Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Ứng dụng bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nhằm nâng cao thành tích chạy 200m cho nữ đội tuyển điền kinh trường THPT ngô gia tự vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.4 KB, 69 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

VŨ THỊ THANH MAI

ỨNG DỤNG BÀI TẬP PHÁT TRIỂN
SỨC MẠNH TỐC ĐỘ NHẰM NÂNG CAO
THÀNH TÍCH CHẠY 200M CHO NỮ
ĐỘI TUYỂN ĐIỀN KINH TRƢỜNG THPT
NGÔ GIA TỰ - VĨNH PHÖC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: CNKHSP TDTT-GDQP

Hƣớng dẫn khoa học

ThS. HÀ MINH DỊU

Hµ Néi - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tên tôi là

: VŨ THỊ THANH MAI

Lớp

: K36 GDTC - GDQP
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số


liệu kết quả trong đề tài là trung thực và chưa công bố trong bất kì công trình
nào. Đề tài phản ánh thực tế thực trạng của đội tuyển chạy 200m nữ VĐV
Điền kinh trường THPT Ngô Gia Tự.

Hà Nội, ngày

tháng năm 2014

Sinh viên

Vũ Thị Thanh Mai


DANH MỤC VIẾT TẮT

1. TDTT

: Thể dục thể thao

2. VĐV

: Vận động viên

3. HLV

: Huấn luyện viên

4. XPT

: Xuất phát thấp


5. XPC

: Xuất phát cao

6. TTN

: Trước thực nghiệm

7. STN

: Sau thực nghiệm

8. SMTĐ

: Sức mạnh tốc độ

9. TT

: Thứ tự

10.BXTC

: Bật xa tại chỗ

11. THPT

: Trung học phổ thông

12. NXB


: Nhà xuất bản

13. TĐC

: Tốc độ cao

14. cm

: cengtimet

15. s

: Giây

16. M

: Mét


DANH MỤC BIỂU BẢNG
Bảng biểu

Nội dung

Trang

Các bài tập phát triển SMTĐ được sử dụng trong huấn
Bảng 3.1


luyện đội tuyển Điền kinh trường THPT Ngô Gia Tự -

27

Vĩnh Phúc.
Bảng 3.2
Bảng 3.3

Kết quả phỏng vấn lựa chọn các tets đánh giá năng lực
SMTĐ trong chạy 200m nữ (n = 10).
Xác định độ tin cậy của Test trên đối tượng nghiên cứu
(n = 10).

29

30

Kết quả kiểm tra năng lực SMTĐ của đội tuyển Điền
Bảng 3.4

kinh trường THPT Ngô Gia Tự - Vĩnh Phúc với trường

31

THPT Yên Lạc - Vĩnh Phúc (n = 12).
Bảng 3.5
Bảng 3.6
Bảng 3.7
Bảng 3.8
Bảng 3.9

Bảng 3.10

Kết quả phỏng vấn lựa chọn các bài tập phát
triển SMTĐ trong cự ly chạy 200m nữ (n = 10).
Nội dung bài tập phát triển SMTĐ.
Kết quả kiểm tra 2 nhóm trước thực nghiệm
(nA = nB = 6).
Tiến hành thực nghiệm.
Kết quả kiểm tra 2 nhóm sau thực nghiệm
(nA = nB = 6).
Kết quả kiểm tra thành tích chạy 200m nữ cho 2 nhóm
2 nhóm đối tượng (nA = nB = 6).

34
36
39
40
41

42

Biểu đồ 3.1 Biểu đồ diễn tả kết quả kiểm tra test Chạy 30m TĐC

43

Biểu đồ 3.2 Biểu đồ diễn tả kết quả kiểm tra test Bật cóc 30m.

44

Biểu đồ 3.3 Biểu đồ diễn tả kết quả kiểm tra test Bật xa tại chỗ.


