của mình tới các khách hàng tiềm năng. Toàn bộ các hoạt
động mà doanh nghiệp thực hiện nhằm xúc tiến các sản phẩm và dịch vụ
của mình cho các khách hàng tiềm năng gọi là hoạt động marketing của
doanh nghiệp.

19


- Sự phát triển của tổ chức: Trong kinh doanh, việc đầu tư thường
được bắt đầu từ những người có đầu óc kinh doanh, biết nhìn xa trông rộng.
Tuy nhiên, nếu chỉ mình họ sẽ khó có thể biến các ý tưởng của mình trở
thành các doanh nghiệp giá trị hàng triệu đôla. Để có một doanh nghiệp
tăng trưởng, phát triển nhanh chóng, đặc biệt đối với các doanh nghiệp
thương mại điện tử, cần phải có đủ các nguồn lực và có một kế hoạch kinh
doanh hoàn chỉnh. Nói cách khác, mọi doanh nghiệp, nhất là các doanh

nghiệp mới, cần có một hệ thống tổ chức đảm bảo thực thi có hiệu quả các
kế hoạch và chiến lược kinh doanh.
- Đội ngũ quản lý: Đội ngũ quản trị là trong các nhân tố quan trọng
nhất của một mô hình kinh doanh chịu trách nhiệm xây dựng các mẫu công
việc trong doanh nghiệp.
Một đội ngũ quản trị mạnh góp phần tạo sự tin tưởng chắc chắn đối
với các nhà đầu tư bên ngoài, có khả năng nắm bắt nhanh nhạy những diễn
biến thị trường và có kinh nghiệm trong việc thực thi các kế hoạch kinh
doanh. Đội ngũ quản trị giỏi tuy không thể cứu vãn một mô hình kinh
doanh yếu nhưng họ có thể đưa ra các quyết định thay đổi hoặc tái cấu trúc
mô hình kinh doanh nếu điều đó cần thiết.
Đứng đầu đội ngũ quản trị của hầu hết các doanh nghiệp là những nhà
quản trị cao cấp hoặc các giám đốc. Kỹ năng và trình độ của các nhà quản
trị này là một trong những lợi thế cạnh tranh chủ yếu của các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, vấn đề là làm sao có thể tìm được những người vừa có khả năng
và kinh nghiệm để có thể vận dụng những kinh nghiệm của cá nhân vào
quản lý các mô hình kinh doanh mới.
1.4.2. Các mô hình kinh doanh thương mại điện tử
1.4.2.1. Mô hình kinh doanh thương mại điện tử B2C giữa doanh
nghiệp và người tiêu dùng
20


Thương mại điện tử B2C là một trong những hình thức TMĐT rất
phổ biến. Mô hình kinh doanh TMĐT B2C đề cập đến các nội dung sau:
- Khái quát về TMĐT B2C
- Các mô hình TMĐT B2C
- Các công cụ hỗ trợ khách hàng trong TMĐT B2C
- Vấn đề dịch vụ khách hàng và quản trị quan hệ khách hàng trong
TMĐT B2C

a. Khái quát về TMĐT B2C
Mặc dù giữa B2B và B2C có nhiều đặc điểm giống nhau. Tuy nhiên,
các hoạt động B2B đòi hỏi giữa các thành viên có sự tin tưởng lẫn nhau rất
cao và phải có quan hệ chính thức, trong khi đối với giao dịch B2C, điều
này không cần thiết. Một đặc tính rõ rệt nhất của TMĐT B2C là khả năng
thiết lập mối quan hệ trực tiếp với khách hàng mà không có sự tham gia của
khâu trung gian như nhà phân phối, bán buôn hoặc môi giới. Những năm
gần đây, số lượng giao dịch B2C tăng lên nhanh chóng. Người sử dụng
internet dần dần làm quen với việc mua hàng trực tuyến. Doanh thu từ
TMĐT B2C cũng tăng với tốc độ nhanh. Hầu hết các doanh nghiệp thành
công trong TMĐT B2C đều là những doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm
chất lượng cao và mức giá hấp dẫn, cộng thêm là các dịch vụ cho khách
hàng có chất lượng cao. Theo đó, rõ ràng giữa các kênh bán hàng trực tiếp
và các kênh bán hàng truyền thống không có sự khác nhau đáng kể. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp thực hiện TMĐT có thể cung cấp thêm các dịch vụ
khác mà thương mại truyền thống không có điều kiện và khả năng.
b. Các mô hình TMĐT B2C
Để hiểu được bản chất của TMĐT B2C, trước tiên chúng ta nghiên
cứu diễn biến các hoạt động của khách hàng khi thực hiện mua hàng.

