Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Quá trình thực hiện chính sách ruộng đất của đảng ở tỉnh phú thọ từ năm 1953 – 1957 (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.17 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------

ĐỖ KHÁNH CHI

QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH RUỘNG ĐẤT
CỦA ĐẢNG Ở TỈNH PHÚ THỌ TỪ NĂM 1953 TỚI
NĂM 1957

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 62 22 03 15

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ


HÀ NỘI - 2018
Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. Lê Văn Thịnh

Giới thiệu 1 :
Giới thiệu 2 :

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án Tiến sĩ cấp cơ sở
họp tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN
vào hồi:.......giờ.......phút, ngày.......tháng.......năm 2018


Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin Thư viện - Đại học Quốc gia Hà Nội


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA
TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Đỗ Khánh Chi (2014), “Đảng bộ Phú Thọ thực hiện giảm tô, giảm tức và thí điểm cải
cách ruộng đất”, Tạp chí Lịch sử Đảng (7), tr. 91-96.
2. Đỗ Khánh Chi (2016), “Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”, Sách Việt Nam trong chuyển đổi: các hướng tiếp cận liên
ngành, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 29-45.
3. Đỗ Khánh Chi (2017), “Tìm hiểu một số nghiên cứu về ruộng đất ở Việt Nam”, Tạp
chí Khoa học xã hội và nhân văn (2b).
4. Đỗ Khánh Chi (2018), “Một số nghiên cứu về cải cách ruộng ở miền Bắc Việt Nam”, Tạp
chí thông tin khoa học xã hội (1).
5. Đỗ Khánh Chi (2018), “Bài học từ cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc đối với chính
sách ruộng đất hiện nay của Đảng”, Tạp chí giáo dục xã hội (số 1), tr .210-214.
6. Đỗ Khánh Chi (2018), “Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo công tác sửa sai và hoàn thành
cải cách ruộng đất”, Tạp chí Lịch sử Đảng (2), tr.103-108.

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề ruộng đất có tầm quan trọng đặc biệt vì nó có quan hệ mật
thiết với vấn đề nông dân, nông thôn, nông nghiệp. Nông nghiệp là ngành
kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế của Việt Nam vì thế nên nhà nước ta ở
các thời kỳ lịch sử đều có những chính sách, biện pháp khác nhau với vấn

đề ruộng đất. Trong nông nghiệp thì ruộng đất là tư liệu sản xuất quan
trọng nhất, là loại tư liệu sản xuất đặc biệt, không có gì có thể thay thế
được, còn nông dân lao động là nhân tố quyết định quá trình sản xuất.
Ruộng đất được ông cha ta coi trọng như “tấc vàng”, bởi muốn sản xuất
nông nghiệp bắt buộc người nông dân phải có ruộng đất.
Từ cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp đã tiến hành ách cai trị và bóc lột
đất nước ta. Dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, nông dân không chỉ là
lực lượng đông đảo nhất mà là lực lượng bị bóc lột nặng nề nhất. Là nông
dân họ bị cả địa chủ và thực dân Pháp cướp đất, không có tư liệu sản xuất;
là người Việt Nam họ bị mất tự do, trở thành nô lệ, phụ thuộc, chịu sự áp
bức, bất công. Mặc dù, trong quá trình cai trị ngót gần một thế kỷ thực dân
Pháp đã du nhập vào Việt Nam một phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
nhưng cơ sở kinh tế phong kiến nước ta còn khá rộng. Những hình thức bóc
lột theo lối phong kiến còn rất phổ biến. Ruộng đất tập trung vào tay một số
ít người là giai cấp địa chủ phong kiến và một phần vào tay thực dân Pháp.
Nông dân là số đông người đã dùng sức lao động của mình để khai phá làm
thành ra đồng ruộng nhưng không có ruộng đất hoặc ít ruộng đất, bị đế
quốc và phong kiến áp bức, bóc lột thậm tệ. Tình hình phân phối ruộng đất
và sự áp bức của giai cấp địa chủ phong kiến và địa chủ thực dân đối với
nông dân đã nói lên tính chất cực kỳ nghiêm trọng của vấn đề ruộng đất ở
nước ta dưới thời thực dân Pháp thống trị.
Ngay từ khi thành lập và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng việc giải quyết vấn đề ruộng đất
cho nông dân. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của mình, Đảng đã nhấn
mạnh “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản”. Trong bản Luận cương tháng 10 năm 1930 cũng
nêu rõ: “vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”, là cơ sở
để Đảng lãnh đạo dân cày. Với đặc điểm xã hội thuộc địa nửa phong kiến
của Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và với những nỗi cùng cực
mà người nông dân phải chịu do sự câu kết của cả địa chủ và phong kiến

trong suốt thời kỳ Pháp thuộc thì liệu tiến hành song song hai nhiêm vụ dân
tộc và dân chủ có phải là bước đi đúng đắn của Đảng. Nghị quyết của Hội
4


nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (tháng 5/1941) đã thể hiện đầy
đủ tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề “dân tộc” và “giai
cấp”. Hội nghị đề ra chủ trương đúng đắn trong việc giải quyết “nhiệm vụ
giải phóng dân tộc” và nhiệm vụ “cách mạng ruộng đất”: “Trong lúc này,
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của
quốc gia, của dân tộc… Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những
toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ
phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Vì vậy, phải tạm gác
khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”. Quyền lợi của
nông dân được giải quyết ở một mức độ thích hợp bằng việc thực hiện các
khẩu hiệu: tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày
nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức. Chủ
trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc và quan điểm khởi nghĩa
dân tộc là sự chuẩn bị về đường lối và phương pháp cho thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám sau này.
Sau khi giành được chính quyền thì Đảng và Nhà nước đã chú trong
quan tâm tới giải quyết quyền lợi cho người nông dân như giảm tô, giảm
tức chia đất công cho cả nam và nữ, chủ trương “xóa bỏ những tàn tích
phong kiến làm cho người dân có ruộng” (Đại hội II tháng 2 năm 1951).
Tuy nhiên vấn đề ruộng đất tới thời kỳ này vẫn chưa được giải quyết một
cách triệt để. Do đó, từ năm 1953 đến năm 1957, Đảng ta đã phát động một
cuộc “cải cách ruộng đất” trên phạm vi toàn Miền Bắc. Cải cách ruộng đất
là một cuộc cách mạng to lớn nhằm xóa bỏ chế độ chiếm hữu phong kiến
về ruộng đất, thực hiện triệt để quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân, giành

quyền làm chủ thực sự cho nông dân về mọi mặt.
Chấp hành chủ trương của Trung Ương Đảng và Ủy ban kháng chiến
hành chính Liên khu Việt Bắc, nhân dân các dân tộc tỉnh Phú Thọ đã thực
hiện chủ trương cải cách ruộng đất của Đảng. Trong quá trình thực hiện đã
đạt được nhiều kết quả, song vẫn còn mắc phải một số sai lầm. Những công
trình nghiên cứu về “cải cách ruộng đất” ở Việt Nam đã có rất nhiều, nhưng
nghiên cứu sâu và toàn diện về quá trình “cải cách ruộng đất” ở các tỉnh, về
những thành tựu, những hạn chế trong quá trình thực hiện ở các tỉnh, trong
đó có tỉnh Phú Thọ vẫn là một “khoảng trống lịch sử”. Do đó, tôi đã chọn
đề tài: “Quá trình thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng ở tỉnh Phú Thọ
từ năm 1953 – 1957” làm đề tài cho luận án tiến sỹ chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam của mình.
Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, tình hình trong nước, khu vực và trên thế giới đã có những thay đổi
căn bản, Phú Thọ cũng đang chuyển mình cùng đất nước. Giải quyết vấn đề
5


ruộng đất cho nông dân- thành phần chủ yêu trong xã hội Việt Nam cũng
mang những nội dung mới. Đề tài “Quá trình thực hiện chính sách ruộng
đất của Đảng ở tỉnh Phú Thọ từ năm 1953 đến năm 1957” là những bài học
kinh nghiệm quý giá và mang tính thời sự trong quyết tâm giữ vững độc lập
dân tộc, kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa trong một thế giới đa cực, đa
phương, trong lúc chủ nghĩa xã hội cần phải tìm ra được cho mình một
hướng đi mới để thích hợp với tình hình mới mà vẫn không bị mất đi nét
đặc trưng riêng của nó. Đồng thời đề tài cũng có ý nghĩa khoa học và thời
sự quan trọng trong việc vận dụng kinh nghiệm lịch sử để giải quyết các
vấn đề về quyền lợi của nông dân trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ quá trình thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng ở tỉnh Phú
Thọ thời kỳ 1953 – 1957. Từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về ưu
điểm, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu, góp phần thực hiện
chính sách ruộng đất của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa các tư liệu về vấn đề ruộng đất ở Phú Thọ từ năm 1953
tới hết cải cách ruộng đất.
Làm rõ quá trình thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng ở tỉnh Phú
Thọ thời kỳ 1953 đến 1957.
Dựng lại bức tranh toàn cảnh về vấn đề sở hữu ruộng đất của nông
dân, địa chủ trong giai đoạn cải cách ruộng đất. Những biến đổi về chính trị,
xã hội, kinh tế sau cải cách ruộng đất.
Đưa ra những nhận xét, đánh giá về ưu điểm, hạn chế và rút ra một số
kinh nghiệm chủ yếu góp phần thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng trong
giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu quan điểm, chủ trương chính sách ruộng đất của Đảng từ năm
1953 đến năm 1957 và quá trình thực hiện chính sách đó ở tỉnh Phú Thọ;
những sai lầm, hậu quả và nguyên nhân, chủ trương sửa sai của Đảng và
quá trình tổ chức sửa sai của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: Từ trước năm 1953 đến năm 1957.