45


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU..................................... 5
1.1.Những quan điểm của Đảng và nhà nước về công tác GDTC trong
trường học. ..................................................................................................... 5
1.2. Đặc điểm tâm – sinh lý lứa tuổi THPT ................................................... 6
1.3. Cơ sở lý luận của các tố chất sức mạnh tốc độ ..................................... 10
1.4. Cơ sở lý luận để lựa chọn một số bài tập nhằm phát triển sức mạnh
tốc độ............................................................................................................ 17
CHƢƠNG 2: NHIỆM VỤ, PHƢƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC
NGHIÊN CỨU ............................................................................................................... 22
2.1 Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 22
2.2 Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 22
2.3. Tổ chức nghiên cứu .............................................................................. 25
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................. 27
3.1. Thực trạng việc sử dụng bài tập và đánh giá năng lực SMTĐ trong
chạy 200m của nữ đội tuyển Điền kinh trường THPT Ngô Gia Tự Vĩnh Phúc. ................................................................................................... 27
3.2. Nghiên cứu lựa chọn và đánh giá hiệu quả một số bài tập phát triển
SMTĐ cho nữ đội tuyển Điền kinh trường THPT Ngô Gia Tự - Vĩnh
Phúc. ............................................................................................................ 32
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 48


1
ĐẶT VẤN ĐỀ

Thể dục thể thao là một bộ phận không thể thiếu trong nền văn hóa của
dân tộc cũng như nền văn minh của nhân loại. Trong đời sống, TDTT đóng
vai trò hết sức to lớn, nó là phương tiện có hiệu quả để nâng cao sức khỏe và
là phương tiện để mở rộng quan hệ quốc tế.
Ngày nay được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, TDTT Việt Nam
đã có bước khởi sắc mới và đang trên đà phát triển nhanh chóng từng bước
hội nhập với nền thể thao khu vực, châu lục cũng như các nước trên thế giới,
nước ta đã có những VĐV tham gia Olympic, Asiad thế giới, đặc biệt trong
vài thập niên trở lại đây Việt Nam đã liên tục tham gia các kỳ đại hội thể thao
Đông Nam Á (Seagames) và luôn có thứ hạng cao, tuy nhiên để so sánh với
các quốc gia có nền thể thao phát triển thì TDTT nước ta cần nỗ lực hơn nữa.
Giáo dục là một trong những nhiệm vụ quan trọng là quốc sách hàng
đầu trong công tác đào tạo thế hệ trẻ. Thấm nhuần lời dạy của chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” [11]
cho thấy Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm đến công tác giáo dục, sự
quan tâm đó được thể hiện rõ trong các nghị quyết của Đảng, văn bản của nhà
nước, đặc biệt quan trọng nhất là ở hội nghị trung ương IV khóa VI “Cùng
với khoa học giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu đó là động lực thúc
đẩy và là điều kiện cơ bản, đảm bảo việc thực hiện những mục tiêu kinh tế xã
hội, xây dựng bảo vệ đất nước” [14]. Vì vậy công tác GDTC trong trường học
là một bộ phận không thể tách rời mục tiêu giáo dục và đào tạo từ bậc tiểu
học đến bậc đại học. Với mục đích nhằm hình thành và phát triển nhân cách
cho học sinh, nhằm trang bị cho các em những kiến thức hiểu biết để bồi
dưỡng kỹ năng, kỹ xảo vận động cần thiết phục vụ học tập, lao động, xây
dựng bảo vệ Tổ quốc. Từ đó Đảng và Nhà nước cùng với các cấp các ngành


2
đã quan tâm đầu tư đầy đủ cơ sở vật chất trang thiết bị giảng dạy phục vụ
công tác giáo dục thể chất trong các trường phổ thông.