21


* Mô hình TMĐT B2C từ phía khách hàng
Quá trình bắt đầu bằng các bước tiền mua hàng, sau đó là mua hàng
và cuối cùng là các bước hậu mua hàng.
Quá trình tiền mua hàng bao gồm các hoạt động tìm kiếm thông tin
và phát hiện các sản phẩm phù hợp với yêu cầu của KH và lựa chọn SP từ
nhóm những SP xác định trên cơ sở tiêu chí so sánh.
Quá trình mua hàng mô tả dòng các thông tin và các tài liệu có liên

quan đến việc mua hàng và thương lượng giữa KH và người bán về những
điều khoản cụ thể như giá cả, điều kiện mua hàng và cơ chế thanh toán, và
tiếp đến là việc khách hàng thực hiện thanh toán.
Giai đoạn hậu mua hàng là các hoạt động dịch vụ KH để giải quyết
các khiếu nại của KH, các dịch vụ đi kèm hoặc KH có thể trả lại SP.
* Mô hình TMĐT B2C từ phía công ty
Mô hình TMĐT B2C từ phía công ty mô tả chu trình quản lý việc
mua hàng của KH, tức là các hoạt động công ty cần thực hiện để đáp ứng
các nhu cầu của KH trong quá trình mua hàng: hoàn thành đơn hàng và giao
hàng cho KH cũng như thực hiện các hoạt động hậu cần cho kinh doanh của
công ty. Để hiểu rõ mô hình TMĐT B2C từ phía công ty, trước tiên chúng
ta phải nghiên cứu chuỗi cung cấp và xu hướng biến động gần đây của quản
lý chuỗi cung cấp cũng như tác động của TMĐT vào quản lý chuỗi cung
cấp. Ngoài ra phải quản lý đơn hàng trong TMĐT B2C. Các hoạt động
trong quản lý đơn hàng TMĐT B2C bao gồm: đảm bảo việc thanh toán của
KH, kiểm tra hàng hóa có trong kho, chuyển hàng, bảo hiểm, sản xuất, các
dịch vụ của nhà máy, mua và công tác kho vận, liên lạc với KH, hoàn trả,
dự báo nhu cầu, kế toán.
c. Các công cụ hỗ trợ KH trong TMĐT B2C

22


Trong TMĐT, KH có nhiều công cụ hỗ trợ khi ra quyết định mua
hàng và trong suốt quá trình mua hàng. KH cần phải cân nhắc mua những
sản phẩm dịch vụ gì, từ công ty nào, trang web nào và sử dụng những dịch
vụ nào… Đó là:
- Cổng mua hàng
- Robot mua hàng (shopbot)
- Các trang web xếp hạng kinh doanh

- Các trang web xác minh độ tin cậy
- Các loại công cụ hỗ trợ KH khác như: cộng đồng KH
d. Dịch vụ KH và quản trị quan hệ KH
Dịch vụ KH và quản trị quan hệ KH có các chức năng sau: Cung cấp
các công cụ hỗ trợ tìm kiếm và so sánh. Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ
miễn phí. Cung cấp các thông tin và dịch vụ chuyên môn hóa. Cho phép
KH đặt hàng các sản phẩm và dịch vụ cá nhân hóa. Hỗ trợ KH theo dõi tài
khoản hoặc tình trạng đơn hàng của mình.
Các công cụ cung cấp dịch vụ KH như: các trang web cá nhân hóa,
các câu hỏi thường gặp, các công cụ theo dõi, phòng chat, e-mail và tự động
trả lời.
1.4.2.2. Mô hình kinh doanh thương mại điện tử giữa các doanh
nghiệp (B2B e-commerce)
a. Khái niệm
Thương mại điện tử B2B là các giao dịch được thực hiện giữa các
thành viên của chuỗi quản lý cung cấp hàng hóa/dịch vụ, hya giữa các đơn
vị kinh doanh với bất kỳ một đối tác kinh doanh khác bằng việc sử dụng
phương tiện điện tử qua mạng Internet. Đơn vị kinh doanh ở đây có thể là