6


Không gian nghiên cứu: Địa bàn tỉnh Phú Thọ, trong đó tập trung vào một
số huyện của tỉnh: Lâm Thao, Thanh Thủy, Tam Nông, Thanh Sơn, Yên
Lập, Việt Trì, Thanh Ba, Thị xã Phú Thọ, Đoan Hùng, Yên Lập...

Nội dung nghiên cứu:
- Quá trình thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng trên địa bàn các xã,
huyện của tỉnh Phú Thọ.
- Những sai lầm mắc phải trong cải cách ruộng đất, hậu quả và nguyên
nhân của những sai lầm đó; chủ trương sửa sai của Đảng và công tác sửa
sai của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Các tác phẩm kinh điển của C.Mác, Lênin, Hồ Chí Minh về vấn đề
ruộng đất, về nông dân, nông nghiệp, nông thôn.
Nguồn tài liệu sơ cấp: Các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng
và của Đảng Bộ tỉnh Phú Thọ. Các báo cáo, thống kê, biên bản, án văn...
của Ủy Ban hành chính tỉnh Phú Thọ, Tòa án nhân dân liên huyện, Ủy Ban
cải cách ruộng đất Trung ương, Ủy ban cải cách ruộng đất Liên khu Việt
Bắc. Các tài liệu này hiện được bảo quản tại kho lưu trữ Văn phòng Trung
ương Đảng, Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, và các cơ quan lưu trữ địa
phương. Đây là nguồn tư liệu gốc và tin cậy, giúp tác giả khôi phục lại bối
cảnh lịch sử, tiến trình các sự kiện, các vấn đề liên quan để làm rõ được
các nội dung của Luận án.
Nguồn tài liệu thứ cấp, nguồn tài liệu này hết sức đa dạng:
- Các công trình của các học giả trong và ngoài nước, bao gồm sách
chuyên khảo và các bài đăng tải trên báo chí. Các sách về lịch sử, như: lịch
sử Việt Nam, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, lịch sử Đảng bộ các tỉnh,
huyện... và các công trình có liên quan do Viện Lịch sử Đảng, Viện Sử học
công bố là nguồn tài liệu quan trọng, tin cậy.
- Các Hồi ký, các bản tự thuật của các nhân chứng lịch sử là nguồn
tài liệu tham khảo để bổ sung, làm sáng tỏ thêm các sự kiện.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác – Lênin và dựa trên nền tảng Tư tưởng Hồ Chí Minh để

xem xét đánh giá các sự kiện, các hiện tượng liên quan đến vấn đề nghiên
cứu

7


Luận án sử dụng phương pháp lịch sử và logic là phương pháp
nghiên cứu chủ yếu của luận án, ngoài ra có sử dụng các phương pháp
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu lịch sử, trong đó việc
phân tích các số liệu thống kê, các bản báo cáo tổng kết được coi trọng
nhằm làm sáng tỏ nội dung của đề tài và đảm bảo sự chính xác, tính khoa
học.
5. Những đóng góp khoa học của luận án
Luận án tái hiện lại một cách hệ thống đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước về vấn đề ruộng đất và quá trình thực hiện chính sách
ruộng đất đó tại tỉnh Phú Thọ giai đoạn 1953 – 1957.
Phân tích và đánh giá một cách khách quan, khoa học dựa trên
những tài liệu lưu trữ gốc những thành quả, hạn chế và những nguyên nhân
dẫn đến những sai lầm trong cải cách ruộng đất ở Phú Thọ.
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan,
cá nhân nghiên cứu, giảng dạy về các chuyên ngành lịch sử Đảng, nghiên
cứu về nông nghiệp, nông thôn, nông dân, tài liệu nghiên cứu lịch sử địa
phương.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, danh mục các công
trình đã công bố của tác giả có liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 4 chương.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài luận
án.
Chương 2: Chủ trương và quá trình thực hiện chính sách ruộng đất

của Đảng ở tỉnh Phú Thọ từ năm 1953 tới năm 1956.
Chương 3: Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo công tác sửa sai và hoàn
thành cải cách ruộng đất từ năm 1956 đến 1957.
Chương 4: Nhận xét và kinh nghiệm

8


Chương I
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Tình hình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về cải cách
ruộng đất
Nghiên cứu về chính sách ruộng đất nói chung và cải cách ruộng đất
nói riêng tại các nước xã hội chủ nghĩa là đề tài mà không phải nhà nghiên
cứu nào cũng mạnh dạn viết, các học giả nước ngoài cũng không có nhiều
tác giả đề cập tới vấn đề này, lý do chính có lẽ bởi tư liệu chính thống họ
được tiếp cận khá hạn chế nên khi khai thác vấn đề các học giả nước ngoài
gặp khá nhiều khó khăn và do đó số lượng các bài nghiên cứu về cải cách
ruộng đất không nhiều. Các công trình nghiên cứu tập trung về chính sách
ruộng đất, những chuyển biến của nông thôn Việt Nam và Trung Quốc qua
các thời kỳ lịch sử. Điển hình nhất phải kể tới tác phẩm “Land reform in
China and North Vietnam Consolidating the revolution at the village level”
(Cải cách ruộng đất của Trung Quốc và Bắc Việt Nam, củng cố cuộc cách
mạng ở mức làng) của Edwin Moise, xuất bản năm 1983; tác phẩm
“Agrarian reform and national liberation in the Vietnamese revolution:
1920 – 1957” (Cải cách nông nghiệp và cách mạng giải phóng dân tộc ở
Việt Nam 1920 – 1957) của Christine White, xuất bản năm 1981;
“Vietnam Village in transition. Background and Consequence of Reform

Policies in Rural Vietnam” (Làng Việt Nam trong quá trình chuyển đổi.
Nền tảng và hệ quả của các chính sách cải cách trong nông thôn Việt Nam)
của Bernhard Dahm và Vincen.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu của các tác giả trong nước về cải cách
ruộng đất.
1.1.2.1. Nhóm nghiên cứu về cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam.
Đất đai được hiểu là một mảnh hay một phần của địa cầu có liên quan
đến sự tồn tại và phát triển của lịch sử loài người. Con người muốn tồn tại
và phát triển được phải gắn liền với những nhu cầu ăn, ở, mặc, đi lại…hay
nói cách khác là được đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần. Để thỏa
mãn nhu cầu đó con người phải lao động sản xuất, quá trình đó trực tiếp
hay gián tiếp đều liên quan tới đất đai.
Một cuốn sách chuyên khảo không thể thiếu khi nghiên cứu về cải
cách ruộng đất đó là: “Đảng với vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn
(1930 – 1975) do PGS. TS Vũ Quang Hiển chủ biên, NXB Chính trị quốc
gia xuất bản năm 2012; “Cách mạng ruộng đất ở Việt Nam” (Hoàng Ước,
Lê Đức Bình, Trần Phương – chủ biên, NXB Khoa học xã hội, H, 1968,
388 trang). Cả hai nghiên cứu đều phân tích kỹ chủ trương của Đảng về cải
9


cách ruộng đất. Quá trình phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện
giảm tức; tịch thu, trưng thu, trưng mua; chỉnh đốn tổ chức; trấn áp bọn
phản cách mạng; những sai lầm trong cải cách ruộng đất, quá trình sửa sai
của Đảng kết thúc thắng lợi cải cách ruộng đất.
“Phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất” (Tạp chí
Xưa và Nay, số 297, trang 10 – 15) và “Ghi chép trong cải cách ruộng đất”
(Tạp chí Xưa và Nay, số 297 , 2007 trang 22 – 26 là những nhận xét, ghi
chép đầy đủ về mọi mặt nông thôn trong cải cách ruộng đất của tác giả
Trần Huy Liệu giúp cho người đọc có được những hiểu biết sâu sắc hơn về

