Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Lựa chọn bài tập phát triển sức bền tốc độ nhằm nâng cao thành tích chạy 1500m cho học sinh nam khối 11 trường THPT lý thường kiệt hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.36 KB, 53 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

TRẦN THẾ DỰ

LỰA CHỌN BÀI TẬP PHÁT TRIỂN
SỨC BỀN TỐC ĐỘ NHẰM NÂNG CAO
THÀNH TÍCH CHẠY 1500M CHO HỌC
SINH NAM KHỐI 11 TRƢỜNG THPT
LÝ THƢỜNG KIỆT HÀ NỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: CNKHSP TDTT - GDQP

Hƣớng dẫn khoa học
CN. TẠ TẤT VIỆN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tên tôi là Trần Thế Dự
Sinh viên lớp k36 GDTC - GDQP
Tôi xin cam đoan đề tài này là của riêng tôi, kết quả nghiên cứu của đề
tài không trùng với bất cứ đề tài nào. Những vấn đề được nghiên cứu đều
mang tính khách quan đúng với thực tế của trường THPT Lý Thường Kiệt Hà Nội
Hà Nội, ngày... tháng... năm...
Sinh viên

Trần Thế Dự



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

THPT:

Trung học phổ thông

TDTT:

Thể dục thể thao

TTN:

Trước thực nghiệm

STN:

Sau thực nghiệm

Nxb:

Nhà xuất bản

TN:

Thực nghiệm

ĐC:

Đối chứng


LVĐ:

Lượng vận động

M:

Mét

Kg:

Kilogam

G:

Giây

':

Phút

Hg:

Thủy ngân

Mg:

Miligam



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 3.1: Thành tích tập luyện ngoại khóa tính theo % 3 buổi ...................... 27
Bảng 3.2: Kết quả phỏng vấn lựa chọn test đánh giá sức bền tốc độ trong chạy
1500m cho học sinh khối 11 trường THPT Lý Thường Kiệt - Hà
Nội.(n = 20).....................................................................................30
Bảng 3.3: Kết quả phỏng vấn lựa chọn các bài tập phát triển sức bền tốc độ
trong chạy cự ly 1500m (tính theo tỉ lệ %, n = 10)......................... 33
Bảng 3.4: Nội dung các bài tập phát triển sức bền tốc độ chạy 1500m được
lựa chọn ........................................................................................... 35
Bảng 3.5: Tiến trình giảng dạy chạy 1500m cho học sinh nam khối 11 trường
THPT Lý Thường Kiệt – Hà Nội. ................................................... 37
Bảng 3.6: Kết quả đánh giá sức bền tốc độ chạy 1500m của học sinh nam
khối 11 trường THPT Lý Thường Kiệt - Hà Nội trước thực nghiệm
(nA = nB = 20) ................................................................................ 38
Bảng 3.7: So sánh chỉ số đánh giá sức bền tốc độ chạy 1500m cho học sinh
nam khối 11 trường THPT Lý Thường Kiệt – Hà Nội sau thực
nghiệm (nA = nB = 20) ................................................................... 39
Biểu đồ 1: diễn biến thành tích chạy 100m..................................................... 40
Biểu đồ 3: Diễn biến thành tích chạy 1500m .................................................. 41
Biểu đồ 2: Diễn biến thành tích chạy 400m .................................................... 41


MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chƣơng 1: Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
1.1. Quan điểm cơ bản của đảng và nhà nước về công tác giáo dục thể chất.
1.2. Giáo dục thể chất trong nhà trường THPT
1.3. Đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi học sinh THPT

1.3.1.Đặc điểm tâm lý ở lứa tuổi THPT
1.3.2. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi THPT
1.4. Kĩ thuật chạy cự ly trung bình
1.4.1. Đặc điểm
1.4.2. Phân tích kĩ thuật
1.5. Các thông sống học và động hình học của kỹ thuật
1.6. Phương pháp giảng dạy kỹ thuật chạy cự ly 1500m
1.7. Ý nghĩa của việc phát triển sức bền tốc độ với việc nâng cao thành tích
chạy 1500m
CHƢƠNG 2: NHIỆM VỤ, PHƢƠNG PHÁP, TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
2.2. phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp đọc, phân tích tổng hợp tài liệu
2.2.2. Phương pháp phỏng vấn
2.2.3. Phương pháp quan sát sư phạm
2.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
2.2.5. Phương pháp kiểm tra sư phạm
2.2.6. Phương pháp toán thống kê.
2.3.Tổ chức nghiên cứu
2.3.1. Thời gian nghiên cứu
2.4. Đối tượng nghiên cứu
2.5. Địa điểm nghiên cứu

1
5
5
6
7
7
12

15
15
16
18
20
21
22
22
22
22
22
23
23
23
23
24
24
25
25


CHƢƠNG 3KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

26

3.1. Đánh giá thực trạng công tác giảng dạy chạy 1500m cho học sinh nam
khối 11 Trường THPT Lý Thường Kiệt - Hà Nội.

26


3.1.1. Thực trạng của việc giảng dạy và tập luyện trong các giờ học chính
khóa của các học sinh nam khối 11 Trường THPT Lý Thường Kiệt - Hà Nội.

26

3.1.2. Thực trạng của việc giảng dạy và tập luyện trong các giờ học ngoại
khóa của các học sinh nam khối 11 Trường THPT Lý Thường Kiệt - Hà Nội.

26

3.2. Đánh giá thực trạng trình độ phát triển sức bền tốc độ trong chạy
1500m cho nam học sinh khối 11 Trường THPT Lý Thường Kiệt - Hà Nội. 27
3.3. Xác định test đánh giá trình độ sức bền tốc độ chạy cự ly 1500m.

28

3.4. Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả một số bài tập nhằm phát triển
sức bền tốc độ chạy cự ly 1500m cho học sinh nam khối 11 trường THPT Lý
Thường Kiệt - Hà Nội.