23


bất kỳ một tổ chức nào: tổ chức tư hay công, tổ chức kinh doanh thu lợi
nhuận hay phi lợi nhuận.
b. Đặc điểm
Đặc điểm chính của TMĐT B2B là các công ty cố gắng tự động hóa
quá trình giao dịch trao đổi và hoàn thiện quá trình này. TMĐT B2B được
thực hiện trực tiếp giữa người mua và người bán hoặc thông qua một đối
tác kinh doanh trực tuyến thứ ba. Đối tác trung gian này có thể là tổ chức, là
người hoặc là một hệ thống điện tử. Đặc điểm chung của các hoạt động của

B2B nằm trong chuỗi cung cấp của công ty sản xuất hoặc thương mại.
TMĐT B2B giúp cho quá trình giao dịch trong chuỗi cung cấp hiệu
quả hơn do việc đem lại ít sự thay đổi, hoặc thay đổi hoàn hảo hơn và loại
trừ những người trung gian.
TMĐT B2B có 2 loại giao dịch cơ bản: mua hàng ngay lập tức và
mua hàng chiến lược.
c. Đối tượng tham gia và các thông tin giao dịch trong TMĐT
B2B
Đối tượng tham gia vào TMĐT B2B gồm: người bán, người mua,
người trung gian, cổng giao dịch, dịch vụ thanh toán, người cung cấp hậu
cần, mạng Internet, giao thức giao dịch, dịch vụ an ninh, quá trình hợp tác
trong nội bộ.
Các thông tin giao dịch trong TMĐT B2B là: sản phẩm, khách hàng,
nhà cung cấp, quá trình sản xuất, vận chuyển, tồn kho, chuỗi cung cấp, đối
thủ cạnh tranh, bán hàng và tiếp thị, quá trình cung cấp hàng hóa và thực
hiện.
d. Các phương thức trong TMĐT B2B
Gồm có:
24


- Phương thức lấy công ty làm trung tâm (bán hàng trực tiếp từ Ca-talog, đấu giá trong TMĐT B2B, đấu thầu điện tử).
- Thương mại điện tử trong doanh nghiệp (TMĐT giữa DN và người
lao động B2E, nội dung của TMĐT giữa các bộ phận chức năng hay trong 1
bộ phận chức năng, marketing điện tử nội bộ, cổng giao dịch trong DN).
- TMĐT giữa các doanh nghiệp (hậu cần điện tử cho DN, hoàn thiện
đơn đặt hàng, quản lý chuỗi cung cấp hàng hóa).
- Trao đổi tài liệu điện tử (EDI)
1.5.2.4. Các mô hình đặc trưng trong kinh doanh thương mại
điện tử

Bao gồm:
- Mô hình kinh doanh giữa các người tiêu dùng (customer-to-customer C2C): Đây là mô hình mà người tiêu dùng có thể sử dụng để bán các hàng
hoá của mình cho người tiêu dùng khác với sự giúp đỡ của một doanh
nghiệp kinh doanh trực tuyến.
- Mô hình kinh doanh ngang hàng (peer-to-peer - P2P): mô hình kinh doanh
ngang hàng (P2P) cũng hoạt động với mục tiêu liên kết những người sử
dụng, cho phép họ chia sẻ các tệp tin và các tài nguyên khác trên máy tính
mà không cần truy cập vào một máy chủ chung. Điểm nổi bật của loại hình
P2P là cho phép các cá nhân có thể tự mình tạo lập các thông tin hữu ích để
những cá nhân khác sử dụng bằng cách kết nối họ với nhau trên Web. Điểm
khác biệt cơ bản so với loại hình C2C là P2P không liên kết những người sử
dụng với mục đích mua bán hàng hoá, dịch vụ mà chủ yếu là để chia sẻ các
thông tin và các loại tài nguyên khác.
- Mô hình thương mại di động (M-commerce)
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động thương mại điện tử
25


×