Điền kinh là môn thể thao rất đa dạng và phong phú bao gồm các hoạt
động tự nhiên của con người: Đi bộ, chạy nhảy, ném đẩy và nhiều môn phối
hợp, ở nước ta môn Điền kinh đã có lịch sử phát triển từ lâu đời, với các hình
thức tập luyện đa dạng đã thu hút đông đảo mọi tầng lớp, đối tượng quần
chúng tham ra tập luyện và thi đấu. Khi chạy tất cả các nhóm cơ cùng tham
gia hoạt động nhưng chủ yếu là cơ quan nội tạng. Việc gắng sức luân phiên
với thả lỏng tích cực tạo điều kiện cho việc phát triển các tố chất sức nhanh,
mạnh, bền, sự mềm dẻo, khéo léo và khả năng phối hợp của con người. Môn
chạy nói chung và chạy nhanh nói riêng là biện pháp tốt nhất để rèn luyện
nâng cao sức khoẻ, ngoài ra còn trang bị cho người tập những phẩm chất đạo
đức ý chí cũng như tăng cường vốn kỹ xảo vận động cơ bản quan trọng trong
cuộc sống.
Điền kinh giữ vai trò quan trọng trong nền giáo dục thể chất trong
trường học nói chung và trong các trường phổ thông trung học nói riêng, đặc
biệt là trường THPT. Ngày nay phong trào TDTT nói chung và Điền kinh nói
riêng trong chạy cự ly 200m đang được phát triển mạnh mẽ ở các trường cơ
sở và ở các địa phương.
Điền kinh bao gồm nhiều môn thi đấu. Trong đó, chạy nói chung và
chạy cự li 200m nói riêng, là môn học được tập luyện và thi đấu khá phổ biến
và rộng rãi ở các trường phổ thông, các hội khoẻ Phù đổng từ trung ương đến
địa phương. Tuy nhiên thành tích chạy 200m của học sinh Việt Nam so với
khu vực và thế giới còn khá khiêm tốn. Bởi vậy mà việc giảng dạy môn chạy
cự li ngắn cho học sinh trong nhiều năm qua đã được chú trọng song vẫn còn
phải khắc phục khá nhiều khó khăn.


3
Từ thời cổ xưa con người đã biết sử dụng chạy để đuổi bắt con vật hay
chạy trốn khi bị chúng tấn công. Qua nhiều năm tháng, chạy trở thành môn
thể thao hấp dẫn chinh phục thời gian trên những đoạn đường quy định, thể

hiện khả năng về sức nhanh, sức bền của con người. Chạy được tổ chức thi
đấu theo nhiều nội dung khác nhau từ 60m, 80m, 100m cho đến 10.000m,
42195m(chạy ma ra tông). Dựa theo đặc thù chuyên môn chạy được chia
thành 3 nhóm cự ly: Ngắn, trung bình, dài. Chạy cự ly ngắn gồn có 60m, 80m,
100m, 200m và 400m. Cự ly 60m, 80m, 100m chạy trên đường thẳng, 200m,
400m vừa chạy trên đường thẳng, vừa chạy trên đường vòng. Đặc điểm cự ly
ngắn là cơ thể phải làm việc với cường độ cực đại (tốc độ tối đa) trong thời
gian ngắn, trong tình trạng nợ ôxi. Chạy còn có loại hình khác nữa như chạy
tiếp sức, chạy vượt rào, chạy việt dã .v.v. với nhiều cự ly khác nhau.
Hoạt động TDTT vô cùng phong phú và đa dạng mỗi môn thể thao đều
mang sắc thái thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, mang tính thẩm mỹ
thu hút được sự đam mê của con người theo cách thức riêng của từng môn.
Điền kinh là một trong những môn thể thao được nhiều người ưa thích, nó đã
và đang phát triển rộng rãi trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Ở
nước ta điền kinh được coi là một môn thể thao mũi nhọn bởi nó phù hợp với
sự phát triển của con người, với phương tiện và điều kiện của đất nước, cũng
như môn thể thao khác tập luyện Điền kinh có khả năng tăng cường sức khỏe,
phát triển các tố chất thể lực…
Như chúng ta biết muốn đạt được thành tích cao trong chạy cự ly 200m
đòi hỏi VĐV phải phát triển đầy đủ các tố chất thể lực như: sức nhanh, sức
mạnh, sức bền… Nhưng quan trọng hơn cả vẫn là tố chất sức mạnh tốc độ.
Bởi nét đặc trưng của chạy 200m là khả năng vượt qua cự ly trong thời gian
ngắn nhất. Chính vì vậy trong quá trình huấn luyện thì việc nghiên cứu các
bài tập sức mạnh tốc độ không thể thiếu được.


4
Như vậy trong quá trình huấn luyện chạy cự ly 200m thì sức mạnh tốc
độ là yếu tố quan trọng của VĐV Điền kinh. Xuất phát từ những vấn đề trên,
nhận thức được tầm quan trọng của việc huấn luyện tốc độ cho VĐV chạy cự

ly ngắn (200m) trong tập luyện và thi đấu. Vì vậy chúng tôi mạnh dạn chọn
đề tài: “Ứng dụng bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nhằm nâng cao
thành tích chạy 200m cho nữ đội tuyển Điền kinh trƣờng THPT Ngô Gia
Tự - Vĩnh Phúc”.
* Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài lựa chọn và ứng dụng các bài tập phát
triển SMTĐ nhằm nâng cao thành tích chạy 200m nữ đội tuyển Điền kinh
trường THPT Ngô Gia Tự - Vĩnh Phúc.


