Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Nghiên cứu đối chiếu hành vi từ chối lời đề nghị và lời mời của người mỹ và người việt (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.09 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------

VƯƠNG THỊ HẢI YẾN

NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU HÀNH VI TỪ CHỐI LỜI
ĐỀ NGHỊ VÀ LỜI MỜI CỦA NGƯỜI MỸ VÀ NGƯỜI VIỆT

Chuyên ngành: NGÔN NGỮ SO SÁNH ĐỐI CHIẾU
Mã số: 62220241

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC


Hà Nội – 2018
Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Vũ Thị Thanh Hương

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp cơ sở, họp tại
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn Hà Nội.
Vào hồi …….. giờ, ngày ….. tháng ….. năm 2018



Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện quốc gia Việt Nam
- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Vương Thị Hải Yến, 2017, Hành vi từ chối lời đề nghị của người Mỹ
và người Việt, Tạp chí ngôn ngữ và Đời sống số 12 (tr.67-73)
2. Vương Thị Hải Yến, 2017, Phương tiện từ vựng biểu thị hành vi từ
chối trực tiếp lời đề nghị trong tiếng Anh, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa
thư số 6 (tr.216- 221)
3. Vương Thị Hải Yến, 2017, Hành vi từ chối trực tiếp lời mời của
người Mỹ và người Việt, Hội thảo khoa học toàn quốc (kỷ yếu), Hà Nội
(tr.638-643)



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa và ngôn ngữ là hai đối tượng gắn bó mật thiết, khăng khít với
nhau, văn hóa là nội dung và ngôn ngữ là phương tiện chuyển tải nội dung đó,
vì thế mối quan hệ ngôn ngữ và văn hóa ngày càng được nhiều người quan tâm,
nghiên cứu. Ngày nay, tiếng Anh đã trở thành một ngôn ngữ quốc tế và được sử
dụng rộng rãi ở rất nhiều quốc gia trên thế giới. Để có thể làm chủ được một
ngôn ngữ khác thì phải nắm bắt được phông văn hóa. Trong mỗi hành vi giao
tiếp kể cả hành vi lời nói như TC lời đề nghị, lời mời … hoặc hành vi phi lời,
đều có dấu ấn mạnh mẽ của văn hóa.
Trong các HVNN, HVTC là hành vi phổ quát của mọi ngôn ngữ. Cũng như
tất cả các hành vi khác, nó chịu sự chi phối của các nhân tố ngôn ngữ và xã hội. Đề

tài Nghiên cứu đối chiếu HVTC lời đề nghị và lời mời của người Mỹ và người Việt
với mong muốn thông qua đối chiếu tìm ra được những tương đồng và khác biệt
giữa người Mỹ và người Việt về cách thức TC lời đề nghị, lời mời nhằm giúp người
Việt học tiếng Anh hiểu rõ sự khác biệt về văn hóa khi thực hiện HVTC trong giao
tiếp, góp phần nâng cao hiệu quả dạy, học tiếng Anh ở nước ta và dạy tiếng Việt cho
người nước ngoài, tránh những xung đột, những “cú sốc văn hóa”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu chính của LA là các phương thức thể hiện
HVNN TC lời đề nghị, lời mời của người Mỹ và người Việt, đó chính là các
cấu trúc và CL được sử dụng để đạt mục đích TC.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Các HVNN được sử dụng để đạt đích giao tiếp là TC lời đề nghị, lời
mời (có thể là trực tiếp hay gián tiếp, tường minh hay ngầm ẩn).
- Những nhân tố ảnh hưởng đến cách chọn lựa các C L HVTC lời đề
nghị, lời mời của hai dân tộc. Qua đó, bộc lộ một số điểm tương đồng và dị biệt
trong HVTC giữa hai nền văn hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
LA hướng tới tìm hiểu những đặc điểm ngôn ngữ và văn hóa thể hiện
qua HVTC lời đề nghị, lời mời trong tiếng Anh Mỹ và tiếng Việt với mục
đích giúp cho việc giao tiếp ứng xử hằng ngày đạt hiệu quả tối ưu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu HVTC lời đề nghị, lời mời ở cả ba bình diện: cấu trúc, ngữ
nghĩa và ngữ dụng, chúng tôi xác định các nhiệm vụ của LA như sau:
(1) Thông qua khảo sát và phân tích tư liệu thực tế hội thoại trong tiếng Anh
và tiếng Việt có sử dụng HVNN TC lời mời hay lời đề nghị, tập hợp các BTNV TC
lời mời hay lời đề nghị ở cả hai ngôn ngữ, từ đó nêu lên được các đặc trưng ngôn
ngữ-văn hóa trong TC lời mời, lời đề nghị của người Mỹ và người Việt.
1



(2) Mô tả và xác định vai trò ngữ nghĩa của các thành tố tạo nên BTNV
TC lời đề nghị và BTNV TC lời mời.
(3) Tổng hợp các CL người Mỹ và người Việt thường sử dụng khi thực
hiện HVTC lời đề nghị và lời mời và chức năng của chúng trong giao tiếp để
chỉ ra những biểu hiện văn hóa của hai dân tộc nói chung và văn hóa ứng xử
của người Mỹ và người Việt thông qua hai HVNN đối ứng nhau này nói riêng.
(4) Khẳng định tầm quan trọng của việc nắm rõ những CL giao tiếp và
những từ định hướng nghĩa để đạt hiệu quả trong giao tiếp.
(5) So sánh HVTC lời đề nghị, lời mời của người Mỹ và người Việt nhằm
xác định sự tương đồng và dị biệt về nội dung, hình thức, CL sử dụng, phương
thức thể hiện và chức năng của chúng trong hai ngôn ngữ và hai nền văn hóa.
Kết quả nghiên cứu sẽ giúp ích cho công tác dịch thuật…, góp phần vào việc
nghiên cứu về văn hóa và giao tiếp ngôn ngữ hướng tới giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt; nâng cao sự hiểu biết về lĩnh vực giao tiếp giao văn hóa trong
quá trình dạy và học ngoại ngữ.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi phối hợp sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cơ bản đang được sử dụng phổ biến và có hiệu quả như phương
pháp thống kê, phương pháp đối chiếu, phương pháp miêu tả, phương pháp
xã hội - ngôn ngữ học.
4.2. Nguồn tư liệu
Ngữ liệu nghiên cứu được khai thác từ các nguồn: các tác phẩm văn học;
đoạn thoại tự nhiên trong giao tiếp hàng ngày có chứa phát ngôn TC lời mời
hoặc lời đề nghị theo quan sát cá nhân; sử dụng lại kết quả của các tài liệu
nghiên cứu trước đây; thông qua mạng Internet; sách giảng dạy tiếng Anh của
người bản ngữ; phiếu khảo sát
5. Đóng góp của luận án

5.1. Về mặt lí luận
- Thứ nhất, nghiên cứu này sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn về các
phương tiện biểu đạt và nội dung ngữ nghĩa của HVTC lời đề nghị và lời mời
ở cả ba bình diện: cấu trúc, ngữ nghĩa và ngữ dụng.
- Thứ hai, LA tập hợp được lớp từ ngữ người Mỹ và người Việt thường
sử dụng khi thực hiện một HVTC lời đề nghị và lời mời; mô tả cặn kẽ những
đặc trưng, tính chất của hai HVNN đối ứng nhau trong cả hai ngôn ngữ.
- Thứ ba, kết quả nghiên cứu chỉ ra được sự giống nhau và khác biệt
trong các CL thể hiện HVTC lời đề nghị và lời mời trong tiếng Anh và người
Việt học tiếng Anh; việc ảnh hưởng của văn hóa đến cách giao tiếp người bản
ngữ nói tiếng Anh và người Việt nói tiếng Anh.
- Thứ tư, kết quả nghiên cứu góp phần vào việc nghiên cứu lí luận về
phương pháp giảng dạy tiếng Anh và vấn đề giao thoa văn hóa trong giảng dạy.
5.2. Về mặt thực tiễn
2


- Luận án cung cấp nhiều ví dụ sinh động về ngôn ngữ học xã hội trong
việc dạy và học ngoại ngữ, đặc biệt là trong văn hóa ứng xử, giao tiếp hằng
ngày, cụ thể là việc dạy và học tiếng Việt và tiếng Anh Mỹ. Chúng tôi mong
muốn góp phần nghiên cứu sâu hơn về giao tiếp ngôn ngữ dưới góc độ văn hóa
và giao thoa văn hóa thuộc phạm vi HVTC lời đề nghị và lời mời.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, LA gồm 4 chương với các nội dung
chính sau: Chương 1- Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý thuyết.
Chương 2- Đối chiếu HVTC lời đề nghị trong tiếng Anh và tiếng Việt
Chương 3- Đối chiếu HVTC lời mời trong tiếng Anh và tiếng Việt
Chương 4- Nhân tố quyền lực và sự lựa chọn các chiến lược từ chối lời đề
nghị và lời mời của người Mỹ và người Việt
CHƯƠNG I