quá trình cải cách ruộng đất ở Việt Nam.
Cải cách ruộng đất diễn ra ở hầu khắp các địa phương ở miền Bắc
Việt Nam và là một cuộc cách mạng làm thay đổi đời sống nông dân. Vậy
sau những thay đổi đó, sau khi người nông dân thực sự làm chủ trên mảnh
đất của mình thì họ cần phải đi thế nào cho đúng đường lối, để giữ gìn
được thành quả đạt được trong cải cách ruộng đất. Nhóm tác giả Nguyễn
Mạnh Hùng, Đỗ Văn Cạn, Trần Văn Từ, Nguyễn Văn Chung, Nguyễn Văn
Nhọc đã cho ra đời cuốn sách “Sau cải cách ruộng đất nông dân nên đi
theo con đường nào" (NXB Sự Thật, H, 1956) đã chỉ ra hai con đường sau
cải cách ruộng đất nông dân có thể đi. Một câu hỏi nữa cũng đặt ra đối với
Đảng và Nhà nước thời điểm bấy giờ là “Qua cải cách ruộng đất, kinh tế
phú nông có thực tế không còn tồn tại nữa hay không?” Có thật kinh tế Phú
nông đã bị phủ định một cách đơn giản như thế không? Phải chăng ở nông
thôn không thấy bóng dáng cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản? Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự nảy nở của chủ
nghĩa tư bản trên cơ sở nền kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa phải chăng
không có ý nghĩa gì trong điều kiện riêng biệt của nông thôn nước ta sau
cải cách ruộng đất? Cuốn “Một số ý kiến về chủ nghĩa Tư bản ở nông thôn
miền Bắc ngay sau cải cách ruộng đất” của tác giả Trần Phương (NXB Sự
Thật, H, 1960) đã trả lời được phần nào những câu hỏi đó.
Để đẩy mạnh cải cách ruộng đất đến thắng lợi Đảng ta đã đề ra nhiều
biện pháp trong đó phải kể tới tính đoàn kết dân tộc. Bài viết“Đoàn kết
chặt chẽ xung quanh Đảng Lao động Việt Nam thực hiện cải cách ruộng
đất đẩy mạnh kháng chiến đến thành công của Lê Thanh Nghị (Ban chấp
hành Đảng bộ liên khu 3) năm 1953 đã nói rõ điều đó. Với 31 trang nội
dung, tác giả đã nêu ra những đối tượng, biện pháp để tăng cường mối quan
hệ giữa các tầng lớp dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam trong
cuộc cải cách ruộng đất.
Có thể nói, tuy diễn ra trong thời gian ngắn nhưng cải cách ruộng đất
đã có tác động to lớn tới tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam.

10


Sau cải cách ruộng đất, đời sống nông dân cũng như bộ mặt nông thôn đã
thực sự thay đổi. Cuốn “Cuộc sống mới của nông dân sau Cải cách ruộng
đất” (Lê Nghiêm, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1955) và “Thắng lợi của Cải
cách ruộng đất ở ngoại thành Hà Nội” (1956 – Ban cải cách ruộng đất
trung ương), “Con đường tiến lên của nông dân sau cải cách ruộng
đất”(Lê Điền, Ban liên lạc nông dân toàn quốc, Hà Nội, 1956) đều khẳng
định không chỉ nông dân ở nông thôn mà cả ở thành thị cũng đều phấn khởi
sau cải cách ruộng đất. Đời sống nông dân đổi mới, chợ búa tưng bừng,
nông dân được tổ chức lại, phụ nữ được giải phóng, nông dân quyết tâm
giữ lấy cuộc đời mới của mình. Con đường tiến lên của nông dân sau cải
cách ruộng đất sẽ gắn với Tổ đổi công, quĩ tín dụng sản xuất và hợp tác xã
mua bán....
Cải cách ruộng đất không chỉ làm thay đổi đời sống nông dân, làm
bộ mặt nông thôn đổi mới mà còn góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên
Phủ - một chiến thắng lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, một bước
ngoặt quyết định trong cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân ta.
Trong nghiên cứu của PGS. TS. Trương Thị Tiến “Cải cách ruộng đất với
chiến thắng Điện Biên Phủ” (Tạp chí Lịch sử Đảng, 1984) và của Lê Thị
Quỳnh Nga: “Ý nghĩa của việc thực hiện khẩu hiệu Người cày có ruộng với
chiến thắng Điện Biên Phủ (Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8, 2004, tr 43-47) và
Quá trình thực hiện khẩu hiệu Người cày có ruộng với chiến thắng Điện
Biên Phủ (viết chung) (In trong sách “Điện Biên Phủ từ góc nhìn của các
nhà khoa học Việt Pháp. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, H, 2005, trang
152-164); của Văn Phong “Người cày có ruộng kháng chiến mới thắng
lợi” (Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1954). đã phân tích rõ điều đó. Chiến
thắng Điện Biên Phủ không chỉ là một chiến thắng về mặt quân sự mà còn
là chiến thắng về việc huy động sức người, sức của của Đảng và Nhà nước

ta. Nếu không có cải cách ruộng đất, đưa ruộng đất về tay người nông dân
để họ yên tâm sản xuất thì không thể có được sức mạnh đó.
Mặc dù đem lại nhiều thay đổi có lợi cho người nông dân, làm cho
“người cày có ruộng, song cải cách ruộng đất cũng có nhiều hạn chế, sai
lầm. Bàn về những nguyên nhân dẫn tới những sai lầm của cải cách ruộng
đất có khá nhiều nghiên cứu. Một trong những nghiên cứu sớm nhất phải
kể tới bài viết của tác giả Văn Phong “Đánh giá cho đúng những thắng lợi
của nhiệm vụ phản phong và những sai lầm trong cải cách ruộng đất”(Nhà
xuất bản Sự Thật, H, 1956). Mặc dù chỉ có 27 trang nhưng nghiên cứu của
tác giả đã có những đánh giá rất khách quan về cải cách ruộng đất:“không
vì sai lầm tạm thời mà không thấy thắng lợi, của cải cách ruộng đất”,
không vì những sai lầm mà xóa sạch mọi công lao của Đảng, quay lưng lại
với Đảng. Và để giúp Đảng sửa chữa những sai lầm thì phải đoàn kết toàn
11


dân xung quanh Đảng và khắc phục sai lầm để giữ vững và phát huy thắng
lợi, đẩy cách mạng tiến lên nữa. Đồng thời với việc đoàn kết trong Đảng,
đoàn kết nhất trí chung quanh Trung ương Đảng chúng ta phải đoàn kết
được nhân dân.
1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu về quá trình tổ chức thực hiện chính sách cải
cách ruộng đất của Đảng ở địa phương và tỉnh Phú Thọ.
Các công trình nghiên cứu về cách mạng ruộng đất các tỉnh thành
trong cả nước giai đoạn 1953 – 1957 cũng đã góp phần giúp cho chúng tôi
có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về cách mạng ruộng đất nói chung cũng như
là quá trình thực hiện chính sách ruộng đất ở các tỉnh thành nói riêng.
Trong đó phải kể tới các luận án, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, lịch sử Việt Nam cận hiện đại đã đề cập tới: Luận án tiến sỹ của Lê
Quỳnh Nga: Quá trình thực hiện chủ trương cách mạng ruộng đất của
Đảng ở tỉnh Thanh Hoá (1945 – 1957); Luận án Tiến sỹ của Nguyễn Duy

Tiến: Vấn đề ruộng đất ở Thái Nguyên từ sau Cách mạng tháng Tám tới
hết cải cách ruộng đất. Từ luận án trên có thể thấy cuộc cách mạng ruộng
đất có một vai trò khá lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại, nó làm thay đổi
bộ mặt nông thôn ở các địa phương trong cả nước.
Trong khi các công trình nghiên cứu phổ rộng, mang tính lý luận, hệ
thống về vấn đề ruộng đất, nông dân, nông nghiệp nông thôn Việt Nam khá
phổ biến thì những công trình nghiên cứu về ruộng đất Phú Thọ lại khá sơ
sài và khiêm tốn, hầu như chỉ đề cập rải rác trong các công trình lịch sử
của địa phương như: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, đảng bộ huyện Tam
Nông, Thanh Ba, Hạ Hòa... Trong cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ”
tập 1 (1939 – 1968) xuất bản năm 2000 thì thời kỳ 1953 – 1957 ở Phú Thọ
được đề cập rất khiêm tốn, vấn đề thực hiện cải cách ruộng đất lại càng
khiêm tốn hơn, chỉ chiếm hơn 3 trang sách. Những nghiên cứu này chưa
phân tích được những chuyển biến rõ rệt tình hình sở hữu ruộng đất cũng
như giai cấp trong nông thôn Phú Thọ dưới tác động của cải cách ruộng
đất. Quá trình giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất mới chỉ bước đầu
được mô tả, đề cập tới nhưng thiếu tư liệu kiểm chứng nên chưa có những
trình bày rõ nét quá trình hiện thực hóa đường lối chính sách của Đảng về
ruộng đất tại Phú Thọ từ năm 1953- 1957. Cũng vì chưa có công trình
nghiên cứu chuyên sâu nên những nghiên cứu trên địa bàn tỉnh nhiều khi
vẫn “quan liêu” khi nhận định về giai cấp địa chủ: giai cấp địa chủ là giai
cấp sở hữu ruộng đất lớn sau 1953, cho nên phải tích cực phóng tay phát
động quần chúng giảm tô, giảm tức... Hầu hết các công trình nghiên cứu
đều chưa thấy những ảnh hưởng chính sách ruộng đất của Đảng thời kỳ
1953 – 1957 với quá trình thay đổi bộ mặt sở hữu ruộng đất ở tỉnh.