30

3.4.1. Cơ sở lựa chọn bài tập phát triển sức bền tốc độ

30

3.4.2. Lựa chọn bài tập phát triển sức bền tốc độ trong chạy 1500m cho học
sinh nam khối 11 trường THPT Lý Thường Kiệt - Hà Nội.

31


3.4.3. Ứng dụng hiệu quả các bài tập phát triển sức bền tốc độ cho học sinh
nam khối 11 trường THPT Lý Thường Kiệt - Hà Nội.

36

3.4.3.1 Tổ chức thực nghiệm

36

3.4.3.2 Xây dựng tiến trình thực nghiệm

36

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

42

TÀI LIỆU THAM KHẢO

44

PHỤC LỤC

45


1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Thể dục thể thao (TDTT) là một hoạt động không thể thiếu, không thể
tách rời trong xã hội hiện nay. TDTT rèn luyện cho con người một thể lực
chung để làm mọi công việc trong cuộc sống hằng ngày, TDTT là một hình
thức vừa chơi vừa học nhằm nâng cao sức khỏe cho con người.
Với sự phát triển của xã hội hiện nay chúng ta đều biết “sức khỏe là
vốn quý của con người”. Muốn lao động, công tác và học tập tốt phải có sức
khỏe, muốn duy trì sức khỏe phải thường xuyên luyện tập TDTT. Đặc biệt khi
còn ở lứa tuổi học sinh, còn ngồi trên ghế nhà trường cần phải rèn luyện tích
cực hơn khi được rèn rũa trong sự nghiệp giáo dục. TDTT được các cấp các
ngành đặc biệt quan tâm nhằm góp phần vào việc giáo dục thế hệ trẻ phát
triển toàn diện cả về Đức - Trí - Thể - Mĩ và Lao động, để khi các em trưởng
thành kế tục sự nghiệp của cha anh, xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngày càng
vững mạnh.
Ngay những ngày đầu Cách mạng tháng Tám thành công, Bác Hồ đã
nêu rõ tầm quan trọng của TDTT trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
coi đó là một công tác cách mạng. Thể hiện sự quan tâm ấy, trong lời kêu gọi
toàn dân tập thể dục ngày 27/3/1946, Người viết: “…giữ gìn dân chủ xây
dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành
công … Mỗi người dân khỏe mạnh làm cho cả nước khỏe mạnh. Mỗi người
dân yếu ớt, làm cho cả nước yếu ớt một phần …Tự tôi ngày nào tôi cũng tập
…”
Trong thực tế hiện nay, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến công tác
TDTT nói chung và giáo dục thể chất nói riêng coi sức khỏe là tài sản, là vốn
quý, là điều kiện quan trọng để xây dựng và bảo vệ tổ quốc thành công.


2

Các văn kiện Đại hội Ban Chấp hành TW Đảng từ khóa III đến khóa
IX, văn kiện nào cũng đề suất, định hướng cho sự phát triển TDTT của nước

ta, trong đó có chỉ thị 36/CT/TW về công tác TDTT. Đảng ta chỉ rõ TDTT là
một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế xã hội. Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi “Đào tạo người lao động có
ngành nghề, năng động sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức ý chí
vươn lên góp phàn đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc”. Vì thế thể thao thành tích cao đã được đưa vào thi đấu, coi đây là
một động lực để thúc đẩy phong trào TDTT quần chúng, thúc đẩy tinh thần
sáng tạo vươn lên tầm cao mới, coi đó là một tiêu chí của một xã hội phát
triển. TDTT được kết hợp với yếu tố thiên nhiên và điều kiện xã hội sẽ làm
tăng tiềm lực lao động, làm đời sống tinh thần thêm phong phú lành mạnh,
văn minh đồng thời còn tạo dựng giá trị văn hóa để giao lưu hòa nhập với
cộng đồng thế giới.
Ở các kì Đại hội Olimpic, Á vận hội, Seagames, các cuộc thi đấu thể
thao quốc gia hay các nước với nhau đều đặt mục đích trên hết là gắn chặt
tình đoàn kết hữu nghị, học hỏi lẫn nhau giữa các quốc gia, các dân tộc.
Nhiều năm gần đây, TDTT nước ta đã có những bước phát triển đáng
kể. Ngành TDTT, ngành giáo dục đào tạo đã đẩy mạnh được hoạt động giáo
dục thể chất trong nhà trường và gặt hái được các kết quả đáng khích lệ mà
đỉnh cao là qua các kì Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc, Đại hội TDTT toàn
quốc và các giải vô địch quốc gia đã có những gương mặt của học sinh trung
học phổ thông.
TDTT nói chung bao gồm rất nhiều môn như bóng đá, bóng chuyền,
bóng rổ, cầu lông, điền kinh… Các môn này là loại hình hoạt động rất phong
phú thu hút đông đảo nhiều tầng lớp tham gia, đặc biệt có những môn cần sự


3

hoạt động tập thể, gắn kết, có những môn chỉ cần riêng lẻ cá nhân có sự nỗ
lực lớn, ý chí cao thì mới có thể gặt hái được thành công.