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Tổng quan nghiên cứu về HVTC lời đề nghị và lời mời
1.1.1. Nghiên cứu trên thế giới
Nghiên cứu hành vi từ chối đã được thực hiện khá nhiều ở những nước
nói tiếng Anh trên thế giới. Leslie M. Beebe, Tomoko Takahashi và Robin Liss
Welz (1990) thuộc trường Đại học Colombia, nghiên cứu đã đưa ra các công
thức ngữ nghĩa (Semantic Formula) để cấu tạo nên hành vi từ chối [47]. Một số
nghiên cứu về hành vi từ chối trong các bối cảnh liên văn hóa và không phải
bản ngữ cũng được nghiên cứu khá nhiều. Trong các tình huống cụ thể,
Hartford và Bardovi-Harlig [54] phát hiện cả sinh viên bản ngữ và sinh viên
không là người bản ngữ đều đưa ra lời giải thích khi từ chối. Tuy nhiên, so với
người bản ngữ, người học tiếng Anh có xu hướng sử dụng các chiến lược lảng
tránh nhiều hơn. Beckers [48] thấy rằng người Mỹ thay đổi chiến lược từ chối
dựa theo địa vị xã hội (cao, thấp, bằng nhau) chứ không phải là khoảng cách xã
hội (người lạ, người quen, và thân mật), trong khi người Đức thay đổi chiến
lược từ chối của mình theo khoảng cách xã hội, chứ không phải là địa vị xã hội.
Felix-Brasdefer [53] đưa ra sáu tình huống khác nhau (hai lời mời, hai yêu cầu,
và hai đề xuất) xét ở góc độ vị thế xã hội (bằng nhau hoặc cao hơn) và phát hiện
thấy chuyển dịch ngữ dụng âm tính trong tần số, nội dung, và quan điểm xã hội
khi thực hiện các chiến lược từ chối.
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về lời từ
chối. Phan Thị Vân Quyên [69] đã dựa vào bảng điều tra sử dụng ba tình huống
giao tiếp trên kết quả điều tra 100 người sinh sống ở miền Bắc, Việt Nam và
100 người bản ngữ Anh sinh sống tại Anh, Mỹ và Úc đã chỉ ra được một số
điểm tương đồng và khác biệt dưới góc độ dụng học và văn hóa. Vũ Tiến Dũng
[6] đã chỉ ra có 6 chiến lược lịch sự trong hành vi từ chối lời cầu khiến. Nguyễn
Phương Chi [4] thông qua tư liệu 1500 phiếu khảo sát, tác giả đã chỉ ra được 23
chiến lược từ chối trong tiếng Việt. Trần Chi Mai [21], Ngô Hương Lan [17]
3



nghiên cứu về hành vi từ chối lời cầu khiến ở góc độ cấu trúc- ngữ nghĩa- ngữ
dụng, ở bình diện giao tiếp ngôn ngữ, các phát ngôn từ chối thuộc lượt lời thứ
hai của đoạn thoại cầu khiến. Nguyễn [66] đã đề cập tới vấn đề giao thoa văn
hóa trong hành vi từ chối chỉ ra sự tương đồng và dị biệt giữa yếu tố giới tính;
khoảng cách xã hội; và địa vị xã hội trong thể hiện hành vi từ chối thỉnh cầu
bằng tiếng Anh của người Úc và người Việt học tiếng Anh.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển kết quả của các công trình đi trước, đặc
biệt, công thức ngữ nghĩa cấu thành nên hành vi từ chối của nhà nghiên cứu
ngôn ngữ Beebe đã trở thành nền tảng cho các nghiên cứu sau này.
1.2. Cơ sở lí thuyết liên quan đến đề tài
1.2.1. Lí thuyết HVNN
1.2.1.1 Khái niệm về HVNN
J.L. Austin (1962) quan niệm “nói là làm” trong công trình nghiên cứu:
“How to do thing with words”. Ông xem HVNN là một thể thống nhất những
HV: HV tạo lời (locutionary act); HV tại lời (illocutionary act); HV mượn lời
(perlocutionary act). Trong ba loại hành vi đó, hành vi tại lời là đối tượng
nghiên cứu của ngữ dụng học. Và khái niệm HVNN hiểu theo nghĩa hẹp chính
là HV tại lời. HV tại lời là nói một điều gì đó và thực hiện điều đó như thế nào
và thực hiện HV ấy phải ngay khi phát ra câu nói. Ví dụ: (1) - I can’t go because
my mother is very sick, she needs me. (Mình không thể đi được bởi vì mẹ mình ốm
và bà ấy cần mình). (HV tại lời là TC một đề nghị). Vì vậy HV tại lời chính là lực
ngôn trung, là đích phát ngôn. Nó bị chi phối bởi các quy tắc hình thành tự
nhiên theo cộng đồng với những điều kiện sử dụng được thực hiện. John R.
Searle (1969) cũng tin rằng mỗi khi ai đó thực hiện một HV HVNN thì người
đó có thể thực hiện ba HV sau: HV phát ngôn (utterance act); HV mệnh đề
(propositional act); HV tại lời (illocutionary act. Có thể nói rằng tư tưởng của
Austin và Searle đã đạo nền móng vững chắc cho lý thuyết HVNN.
1.2.1.2 Phân loại HVNN

Austin (1962) đã phân loại các HV tại lời thành 5 lớp lớn: 1. Phán xử
(Verdictive); (2) Hành xử (Exercitive); 3. Cam kết (Commisive); 4. Ứng xử
(Behabitive); 5. Trình bày (Expositive). Trong đó thì HVTC thuộc phạm trình bày.
J.R.Searle phân loại các HVNN có sự tiến bộ hơn so với J.L.Austin. Tác giả
Nguyễn Đức Dân [5] tóm lược: Searle đã nêu ra mười hai phương diện
(dimensions) mà các HVNN có thể khác nhau. Trong số này, ông chọn bốn tiêu
chí cơ bản để phân loại các HV tại lời: Đích tại lời (Illocutionary point); hướng
của sự khớp ghép (Direction of fit); trạng thái tâm lý được biểu hiện; nội dung
mệnh đề. Dựa vào những tiêu chí này mà J.R.Searle chia HVNN ra thành 5
loại: (1) Tái hiện (Representatives- trước ông gọi là Xác tín: Assertives); (2)
Điều khiến (Directives); (3) Cam kết (Commissive); (4) Biểu cảm
(Expressives); (5) Tuyên bố (Declaratives). Theo đó HVTC thuộc nhóm điều
khiến. Các HV thuộc lớp này là ra lệnh, sai, sai khiến, bảo, yêu cầu, đề nghị,
mời, xin phép, cho phép, khuyên nhủ, chỉ thị, khuyến nghị, hỏi, tra…
4


1.2.1.3. Điều kiện sử dụng và phương thức thực hiện HV tại lời.
Searle chia làm 4 loại chính như sau: Điều kiện ban đầu; điều kiện chân
thực; điều kiện thiết yếu (điều kiện căn bản); điều kiện nội dung mệnh đề.
a. Phát ngôn ngữ vi, BTNV, dấu hiệu ngữ vi và ĐTNV.
Phát ngôn ngữ vi có một kết cấu lõi đặc trưng cho HV tại lời tạo ra nó.
Kết cấu lõi đó được gọi là BTNV. Ví dụ: (2) Phát ngôn từ chối sau đây: Tôi từ
chối đề nghị của ông. có BTNV: từ chối đề nghị.
BTNV là những thể thức nói năng đặc trưng cho một HV tại lời. BTNV là
dấu hiệu ngữ pháp - ngữ nghĩa của các HV tại lời. Nhờ các BTNV chúng ta
nhận biết được các HV tại lời. Mỗi biểu thức được đánh dấu bằng các dấu hiệu
chỉ dẫn, nhờ những dấu hiệu này mà các BTNV phân biệt với nhau. J. Searle gọi
các dấu hiệu này là các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực tại lời (Illocutionary force
indicating devices- IFIDS), cụ thể: Ngữ điệu; các kiểu kết cấu; những từ ngữ

chuyên dùng trong BTNV (biểu thức ngữ vi). Trong những từ ngữ chuyên dùng
trong biểu thức ngữ vi có một loại động từ được gọi là động từ ngữ vi
(performative verbs).
Ví dụ: (3) I refuse your offer. (Tôi từ chối lời đề nghị của anh)
b. BTNV nguyên cấp (primary) và BTNV tường minh (explicit); phát ngôn
ngữ vi tường minh và phát ngôn ngữ vi nguyên cấp
J. L Austin phân biệt các phát ngôn ngữ vi nguyên cấp (primary) là các
phát ngôn không có động từ ngữ vi và nhưng phát ngôn ngữ vi tường minh là
những phát ngôn có động từ ngữ vi dùng theo hiệu lực ngữ vi. Ví dụ: (4) “I
would like to invite you to the final ceremony of our language program next
Friday evening at 8:00.” (110; 138). Những phát ngôn không chứa các vị từ ngữ
vi mà sử dụng các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực tại lời được gọi là các phát
ngôn nguyên cấp.
1.2.1.4. HVNN trực tiếp và HVNN gián tiếp
Tác giả Đào Thanh Lan [18;47], HV trực tiếp tạo ra lời trực tiếp/ chính
danh. HV gián tiếp tạo ra lời gián tiếp/ hàm ngôn.
1.2.2. Hành vi đề nghị và hành vi từ chối lời đề nghị
1.2.2.1. Hành vi đề nghị
Theo từ điển Oxford dictionary [68,1052] “Offer means an act of saying
that you are willing to do something for somebody or give something to
somebody” (Đề nghị nghĩa là hành động nói rằng bạn sẵn sàng làm điều gì đó
cho ai đó hoặc cho ai đó cái gì). Đề nghị thuộc nhóm có tính áp đặt trung bình,
mang sắc thái thương lượng và bắt đầu có dấu hiệu của tính chất lịch sự trong
giao tiếp. Vị thế giao tiếp của người nói so với người nghe khi sử dụng động từ
đề nghị thường ngang bằng nhau hoặc cao hơn. Khi hành động này được thực
hiện, quyền lợi có thể là cho người nói hoặc cho cả người nói và người nghe.
1.2.2.2. Hành vi từ chối lời đề nghị
Theo từ điển Oxford Advanced dictionary [28,551], “Refusing an offer
here means saying or showing that you do not want to do or accept the offer of
5