12


1.2. Những kết quả có thể kế thừa và những vấn đề luận án cần tập

trung giải quyết
1.2.1. Những vấn đề luận án có thể kế thừa
Nghiên cứu về ruộng đất, nông dân Việt Nam về cả lý luận và thực
tiễn đã có nhiều công trình nghiên cứu. Các công trình của các học giả từ
các công trình nghiên cứu cấp Bộ đến các bài viết, tài liệu, sách xuất bản
của các nhà lý luận chính trị, các nhà lãnh đạo, của các nhà nghiên cứu
khoa học lịch sử đã giúp chúng tôi có được những hiểu biết chung về các
xu hướng nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, qua đó có cách nhìn
nhận, hướng tiếp cận theo xu hướng khách quan khoa học phù hợp với thực
tiễn. Xét trên ba tiêu chí: nội dung, tư liệu, phương pháp nghiên cứu, các công
trình nghiên cứu này đã giải quyết được nhiều vấn đề liên quan tới luận án:
Về nội dung
Các công trình nghiên cứu của các học giả trong nước và nước ngoài
khi đề cập tới vấn đề ruộng đất và quá trình cải cách ruộng đất ở Việt Nam
phần nào đã cung cấp cho tác giả luận án những nội dung tổng quan về tình
hình ruộng đất ở Việt Nam, quá trình sở hữu ruộng đất của các giai cấp
trong lịch sử, những chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách ruộng
đất, vai trò của cải cách ruộng đất trong lịch sử, đồng thời có những đánh
giá, nhận xét về cải cách ruộng đất – đây là một nội dung hết sức quan
trọng để tác giả có thể có được thế giới quan đúng đắn khi nhìn cuộc cải
cách ruộng đất từ nhiều góc độ, nhiều quan điểm.
Nhìn tổng thể có thể thấy rằng, các công trình khảo cứu trong và
ngoài nước về vấn đề cải cách ruộng đất ở địa phương của miền Bắc thời
kỳ 1953 – 1957 lại chưa được phổ biến và số lượng nghiên cứu còn rất hạn
chế. Khi nghiên cứu về cải cách ruộng đất thì các tác giả chủ yếu đề cập tới
vấn đề chung, các chủ trương chung của Đảng và Nhà nước về cải cách
ruộng đất mà chưa đề cập tới việc thực hiện nó ở từng tỉnh thành trong cả
nước như thế nào, chính sách ở từng Đảng bộ tỉnh ra sao. Lịch sử Đảng bộ
Phú Thọ dày gần 200 trang cũng chỉ đề cập tới cải cách ruộng đất ở Phú
Thọ trong vỏn vẹn 3 trang.

Các nghiên cứu trước đây khi nói về cải cách ruộng đất có rất nhiều
những ý kiến trái chiều, có những nghiên cứu chỉ đề cập tới những thắng
lợi của cải cách ruộng đất, trong khi những hạn chế thì viết khá sơ sài, qua
loa; có những nghiên cứu lại phủ định sạch trơn thành quả của cải cách
ruộng đất; có những nghiên cứu khi nói tới những sai lầm, hạn chế trong
cải cách ruộng đất lại gán hết tội cho bần cố nông, cho nông dân trong quá
trình thực hiện; có những nghiên cứu về cải cách ruộng đất tại địa phương
lại đề cao quá vai trò của Đảng bộ tỉnh trong quá trình thực hiện cải cách
ruộng đất? Đây chính là những bài học cho tác giả - là thế hệ nghiên cứu
13


sau rút ra bài học kinh nghiệm quý giá trong việc đánh giá, nhận định về
cải cách ruộng đất tại tỉnh Phú Thọ thời kỳ 1953 – 1957.
Về tư liệu
Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về ruộng đất và cải
cách ruộng đất là những nguồn tư liệu quý giá cho tác giả trong việc triển
khai đề tài. Nhóm các công trình nghiên cứu chung về quá trình tổ chức
thực hiện cải cách ruộng đất trên phạm vi cả nước, tại các địa phương và
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ là nguồn tư liệu chính giúp nghiên cứu sinh trong
việc phân tích các chủ trương, chính sách của Đảng trong quá trình thực
hiện cải cách ruộng đất cũng như nội dung phát động quần chúng giảm tô,
giảm tức và cải cách ruộng đất trong từng giai đoạn. Mặc dù diễn ra trong
thời gian không phải là dài, nhưng giai đoạn cải cách ruộng đất ở Việt Nam
tốn khá nhiều giấy mực của các nhà nghiên cứu. Đầu tiên phải kể tới
nghiên cứu của nhóm tác giả Trần Phương, Lê Đức Bình; của Lâm Quang
Huyên, Trương Thị Tiến, Lê Thị Quỳnh Nga, và những luận án khoa học
lịch sử. Các nhà nghiên cứu từ những chính sách trong giảm tô và cải cách
ruộng đất của Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (sắc lệnh,
nghị định, thông tư, điều lệ do chính phủ ban hành) đã phác họa nên được

bức tranh về cải cách ruộng đất ở Việt Nam trong những năm 50 của thế kỷ
XX. Là nhà khoa học, họ không chỉ thấy đơn thuần những thắng lợi, hay
sai lầm của cải cách ruộng đất chỉ dựa trên những con số, những báo cáo
khô khan mà họ còn có những đánh giá riêng về những thắng lợi của nhiệm
vụ phản phong và những sai lầm trong cải cách ruộng đất, họ còn thấy
được nguồn gốc tư tưởng dẫn tới những sai lầm trong cải cách ruộng đất.
Đồng thời, các nhà khoa học cũng không chỉ phân tích được tác dụng to lớn
của cải cách ruộng đất đối với đời sống nông dân mà còn thấy được ý nghĩa
của nó đối với công cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân ta.... Họ
không nhìn cải cách ruộng đất theo cách nhìn một chiều mà đa chiều để
thấy hết được những yếu tố xung quanh nó, tác động tới nó làm biến đổi
nó. Các nhà khoa học không chỉ nêu ra những nguyên nhân dẫn tới những
thắng lợi hay sai lầm của cải cách ruộng đất mà còn chỉ ra được nguồn gốc
tư tưởng của những sai lầm đó. Họ đưa ra những ý kiến riêng của mình về
con đường nông dân nên đi sau cải cách ruộng đất như thế nào? Về chủ
nghĩa tư bản ở nông thôn miền Bắc ngay sau cải cách ruộng đất có thực sự
tồn tại không? Có được những nghiên cứu sâu sắc như vậy, các nhà khoa
học trên các lĩnh vực lịch sử, kinh tế... đã giúp cho Đảng và Nhà nước ta
đúc kết ra được những bài học kinh nghiệm sâu sắc trong quá trình xây
dựng đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là một
tư liệu tham khảo hết sức có ý nghĩa giúp tác giả có cái nhìn toàn diện về
cải cách ruộng đất ở Việt Nam cũng như các chính sách của Đảng và Nhà
nước về vấn đề ruộng đất giai đoạn này, từ đó có được những đánh giá
14


khách quan về quá trình thực hiện chủ trương ruộng đất của Đảng ở Phú
Thọ giai đoạn này.
Về phương pháp nghiên cứu
Các nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước khi đề cập về

vấn đề ruộng đất đều từ hướng tiếp cận nhu cầu về tư liệu sản xuất của
người nông dân, và vai trò của ruộng đất đối với nông nghiệp qua các thời
kỳ. Bằng những phương pháp thống kê, so sánh đối chiếu, phương pháp
logic, phương pháp lịch sử... các tác giả đã phân tích được những nội dung
cơ bản về tình hình ruộng đất, sở hữu ruộng đất của nông dân qua các thời
kỳ đồng thời làm rõ các chính sách của Đảng và nhà nước trong việc đem
lại ruộng đất cho nông dân.
1.2.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục đi sâu tìm hiểu, nghiên
cứu làm rõ
Trên cơ sở những phân tích về kết quả đạt được cũng như những vấn
đề còn chưa được giải quyết của các công trình nghiên cứu về cải cách
ruộng đất ở các địa phương từ trước tới nay tác giả luận án nhận thấy rằng
việc tiếp tục tìm hiểu những vấn đề còn chưa đủ, chưa đúng, chưa sâu cải
cách ruộng đất tại các địa phương, cụ thể là tại tỉnh Phú Thọ (1953 - 1957)
là việc làm cần thiết. Trong phạm vi luận án của mình, tác giả tập trung vào
giải quyết các vấn đề sau:
Về nội dung:
Luận án đi sâu vào tìm hiểu về quá trình thực hiện chính sách ruộng
đất của Đảng ở Phú Thọ thời kỳ 1953 – 1957: Hệ thống hóa các tư liệu về
vấn đề ruộng đất ở Phú Thọ từ năm 1953 tới hết cải cách ruộng đất để làm rõ
quá trình thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng ở tỉnh Phú Thọ thời kỳ
1953 đến 1957: Quá trình thực hiện phát động quần chúng tiến hành các đợt
giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất tại Phú Thọ; Quá trình thực hiện công
tác kiểm tra lại cải cách ruộng đất và công tác sửa sai sau cải cách ruộng đất.
Đồng thời luận án cũng dựng lại bức tranh toàn cảnh về vấn đề sở hữu ruộng
đất của nông dân, địa chủ trong giai đoạn cải cách ruộng đất; Những biến đổi
về chính trị, xã hội, kinh tế sau cải cách ruộng đất; Đưa ra những nhận xét,
đánh giá về ưu điểm, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu góp phần
thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Về tư liệu