Ngày nay trong các trường trung học phổ thông, môn điền kinh là một
môn học cơ bản chiếm nhiều thời gian nhất trong chương trình của Bộ Giáo
dục và Đào tạo đề ra. Tập luyện điền kinh giúp con người phát triển các tố
chất thể lực toàn diện như sức nhanh, sức mạnh, sức bền… Nhiều nội dung đã
được đưa vào giảng dạy như chạy 100m phát triển sức nhanh, nhảy cao nhảy
xa phát triển sức mạnh, và đặc biệt là nội dung chạy 1500m, đây có thể coi là
một nội dung giúp các em phát triển sức bền, nghị lực, tinh thần vượt khó
khăn có hiệu quả rất cao.
Việc phát triển sức bền trong chạy cự ly 1500m nam ở các trường trung
học phổ thông có ý nghĩa quan trọng, vì tập luyện ở cự ly này, các trường
trung học phổ thông có thể tận dụng được địa hình sẵn có trong khi điều kiện
đất nước còn nhiều khó khăn, chưa thể quan tâm đúng mức nhưng cả thầy và
trò vẫn nỗ lực khắc phục khó khăn để phấn đấu vươn lên đạt được nhiều
thành tích đáng khích lệ. Mặt khác nó còn rèn luyện cho các em ý chí quyết
tâm cao trong học tập cũng như cuộc sống. Đồng thời qua tập luyện các bài
tập sức bền chung nhằm phát triển các cơ quan nội tạng của học sinh, có ảnh
hưởng tốt đến sức khỏe và chạy cự ly 1500m cũng là nội dung trong thi đấu
các môn phối hợp góp phần nâng cao tổng điểm trong những cuộc thi đấu
điền kinh.
Trong thực tế hiện nay, để đạt được những mục tiêu đề ra thì các giờ
dạy chính khóa là chưa đủ vì thời gian tiết học môn thể dục trong các trường
quá ngắn và ít vì vậy việc dạy hoàn thiện kỹ thuật cho học sinh trung học phổ
thông về môn chạy 1500m là rất khó khăn.Để trang bị cho các em một thể lực
tốt thì việc lựa chọn, xây dựng các bài tập phù hợp cần có sự giúp đỡ, tổ chức
tập luyện ngoài giờ cho các em khi điều kiện cho phép. Để các em đạt thành


4

tích cao trong quá trình học tập là việc làm rất có ý nghĩa. Xuất phát từ những

vấn đề trên chúng tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài sau:
“ Lựa chọn bài tập phát triển sức bền tốc độ nhằm nâng cao thành
tích chạy 1500m cho học sinh nam khối 11 trường THPT Lý Thường Kiệt –
Hà Nội”.
* Mục đích nghiên cứu
Qua việc tìm hiểu các cuộc thi môn chạy bền trong nhà trường THPT
Lý Thường Kiệt, chúng tôi thấy kĩ năng và sức bền của các em còn rất hạn
chế và rất yếu.Vì vậy chúng tôi lựa chọn một số bài tập, ứng dụng các bài tập
đó trong giảng dạy và huấn luyện, giúp các em nâng cao thành tích và sức bền
đạt hiệu quả tốt hơn trong học tập và trong các cuộc thi đấu thể thao.


5

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm cơ bản của Đảng và nhà nƣớc về công tác giáo dục thể
chất.
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta luôn
quan tâm và coi trọng Giáo dục Đào tạo, coi Giáo dục Đào tạo là quốc sách
hàng đầu.Trong đó Giáo dục Thể chất được chú trọng và quan tâm đúng mức.
Ngay từ những ngày đầu khi kháng chiến thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã kêu gọi toàn dân tập thể dục, đó là những quan điểm nhất quán, đúng đắn
về công tác TDTT.
Ngày 27/3/1946, lời kêu gọi toàn dân tập thể dục của Chủ tịch Hồ
Chí Minh như một bản hiệu triệu quan trọng. Để hưởng ứng lời kêu gọi
đó khắp nơi trên cả nước tạo nên phong trào “khỏe để kháng chiến kiến
quốc” “khỏe để xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. TDTT đã góp phần không
hề nhỏ vào cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ mang lại những
thắng lợi vẻ vang cho tổ quốc.

Thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc và đấu tranh giả
phóng miền nam 1954 - 1975, Đảng ta đưa ra chiến lược phát triển
TDTT trong nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III [11]
là “phát triển TDTT, nâng cao sức khỏe nhân dân, góp phần xây dựng
và bảo vệ miền bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền nam”. Sau Đại
hội Đảng lần thứ III năm 1961, Bác Hồ một lần nữa viết thư cho Hội
Nghị cán bộ TDTT miền bắc nêu rõ tầm quan trọng của TDTT đối với
việc nâng cao sức khỏe nhân dân.


6

Năm 1970, Đảng ta ra chỉ thị 170/CT-TW về việc phát triển phong trào
TDTT, chỉ thị này đã được nhân dân tích cực hưởng ứng góp phần nâng cao
thể lực cho quân dân tiến hành sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Ngày 30/4/1975 đất nước hoàn toàn giải phóng mở ra một trang sử
mới, thách thức mới, Đảng ta đưa ra chiến lược trong văn kiện Đại hội Đảng
lần thứ VI, VII, VIII, IX và hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992 cụ thể hóa đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Đảng
và Nhà nước ra chỉ thị 36/CT-TW ngày 24/3/1994 về công tác TDTT và mới
đây chỉ thị 17/CT tháng 10/2001 về chiến lược phát triển TDTT đến năm
2010 và những năm tiếp theo.
Ngày 2/4/1998 thường vụ Bộ Chính trị ra thông tư số 03/TT -TW về
tăng cường lãnh đạo công tác TDTT, thông tư yêu cầu các tổ chức, cơ quan,
ban ngành đoàn thể, tiếp tục thực hiện các quan điểm, mục tiêu và giải pháp
lớn về công tác TDTT theo tinh thần chỉ thị 36/CT- TW của Ban Bí thư Trung
ương Đảng khóa XII.
Thông qua những quan điểm trên của Đảng và Nhà nước về công tác
TDTT, đã tạo ra động lực mạnh mẽ cho việc phát triển sự nghiệp TDTT của
nước ta hiện nay và tương lai.

1.2. Giáo dục thể chất trong nhà trƣờng THPT
Với sự phát triển của xã hội hiện nay đặc biệt là trong ngành giáo dục,
cùng với các môn học khác, môn thể dục trong các trường THPT hiện nay cũng
đặc biệt được các cơ quan các cấp, các ngành quan tâm và đầu tư. Môn học thể
dục ở trường THPT với nhiều nội dung như nhảy cao, nhảy xa, cầu lông, điền
kinh … trang bị cho học sinh những kiến thức, kĩ năng giúp cho học sinh biết tập
luyện TDTT tù đó góp phần phát triển toàn diện về Đức - Chí - Thể - Mĩ và Lao
động. Đó là những kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nên nhân cách con người
Việt Nam.