someone”. Như vậy, có thể thấy hành vi từ chối một đề nghị là “không chịu
nhận cái được giành cho hoặc được yêu cầu”, khi đáp lại lời người đề nghị, nói
cách khác là từ chối không hành động theo mong đợi của người đề nghị.
1.2.2.3. Tiêu chí nhận diện hành vi từ chối lời đề nghị
a. Ngữ cảnh tình huống
Hành động từ chối lời đề nghị là phần thứ hai của hành động đề nghị khi
xuất hiện phần thứ nhất là hành động đề nghị, cùng với hành động đề nghị này
thành một cặp kế cận, tạo thành một cấu trúc không ưa chuộng. Ví dụ:
(10) (Bà mẹ đưa con đi hội chợ)
- Mẹ ơi, mẹ mua kem thêm cho con đi.
- Thôi, để lúc khác. Bây giờ mẹ không mang đủ tiền. (78)
b. Phương diện đích ngôn trung
Theo Đào Thanh Lan [18], trong 16 hành động cầu khiến, thì đề nghị là
một trong các hành động cầu khiến có tính chất khiến trung bình, cầu thấp. Với
ý nghĩa đó, lời đề nghị có đích ngôn trung vừa cầu vừa khiến.
Một hành động ngôn ngữ, theo Searle, được nhận diện khi nó chứa một/
một vài dấu hiệu hình thức (IFIDs - illocutionary force indicating devices) sau
đây: ngữ điệu; mối quan hệ giữa câu với ngữ cảnh; ĐTNV (refuse, decline,
deny…) ; các kiểu kết cấu câu đặc trưng (như kết cấu câu cầu khiến, kết cấu câu
nghi vấn, kết cấu câu trần thuật…) các từ ngữ chuyên dùng (No, not, never…).
Chúng tôi sẽ bàn luận kỹ hơn vấn đề này ở mục 2.1
c. Phương diện lợi ích của Sp1 và Sp2 trong hành vi từ chối lời đề nghị
Theo Đào Thanh Lan [18;55], vị thế xã hội được hiểu là địa vị, tư thế của
người này so với người khác trong xã hội, nó được tạo thành bởi các nhân tố
sau: nghề nghiệp, chức vụ, tuổi tác, quan hệ huyết thống. Vị thế giao tiếp được
hiểu là địa vị, tư thế của một người nào đó trong bối cảnh cụ thể của cuộc giao
tiếp mà người đó tham gia. Vị thế giao tiếp được tạo thành bởi các nhân tố sau:
vị thế xã hội và mục đích phát ngôn. Hai vị thế này có khi trùng nhau, có khi

không trùng nhau. Thông thường, vị thế xã hội chi phối vị thế giao tiếp.
Ở HVTC lời đề nghị có thể xuất hiện tất cả các trường hợp trên: chủ ngôn
có vị thế giao tiếp và vị thế xã hội cao hơn tiếp ngôn; chủ ngôn có vị thế xã hội
cao nhưng vị thế giao tiếp ngang bằng tiếp ngôn, chủ ngôn có vị thế xã hội thấp
nhưng vị thế giao tiếp ngang bằng (khi đó, phát ngôn thường thiên về sắc thái
khiến); chủ ngôn có vị thế xã hội cao nhưng vị thế vị thế giao tiếp thấp hơn tiếp
ngôn; chủ ngôn có vị thế xã hội thấp và vị thế giao tiếp cũng thấp hơn tiếp ngôn
(khi đó, phát ngôn thường thiên về sắc thái cầu).
1.2.2.4. Phân loại hành vi từ chối lời đề nghị
Căn cứ vào 1.2.2.3 và phân loại hành vi đề nghị, luận án của chúng tôi sẽ chia
hành vi từ chối lời đề nghị phân ra làm hai loại: từ chối trực tiếp và từ chối gián tiếp.
1.2.3. HV mời và hành vi từ chối lời mời
1.2.3.1. Hành vi mời
6


Theo từ điển Oxford Advanced Learner’s Dictionary [68,685], “Invitation
is a spoken or written request to somebody to do something or to go
somewhere” (Mời là một yêu cầu bằng lời nói hoặc bằng chữ viết yêu cầu ai đi
đâu hay làm gì một cách trân trọng”. Với ý nghĩa đó, lời mời có đích ngôn
trung cầu khiến mang lực ngôn trung cầu. Ngoài ra, mời còn là sự tỏ ý muốn
của người nói hướng tới người nghe đến việc thực hiện một việc gì đó để hưởng
thụ lợi ích cho mình. Ví dụ: Mời bác xơi tạm chén nước. Khi sử dụng động từ
mời, người nói thường hạ thấp mình một chút, nhún nhường để tỏ ra lịch sự
mặc dù vị thế xã hội cao hơn, ngang bằng hay thấp đều có thể sử dụng được nó.
Tính áp đặt của mời thấp, người nghe có quyền từ chối lời mời của người nói.
Nói một cách khái quát, mời là một nghi thức, trong đó Sp rất đề cao H, dành
cho H nhiều tình cảm thân thiện. Theo G. Leech (1983), nếu hành động đề nghị
ít nhiều đều đụng chạm đến H, riêng hành động mời xét trên nhiều góc độ thì về
nguyên tắc H chỉ có thể hưởng lợi và được tôn trọng.

Cùng nằm trong trường nghĩa với mời, có thể kể thêm hành động rủ. Rủ
là bảo cho người khác nghe theo để cùng làm với mình [24,836]. Có thể thấy, so
với mời, hoàn cảnh giao tiếp và mối quan hệ liên nhân giữa Sp và H trong rủ
hạn chế hơn, chủ yếu trong môi trường thân mật, và có phần suồng sã.
1.2.3.2. Hành vi từ chối lời mời
Theo từ điển Oxford Advanced dictionary, “Refusing an invitation here
means you are not willing or reject to do something when someone invites you
to do. It also means you don’t accept the invitation of someone”. Như vậy, có
thể thấy hành vi từ chối một lời mời là “nói với người mời là không nhận điều
gì hay không làm điều gì được đề cập đến trong lời mời.”
1.2.3.3. Tiêu chí nhận diện hành vi từ chối lời mời
a. Ngữ cảnh tình huống
Từ chối lời mời là hành động (bằng lời hay không lời) của Sp2 thể hiện
sự khước từ làm theo lời mời của Sp1. Trong đối thoại, lời mời đi cùng với lời
chấp nhận hoặc từ chối, làm thành một cặp kế cận với nhau, nối tiếp nhau trên
một cơ sở nào đó. Ví dụ: (12) - … Chúng tôi mời cậu ăn cơm tối.
- Cám ơn bà. Để bữa khác. Tối nay cho phép tôi mời cô bé đi ăn cơm
bình dân. Biết đâu ăn ở quán đông người cô bé sẽ thích hơn.” (71)
b. Phương diện đích ngôn trung
Những phát ngôn mời có từ “mời” là những phát ngôn mời tường minh và
những phát ngôn mời không có từ “mời” là những phát ngôn mời nguyên cấp
hay mời hàm ẩn. Qua cách phân loại HVNN của Searle (1975), Brown và
Levinson (1978), BlumKulka (1987), chúng tôi phân loại HVTC biểu hiện theo
đích ngôn trung thành hai hình thức cơ bản như sau:
1) Từ chối trực tiếp (TCTT) là hành vi từ chối bằng những cú pháp điển
hình. Ví dụ: (13) - Mời cô ngồi.
Mai lễ phép: - Bẩm bà lớn, con không dám. (61,58)
2) Từ chối gián tiếp được biểu hiện bằng cấu trúc cú pháp không điển
7



hình và việc lợi dụng từ vựng trong cách thức TCGT. Ví dụ:
(14) Liễu dúi vào tay anh cảnh sát một phong bì tiền dày cộp. Anh Phó
công an huyện gạt trả lại và nhã nhặn: - Chiều nay, mời các anh ở đây ăn cơm
tập thể với gia đình nhà em. Tối nay, có lẽ các anh còn phải đi tìm, nhà em
muốn gửi các anh chút bồi dưỡng làm đêm.
- Chị cứ giữ lại, khi nào tìm thấy anh ta, dùng tiền này, mua con lợn ăn
mừng, chúng tôi sẽ kéo cả huyện đến. (17, 411)
c. Phương diện lợi ích của SP1 và SP2 trong hành vi từ chối lời mời
Ở hành vi từ chối lời mời có thể xuất hiện tất cả các trường hợp: chủ ngôn
có vị thế xã hội cao nhưng vị thế vị thế giao tiếp thấp hơn tiếp ngôn; chủ ngôn
có vị thế xã hội thấp và vị thế giao tiếp cũng thấp hơn tiếp ngôn (khi đó, phát
ngôn thường thiên về sắc thái cầu- thỉnh cầu sự tự nguyện hành động/ sự hảo
tâm của tiếp ngôn). Vì hành vi mời là một hành vi cầu khiến hòa đồng, căn cứ
vào mối quan hệ về lợi ích giữa người mời (Sp1) với người từ chối (Sp2), ta
nhận thấy, cả SP1 và SP2 cùng hưởng lợi, hoặc ít ra SP2 được lợi còn SP1 hoặc
trung hòa hoặc chịu thiệt theo ý muốn của mình.
1.2.3.4. Phân loại hành vi từ chối lời mời
Mời là một hành động khởi xướng được chia thành hai loại: mời nghi
thức và mời chân thành. Căn cứ vào 1.2.3.3, chúng tôi chia hành vi từ chối lời
mời phân ra làm hai loại: từ chối trực tiếp và từ chối gián tiếp.
1.2.4. Hội thoại và các khái niệm liên quan
Đoạn thoại: Theo Đỗ Hữu Châu [2; 208-209], đoạn thoại là mảng diễn
ngôn do một số cặp trao đáp liên kết chặt chẽ với nhau về ngữ nghĩa hoặc về
ngữ dụng. Đoạn thoại hành vi đề nghị, hành vi mời và HV từ chối là cặp trao đáp có chứa phát ngôn đề nghị, phát ngôn mời tiền vị và phát ngôn từ chối.
Ngữ cảnh: Có thể hiểu ngữ cảnh là bối cảnh phi ngôn ngữ trong đó
ngôn ngữ được sử dụng.
Lượt lời: Nguyễn Thiện Giáp quan niệm lượt nói là “Chuỗi đơn vị
ngôn ngữ được một nhân vật hội thoại nói ra, kể từ lúc bắt đầu cho đến lúc
chấm dứt để cho nhân vật hội thoại kia nói chuỗi của mình”.