Tác giả luận án sẽ tập trung khai thác sâu tư liệu gốc liên quan đến các
chủ trương của Đảng về cải cách ruộng đất nói chung và quá trình thực hiện
cải cách ruộng đất tại Phú Thọ nói riêng hiện được lưu trữ chủ yếu tại Trung
tâm lưu trữ Quốc gia III, Trung tâm lưu trữ văn phòng tỉnh ủy Phú Thọ, Sở
Nông nghiệp tỉnh Phú Thọ, Tổng cục thống kê và thư viện Đại học quốc
gia…cùng các nguồn tư liệu khác liên quan như báo chí, các luận văn, luận
15


án. Luận án bổ sung thêm nghiên cứu các tư liệu nước ngoài để có cái nhìn đa
diện, khách quan về vấn đề nghiên cứu.
*Tiểu kết chương 1:
Ở mọi quốc gia, đất đai luôn được coi là nguồn tài nguyên của cải
đặc biệt quan trọng. Đối với một nước đại đa số dân cư làm nông nghiệp
như Việt Nam thì ruộng đất là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Vì
thế, đây cũng là vấn đề được các nhà khoa học chú trọng nghiên cứu. Nếu
như các nghiên cứu về ruộng đất nói chung khá đa dạng, phong phú thì các
nghiên cứu về “cải cách ruộng đất” thời kỳ từ năm 1953 đến năm 1957 lại
có phần hạn chế hơn. Vậy chính sách cải cách ruộng đất do Đảng ta phát
động thời kỳ 1953 – 1957 có thực sự đem lại ruộng đất cho nông dân
không? thực sự là một bước đi đúng đắn của Đảng ta hay không? Cho tới
thời điểm hiện nay, các nghiên cứu về quá trình thực hiện chủ trương cải
cách ruộng đất của Đảng ở các địa phương xuất hiện không đầy đủ trong
các cuốn lịch sử Đảng bộ địa phương. Trong 10 năm trở lại đây các luận
văn, luận án của các học viên cao học, các nghiên cứu sinh chuyên ngành
Lịch sử Đảng, Lịch sử Việt Nam cận hiện đại cũng đã tập trung nghiên cứu
về “cải cách ruộng đất” ở một số địa phương như: Thanh Hóa, Thái
Nguyên, Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc…những công trình đó đã góp phần
làm hoàn chỉnh hơn mảng đề tài nghiên cứu lịch sử địa phương, và góp
phần giúp cho các nhà khoa học sau này có được phương pháp luận nghiên

cứu phù hợp và sẽ phát triển mảng đề tài nghiên cứu này được rộng và sâu
hơn.
Phú Thọ là một trong những địa phương đầu tiên trong cả nước thực
hiện thí điểm ruộng đất. Tuy nhiên trong tất cả các cuốn Lịch sử Đảng Bộ
Vĩnh Phú (gồm tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ), Lịch sử Đảng bộ Phú Thọ thì
mới chỉ có khoảng từ 10- 20 trang đề cập tới quá trình thực hiện chủ trương
cải cách ruộng đất của Đảng ở tỉnh Phú Thọ từ năm 1953 đến năm 1957, dữ
liệu khá khiêm tốn. Các nghiên cứu về ruộng đất trên cả nước nói chung
qua các thời kỳ và các nghiên cứu về vấn đề “cải cách ruộng đất” đã giúp
cung cấp cho nghiên cứu nguồn tư liệu tham khảo phong phú, đồng thời
giúp cho nghiên cứu sinh có được quan điểm lịch sử, toàn diện và phương
pháp nghiên cứu biện chứng trong việc tìm hiểu quá trình thực hiện chủ
trương ruộng đất của Đảng ở tỉnh Phú Thọ từ năm 1953 đến năm 1957.
Chương 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
RUỘNG ĐẤT CỦA ĐẢNG Ở TỈNH PHÚ THỌ TỪ NĂM 1953 ĐẾN
NĂM 1956
2.1. Tình hình ruộng đất ở Phú Thọ trước năm 1953.
16


2.1.1. Tình hình chính trị xã hội ở Phú Thọ
Phú Thọ là một trong những cái nôi của loài người thời tiền sử, là
vùng đất tổ cội nguồn của dân tộc Việt Nam. Trên các bậc thềm phù sa cổ
sông Hồng, sông Lô, sông Đà đã có các thị tộc, bộ lạc người nguyên thuỷ
sinh sống. Nơi đây các vua Hùng đã dựng nước Văn Lang quốc gia đầu tiên
của Việt Nam, thủ đô là Phong Châu. Phú Thọ chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp, hệ thống sông ngòi, đầm hồ phong phú cũng góp phần thúc đẩy
nông nghiệp trong tỉnh phát triển. Trước Cách mạng Tháng Tám, dân cư
Phú Thọ thưa thớt, nhất là các tỉnh miền núi.

2.1.2. Tình hình ruộng đất ở Phú Thọ trước năm 1953
Trước cách mạng tháng Tám, Phú Thọ là tỉnh tập trung nhiều đồn
điền của Pháp, quá trình sở hữu ruộng đất, đồn điền của từng giai cấp trong
dân cư Phú Thọ cũng khác nhau. Ruộng đất tập trung chủ yếu trong tay giai
cấp địa chủ và thực dân Pháp, chỉ còn một phần nhỏ ruộng đất là do nông
dân sở hữu. Nông dân phải đi làm thuê, nộp tô, thuế cho địa chủ và tư bản
Pháp, bị địa chủ người Việt và người Pháp bóc lột sức lao động và quyền
dân chủ một cách cùng kiệt. Hình thức bóc lột của địa chủ: bóc lột hoàn
toàn phong kiến, bóc lột bán phong kiến, bóc lột tư bản. Hình thức bóc lột
của địa chủ trong các đồn điền là địa tô và nhân công tá điền được chủ giao
trâu và giao ruộng để cày cấy, đến vụ thu hoạch tá điền phải trả công trâu
và nộp địa tô.
Nhìn chung trước cách mạng tháng Tám kinh tế nông nghiệp Phú
Thọ cũng như nông dân trong tỉnh hoàn toàn phụ thuộc vào đế quốc thực
dân Pháp và tay sai. Nhân dân Phú Thọ đặc biệt là người nông dân bị áp
bức về chính trị và bị bóc lột về kinh tế, bị chà đạp về văn hóa, họ bị bóc
lột tàn nhẫn và nặng nề. Một yêu cầu đặt ra cho Đảng bộ Phú Thọ là phải
làm sao để thu hẹp và xóa bỏ phạm vi bóc lột của đế quốc và tay sai, đem
lại quyền lợi cho người dân trong tỉnh, đặc biệt là nông dân.
Ngày 14 tháng 7 năm 1949 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số
78/SL về việc giảm địa tô. Thi hành sắc lệnh số 78/SL do chủ tịch chính
phủ ký ngày 14 tháng 7 năm 1949 về việc giảm địa tô, Uỷ ban Tỉnh đã:
Thực hiện giảm tô 25% so với địa tô trước Cách mạng Tháng Tám; Triệt để
xoá bỏ địa tô phụ ; Triệt để xoá bỏ, bài trừ mánh khoé, gian giảo của điền
chủ; Thành lập Hội đồng giảm tô tỉnh để thực hiện việc chỉ đạo giảm tô.
Để ngăn chặn hành động chống đối của giai cấp địa chủ, Chính phủ
đã ban hành một loạt các sắc lệnh, nghị định, thông tư về việc giảm tô,
giảm tức: Sắc lệnh số 26/SL, ngày 15 tháng 2 năm 1950, về việc lập ban
giảm tô ở xã; Sắc lệnh số 89/SL, ngày 22 tháng 5 năm 1950, về việc giảm
lãi, xoá hay hoãn nợ cũ và cấm đoán các thủ đoạn bóc lột bằng mọi cách ở

thôn quê; Sắc lệnh số 84/SL, ngày 22 tháng 5 năm 1950, đổi địa chủ Hội
đồng giảm tô tỉnh và Ban giảm tô, giảm tức xã.
17