7

1.3. Đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi học sinh THPT
1.3.1.Đặc điểm tâm lý ở lứa tuổi THPT
Ở lứa tuổi này, các em tỏ ra mình là người lớn đòi hỏi mọi người xung
quanh phải tôn trọng mình, là người có hiểu biết không phải là trẻ con như lứa
tuổi trước. Các em đã tìm hiểu biết rộng, ưa hoạt động hơn, có nhiều hoài bão
hơn. Do quá trình hưng phấn chiếm ưu thế hơn quá trình ức chế nên các em
tiếp thu cái mới rất nhanh, nhưng lại chóng chán, chóng quên và các em rễ bị
môi trường tác động và tạo nên sự đánh giá cao về mình. Nếu thành công tạo
nên sự kiêu căng thì khi thất bại, các em trở nên tự ti, rụt rè. Sự tự ti rụt rè, tự
đánh giá cao gây tác động không tốt trong tập luyện thể thao cho lứa tuổi này
vì vậy cần phải uốn nắn, nhắc nhở chỉ bảo, định hướng động viên các em,
hoàn thành tốt các nhiệm vụ, kèm theo khen thưởng động viên đúng mức.
Trong quá trình giảng dạy dần dần từng bước động viên các em tiếp thu
chậm. Từ đó các em không tỏ ra chán nản, có định hướng đúng và hiệu quả
của bài tập được nâng lên.
* Cơ sở lý luận trong giảng dạy sức bền.
Chúng ta đều biết rằng, khi thực hiện một hoạt động mạnh tương đối

căng thẳng nào đó thì sau một thời gian con người cảm thấy việc thực hiện đó
càng trở nên khó khăn hơn. Bên ngoài có thể nhận thấy một cách khách quan
qua một số dấu hiệu tương đối rõ rệt như cơ mặt căng thẳng, mặt đỏ, toát mồ
hôi, khi trong cơ thể diễn ra những biến đổi sinh lý khá sâu sắc.
Mặc dù khó khăn dần tăng nhưng con người vẫn có thể duy trì được
cường độ hoạt động trong một số thời gian nhờ những nỗ lực ý chí lớn, trạng
thái đó gọi là giai đoạn mệt mỏi có bù. Nếu cường độ hoạt động giảm đi mặc
dù nỗ lực ý chí tăng lên thì người ta gọi là giai đoạn mệt mỏi mất bù, việc
giảm sút tạm thời năng lực hoạt động do sự vận động gây nên gọi là mệt mỏi.
Mệt mỏi biểu hiện ở các hoạt động của cơ thể trở nên khó khăn hơn hoặc


8

không tiếp tục với hiệu quả cũ.Nếu có một số người cùng thực hiện nhiệm vụ
nào đó thì hiện tượng mệt mỏi của các em sẽ xuất hiện ở các thời điểm khác
nhau. Đó là mức độ phát triển sức bền khác nhau như vậy có thể định nghĩa
sức bền như sau: sức bền là khả năng của cơ thể chống lại mệt mỏi trong một
hoạt động nào đó mà hoạt động vận động của con người rất phong phú và cơ
chế mệt mỏi của mỗi loại mang tính đặc thù khác nhau.
Mặt khác ở lứa tuổi này, đa số các em thường tỏ ra tích cực học một số
môn mà các em cho là quan trọng có ảnh hưởng tới nghề của mình trong
tương lai mà sao nhãng các môn học khác chỉ lấy điểm trung bình. Do vậy,
giáo viên và huấn luyện viên cần giúp cho học sinh hiểu được ý nghĩa và chức
năng của giáo dục phổ thông đối với giáo dục chuyên ngành.
Do vậy việc nắm vững đặc điểm tâm lý lứa tuổi là điều rất quan trọng
đối với các giáo viên và các huấn luyện viên. Cần phải thường xuyên quan
sát, giáo dục phù hợp trên cơ sở tích cực, sáng tạo, biết điều chỉnh tổ chức
hoạt động cho các em, tạo điều kiện phát triển tốt khả năng của mình, giáo
dục các em trở thành con người có năng lực và nhân cách tốt.

Ở lứa tuổi này sức bền chung là sức bền trong hoạt động kéo dài và
cường độ trung bình có sự tham gia ở phần lớn các hệ cơ.
Sức bền đối với hoạt động nhất định được lựa chọn làm đối tượng
chuyên sâu gọi đó là sức bền chuyên môn.
Như vậy trong cự li chạy 1500m yếu tố chính quyết định đến thành tích
đó là sức bền chuyên môn. Việc phát triển sức bền chuyên môn phải dựa vào
các phương pháp giáo dục sức bền mà trong đó sự kết hợp cả năm yếu tố cơ
bản là lượng vận động, cường độ vận động (tốc độ di chuyển) bài tập, thời
gian thực hiện bài tập thời gian nghỉ giữa quãng, tính chất nghỉ ngơi số lần lặp
lại.


9

Vậy trong quá trình giảng dạy mà thay đổi một trong các yếu tố trên thì
sẽ dẫn đến sụ thay đổi cơ chế sinh lý trong cơ thể và sự thay đổi đấy có những
ảnh hưởng đến thành tích của bài tập
Chính vì vậy chúng tôi xác định được chạy 1500m là hoạt động ưa khí
lớn vì thế khả năng nâng cao ưa khí trong quá trình giáo dục phát triển sức
bền là không thể thiếu được nâng cao khả năng hấp thụ oxi tối đa làm cho hệ
thống tuần hoàn chóng đạt mức độ hoạt động với hiệu suất cao mà chủ yếu sử
dụng phương pháp sau :
+ Phương pháp đồng đều liên tục
+ phương pháp biến đổi và lặp lại
Các phương pháp này có cường độ hoạt động : Cần đến mức cực hạn
và ở khoảng 85% sức tối đa, cường độ này cần phải được xác định sao cho
đến cuối hoạt động nhịp tim ở vào khoảng tối đa cho phép 180 L/phút.
+ Độ dài cự ly phải phù hợp sao cho thời gian không quá một giờ chỉ trong
trường hợp này hoạt động mới diễn ra trong điều kiện nợ oxi và hấp thụ oxi
đạt mức tối đa vào lúc nghỉ ngơi