Quy tắc hội thoại: Theo C.K. Crechioni quy tắc hội thoại chia thành 3 nhóm
như sau: các quy tắc về điều hành sự luân phiên lượt lời; những quy tắc chi phối
cấu trúc của hội thoại; những quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân trong hội thoại.
[2; 225]
1.2.5. HVTC và tính lịch sự
1.2.5.1. Một số vấn đề về lý thuyết lịch sự
Lịch sự (politeness) là một nhu cầu trong xã hội, đặc biệt là trong xã
hội văn minh. Nó tác động, chi phối đến quá trình giao tiếp và cả đến hiệu quả
giao tiếp. Quan niệm về lịch sự của P. Brown & S. Levinson là rõ ràng hơn cả:
“Lịch sự chỉ bất cứ phương thức nào được dùng để tỏ ra lưu ý đến tình cảm
(feelings) hay là thể diện của nhau trong hội thoại, bất kể khoảng cách xã hội
giữa người nói và người nghe như thế nào” (P. Brown & S. Levinson). Hai ông
8


phân biệt hai loại thể diện: thể diện dương tính (thể diện tích cực) và thể diện
âm tính (thể diện tiêu cực).
Tác giả Vũ Thị Thanh Hương đã nói: lịch sự trong tiếng Việt bao gồm bao
hàm cả hai bình diện khác nhau về nội dung và chức năng mà nhiều tác giả gọi
là lịch sự chuẩn mực (lịch sự lễ độ) và lịch sự CL.
1.2.5.2. HVTC và tính lịch sự
HVTC theo Brown và Levinson (1987) cũng là một HV đe doạ thể diện
điển hình. Vì HVTC biểu thị ý chí của bản thân người nói không tiếp nhận,
HVTC lời đề nghị, lời mời của người nghe làm tổn hại đến tính hợp tác giữa
người nói và người nghe nên đe doạ thể diện dương tính (xâm phạm nguyện
vọng muốn được người khác tiếp nhận, ưa thích). Dó đó, người TC phải điều
chỉnh bằng những quan hệ và cách thức khác nhau ở các cộng động có nền văn
hoá khác nhau.
1.2.6. Các nhân tố tác động đến hànhvi TC
1.2.6.1. Quan hệ thân – sơ và vị thế xã hội

Theo tác giả Nguyễn Đức Dân [5], quan hệ cá nhân được xem xét dưới góc
độ sau: Quan hệ ngang (hay còn gọi là quan hệ thân sơ), quan hệ dọc (hay còn gọi
là quan hệ vị thế xã hội). Nguyễn Quang (1999) [28, 124] cũng đã đề xuất 12
yếu tố ảnh hưởng tới việc lựa chọn CL trực tiếp và CL gián tiếp. Người tham
thoại phải cân nhắc, lựa chọn các yếu tố ngôn từ, xưng hô phù hợp với tình
huống và ngữ cảnh mới có thể đạt được mục đích giao tiếp của mình.
1.2.6.2. Vấn đề văn hóa
Có thể nói văn hóa là một trong những yếu tố cơ bản nhất tác động trực
tiếp đến HVTC. Ngôn ngữ và văn hóa là hai đối tượng đặc biệt và chúng có
mối quan hệ cũng hết sức đặc biệt với nhau. Chính ngôn ngữ và văn hóa quy
định một nhóm cộng đồng lại thành một dân tộc và cũng chính là ngôn ngữ
và văn hóa làm nên tính đặc thù của dân tộc đó.
1.2.7. Lí thuyết đối chiếu
Ngôn ngữ học đối chiếu là một hệ thống các thủ pháp phân tích được sử
dụng để phát hiện cái chung và cái riêng trong các ngôn ngữ được so sánh.
Phương pháp đối chiếu là phương pháp trong đó một ngôn ngữ là trung tâm chú
ý, còn một ngôn ngữ kia là phương tiện nghiên cứu [64]. Trong luận án này, từ
những phương thức người Mỹ và người Việt thường sử dụng khi thực hiện
hành vi TC lời đề nghị, lời mời, chúng tôi đối chiếu những điểm tương đồng
và khác biệt của hai nền văn hóa khi bộc lộ hai hành động ngôn ngữ này. Cụ
thể: - Phân tích, so sánh các đặc điểm chính, các phương thức và cách thức TC lời
đề nghị, lời mời trong tiếng Anh và tiếng Việt được biểu hiện bằng các yếu tố ngôn
ngữ. Đặt ngôn ngữ - với tư cách là một trong những hành vi của con người - vào
ngữ huống cụ thể và thông qua đó nêu được đặc trưng văn hóa - ngôn ngữ và văn
hóa dân tộc của cách TC lời đề nghị, lời mời trong cả hai ngôn ngữ.
- Khái quát các nét tương đồng và dị biệt của cách TC lời đề nghị, lời mời
trong tiếng Anh và tiếng Việt.
9



- Đưa ra một số hệ quả sư phạm áp dụng vào việc giảng dạy tiếng Anh.
1.3. Tiểu kết
- Lý thuyết HVNN, lý thuyết hội thoại, lý thuyết lịch sự và lý thuyết đối
chiếu là những cơ sở lý thuyết quan trọng khi nghiên cứu một HVNN.
- Trong giao tiếp vấn đề lịch sự là một vấn đề lớn bởi lịch sự, lễ phép là
cái đi kèm tất yếu bao quanh HVNN. HVTC là HVNN không được mong đợi
và nó cũng là HV mang tính đe dọa thể diện cao. Chính vì vậy trong HVTC
chịu ảnh hưởng rất nhiều từ vấn đề lịch sự; mối quan hệ giữa những người cùng
tham thoại, từ địa vị xã hội, từ mối quan hệ họ hàng …khiến cho người tham
gia giao tiếp phải chú ý lựa chọn ngôn từ cho phù hợp.
Chương 2
ĐỐI CHIẾU HÀNH VI TỪ CHỐI LỜI ĐỀ NGHỊ
TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
2.1. Các phương tiện biểu đạt HVTC lời đề nghị
2.1.1. Các phương tiện biểu đạt HVTC lời đề nghị trong tiếng Anh
2.1.1.1 Phương tiện biểu đạt HVTC trực tiếp lời đề nghị trong tiếng Anh
2.1.1.1.1. Thành phần trung tâm chứa ĐTNV
Động từ biểu thị HVTC trong tiếng Anh bao gồm các động từ: refuse
(TC), decline (khước từ), deny (bác bỏ, phủ nhận), resist (cự tuyệt)…. nhằm
thực hiện HV không chấp nhận, bác bỏ một cách tường minh trong tiếng Anh.
(16) "- … I suggest you cite your differences of opinion with the Holy
See and establish yourself as your own Christian organization."
"I refuse!" Aringarosa declared." (111, 350)
2.1.1.1.2. Thành phần trung tâm chứa từ phủ định:NO;NOT; NEVER và
cấu tạo bằng thêm tiền tố hoặc hậu tố
2.1.1.1.3. Thành phần trung tâm và thành phần mở rộng (gồm: lời giải
thích hoặc lý do TC;lời bày tỏ sự đáng tiếc vì không thực hiện được nội dung
đề nghị; lời bày tỏ sự đồng tình; lời bày tỏ thiện chí bằng lời cảm ơn), và HV
TCTT chứa nhiều thành phần mở rộng
2.1.1.2. Phương tiện biểu đạt HV TCGT lời đề nghị trong tiếng Anh

2.1.1.2.1. HVTC gián tiếp dựa vào các thủ pháp cú pháp:biểu hiện bằng cấu
trúc trần thuật; biểu hiện bằng ngỏ ý cho một lựa chọn khác; sử dụng động từ tình
thái MUST;biểu hiện bằng cấu trúc nghi vấn; biểu hiện bằng cấu trúc cầu khiến.
2.1.1.2.2. HV TCGT dựa vào chức năng ngữ dụng: nêu lí do TC;nói lời
xin lỗi; đưa ra một giải pháp khác;đưa ra trì hoãn.
2.1.2 Các phương tiện biểu đạt HVTC lời đề nghị trong tiếng Việt
2.1.2.1 Phương tiện biểu đạt HVTC trực tiếp lời đề nghị trong tiếng Việt
2.1.2.1.1. Thành phần trung tâm chứa ĐTNV
2.1.2.1.2. Thành phần trung tâm chứa từ phủ định: từ phủ định
KHÔNG;cấu trúc (S+) KHÔNG + V; kết cấu KHÔNG BAO GIỜ/ KHÔNG
ĐỜI NÀO
10