Theo điều tra của Hội nông dân cứu quốc tỉnh năm 1950 thì số chủ
điền là 1.113 người; trong đó số địa chủ đã giảm đủ tô là 3 người, chưa
giảm đủ là 16 người, chưa giảm là 1 người; số phú nông đã giảm đủ tô là
51 người, chưa giảm đủ là 314 người, chưa giảm là 60 người. Tổng kết cả
đợt giảm tô năm 1950: Số chủ ruộng đã giảm 97.8% (trong tổng số 1113
chủ điền); số tá điền được giảm chiếm: 98.6% (trong tổng số 2615 tá điền);
số ruộng đất đã giảm 97.2%.
Như vậy, cho đến trước cải cách ruộng đất, chế độ chiếm hữu và bóc
lột phong kiến vẫn tồn tại, địa chủ vẫn là thế lực kìm hãm lực lượng sản
xuất phát triển và là trở lực cho sự phát triển của xã hội tỉnh Phú Thọ cũng
như của cả nước.
2.2. Quá trình thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng ở Phú Thọ từ
năm 1953 đến năm 1956
2.2.1 Bối cảnh lịch sử và chủ trương cải cách ruộng đất của Đảng
Trong bối cảnh đó, Hội nghị Trung ương Đảng họp lần thứ IV từ
ngày 25 tới ngày 30 tháng 1 năm 1953 (1/1953) đã kiểm điểm chính sách
ruộng đất của Đảng trong những năm kháng chiến kiểm điểm về tình hình
thực hiện chính sách ruộng đất và quyết định phát động quần chúng nông
dân triệt để giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất ở các vùng tự do và
nhận định rằng cách mạng chưa kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phản đế và
nhiệm vụ phản phong, chính sách ruộng đất chưa được thi hành đầy đủ và
kịp thời. Tiếp đó, hội nghị liên tịch giữa Ban thường trực Quốc hội và ủy
ban Mặt trận Liên Việt toàn quốc đã được triệu tập từ ngày 25 tháng 2 tới
ngày 1 tháng 3 năm 1953, đã thảo luận đề án “Phóng tay phát động quần
chúng, triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức” của Đảng Lao động Việt Nam.

Hội nghị nhất trí với bản đề án và kêu gọi đồng bào tích cực thực hiện
chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ. Ngày 5 tháng 3 năm 1953,
Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng ký bản phân định thành phần giai cấp ở
nông thôn số 239-B-TTG. Ngày 12 tháng 4 năm 1953, Chính phủ đã ban
hành 3 sắc lệnh về chính sách ruộng đất: Sắc lệnh số 149 về phát động
quần chúng triệt để giảm tô thực hiện giảm tức; Sắc lệnh số 150 về Thành
lập toàn án nhân dân đặc biệt ở những nơi phát động quần chúng; Sắc lệnh
số 151 về Trừng trị những địa chủ chống pháp luật trong phát động quần
chúng. Ngày 16 tháng 5 năm 1953, Thủ tướng Chính phủ Ban hành thông
tư số 265 – TTg về việc chỉnh đốn chính quyền cấp xã qua phát động quần
chúng và Thông tư số 356 – TTg ngày 4 tháng 1 năm 1954 về mấy vấn đề
cần quy định thêm trong việc chỉnh đốn chính quyền xã qua phát động
quần chúng; Thông tư số 277 – TTg ngày 1 tháng 6 năm 1953 về việc thi
hành chính sách ở những nơi chưa phát động quần chúng.
Nghị quyết Bộ Chính trị ngày mùng 8, mùng 9 tháng 8 năm 1953 về
việc chỉnh đốn công tác phát động quần chúng, sau khi đánh giá ưu điểm,
18


khuyết điểm của các đợt thí điểm phát động quần chúng giảm tô, đã chỉ rõ
đặc điểm của cuộc phát động quần chúng hiện nay là: Thực hiện chính sách
ruộng đất trong kháng chiến nên phải đấu tranh về hai mặt: mặt chống đế
quốc và mặt chống phong kiến, ta lại có Mặt trận dân tộc thống nhất rộng
rãi... nên ngày càng cô lập và phân hóa được giai cấp địa chủ. Nghị quyết
cũng khẳng định rõ mục đích của chính sách ruộng đất: "chỗ ta nhằm tới là
cải cách ruộng đất, chứ không phải chỉ cốt giảm tô". Nghị quyết cũng chỉ ra
những nhầm lẫn ở cơ sở trong việc đấu tố cả tầng lớp phú nông.
Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương khoá II và Hội nghị
toàn quốc lần thứ I của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 23/11/1953 một lần
nữa khẳng định sự cần thiết tiến hành cải cách ruộng đất, thực hiện triệt để

khẩu hiệu “người cày có ruộng” và thông qua Cương lĩnh ruộng đất của
Đảng. Cương lĩnh của Đảng về ruộng đất là cơ sở để Quốc hội thông qua
Luật cải cách ruộng đất, được ban hành vào tháng 12 năm 1953.
Ngày 19 tháng 12 năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số
197/SL, ban bố Luật cải cách ruộng đất. Phát biểu tại Hội nghị lần thứ 6
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (từ 15 đến 17/7/1954), Tổng bí thư
Trường Chinh chỉ ra những khuyết điểm, sai lầm nghiêm trọng của cán bộ
trong công tác phát động quần chúng thực hiện giảm tô và cải cách ruộng
đất. Đến cuối năm 1954, Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng còn
ra nhiều chỉ thị hướng dẫn một số vấn đề cụ thể trong công tác cải cách
ruộng đất, như: chỉ thị ngày 3/11/1954 của Bộ Chính trị Về mấy vấn đề cần
chú ý trong khi xử trí bọn địa chủ có tội ác trong phát động quần chúng
giảm tô và cải cách ruộng đất; Chỉ thị ngày 7/12/1954 của Ban Bí thư Về
việc chỉnh đốn chi bộ nông thôn trong cải cách ruộng đất...
Trong quá trình chỉ đạo cải cách ruộng đất, Bộ Chính trị và Ban Bí
thư còn ra nhiều chỉ thị bổ xung và chỉ đạo công tác chính đốn chi bộ ở
nông thôn, kể cả chỉnh đốn cơ quan chỉ đạo cấp huyện và cấp tỉnh, như:
Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 3/2/1955 về chỉnh đốn cơ quan chỉ đạo cấp
huyện và Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 9/11/1955 Về chỉnh đốn cơ quan chỉ
đạo cấp tỉnh trong cải cách ruộng đất. Việc chỉnh đốn tổ chức, được phân
cấp cụ thể: chỉnh đốn chi bộ nông thôn phải phối hợp đồng thời với việc
phát động quần chúng cải cách ruộng đất; chỉnh đốn cấp huyện là do các uỷ
ban cải cách ruộng đất các khu, các đoàn uỷ và các khu uỷ chỉ đạo; chỉnh
đốn cơ quan cấp tỉnh là do Ban Tổ chức Trung ương chỉ đạo. Tuy nhiên, do
không kiểm soát được tình hình, đến tháng 4/1956, Trung ương mới phát
hiện ra những sai lầm, khuyết điểm khá nghiêm trọng trong công tác chỉnh
đốn tổ chức.
Căn cứ vào chủ trương của Đảng, tháng 9/1954, Uỷ ban cải cách
ruộng đất Trung ương ra nghị quyết về “đẩy mạnh phát động quần chúng
19



thực hiện cải cách ruộng đất” được Hội đồng Chính phủ thông qua. Trong
nghị quyết này có một số sửa đổi bổ xung, như: rút khẩu hiệu “đánh đổ Việt
gian phản động”, thay bằng khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ cường hào gian
ác”, thu hẹp diện đấu tranh, sửa đổi phương pháp đấu tranh, tăng cường tác
dụng của toà án nhân dân... và ngày 1/3/1955, Chính phủ đã ban hành Điều
lệ phân định thành phần giai cấp ở nông thôn, đưa ra các tiêu chuẩn quy
định thành phần các giai cấp, như địa chủ, phú nông, trung nông, bần và cố
nông. Đây là khâu đặc biệt quan trọng, khâu then chốt trong cải cách ruộng
đất.
2.2.2. Quá trình thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng ở tỉnh Phú
Thọ
2.2.2.1. Thực hiện giảm tô chuẩn bị điều kiện tiến tới cải cách ruộng đất
Thực hiện chủ trương phóng tay phát động quần chúng của Đảng,
tháng 4 năm 1953, đợt một phát động quần chúng giảm tô, cũng là đợt thí
điểm mở ra trong 25 xã thuộc Thái Nguyên, Phú Thọ và Thanh Hóa. Trong
đợt này Phú Thọ do Đoàn Thái Nguyên – Phú Thọ phụ trách, thời gian từ
tháng 4 đến tháng 8 năm 1953, mỗi xã có đội công tác khoảng 20 người
phụ trách.
Từ những kết quả đạt được sau đợt thí điểm, trên cơ sở Nghị quyết
Bộ Chính trị tháng 8 năm 1953, Phú Thọ đã tiến hành các đợt phát động
quần chúng giảm tô tiếp theo. Trong năm 1953 – 1954, kể cả đợt thí điểm,
Phú Thọ đã tiến hành 5 đợt phát động quần chúng giảm tô, giảm tức trên
địa bàn tỉnh. Cụ thể như sau:
Đợt 1 tiến hành trên 3 xã (đợt thí điểm)
Đợt 2: tiến hành trên 33 xã (thực hiện chung với Tuyên Quang và Yên Bái).
Đợt 3 tiến hành trên 49 xã, đã được tiến hành trong năm mươi ngày, trong
tháng 1 và 2 năm 1954, tại 49 xã trên địa bàn các huyện Thanh Sơn, Yên
Lập, Thanh Ba, Hạ Hòa, Phù Ninh…