Cần xác định làm sao để lúc ta tiến hành hoạt động sau thì cơ thể người
tập đang có biến đổi thuận lợi của hoạt động trước.
Tính chất nghỉ ngơi tích cực cần xen kẽ với hoạt động cường độ thấp.
Số lần lặp lại tùy thuộc vào tần số nhịp tim để xác định LVĐ ấy ngoài
ra còn kết hợp thở trong chạy cự ly 1500m để nâng cao khả năng ưa khí.
Phương pháp khả năng yếm khí (yếm khí là khả năng vận động của cơ thể
trong điều kiện dựa vào nguồn cung cấp năng lượng yếm khí), là tạo điều kiện
thuận lợi cho thực hiện những hoạt động yếm khí bởi vì quá trình trả nợ oxi
diễn ra một phần ngay trong lúc vận động và có khả năng ưa khí cao thì phần
trả nợ oxi trong lúc vận động đó sẽ lớn hơn hiệu quả vận động sẽ tăng lên.


10

Tuy nhiên nhiệm vụ chính ở đây là tăng cường khả năng giải pháp năng
lượng nhờ các phản ứng phân hủy phốt pho creatin và phân hủy gluco đồng
thời nâng cao khả năng chứa đựng trạng thái nợ oxi ở mức độ cao.
Các bài tập nhằm hoàn thiện cơ chế giải phóng năng lượng phân hủy
phốt pho creatin có những đặc điểm sau:
- Cường độ hoạt động gần mức độ tối đa hoặc thấp hơn một chút.
- Thời gian của bài tập chỉ giới hạn từ 7 phút đến 10 phút. Sở dĩ như vậy vì cơ
chế này chỉ diễn ra trong thời gian ngắn từ 7 đến 10 phút ngay sau khi vận
động.
- Thời gian nghỉ giữa quãng là 5 đến 8 phút là trạm hồi phục phân hủy phốt
pho creatin. Sự phân hủy phốt pho creatin tạo ra axit lactic nên tốc độ trả nợ
oxi rất nhanh.
Nhưng dự trữ phốt pho creatin trong cơ ít sau 3 đến 4 lần lặp lại thì
hoạt động của cơ chế gluco phân sẽ tăng lên còn cơ chế phốt pho creatin sẽ
giảm.
Để khắc phục hiện tương này người ta chia các bài tập thành 3 đến 4

nhóm, mỗi nhóm từ 3 đến 4 lần lặp lại. Thời gian nghỉ giữa quãng giữa các
nhóm kéo dài 10 đến 15 phút đủ để cho oxi hóa phân hủy axit lactic và đảm
bảo duy trì trạng thái hưng phấn cao ở trung khu thần kinh.
Hình thức nghỉ ngơi nên : Nghỉ tích cực.
Số lần lặp lại: Tùy thuộc vào trình độ tập luyện sao cho tốc độ không bị
giảm.
Để hoàn thiện được cơ chế gluco phân phải sử dụng các bài tập có đặc
điểm sau: cường độ bài tập đạt từ 90 – 95% tối đa ở cự ly tương ứng được sử
dụng sau một số lần lặp lại. Chỉ số tốc độ tuyệt đối giảm một chút song vẫn có
thể coi là xấp xỉ tốc độ tối đa
* Cơ sở sinh lý trong sức bền chuyên môn


11

Các nhóm bài tập được chia ra làm các nhóm phụ thuộc vào công xuất
tối đa, dưới tối đa, lớn, trung bình. Ta hay gọi là: Vùng cường độ cực đại,
vùng cường độ cận cực đại, vùng cường độ lớn và vùng cường độ trung bình.
Chạy cự ly 1500m là hoạt động công xuất dưới tối đa (cận cực đại) và có
những đặc điểm biến đổi sinh lý sau:
Yêu cầu về lực và tốc độ chạy cự ly 1500m không cần đạt tối đa. Hoạt
động của toàn cơ thể thay đổi mạnh ngay từ lúc bắt đầu, hoạt động và tiếp tục
được tăng nhanh đến cuối cự ly (cuối thời gian thực hiện).
Tuần hoàn tăng lên máu tham gia lớn và huy động được hồng cầu, bạch
cầu hêmôglôbin tham gia nhiều hơn trong đơn vị thể tích máu.
Thành phần huyết tương cũng thay đổi hàm lượng glucoza huyết cũng
tăng lên do quá trình phân giải glucôzen trong gan được tăng cường.
Hàm lượng axit lactic do quá trình phân giải yếm khí glucoza làm cho
phản ứng của máu trở thành axit, độ PH giảm làm cho trạng thái nội môi của
cơ thể mất thăng bằng ngay từ khi bắt đầu hoạt động. Tần số co bóp của tim

tăng lên nhanh chóng đạt đến 180 – 200 lần/phút. Huyết áp tăng tối đa từ 180
– 200 mmHg.
Huyết áp tối thiểu hơi tăng hoặc không thay đổi.
Thể tích tâm thu tăng rất mạnh so với trạng thái bình thường (sau 3 – 4
phút hoạt động thể tích máu đạt từ 35 – 40 lít/ phút).
Tần số hô hấp và thể tích hô hấp tăng nhanh và sau khi chạy sẽ đạt tốc
độ tối đa của mỗi người.
- Nợ oxi khoảng 60 – 80 %.
- Sự phân giải ATP và CP chỉ chiếm 20%, 5% do phân giải yếm khí và 25%
do các quá trình ưu khí.
(ATP: Ađêmôxin Triphốtphát)
(CP: Creatin Phốt phát)