2.1.2.1.3. Thành phần trung tâm và thành phần mở rộng (lời giải thích
hoặc lý do TC; lời bày tỏ sự đáng tiếc vì không thực hiện được nội dung cầu
khiến; bày tỏ sự đồng tình; bày tỏ thiện chí bằng lời cảm ơn), và HV TCTT
chứa nhiều thành phần mở rộng
2.1.2.2. Phương tiện biểu đạt HV TCGT lời đề nghị trong tiếng Việt
2.1.2.2.1. Hành vi TCGT dựa vào các thủ pháp cú pháp (biểu hiện bằng
cấu trúc trần thuật; biểu hiện bằng cấu trúc nghi vấn; biểu hiện bằng cấu trúc
cầu khiến)
2.1.2.2.2. HV TCGT dựa vào chức năng ngữ dụng: nêu lí do TC; bằng
cách trì hoãn)
2.1.3 Sự tương đồng và khác biệt về phương tiện biểu đạt HVTC lời đề
nghị trong tiếng Anh và tiếng Việt
2.1.3.1. Sự tương đồng
Chúng tôi nhận thấy, khi biểu đạt HVTC lời đề nghị, cả người Mỹ và
người Việt sử dụng ĐTNV khi nói lời TC có tần suất thấp như nhau, chỉ có
6/1200 tư liệu trong tiếng Anh, 10/850 tư liệu trong tiếng Việt. Cấu trúc của một

phát ngôn TCTT trong tiếng Anh: NO + thành phần trung tâm + thành phần mở
rộng và tiếng Việt: KHÔNG + thành phần trung tâm + thành phần mở rộng có
dạng thức, với chức năng và ngữ dụng giống nhau.
2.1.3.2. Sự khác biệt
Trong tiếng Việt không có dạng thức cấu tạo từ phủ định bằng hình thức
thêm tiền tố hoặc hậu tố vào sau các căn tố mang nghĩa phủ định để nói lời TC.
2.2. Các chiến lược thực hiện HVTC lời đề nghị
2.2.1. Các chiến lược thực hiện HVTC lời đề nghị trong tiếng Anh
Bao gồm 19 chiến lược: Nói thẳng thừng; Nói xúc phạm đến thể diện
người khác; Sử dụng kèm nhã ngữ khi TC; Hỏi lại xác minh thêm để tỏ ý nghi
ngờ về điều được đề nghị; Phủ nhận khả năng; Trì hoãn; Đề xuất giải pháp
khác;. Hình thức đặt điều kiện; Nêu tính vô ích của điều được đề nghị; Nêu tính
bất cập của điều được đề nghị; Cảnh báo nguy cơ nếu thực hiện hành động
được đề nghị; Nêu lý do; Giả định phản thực; Lối nói gián tiếp; Đề cao lời đề
nghị, bày tỏ sự cảm ơn; Đưa ra nguyên tắc cá nhân; Lối nói bỏ lửng; Hứa hẹn,
nêu nguyện vọng; Đề xuất nghịch hướng người thực hiện hành động được đề
nghị
2.2.1.20. Tần suất sử dụng các CLTC lời đề nghị trong tiếng Anh
Trong 1200 ngữ liệu chúng tôi tìm thấy trong tiếng Anh, được chia thành
19 CLTC lời đề nghị. Một số CLTC lời đề nghị mà người Mỹ thường ưa sử
dụng gồm sử dụng kèm nhã ngữ (14,3%); nói thẳng thừng và nêu lý do
161/1200 (13,4%) (xem Bảng 2.1). CL sử dụng kèm nhã ngữ khi TC (14,3%)
được người Mỹ sử dụng nhiều nhất. Đây là một CL sử dụng một số yếu tố có
tính xưng hô thận trọng, tỏ ý xin lỗi, đáng tiếc … đi kèm với cấu trúc biểu thị
HVTC lời đề nghị, nhằm đề cao thể diện đối ngôn giao tiếp và phần nào giảm
nhẹ mức độ dứt khoát của HVTC.
11


CLTC bằng việc đưa hứa hẹn, nêu nguyện vọng và đề xuất nghịch hướng

người thực hiện hành động đề nghị là hai CL ít được người Mỹ sử dụng khi từ
chối lời đề nghị.
2.2.2. Các chiến lược thực hiện HVTC lời đề nghị trong tiếng Việt
Gồm 19 chiến lược: Nói thẳng thừng; Nói xúc phạm đến thể diện người
khác; Sử dụng kèm nhã ngữ khi TC; Hỏi lại xác minh thêm để tỏ ý nghi ngờ về
điều được đề nghị; Phủ nhận khả năng; Trì hoãn; Đề xuất giải pháp khác; Hình
thức đặt điều kiện; Nêu tính vô ích của điều được đề nghị; Nêu tính bất cập của
điều được đề nghị; Cảnh báo nguy cơ nếu thực hiện hành động được đề nghị;
Nêu lý do; Giả định phản thực; Đề cao lời đề nghị, bày tỏ sự cảm ơn; Đưa ra
nguyên tắc cá nhân; Lối nói gián tiếp; Lối nói bỏ lửng; Hứa hẹn, nêu nguyện
vọng; Đề xuất nghịch hướng người thực hiện hành động được đề nghị.
2.2.2.20. Tần suất sử dụng các CLTC lời đề nghị trong tiếng Việt
Trong 19 CL mà chúng tôi ghi nhận được dựa trên 850 ngữ liệu chúng tôi
thu thập được (xem Bảng 2.2), 4 CL có tỉ lệ sử dụng cao đó là: nêu lý do
(15,6%); lối nói gián tiếp (12,3%), sử dụng kèm nhã ngữ TC (7,8%); Đề xuất
giải pháp khác (7,8%). CL nêu lý do được người Việt sử dụng với tần suất hơn
hơn cả bởi đây là chiến lực TC tế nhị, lịch sự, tránh gây tổn thương tinh thần
cho SP1 và mối quan hệ giữa SP1 và SP2. Giả định phản thực (1,1%) là CL có tỉ
lệ người Việt sử dụng thấp.
2.3. Tiểu kết
- Trong một phát ngôn TCTT bao giờ cũng chứa thành phần trung tâm
hoặc thành phần mở rộng.
- Nhìn chung độ tương ứng giữa HVTCTT và gián tiếp trong tiếng Anh
và tiếng Việt là khá tương đồng. Trong các phương tiện biểu hiện đều có thể tìm
được sự tương ứng giữa hai ngôn ngữ. Bên cạnh đó cũng có một số loại câu
không có hình thức chuyển dịch tương đương.
Chương 3
ĐỐI CHIẾU HÀNH VI TỪ CHỐI LỜI MỜI
TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
3.1. Các phương tiện biểu đạt hành vi từ chối lời mời

3.1.1. Các phương tiện biểu đạt HVTC lời mời trong tiếng Anh
3.1.1.1 Phương tiện biểu đạt hành vi từ chối trực tiếp lời mời
3.1.1.1.1. Thành phần trung tâm chứa ĐTNV
(202) “Cake? He said in his gentle voice “Biscuit? All home - made!”
“Oh, very nice. I’m sure.” Marion thanked him “But I’ll have to refuse.
I’ll be putting on pounds.” (87, 285)
3.1.1.1.2. Thành phần trung tâm chứa từ phủ định: từ phủ định NO; từ
phủ định NOT; từ phủ định NEVER; thành phần trung tâm chứa từ phủ định
cấu tạo bằng tiền tố hoặc hậu tố.
3.1.1.1.3. Thành phần trung tâm và thành phần mở rộng (gồm: lời giải
thích hoặc lý do từ chối; lời bày tỏ sự đáng tiếc vì không thực hiện được nội
12


dung lời mời; lời bày tỏ sự đồng tình; lời bày tỏ thiện chí bằng lời cảm ơn) và
HV TCTT chứa nhiều thành phần mở rộng.
3.1.1.2. Phương tiện biểu đạt hành vi từ chối gián tiếp
3.1.1.2.1. HVTC gián tiếp dựa vào các thủ pháp cú pháp: biểu hiện bằng
cấu trúc trần thuật; biểu hiện bằng cấu trúc nghi vấn; biểu hiện bằng cấu trúc
cầu khiến
3.1.1.2.2. HV TCGT dựa vào chức năng ngữ dụng: Từ chối bằng cách
nêu lí do từ chối; từ chối bằng lời xin lỗi; từ chối bằng cách trì hoãn
3.1.2. Các phương tiện biểu đạt HVTC lời mời trong tiếng Việt
3.1.2.1. Phương tiện biểu đạt HVTC lời mời trực tiếp
3.1.2.1.1. Thành phần trung tâm chứa ĐTNV
3.1.2.1.2. Thành phần trung tâm chứa từ phủ định: Từ phủ định KHÔNG;
cấu trúc (S+) KHÔNG + V(động từ); kết cấu KHÔNG BAO GIỜ/ KHÔNG ĐỜI NÀO
3.1.2.1.3. Thành phần trung tâm và thành phần mở rộng (gồm: lời giải
thích hoặc lý do từ chối; lời bày tỏ sự đáng tiếc vì không thực hiện được nội
dung mời; lời bày tỏ sự đồng tình; lời bày tỏ thiện chí bằng lời cảm ơn) và HV

TCTT chứa nhiều thành phần mở rộng
3.1.2.2. Phương tiện biểu đạt HV TCGT
3.1.2.2.1. Hành vi TCGT dựa vào các thủ pháp cú pháp: biểu hiện bằng
cấu trúc trần thuật; biểu hiện bằng cấu trúc nghi vấn; biểu hiện bằng cấu trúc
cầu khiến
3.1.2.2.2. HV TCGT dựa vào chức năng ngữ dụng: từ chối bằng nêu lí do
từ chối; từ chối bằng lời xin lỗi; từ chối bằng cách trì hoãn
3.1.3. Sự tương đồng và khác biệt về phương tiện biểu đạt HVTC lời
mời trong tiếng Anh và tiếng Việt
3.1.3.1. Sự tương đồng
Chúng tôi nhận thấy, khi biểu đạt HVTC lời mời, cả người Mỹ và người
Việt sử dụng ĐTNV khi nói lời TC có tần suất thấp như nhau. Trên thực tế, hình
thức TC này gây thất vọng cho người tiếp nhận, khả năng đe dọa thể diện của
cả hai bên tham thoại rất lớn. Do vậy, cả người Mỹ và người Việt chỉ sử dụng
phương tiện ĐTNV để TC trong các trường hợp thật sự cần thiết để tỏ rõ quan
điểm của mình. Người sử dụng TCTT thường là người có quyền lực xã hội cao
hơn người bị TC. Cấu trúc của một phát ngôn TCTT trong tiếng Anh: NO +
thành phần trung tâm + thành phần mở rộng và tiếng Việt: KHÔNG + thành
phần trung tâm + thành phần mở rộng có dạng thức, với chức năng và ngữ dụng
giống nhau.
3.1.3.2. Sự khác biệt
Trong một số trường hợp, việc sử dụng lời cảm ơn như một yêu cầu bắt
buộc trong giao tiếp. Tuy nhiên trong giao tiếp hàng ngày, khác với người Mỹ,
người Việt không thường xuyên sử dụng từ Cảm ơn mà thường là các động tác
như lắc đầu, xua tay… Trong tiếng Việt không có dạng thức cấu tạo từ phủ định
13


bằng hình thức thêm tiền tố hoặc hậu tố vào sau các căn tố mang nghĩa phủ định để
nói TC lời mời.