Đợt 4 thực hiện trên 23 xã, tiến hành trong tháng 3, 4, 5 và đầu tháng 6
năm 1954.
2.2.2.2. Cải cách ruộng đất ở tỉnh Phú Thọ.
Sau những thắng lợi của các đợt phát động quần chúng giảm tô, lại
có điều kiện thuận lợi là vùng tự do, ngay từ cuối năm 1954, Đoàn ủy I
thuộc Đoàn cải cách ruộng đất Trung ương đã đưa cán bộ về làm nhiệm vụ,
tính từ năm 1954 đến hết năm 1956, Phú Thọ tiến hành 3 đợt cải cách
ruộng đất (từ đợt II đến đợt IV) và 2 đợt kiểm tra thí điểm sau cải cách
ruộng đất trên địa bàn toàn tỉnh, cụ thể:
Đợt II ở 135 xã thuộc 5 huyện Tam Nông, Lâm Thao, Phù Ninh,
Thanh Ba và Cẩm Khê bắt đầu từ ngày 26 tháng 10 năm 1954 đến cuối
năm 1954.
20


Đợt III tiến hành ở 77 xã thuộc các huyện Hạ Hòa, Đoan Hùng, Cẩm
Khê (do Đoàn ủy I phụ trách) và huyện Hạc Trì, Tam Nông, Thanh Thủy,
Lâm Thao (do Đoàn ủy Sơn Tây phụ trách) bắt đầu từ ngày 24 tháng 2 năm
1955 đến 24 tháng 5 năm 1955.
Đợt IV được tiến hành ở 17 xã của huyện Yên Lập từ ngày 28 tháng
6 năm 1955 đến ngày 10 tháng 10 năm 1955.
2.2.2.3. Quá trình kiểm tra thí điểm cải cách ruộng đất tại Phú Thọ
Tính đến tháng 10 năm 1955, Phú Thọ đã tiến hành cải cách ruộng
đất trên toàn bộ 229 xã thuộc 10 huyện. Để tiêu diệt những thế lực còn lại
của giai cấp địa chủ, củng cố và phát triển những thắng lợi của cải cách
ruộng đất, vạch trần âm mưu ngóc đầu dậy của giai cấp địa chủ, Phú Thọ
đã tiến hành thực hiện kiểm tra thí điểm sau cải cách ruộng đất tại sáu
huyện: Lâm Thao, Thanh Ba, Hạc Trì, Phù Ninh, Thanh Thủy, Tam Nông.
Đoàn ủy kiểm tra cải cách ruộng đất được thành lập thay cho Đoàn ủy I.
Đợt I phúc tra cải cách ruộng đất được tiến hành trên 43 xã thuộc hai

huyện Thanh Ba và Lâm Thao từ tháng 10 năm 1955 đến tháng 5 năm
1956.
Đợt II phúc tra Cải cách ruộng đất được thực hiện trên địa bàn 67 xã
thuộc bốn huyện Tam Nông, Thanh Thủy, Phù Ninh và Hạc Trì (từ tháng 5
năm 1956 đến hết tháng 10 năm 1956) gồm 28.454 hộ, 122.252 nhân khẩu,
trong đó có 10.987 nhân khẩu công giáo.
*Tiểu kết chương 2
Chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ giai đoạn 1953-1956
đã từng bước xóa bỏ hình thức chiếm hữu ruộng đất phong kiến, giải phóng
lực lượng sản xuất khỏi sự trói buộc của quan hệ sản xuất đã quá lạc hậu;
đem lại ruộng đất cho nông dân lao động, tạo nên sự thay đổi căn bản chủ
thể của nền kinh tế nông nghiệp. Sự thay đổi từng bước nhưng có ý nghĩa
cách mạng đó là nhân tố quan trọng thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát
triển, tăng cường sức mạnh hậu phương kháng chiến. Với ưu thế là một
tỉnh diện tích tự do chiếm nhiều nên đến đầu năm 1953, với chủ trương
phát động quần chúng triệt để giảm tô của Đảng, tình hình sở hữu ruộng đất
tại Phú Thọ đã có những bước chuyển biến căn bản với sự sở hữu ruộng đất
về tay nông dân đã chiếm hơn 50%. Việc thực hiện chính sách ruộng đất
đã từng bước cải thiện dân sinh, huy động đến mức cao nhất sức người, sức
của phục vụ cho kháng chiến chống Pháp. Từ năm 1954 – 1956, đường lối
cải cách từng bước được thay thế bằng việc tiến hành cải cách ruộng đất,
mong muốn sớm xóa bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và
địa chủ phong kiến. Bằng các biện pháp trưng thu, trưng mua, tịch thu, các
đoàn, đội cải cách đã thu được một số ruộng thực còn trong tay giai cấp địa
chủ chia cho nông dân, điều chỉnh lại ruộng đất đã tạm chia, chính thức hóa
21


quyền sở hữu ruộng đất đã tạm cấp, tạm giao. Tuy nhiên, trong quá trình
thực hiện đã phạm những sai lầm nghiêm trọng trong việc chấp hành đường

lối của Đảng, phân định thành phần giai cấp, chỉnh đốn tổ chức, thực hiện
chính sách tôn giáo và chính sách dân tộc, gây tổn thấy lớn cho nhân dân
và hạn chế nhất định thành quả của cải cách ruộng đất.
Chương 3. ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
SỬA SAI HOÀN THÀNH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT TỪ NĂM
1956 ĐẾN NĂM 1957.
3.1. Những yếu tố tác động đến công tác sửa sai trong cải cách ruộng
đất ở tỉnh Phú Thọ
3.1.1. Chủ trương sửa sai trong cải cách ruộng đất của Đảng.
Trong quá trình thực hiện cuộc cách mạng ruộng đất, ngay khi đang
tiến hành đợt 3 cải cách ruộng đất, Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (3/1955)
đã phát hiện ra “nhiều khuyết điểm nghiêm trọng”, trong những khuyết
điểm đó, “khuyết điểm chủ yếu là hữu khuynh”. Song những khuyết điểm
đó đã không được sửa chữa kịp thời, dẫn đến tình trạng ngày càng nghiêm
trọng, như: sai lầm nghiêm trọng trong việc chấp hành đường lối giai cấp
của Đảng ở nông thôn; sai lầm trong việc quy định thành phần và đánh
địch; sai lầm trong chỉnh đốn tổ chức, nhất là tổ chức đảng; sai lầm trong
việc thực hiện chính sách tôn giáo và chính sách dân tộc...
Tháng 4 năm 1956, Đảng đã phát hiện ra sai lầm và có chỉ thị sửa
chữa sai lầm đó. Ngày 18 tháng 8 năm 1956, chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư
cho đồng bào nông thôn và cán bộ, vạch rõ những thắng lợi và sai lầm
trong cải cách ruộng đất. Tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp
hành Trung ương Đảng đã thảo luận kỹ và kết luận về những thắng lợi và
sai lầm trong cải cách ruộng đất. Kỳ họp thứ 6 của Quốc hội (tháng 12 năm
1956) cũng đã phân tích, đánh giá toàn diện vấn đề trên. Theo đánh giá của
Hội nghị Trung ương lần thứ 10, đó là “những sai lầm nghiêm trọng nhất
trong toàn bộ công tác cải cách ruộng đất”.
3.1.2. Những sai lầm trong cải cách ruộng đất ở Phú Thọ
Tại tỉnh Phú Thọ, những hạn chế đã xuất hiện ngay từ những đợt
giảm tô và trong cải cách ruộng đất lại càng rõ rệt như: buông lỏng quản lý

địa chủ, bắt rễ còn lòng lẻo, trình độ của cán bộ, đảng viên tại xã còn non
kém, từ đó dẫn tới những sai lầm không thể tránh khỏi, gây nên những hậu
quả nghiêm trọng: Sai lầm về phân loại và xử phạt địa chủ: Trong cải cách,
các đoàn công tác ở Phú Thọ đã quy sai 837 hộ cường hào gian ác, 2032 hộ
địa chủ thường, 1809 hộ phú nông, 275 hộ bóc lột khác, riêng trung nông bị
quy sai lên thành phần bóc lột là 4490 hộ. Sai lầm về tổ chức, chỉnh đốn,
đoàn công tác ở Phú Thọ đã xử trí oan 2314 đảng viên và 415 đảng viên