12

Nguồn năng lượng cung cấp glucoza và glucozen trong cơ thể và cả
glucoza trong máu (tuy còn hạn chế).
- Năng lượng tiêu hao calo/ 1 giây vận động.
- Lượng năng lượng tiêu tốn calo/ 1500m.
- Nguyên nhân mệt mỏi trong cự ly chạy 1500m là do các sản phẩm trao đổi
chất tích lũy nhiều trong cơ thể làm giảm độ pH và nội môi về phía axit.
Như vậy trong chạy 1500m nhu cầu oxi trong quá trình thực hiện tương
đối cao và cũng cần khả năng yếm khí nên 1500m cần cả hai nguồn cung cấp
ưa khí và yếm khí hay còn gọi chạy cự ly 1500m là bài tập mang tính hỗn
hợp.
Hơn nữa các em còn chưa được thi đấu các giải lớn nên còn lo sợ ngại
trước đám đông rất hay mặc cảm đó là đặc điểm quan trọng của tâm lý.
1.3.2. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi THPT
Chúng ta đều biết sức bền phụ thuộc vào 2 yếu tố cơ bản.

- Khả năng hấp thụ oxi tối đa (VO2 max) của cơ thể.
- Khả năng duy trì lâu dài mức hấp thụ oxi cao.
Mức hấp thụ oxi tối đa của một người quy định khả năng làm việc
trong điều kiện ưa khí của họ, VO2 max càng cao thì công suất hoạt động ưa
khí càng dễ, hoạt động càng lâu hơn. Vì vậy bản chất sức bền chính là khả
năng hấp thụ VO2 max của cơ thể. Khả năng hấp thụ VO2 max được quy định
bởi khả năng của 2 hệ thống chức năng chính là: Hệ vận chuyển oxi đảm
nhiệm vai trò hấp thụ oxi từ môi trường bên ngoài vận chuyển oxi đến các cơ
quan trong cơ thể. Hệ cơ là hệ sử dụng oxi được cung cấp.
Hệ vận chuyển oxi bao gồm hệ hô hấp ngoài, máu và tim mạch. Chức
năng của mỗi bộ phận này cuối cùng quy định khả năng chuyển oxi của cơ
thể.


13

*Hệ hô hấp: Là khâu đầu tiên của hệ vận chuyển oxi. Hệ hô hấp đảm bảo
việc trao đổi khí bên ngoài và máu, tức là làm cho phân áp oxi trong máu
động mạch được duy trì ở mức cần thiết cho cơ thể và các cơ quan. Để phát
triển sức bền và đảm bảo sự trao đổi khí cao đòi hỏi phải đáp ứng biến đổi cả
cấu tạo và chức năng nhất định của hệ hô hấp.
- Thể tích của khí phổi tăng lên.
- Tăng cường khả năng khuyếch tán của phổi.
*Hệ máu: Thể tích và hàm lượng Hêmôglôbin quyết định khả năng vận
chuyển oxi của cơ thể.
- Hàm lượng hêmôglôbin và hồng cầu trong tập luyện sức bền không tăng
nhưng do lượng máu tuần hoàn lớn nên sự vận chuyển dẫn đến lượng
hêmôglobin và hồng cầu tuyệt đối tăng.
- A xit lactic trong máu:
Trong hoạt động sức bền tức là hoạt động ưa khí, hàm lượng axit lactic

trong máu tỉ lệ thuận với thời gian vận động. Điều đó cho thấy hàm lượng axit
lactic cũng biểu thị khả năng sức bền cho con người.
- Glucoza huyết:
Trong hoạt động kéo dài sẽ giảm dần từ 8 – 120mg% đến 50 – 60mg%
trong quá trình tập luyện sức bền giảm đường huyết xảy ra chậm hơn và ít
hơn. Khả năng làm việc khi đường huyết giảm cũng tăng lên vì vậy sức bền
của các em phát triển tốt.
*Hệ tim mạch:
Do lượng oxi ngoài trời cao hơn bên trong cở thể nên khi tập luyện
trong thời gian dài và liên tục lượng oxi trong cơ thể đáp ứng không đủ khi
vận chuyển oxi chủ yếu phụ thuộc vào hô hấp mà còn phụ thuộc vào khả năng
đẩy máu vào tim làm tăng VO2 max với các mạch ở các lỗ chân lông.


14

Lượng oxi mà hệ vận chuyển oxi mang tới trong thời gian hoạt động
chủ yếu sử dụng ở cơ. Sức bền của học sinh phụ thuộc một phần đáng kể vào
đặc điểm cấu tạo và sinh hóa của cơ. Trong quá trình tập luyện sức bền của cơ
thể quan trọng nhất là các biến đổi sau:
- Tăng hàm lượng và hoạt tính của các men trao đổi chất ưa khí (men oxi
hóa).
- Tăng hàm lượng Myoglôbin trong cơ(từ 2 – 5 lần).
- Tăng hàm lượng các chất chứa năng lượng như glucoza và lipit.
- Tăng khả năng oxi hóa đường và đặc biệt mỡ của cơ.
* Hệ vận động:
Xương giảm tốc độ phát triển, sụn ở hai đầu xương vẫn còn dài, nhưng
sụn trở thành xương ít. Cột sống đã được ổn định hình dáng nhưng vẫn chưa
được hoàn thiện nên rất dễ bị cong hoặc chấn thương.
Ở giai đoạn này cơ bắp phát triển nhanh khối lượng cơ tăng lên rất

nhanh, đàn tính cơ tăng, nhưng chưa đồng đều chủ yếu cơ nhỏ và dài do đó
khi hoạt động chóng dẫn đến mệt mỏi. Vì sự phát triển không cân đối đó nên
trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải chú ý phát triển cơ bắp cho các em
nhằm phát triển một cách hoàn thiện cho hệ cơ.
*Hệ tuần hoàn:
Đang phát triển và hoàn thiện trọng lượng và sức chứa của tim phát
triển tương đối hoàn chỉnh, tim đập từ 70 – 80 lần/phút. Phản ứng của tuần
hoàn trong vận động tương đối rõ rệt. Sau vận động, mạch đập và huyết áp
hồi phục tương đối nhanh chóng. Cho nên ở lứa tuổi này có thể tập được
những bài tập dai sức.
*Hệ thần kinh:
Các tổ chức thần kinh ở lứa tuổi này tiếp tục phát triển để đi đến hoàn
thiện. Khả năng tu duy nhất là khả năng phân tích tổng hợp trừu tượng hóa