3.2. Các chiến lược thực hiện HVTC lời mời
3.2.1 Các chiến lược thực hiện HVTC lời mời trong tiếng Anh
Gồm 17 chiến lược: Nói thẳng thừng; Sử dụng kèm nhã ngữ khi từ chối;
Hỏi lại xác minh thêm để tỏ ý nghi ngờ về điều được mời; Phủ nhận khả năng;
Trì hoãn; Đề xuất giải pháp khác; Nêu tính vô ích của điều được mời; Nêu tính
bất cập của điều được mời; Cảnh báo nguy cơ nếu thực hiện hành động được
mời; Nêu lý do; Giả định phản thực; Đề cao lời mời, bày tỏ sự cảm ơn; Đưa ra
nguyên tắc cá nhân; Lối nói gián tiếp; Lối nói bỏ lửng; Hứa hẹn, nêu nguyện
vọng; Kết hợp vài CL.
3.2.1.18. Tần suất sử dụng các CLTC lời mời trong tiếng Anh
Trong 700 ngữ liệu mà chúng tôi thu thập bằng tiếng Anh về HVTC lời
mời thì ghi nhận được 17 CLTC (xem Bảng 3.1), trong đó có ba CLTC lời mời
vượt trội là: nêu lý do (14,7%); sử dụng kèm nhã ngữ khi TC (12,5%); nói
thẳng thừng (10,4%). Trong đó có thể thấy nhân tố quyền lực giữa hai đối ngôn
giao tiếp sẽ ảnh hưởng tới cách thức mà họ đưa ra CLTCTT hay TCGT, cách
thức sử dụng từ vựng ....
3.2.2. Các chiến lược thực hiện HVTC lời mời trong tiếng Việt
Gồm 20 chiến lược: Nói thẳng thừng; Nói xúc phạm đến thể diện người
khác; Sử dụng kèm nhã ngữ khi từ chối; Hỏi lại xác minh thêm để tỏ ý nghi
ngờ về điều được mời; Phủ nhận khả năng; Trì hoãn; Đề xuất giải pháp khác;
Nêu tính vô ích của điều được mời; Nêu tính bất cập của điều được mời; Cảnh
báo nguy cơ nếu thực hiện hành động được mời; Nêu lý do; Giả định phản thực;
Đề cao lời mời, bày tỏ sự cảm ơn; Đưa ra nguyên tắc cá nhân; Lối nói gián tiếp;
Lối nói bỏ lửng; Hứa hẹn, nêu nguyện vọng; Hình thức ra điều kiện; Đề xuất
nghịch hướng người thực hiện hành động được mời; Kết hợp từ chối thẳng
thừng, kèm nêu lý do.
3.2.2.21. Tần suất sử dụng các CLTC lời mời trong tiếng Việt
Nếu trong tiếng Anh có ba CLTC lời mời vượt trội là: nêu lý do (14,7%);
sử dụng kèm nhã ngữ khi TC 12,5%); nói thẳng thừng (10,4%) thì ở tiếng Việt
có sự vượt trội của các CL: nêu lý do (14,2%); lối nói gián tiếp (13,3%). sử

dụng kèm nhã ngữ TC (8,3%) (xem Bảng 3.1).
CL nêu lý do (tiếng Anh: 14,7%, tiếng Việt: 14,2%), chiến lược sử dụng kèm
nhã ngữ khi TC (tiếng Anh: 12,5%, tiếng Việt: 8,3%) có thể thấy phần nào sự tương
đồng ngôn ngữ - văn hóa giữa hai thứ tiếng trong việc vận dụng các CLTC. CL nêu
lý do sử dụng cả yếu tố chủ quan và khách quan biểu thị sự tế nhị, lịch sự, tránh gây
tổn thương tinh thần cho SP1 và mối quan hệ giữa SP1 và SP2.. Tỉ lệ sử dụng kèm
nhã ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt cho chúng ta thấy cả người Mỹ và người Việt
khá thận trọng khi TC lời mời, hoặc ít ra cũng luôn cố gắng tìm cách làm giảm nhẹ
tính tiêu cực của HVTC, quan tâm đến thể diện của người đối thoại và luôn có
thiện chí hướng đến mối quan hệ giao tiếp tốt đẹp.
14


So với người Việt, người Mỹ ưa sử dụng CL nói thẳng thừng (10,4%) khi
TC lời mời. Chúng tôi nhận thấy người Mỹ ít ngại ngùng khi đưa ra một lời TC
thẳng thừng hơn người Việt. So với người Mỹ, lối nói gián tiếp (13,3%) được
người Việt sử dụng với tần suất cao bởi trong đời sống thường nhật. Việc sử
dụng các chiến lược này đôi khi là theo thói quen, tập quán của người Việt,
đồng thời làm giảm thiểu sự đe dọa thể diện, tạo thiện chí của người mời.
Trong tương quan đối chiếu với tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy 03 chiến
lược “Nói xúc phạm đến thể diện người khác; Hình thức ra điều kiện; Đề xuất
nghịch hướng hành động được mời” không xuất hiện trong tư liệu TC lời mời
trong tiếng Anh.
3.3. Tiểu kết
- Có thể nói, HVTC là một HV được sử dụng nhiều và thường xuyên
trong giao tiếp hàng ngày của con người và được thể hiện dưới hình thức trực
tiếp hoặc gián tiếp.
- Nhìn chung độ tương ứng giữa HVTCTT và gián tiếp trong tiếng Anh
và tiếng Việt là khá tương đồng. Trong các phương tiện biểu hiện đều có thể tìm
được sự tương ứng giữa hai ngôn ngữ. Bên cạnh đó cũng có một số loại câu

không có hình thức chuyển dịch tương đương.
- Khi TC lời mời, người Mỹ cũng đã sử dụng một loạt các CLTC giống
như các CLTC trong tiếng Việt. Bên cạnh hai CL khái quát là trực tiếp và gián
tiếp, người Mỹ cũng có đầy đủ các CL mang tính bộ phận như viện cớ, lý do, đề
cao lời mời …. Tuy nhiên, trên thực tế, có thể còn rất nhiều CLTC khác nữa
trong cả tiếng Anh và tiếng Việt mà chúng tôi chưa thể thu thập và nhận diện
hết trong phạm vi luận án này.
Chương 4:
NHÂN TỐ QUYỀN LỰC VÀ SỰ LỰA CHỌN CÁC CHIẾN LƯỢC TỪ
CHỒI LỜI ĐỀ NGHỊ VÀ LỜI MỜI CỦA NGƯỜI MỸ VÀ NGƯỜI VIỆT
4.1. Dẫn nhập
Ở chương 4 này, chúng tôi sẽ tiến hành khảo nghiệm đối chiếu tác động
của nhân tố quyền lực tới cách lựa chọn sử dụng chiến lược từ chối lời đề nghị,
lời mời của người Mỹ và người Việt. Trên cơ sở dữ liệu thu thập được, chúng
tôi tiến hành phân tích và rút ra những kết luận cho ba giả thuyết đưa ra:
1) Quyền lực quan hệ giữa hai đối ngôn giao tiếp sẽ ảnh hưởng tới cách
thức mà họ từ chối lời đề nghị, lời mời.
2) Trong cùng một ngôn cảnh, một đề tài giao tiếp, nếu Sp1 và Sp2 có sự bất
đối xứng về quyền lực xã hội (quyền lực cao hơn hoặc thấp hơn) thì họ sẽ phải sử
dụng các CLTC và thủ thuật giao tiếp khác với khi họ từ chối người đồng quyền.
3) Quyền lực quan hệ giữa hai đối ngôn giao tiếp phụ thuộc vào các yếu
tố khách quan như cương vị xã hội, giới tính, tuổi tác…
4.2. Khái niệm quyền lực
Theo từ điển Oxford word power oxford university press, “Power is the
ability to control people or things or to do something” [67, 512]. Trên thực tế,
15


khi có hai người giao tiếp trở lên thì giữa hai người đó đã hình thành một mối
quan hệ xã hội mang màu sắc quyền lực. Sự bất bình đẳng về quyền có vai trò