22


còn đang xét, xử trí oan 146 cán bộ thoát ly, giải tán nhầm 8 chi bộ và đăng
ký sai 01 chi bộ.
3.2. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo công tác sửa sai, hoàn thành cải
cách ruộng đất.
3.2.1. Chủ trương và giải pháp sửa sai của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ.
Trên cơ sở nhận thức sai lầm của Trung ương Đảng, Phú Thọ đã tiếp
nhận nhanh chóng tinh thần sửa sai và thực hiện sửa sai một cách nghiêm
túc. Cụ thể trong Bước 1 (được thực hiện trong 20 ngày), Đảng bộ Phú
Thọ đã xác định công tác chính cần nắm vững trong bước một là: Củng cố
tổ chức nhằm bước đầu kiện toàn các cơ quan lãnh đạo ở xã, Ủy ban hành
chính, Ban chấp hành nông hội, xã đội, công an xã. Đi đôi với đó phải:
Điều chỉnh diện tích, sản lượng để nhân dân phấn khởi, yên tâm sản xuất,
thực hiện hoàn thành thu thuế năm 1956; Lãnh đạo làm màu, làm chiêm, đề
phòng và ngăn ngừa việc tranh chấp ruộng đất hoa màu; Đảm bảo an ninh
và đẩy mạnh sản xuất, chú ý đến những nơi có đồng bào dân tộc thiểu số,
đồng bào công giáo… Về chỉnh đốn tổ chức: Cán bộ ở trên phải về họp với
cán bộ xã nói rõ nhiệm vụ sửa sai, ổn định tư tưởng, nắm vững tình hình
trong xã. Chú trọng nắm tình hình thắc mắc của cán bộ nhân dân, tình hình
xử trí đúng, sai trong cải cách ruộng đất, tình hình chung sau cải cách

ruộng đất, sau đó triệu tập hội nghị cán bộ xã. Hội nghị cán bộ xã bao gồm
các nội dung: Kiểm điểm tình hình, nói rõ trách nhiệm của cán bộ xã trong
việc sửa sai; Giải quyết các vấn đề về tổ chức, bước đầu kiện toàn UBHC
xã; Thảo luận các chính sách sửa sai và bàn kế hoạch sủa sai trong xã; Khi
họp cán bộ cần mời những cán bộ xã bị xử trí trong chỉnh đốn khi thực hiện
giảm tô và cải cách ruộng đất, chỉ trừ những địa chủ phản động. Bước hai
(1 tháng), yêu cầu của bước hai là: Trên cơ sở truyên truyền, giáo dục
chính sách cho nhân dân mà tiến hành sửa sai về thành phần và đền bù tài
sản cho những người bị quy sai, đồng thời sửa chữa những sai lầm khác mà
trong cải cách ruộng đất đã phạm phải. Bước 3: Yêu cầu là kiểm điểm công
tác sửa sai và tiếp tục giải quyết những vấn đề còn lại. Nơi nào cần thiết thì
bầu lại cơ quan lãnh đạo như UBHC và Ban chấp hành Nông hội xã. Đảng
bộ Phú Thọ cũng đưa ra những biện pháp nhằm thực hiện sửa sai: Việc sửa
sai là do các cấp Chính quyền phụ trách, song tỉnh và huyện cũng cử cán bộ
về giúp xã, động viên lực lượng các ngành, các giới cùng tham gia sửa
chữa sai lầm.
3.2.2. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ chỉ đạo công tác sửa sai
Thực hiện chủ trương của Trung ương, tỉnh Phú Thọ từng bước tiến
hành công tác sửa sai nhằm ổn định tình hình. Ngày 30 tháng 11 năm 1956,
đoàn cán bộ Trung ương cùng với cán bộ của tỉnh đã về một số xã trọng
điểm để tiến hành công tác sửa sai. Cuối tháng 12 năm 1956, “công tác sửa
sai đã được tiến hành đợt I ở 125 xã; đợt II tiến hành từ tháng 4 năm 1957 ở
23


124 xã và tới tháng 10 năm 1957 sửa sai ở 20 xã còn lại của huyện Thanh
Sơn”1. Dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, công tác sửa
sai của tỉnh đã đạt được một số kết quả.
Tiểu kết chương 3
Qua thực hiện nhiệm vụ của công tác sửa sai và chỉnh đốn tổ chức,

dưới sự lãnh đạo của Trung ương, Đảng bộ Phú Thọ đã nắm vững chính
sách và vận dụng đúng phương châm mà Trung ương đề ra, đồng thời tập
trung lực lượng tốt nhất để tiến hành công tác sửa sai, do đó đã đạt được
những kết quả căn bản, người bị oan đã được trả lại tự do, ổn định tư tưởng
và yên tâm lao động sản xuất, thành phần bị giam giữ phần lớn là địa chủ
phản động, có tội trong kháng chiến. Chủ trương sửa sai đã dần thấm sâu
vào các tầng lớp nhân dân và đã được thực hiện, làm cho đoàn kết nội bộ,
đoàn kết nhân dân được củng cố, tình hình nông thôn căn bản được ổn
định. Tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng kiện toàn,
chất lượng đảng viên được nâng lên, nhân dân thêm tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng.
Chương 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. Nhận xét chung
4.1.1. Ưu điểm
Một là, hoàn thành khẩu hiệu “người cày có ruộng”, giải phóng sức
sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp.
Hai là, góp phần quyết định vào việc phát hiện, đấu tranh loại trừ các
tổ chức phản động của các thế lực thù địch tại Phú Thọ.
4.1.2. Hạn chế
Một là, mở rộng quá mức đối tượng đấu tranh và sai lầm về phân
loại, xử phạt tầng lớp địa chủ.
Hai là sai lầm về tình hình chỉnh đốn tổ chức.
Ba là, gây tác động xấu, tiêu cực đến một số vấn đề về văn hóa xã
hội.
Những sai lầm đó có nhiều nguyên nhân:
Một là, tại Phú Thọ, Đoàn ủy cải cách ruông đất đã chấp hành một
cách máy móc chỉ thị của cấp trên.
Hai là, do đoàn cải cách ruộng đất ở Phú Thọ đã sai lầm trong vấn đề
thực hiện chính sách mặt trận.

1

Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh Phú Thọ (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, tập 1 (1939-1968), Nhà

xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 266.

24


Ba là, vai trò của Đảng bộ cơ sở không được phát huy hết trong cải
cách ruộng đất nên dẫn tới tình trạng nhầm lẫn, quy sai thành phần.
4.2. Một vài kinh nghiệm chủ yếu
4.2.1. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và dân chủ.
4.2.2. Phải dựa vào quần chúng, phát huy quyền làm chủ của quần chúng
nhân dân, nhưng phải giác ngộ và tổ chức quần chúng.
4.2.3. Phải điều tra nghiên cứu, đánh giá đúng thực tế khách quan để đề ra
chủ trương, chính sách cho đúng.
4.2.4. Phải đi đúng đường lối giai cấp ở nông thôn, giữ vững nguyên tắc
của Đảng
4.2.5. Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh, đảm bảo phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trong quá trình thực hiện chủ trương
cách mạng ruộng đất
KẾT LUẬN
Trong cách mạng ở các nước thuộc địa nông dân là bộ phận đông
đảo nhất, một trong những yêu cầu của nông dân là phải có ruộng đất để
cày, song việc đánh đổ địa chủ phong kiến giành ruộng đất cho nông dân
không phải là yêu cầu cấp thiết số một trong một nước thuộc địa nửa phong
kiến như Việt Nam, đây cũng không phải là nội dung quan trọng nhất để có
thể tạo ra những thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng. Thực tế đã chứng
minh trong cuộc cuộc kháng chiến của Việt Nam điều này là hoàn toàn

đúng đắn. Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, ngoài giai cấp công nhân ra
chưa có một giai cấp hay tầng lớp nào đề ra nhiệm vụ về một cuộc cách
mạng ruộng đất, hay nói rộng ra là đề ra những chính sách mang lại quyền
dân chủ cho nông dân - đó là những nguyên nhân làm cho giai cấp này,
ngay khi mới bước lên vũ đài chính trị, đã thức tỉnh và lôi cuốn được đông
đảo nông dân theo mình, dựng lên khối liên minh công nông vững chắc làm
nền tảng cho Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc. Đó cũng chính là
nguyên nhân làm Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới bước lên vũ
đài chính trị đã trở thành đội tiên phong cho giai cấp công nhân Việt Nam.
Chỉ có đường lối của giai cấp công nhân mới là thể hiện đúng đắn nhất
quyền lợi của nông dân cũng như quyền lợi của toàn dân tộc, mới là sự kết
hợp đúng đắn nhất lợi ích thiết thực và trước mắt của nông dân với lợi ích
lâu dài của họ. Vì vậy chỉ có quán triệt đường lối, chính sách ấy trong cuộc
đấu tranh cho quyền lợi dân chủ của nông dân, giáo dục nông dân nắm
vững đường lối chính sách của Đảng mới đạt được thành công tốt đẹp. Vận
động nông dân là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với việc xây dựng căn
cứ địa cách mạng, củng cố khối liên minh công nông – cơ sở của Mặt trận
dân tộc thống nhất, củng cố vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công
nhân. Chúng ta vừa đánh giặc, vừa xây dựng lực lượng, vừa đẩy mạnh
25


×