15

phát triển rất thuận lợi cho sự hình thành phản xạ có điều kiện. Ngoài ra còn
do sự hoạt động mạnh của các tuyến giáp trong tuyến sinh dục, tuyến yên làm
cho hưng phấn của hệ thần kinh chiếm ưu thế và ức chế không cân bằng ảnh
hưởng đến hoạt động của TDTT. Tuy nhiên với một số bài tập đơn điệu cũng
làm cho học sinh sớm mệt mỏi vì vậy cần thay đổi hình thức tập luyện, tận
dụng các trò chơi thi đấu. Hoàn thành tốt các bài tập đề ra.
1.4. Kĩ thuật chạy cự ly trung bình
1.4.1. Đặc điểm
Chạy cự ly trung bình thuộc vùng công suất dưới cực đại. Một trong
những chỉ số đặc trưng cho vùng này là mức độ nợ oxi tăng đến kết thúc cự ly
thi đấu, tổng công xuất 20 – 25 lít. Số lượng axit lactic trong máu tăng lên
đáng kể (200 – 270mg%). Thường ở cuối cự ly chạy nhu cầu oxi đạt cực đại.
Trong chạy cự ly trung bình, vận động viên cố gắng nhanh chóng đạt được tốc

độ thi đấu, duy trì nó trong quá trình chạy giữa quãng và tạo điều kiện cần
thiết để tăng tốc độ (hay giữ vững nó) khi về đích.
Trên cơ sở tổng kết các tư liệu của các VĐV chạy cự ly trung bình
mạnh nhất, có thể thấy VĐV chạy cự ly trung bình có những đặc điểm sau:
Chiều cao thân thể từ 175 – 180cm.
- Trọng lượng thân thể từ 60 – 70kg.
- Tốc độ tới hạn 5.5 – 5,8m/giây.
- Ở nữ thì các chỉ số này thấp hơn.
VĐV chạy cự ly trung bình cần có khả năng khắc phục khó khăn và
chịu đựng trong nửa sau của cự ly chạy do việc tích tụ nồng độ cao các sản
phẩm của quá trình trao đổi năng lượng dưới dạng axit lactic và sự chuyển độ
PH.
- Kĩ thuật động tác chạy phải có hiệu quả, hợp lý và phối hợp được với chiến
thuật chạy.


16

1.4.2. Phân tích kĩ thuật
Kĩ thuật chạy cự ly trung bình có thể chia thành các giai đoạn: Xuất
phát và tăng tốc độ sau xuất phát, chạy giữa quãng, về đích và dừng sau khi
chạy.
Khác với chạy cự ly ngắn, chạy trên cự ly trung bình, có độ dài bước
nhỏ hơn, tư thế của thân trên thẳng hơn, chân lăng nâng gối thấp hơn, việc
duỗi thẳng chân đạp sau không đột ngột, thở có nhịp điệu và sâu hơn.
a) Xuất phát và tăng tốc độ sau xuất phát
Trong cự ly chạy trung bình, các VĐV thường sử dụng kĩ thuật xuất
phát cao. Theo lệnh “vào chỗ” VĐV bước đến vạch xuất phát và đặt chân
thuận sát sau vạch còn chân kia cách nửa bước về phía sau. Thân trên ngả về
trước, chân gấp lại ở khớp gối, tư thế lúc này cần ổn định và thuận lợi. Sau

đó, VĐV gấp chân và gập thân về phía trước nhiều hơn nữa, song phải đảm
bảo chống tựa vững vàng. Tay để như trong tư thế chạy và mắt nhìn hướng
hơi ra trước.
Sau khi súng nổ hay lệnh “chạy”, VĐV bắt đầu chạy và cố gắng chiếm
vị trí sát mép trong đường chạy. Lúc này cần giữ độ ngả thân trên để tăng tốc
độ, sau đó thân trên dần dần thẳng trở lại tư thế bình thường để chuyển sang
với nhịp điệu đều hơn ở giữa quãng. Khi chạy ở đường vòng thân trên cần
nghiêng vào phía trong để khắc phục lực li tâm, bàn chân cần đặt hơi xoay
mũi chân vào trong.
b) Chạy giữa quãng
Bước chạy giữa quãng được thực hiện với độ dài và tần số bước tương
đối đều. Độ dài và tần số bước tùy thuộc vào đặc điểm cá nhân, chiều cao cơ
thể và độ dài chân của VĐV.
Khi kỹ thuật chạy tốt, thân trên hơi ngả về trước, vai không xoay nhiều,
đảm bảo cho việc đưa hông ra trước, đầu giữ thẳng, cơ mặt và cơ cổ không bị


17

căng.Tư thế của đầu và thân trên như vậy tạo điều kiện cho VĐV không có sự
căng thẳng thừa và hoạt động tốt hơn.
- Hoạt động của chân
Lực giúp thân chuyển động chủ yếu trong chạy là lực đạp sau, bởi vì
tốc độ chạy phụ thuộc vào lực đạp sau và góc đạp sau của chân chống tựa.
Lực đạp sau cần chuyển hướng chủ yếu về phía trước và được phối hợp
chặt chẽ với độ ngả thân trên hơi về phía trước. Khi đạp sau cần có sự phối
hợp hoạt động của nhóm cơ đùi, cẳng chân, bàn chân để đảm bảo chân được
duỗi thẳng hoàn toàn. Đùi chân lăng thoải mái đưa theo hướng về trước – lên
trên và được kết thúc cùng lúc kết thúc đạp sau, chân đạp sau duỗi thẳng hoàn
toàn, đùi chân đạp sau song song với cẳng chân lăng. Nhờ đạp sau và lăng

chân, cơ thể chuyển sang giai đoạn bay và VĐV được nghỉ một cách tương
đối.
Khi kết thúc đạp sau, chân được thả lỏng và cẳng chân do ảnh hưởng
của quán tính hơi “hất” lên trên, chân co lại ở khớp gối và tích cực đưa đùi ra
trước, đồng thời chân lăng bắt đầu hạ xuống cẳng chân hơi đưa về trước và
chạm đất bằng phần mũi chân. Điều này cho phép thân thể của VĐV theo
quán tính chuyển nhanh tới thời điểm thẳng đứng. Chân chống tựa gập gối
hoãn xung, sau đó lại thực hiện động tác đạp sau ở bước chạy kế tiếp.
-