làm nền tảng trong bất cứ xã hội nào, các mối quan hệ quyền lực khác nhau
trong xã hội đã điều chỉnh các quyết định lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ
với những cách thức và mức độ khác nhau.
4.3. Tư liệu nghiên cứu
Trong luận án, chúng tôi sử dụng bản hoàn thiện diễn ngôn (DTC) có chỉnh
sửa của Beebe và các cộng sự (1990) để thu thập dữ liệu. Lý do chúng tôi đã chọn
sử dụng DCT vì (1) tình huống này đã được phát triển và thử nghiệm và (2) kết quả
của chúng tôi có thể dễ dàng so sánh với các nhà nghiên cứu khác.
Ba tình huống đề nghị được chúng tôi sử dụng như sau:
Tình huống 1. (TC lời đề nghị của người giúp việc trả tiền cho bạn vì vô
tình đã đánh vỡ bình hoa khi dọn nhà.)
Tình huống 2. (TC lời đề nghị ăn thêm bánh của một người bạn)
Tình huống 3. (TC đề nghị của ông chủ đưa ra là được tăng lương và thăng
chức nếu người được đề nghị sẵn sàng chuyển đến làm việc ở một thị xã nhỏ)
Ba tình huống lời mời như sau:
Tình huống 1. (TC lời mời ăn tối của nhân viên bán hàng của công ty đối
tác)
Tình huống 2. (TC lời mời ăn tối của một người bạn.)
Tình huống 3. (TC lời mời dự tiệc do sếp tổ chức)
4.4. Các thể nghiệm viên
- Thể nghiệm viên người Việt: sinh viên khoa Anh- trường ĐHNNĐHQG HN, sinh viên Khoa Luật- ĐHNT Hà Nội, sinh viên Khoa Truyền thông
quốc tế- Học viện Ngoại giao HN, du học sinh Việt Nam đang học Đại học và
sau đại học ở Mỹ. Thể nghiệm viên người Mỹ: cư dân Mỹ ( đang sinh sống,
làm việc tại Mỹ hoặc có quốc tịch Mỹ).
- Do điều kiện khảo sát không thuận lợi với các thể nghiệm viên người
bản ngữ (do cách trở về địa lý, người sinh sống tại Mỹ nhưng lại là gốc Phi hoặc
châu Á …, nghiên cứu sinh không trực tiếp thực hiện quá trình khảo sát…. do
vậy trong thời gian từ tháng 1/2017- 9/2017, chúng tôi chỉ thu về được 135
phiếu thể nghiệm viên người Mỹ và lựa chọn sử dụng được 85 phiếu hợp lệ.
Nhằm tạo ra sự tương ứng mang tính tương đối, chúng tôi cũng rút ngẫu nhiên

85/700 phiếu đã phát ra cho các thể nghiệm viên người Việt.
4.5. Kết quả nghiên cứu
4.5.1. Quyền lực và sự lựa chọn sử dụng chiến lược từ chối lời đề nghị
của người Mỹ và người Việt
4.5.1.1. Sự tác động của yếu tố quyền lực tới việc lựa chọn sử dụng các
CLTC trực tiếp lời đề nghị của người Mỹ và người Việt
a. Người có vị thế cao hơn từ chối lời đề nghị (tình huống 1).
Người Mỹ: Phản ứng của người Mỹ đối với tình huống này là giống nhau.
Ở vị trí thứ nhất, thứ hai hoặc cuối của biểu thức TCTT, người Mỹ thường đưa
16


ra phát ngôn trấn an tâm lý cho đối tượng giao tiếp bằng cách đưa ra lý do và
cách nói phủ định. Một nửa số người Mỹ đã sử dụng một biểu thức TCTT.
Người Việt: Tương tự như người Mỹ, hơn 75% số người Việt bày tỏ trấn
an tâm lý cho đối ngôn giao tiếp; 40% bắt đầu TC bằng việc sử dụng từ phủ
định, và 50% đưa ra lý do. Nhiều người Việt bày tỏ trấn an tâm lý cho đối ngôn
giao tiếp dựa trên một số hành động trong tương lai (ví dụ: trấn an tâm lý người
giúp việc và nhắc nhở người đó cần cẩn thận hơn với các đồ vật như vậy trong
trong tương lai), có 31 trường hợp đưa ra lời khuyên và 24 trong số đó liên quan
đến việc bày tỏ nhắc nhở chú ý.
b. Người có vị thế ngang bằng từ chối lời đề nghị (tình huống 2).
Người Mỹ: Trong tình huống TC lời đề nghị ăn thêm bánh của một người
bạn, ba loại biểu thức được người Mỹ ưa sử dụng: từ phủ định (No); tiếp theo là
bày tỏ cảm ơn và nêu lý do. 77 phát ngôn (90,6 %) người Mỹ có địa vị ngang
bằng sử dụng từ biểu thức TCTT.
Người Việt: Tương tự như người Mỹ, hơn một nửa số người Việt đều bắt
đầu TCTT bằng việc sử dụng từ phủ định hoặc cách nói phủ định. Ở vị trí thứ
hai và thứ ba của biểu thức TC, gần 90% số người Việt đưa ra lý do hoặc dùng
cách nói phủ định. 61 người (71,8%) số người Việt sử dụng một biểu thức

TCTT đề nghị của người có vị thế ngang bằng.
40.0%
35.0%
30.0%
25.0%
20.0%
15.0%
10.0%
5.0%
0.0%

28.2%

34.1%
31.8%

22.4%
16.5%
14.1%
Người Việt
Người Mỹ

Biểu 4.1: Tỉ lệ sử dụng CLTCTT lời đề nghị của người Mỹ và người Việt
c. Người có vị thế thấp từ chối lời đề nghị (tình huống 3)
Người Mỹ: Hơn một nửa số người Mỹ bắt đầu biểu thức TC bằng việc cố
gắng nói bổ sung làm nhẹ gánh nặng TC, thường với một phản ứng tích cực.
Nhìn chung, 79 trong số 85 người trả lời đã đưa ra ít nhất một lý do cho việc TC
của họ và một nửa trong số đó bao gồm một phản ứng tiêu cực. Hầu hết trong
các phát ngôn mà người từ chối lời đề nghị đưa ra thường là bày tỏ lòng biết ơn,
đặt ở vị trí đầu hoặc cuối biểu thức TC.

Người Việt: Khác với người Mỹ, người Việt không sử dụng cách nói bổ
sung làm nhẹ gánh nặng TC khi đưa ra lời TC. 44 người (51.8%) người Việt
TCTT bằng cách nói phủ định hoặc phát ngôn phủ định không sử dụng ĐTNV.
17


Ở vị trí thứ hai hoặc thứ ba của biểu thức TC thường là lý do hoặc viện cớ.
Tóm lại, khi từ chối lời đề nghị, cả người Mỹ và người Việt ít sử dụng
CLTCTT với những người có địa vị cao hơn mình hơn là những người có địa vị
ngang bằng hoặc thấp hơn. Tùy thuộc vào vị thế của người đối thoại, cả người
Mỹ và người Việt có những thay đổi CLTCTT lời đề nghị, cụ thể: đối với những
người có cùng địa vị, người Mỹ và người Việt sử dụng CLTCTT nhiều hơn và
sử dụng ít CLTCTT hơn đối với những người có cùng địa vị thấp hơn.
4.5.1.2. Sự tác động của yếu tố quyền lực tới việc lựa chọn sử dụng các
CLTC gián tiếp lời đề nghị của người Mỹ và người Việt
a. Người có vị thế cao hơn từ chối lời đề nghị (tình huống 1)
Người Mỹ và người Việt đều bày tỏ trấn an tâm lý cho người đề nghị.
b. Người có vị thế ngang bằng từ chối lời đề nghị (tình huống 2)
Người Việt Nam thường nói lời xin lỗi hoặc cảm ơn ít hơn những đối
tượng không thân thiết. Có thể nói, nhiều người Việt Nam có quan niệm rằng
khi đã trở nên thân thiết thì nói lời cảm ơn hay xin lỗi là khách sáo.
87% số người Mỹ sử dụng CLTCGT bằng cách nói lời cảm ơn hoặc xin
lỗi đối người có địa vị ngang bằng khi từ chối lời đề nghị.
100.0%
85.9%83.5%

90.0%
80.0%
70.0%


77.6%
71.8%

68.2%65.9%

60.0%
Người Việt
Người Mỹ

50.0%
40.0%
30.0%
20.0%
10.0%
0.0%

Vị thế thấp hơn

Vị thế ngang bằng

Vị thế cao hơn

Biểu 4.2: Tỉ lệ sử dụng CLTCGT đề nghị của người Mỹ và người Việt
c. Người có vị thế thấp từ chối lời đề nghị (tình huống 3)
Người Mỹ (77,6%), người Việt (71.8%) có xu hướng dùng phương thức
TCGT nhiều hơn so với TCTT. Trong tình huống này, vấn đề lịch sự đã được đề
cao bởi tính e ngại hay sợ mang tiếng mất lịch sự. Trong giao tiếp, người Mỹ và
người Việt thường giữ gìn thể diện trong giao tiếp với người lạ, đặc biệt khi
người đó có địa vị cao hơn mình. Trong trường hợp này người Mỹ thường đưa
ra lời cảm ơn kèm nêu lý do để giải thích. Ngoài ra, người Mỹ thường đánh giá

cao lời đề nghị, nêu lý do giải thích và cám ơn lời đề nghị.
Đối với người Việt, khi TC thường đưa ra lời cảm ơn, kèm lý do giải thích
và đề xuất giải pháp, đôi khi lý do đó được thay bằng một tình thế khó xử. Một
18


đặc điểm thú vị là khi từ chối lời đề nghị của đối tượng có địa vị cao hơn mình,
tỷ lệ người nói lời cảm ơn chiếm một nửa. Cụ thể là trong tình huống TC đối
tượng có địa vị cao hơn mình. Ngoài ra, đặc điểm tiếp theo có thể nhận ra là
người Việt Nam thường nói lời xin lỗi khi từ chối lời đề nghị của đối tượng có
địa vị cao hơn mình.
4.5.2. Quyền lực và sự lựa chọn sử dụng chiến lược từ chối lời mời của
người Mỹ và người Việt
4.5.2. 1. Sự tác động của yếu tố quyền lực tới việc lựa chọn sử dụng các
CLTC trực tiếp lời mời của người Mỹ và người Việt
30.0%

27.1%

25.0%

27.1%

23.5%

23.1%
20.0%

20.0%
16.5%


Người Việt
Người Mỹ

15.0%
10.0%
5.0%
0.0%

Vị thế thấp hơn

Vị thế ngang bằng

Vị thế cao hơn

Biểu 4.3: Tỉ lệ sử dụng CLTC trực tiếp lời mời của người Mỹ và người Việt
a. Người có vị thế cao hơn từ chối lời mời (tình huống 1).
Hơn một nửa số người Mỹ đã trả lời đã bắt đầu TC bằng cách nói bổ sung
làm nhẹ gánh nặng TC và giữ thể diện cho đối ngôn giao tiếp. Các biện pháp
giảm nhẹ được sử dụng phổ biến nhất là đề cao lời mời, bày tỏ sự cảm ơn, hối
tiếc, đề xuất giải pháp khác hoặc phản ứng tích cực. Lý do thường được đưa ra
ở vị trí thứ hai hoặc thứ ba của biểu thức TC và một nửa số câu trả lời sử dụng
cách nói phủ định. 23,1% người Mỹ có vị thế cao hơn sử dụng CLTCTT.
Người Việt dường như ít quan tâm đến việc làm làm nhẹ gánh nặng TC và
giữ thể diện cho đối ngôn giao tiếp. Chỉ có 14 người thể hiện sự hối tiếc khi đưa
ra TC. Rất nhiều người TC bằng việc sử dụng từ phủ định và cách nói phủ định,
ở vị trí thứ hai hoặc thứ ba trong biểu thức TC thường là lý do. 27,1 % người
Việt có vị thế cao hơn sử dụng các biểu thức TCTT, tỷ lệ này cao hơn so với
người Mỹ.
b. Người có vị thế ngang bằng từ chối lời mời (tình huống 2).

Người Mỹ: Trong tình huống này, người Mỹ đưa ra nhiều biến thể thể
hiện HVTC: biểu thức gồm lý do, nhắc lại một phần của lời mời, đưa ra những
nhận xét sử dụng từ phủ định (No) hay cách nói phủ định ….. Tuy nhiên, ở vị
trí thứ hai của biểu thức TC ít có sự biến thể; trên 70% số người TC đều đưa ra
lý do, tiếp đó có thể là cách nói phủ định, sự hối tiếc, nêu nguyện vọng trong
19


tương lai hoặc thể hiện lòng biết ơn. Theo Biểu 4.3, 19% người Mỹ sử dụng
TCTT.
Người Việt: Trong khi TC, người Việt cũng có những biến thể. Vị trí thứ
nhất, thứ hai và thứ ba trong biểu thức TC bao gồm sự hối tiếc, đề xuất phương
án thay thế, viện cớ và cách nói phủ định. 1/3 số người được hỏi đưa ra lời hứa
hẹn trong tương lai ở vị trí cuối của biểu thức TC. Như thể hiện trong hình 4.3,
27,1% người Việt sử dụng CLTCTT, tỷ lệ lớn hơn so với người Mỹ.
c. Người có vị thế thấp từ chối lời mời (tình huống 3)
Người Mỹ: ¾ số người Mỹ trả lời họ thường cố gắng nói bổ sung làm nhẹ
gánh nặng TC. Thông thường được bắt đầu bằng việc thể hiện sự hối tiếc, tích
cực, hoặc biết ơn, tiếp đến là đưa ra lý do TC lời mời nhằm giảm thiểu sự đe
dọa thể diện đối ngôn giao tiếp và có đến 75% số người TC đã sử dụng cách nói
phủ định. Theo Biểu 4.3, 23,5% số người Mỹ được mời đưa ra lời TCTT và
Biểu 4.4, 70,6% người Mỹ sử dụng hình thức gián tiếp khi đưa ra lời TC.
Tương tự như người Mỹ, gần một nửa số người Việt cũng TC bằng cách nói
bổ sung làm nhẹ gánh nặng TC, giữ thể diện cho đối ngôn giao tiếp bằng sự thể
hiện hối tiếc và sau đó đưa ra lý do TC. Chỉ có 16.5% người sử dụng hình thức
TCTT, số còn lại sử dụng hình thức TCGT. Tần số này thấp hơn so với người Mỹ.
Trong các tình huống trên, người Mỹ và người Việt Nam có khuynh
hướng sử dụng cả chiến lược trực tiếp và gián tiếp trong mọi tình huống. Trong
đó, người Mỹ thường sử dụng chiến lược từ chối trực tiếp nhiều hơn khi từ chối
một người có vị thế cao hơn mình, còn người Việt thường sử dụng chiến lược từ

chối trực tiếp nhiều khi từ chối một người có vị thế ngang bằng. Cả người Mỹ
và người Việt đều có sự tương đương về tần số sử dụng chiến lược từ chối trực
tiếp khi giao tiếp với người có địa vị thấp hơn.
4.5.2.2. Sự tác động của yếu tố quyền lực tới việc lựa chọn sử dụng các
CLTC gián tiếp lời mời của người Mỹ và người Việt
a. Người có vị thế cao hơn từ chối lời mời (tình huống 1)
Người Việt Nam rất ít khi nói lời cảm ơn đối với người có địa vị thấp hơn
mình, đặc biệt nếu đó là những đối tượng thân thiết. Tuy nhiên, đối với đối
tượng là người có địa vị thấp hơn, thân thiết với mình thì lại có tới 56% người
dùng phương thức nêu nguyên tắc của bản thân.
Người Mỹ vốn vẫn được biết đến tôn trọng lễ nghi, TC đối với họ có lẽ sẽ
là một điều không phải, là có lỗi đối với đối phương. Có tới 50% người Mỹ nói
lời xin lỗi với đối tượng có vị trí thấp hơn mình, chưa thân thiết với mình.
b. Người có vị thế ngang bằng từ chối lời mời (tình huống 2)
Đối với các đối tượng thân thiết, người Việt Nam thường nói lời xin lỗi
hoặc cảm ơn ít hơn những đối tượng không thân thiết. Có thể nói, nhiều người
Việt Nam có quan niệm rằng khi đã trở nên thân thiết thì nói lời cảm ơn hay xin
lỗi là khách sáo. Phương thức ngăn cản lời mời của đối phương cũng được sử
dụng đối với đối tượng có địa vị ngang bằng hoặc thấp hơn mình, tuy nhiên
không được sử dụng cho đối tượng có địa vị cao hơn mình. 75,2% số người Mỹ
20


sử dụng CLTCGT bằng cách nói lời cảm ơn đối người có địa vị ngang bằng
hoặc nói lời xin lỗi khi TC lời mời.
86.0%
84.0%

83.5%


82.0%
80.0%
78.0%
75.2%

76.0%
74.0%

72.9%

72.9%

72.9%
72.0%

72.0%

Người Việt
Người Mỹ

70.0%
68.0%
66.0%

Vị thế thấp hơn

Vị thế ngang bằng

Vị thế cao hơn


Biểu 4.4: Tỉ lệ sử dụng CLTC gián tiếp lời mời của người Mỹ và người Việt
c. Người có vị thế thấp từ chối lời mời (tình huống 3)
Người Việt có xu hương dùng phương thức TCGT (83.5%) so với TCTT
(16.5%). Trong giao tiếp, người Việt thường giữ gìn thể diện trong giao tiếp với
người lạ, đặc biệt khi người đó có địa vị cao hơn mình. Do vậy, người Việt Nam
thường tránh không sử dụng phương thức TCTT. Những câu TC như: "Hôm
nay em không đi được đâu", "Lần này tôi xin phép" được sử dụng tương đối ít.
Người Việt Nam khi TC thường đưa ra lý do giải thích, rồi có thể hẹn lần khác.
Một đặc điểm thú vị là khi TC lời mời của đối tượng có địa vị cao hơn mình, tỷ
lệ người nói lời cảm ơn chiếm một nửa. Cụ thể là trong tình huống TC đối
tượng có địa vị cao hơn mình, thân thiết với mình là 50%, và đối tượng có địa
vị cao hơn mình, không thân thiết với mình là 52%. Ngoài ra, đặc điểm tiếp
theo có thể nhận ra là người Việt Nam thường nói lời xin lỗi khi TC lời mời của
đối tượng có địa vị cao hơn mình. Để TCGT lời mời, trong tình huống này,
người Mỹ đều đưa ra một lý do, đôi khi lý do đó được thay bằng một tình thế
khó xử. Điều này dường như làm cho sự TC “mềm hơn”, người bị TC ít phật
lòng hơn. Có 3 người Mỹ (3,6 %) không nói lời đáp (được hiểu như TC bằng
cách im lặng, bỏ đi hoặc lảng tránh.
4.6. Tiểu kết
- Qua kết quả thu được từ các phiếu khảo sát chúng tôi nhận thấy CLTC
thường phụ thuộc vào lời đề nghị, lời mời và nội dung lời đề nghị, lời mời.
- Tuy khá có sự tương đồng về hệ thống CLTC, nhưng giữa người Mỹ và
người Việt có sự khác biệt về tỉ lệ sử dụng CLTCTT và gián tiếp nhìn từ góc độ
vị thế xã hội.
- Việc đối chiếu hai CL trực tiếp và gián tiếp đã cho thấy rõ người Mỹ và
người Việt đều có thiên hướng sử dụng các HV gián tiếp để biểu thị nội dung
21



×