Hoạt động của tay
Động tác của tay phối hợp nhịp nhàng với động tác của chân. Hoạt

động của tay góp phần giữ thăng bằng và tạo điều kiện tăng hay giảm nhịp
điệu chạy. Trong lúc chạy, tay gấp ở khuỷu gần vuông góc, bàn tay nắm hờ.
Động tác đánh tay mềm mại và uyển chuyển, khi đánh tay ra trước hướng đến
cằm, ra sau hơi ra ngoài. Biên độ động tác đánh tay tùy thuộc vào tốc độ chạy,
tốc độ càng cao tay đánh càng rộng và nhanh.


18

Khi chạy trên đường vòng, VĐV hơi nghiêng thân trên về bên trái một
chút, tay phải vung mạnh hơn, chân đặt mũi chân hơi xoay vào trong.
Khi chạy giữa quãng cần giữ cho động tác thoải mái và có nhịp
điệu. Tần số và độ sâu của nhịp thở có liên quan chặt chẽ với việc tăng
nhịp độ chạy.
c) Về đích
Việc tăng tốc độ về đích được đặc trưng bởi việc tăng tần số bước,
đánh tay mạnh hơn và hơi tăng độ ngả của thân trên. Sau khi qua vạch đích,

VĐV không dừng lại đột ngột mà chuyển sang chạy chậm và sau đó đi bộ dần
dần chuyển cơ thể vào trạng thái tương đối yên tĩnh.
1.5. Các thông số động học và động hình học của kỹ thuật
Trong lúc chạy giữa quãng, độ ngả về trước của thân trên không quá 4
– 50. Với độ ngả như vậy, độ dài tự nhiên của bước chạy được duy trì dễ dàng.
Thân trên ngả về trước quá nhiều gây khó khăn cho việc đưa chân về trước và
làm giảm độ dài bước, tốc độ chạy. Hơn nữa độ ngả quá nhiều còn làm cho
những cơ giữ thân trên thường xuyên bị căng thẳng.
Trong thời gian chạy, độ ngả thân trên thay đổi trong giới hạn 2 -30 Nó
được tăng lên lúc đạp sau và giảm đi trong pha bay. Vị trí của đầu có ảnh
hưởng đáng kể đến tư thế của thân trên.
Việc đạp sau có hiệu quả được đặc trưng bởi sự duỗi thẳng chân ở tất
cả các khớp. Góc đạp sau trong chạy cự ly trung bình khoảng 50 – 550. Độ dài
bước của VĐV chạy cự ly trung bình khoảng 160 cm – 220 cm. Sự dao động
về độ dài của bước tùy thuộc vào ảnh hưởng của mệt mỏi, sự khác nhau giữa
các đoạn đường thẳng và đường vòng, chất lượng đường chạy, lực và hướng
gió, trạng thái của VĐV. Tốc độ chạy được nâng lên do tăng tần số bước và
giữ vững độ dài bước thích hợp. Tần số bước chạy 1500 m khoảng 3,5 – 4,5


19

bước /giây hoặc 190 – 200 bước / phút. Tần số phụ thuộc vào tổng thời gian
của thời kỳ chống tựa.
Trong chạy 1500m, mệt mỏi được thể hiện ở việc giảm tốc độ trước khi
rút về đích do giảm cả độ dài bước và tần số bước.
Cấu trúc chung của bước chạy (các thời kỳ, các giai đoạn, các thời
điểm) được duy trì trên tất cả cự ly. Song, tùy thuộc vào tốc độ di chuyển,
tương quan độ dài và tần số bước, các đặc tính động học và động hình học có
thay đổi.Tương quan độ dài và tần số bước khác nhau tùy thuộc vào tốc độ

chạy, độ dài cự ly, đặc điểm và trình độ chuyên môn của VĐV.
Để đánh giá trình độ kỹ thuật của các VĐV chạy cự ly trung bình cần
chú ý các chỉ số:
+ “ Chỉ số tích cực”, “chỉ số chống” và “hệ số kỹ thuật”
+ “Chỉ số tích cực” (viết tắt là A): trong chạy cự ly trung bình A cần tính từ 1 - 1,1.
A = thời gian bay / thời gian chống
Nếu A giảm có nghĩa là chạy có hiệu quả, tiết kiệm sức.
+ “Chỉ số chống”: chỉ số này được tính bằng thương số giữa thời gian đạp sau
và thời gian hoãn xung chạy cự ly trung bình chỉ số này cần phải ở khoảng
1,5- 2.
+ “Hệ số kỹ thuật”: hệ số kỹ thuật được tính bằng tần số bước chạy chia cho
tích số giữa độ dài bước chạy với hệ số A.
Hệ số kỹ thuật tối ưu cho VĐV chạy 1500m là 1,85- 1,95
+ Không liên quan tới kỹ thuật, nhưng “hệ số sức bền” cũng là một hệ số cần
quan tâm. Trong các môn chạy, hệ số này được tính bằng hiệu số giữa trung
bình thành tích chạy 100m của VĐV ở một cự ly nào đó với thành tích cao
nhất của VĐV đó ở chạy 100m.
Chính vì vậy, để phát triển sức bền chuyên môn trong chạy, việc có
“tốc độ dự trữ” cao là điều rất cần thiết.Với hệ số sức bền như nhau, VĐV có


×