5
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về công tác GDTC trong
trƣờng học.
Ngay từ ngày đầu thành lập nước Bác Hồ đã phát động lời kêu gọi toàn
dân tập thể dục. Bác luôn cho rằng việc rèn luyện TDTT là rất cần thiết đối
với mọi người dân và đặc biệt là những lực lượng vũ trang Bác Hồ nói: Mỗi
một người dân yếu ớt là làm cho cả nước yếu ớt, mỗi người dân khỏe mạnh là
góp phần làm cho cả nước khỏe mạnh. Vậy nên tập thể dục bồi dưỡng sức
khỏe là bổn phận của những người dân yêu nước [6]. Lời kêu gọi của Bác đã
được toàn Đảng, toàn dân toàn quân hưởng ứng và thực hiện. Các hoạt động
TDTT được phát triển mạnh mẽ cả về chiều sâu và chiều rộng. Thấy rõ được
lợi ích to lớn mà việc rèn luyện TDTT mang lại nên trong hiến pháp của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 tại điều 41 đã quy định: “Nhà
nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển TDTT, quy định chế độ GDTC
bắt buộc trong trường học, khuyến khích và giúp đỡ phát triển các hình thức
TDTT tự nguyện của nhân dân tạo điều kiện để không ngừng mở rộng các
hoạt động TDTT chuyên môn, bồi dưỡng các tài năng TT” [7].
Chỉ thị 36 CT/TW ngày 24/ 03/ 1994 của Ban bí thư trung ương Đảng

khóa VII đã giao trách nhiệm của Bộ giáo dục - Đào tạo và Tổng cục TDTT
thường xuyên phối hợp chỉ đạo tổng kết công tác GDTC, cải tiến chương
trình giảng dạy tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo viên TDTT cho
trường học các cấp, tạo những điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực
hiện chế độ GDTC bắt buộc ở tất cả các trường học, làn cho việc tập luyện
TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh, sinh viên, qua đó
phát hiện và tuyển chọn được nhiều tài năng TT cho quốc gia [1].


6
Luật giáo dục được quốc hội khóa IX nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt nam thông qua ngày 2/12/1998 và pháp lệnh TDTT được ủy ban thường
vụ quốc hội thông qua tháng 9/2000 quyết định: “Nhà nước coi trọng TDTT
trường học nhằm phát triển và hoàn thiện thể chất cho tầng lớp thanh thiếu
niên, nhi đồng. GDTC là nội dung giáo dục bắt buộc đối với học sinh, sinh
viên được thực hiện trong hệ thống giáo dục quốc dân từ mầm non đến đại
học. TDTT trường học bao gồm việc tiến hành chương trình GDTC bắt buộc
và tổ chức hoạt động TDTT ngoại khóa cho người học. Nhà nước khuyến
khích và tạo điều kiện cho học sinh được tập luyện TDTT phù hợp với đặc
điểm lứa tuổi và điều kiện cho học sinh tập luyện TDTT phù hợp với đặc
điểm lứa tuổi và điều kiện từng nơi. GDTC là một bộ phận quan trọng để thực
hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa [10].
1.2 Đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi THPT
1.2.1 Đặc điểm tâm lý
Về mặt tâm lý các em thích chứng tỏ mình là người lớn, muốn người
khác tôn trọng mình, đã có một trình độ hiểu biết nhất định, có khả năng phân
tích, tổ hợp, muốn hiểu biết, nhiều hoài bão, nhưng vẫn còn nhiều nhược điểm
thiếu kinh nghiệm cuộc sống.

Các em đã có thái độ tích cực trong học tập. Tình cảm của các em được
hiểu biết rõ ràng hơn, tình cảm yêu quý và gắn bó với mái trường mà các em
sắp giã từ, đặc biệt đối với giáo viên chủ nhiệm của các em. Điều này giúp
giáo viên thuận lợi trong quá trình giảng dạy. Nó thúc đẩy các em tự giác, tích
cực trong học tập.
Độ tuổi này chủ yếu hình thành thế giới quan, tự ý thức hình thành tính
cách và hướng về tương lai. Đó cũng là lứa tuổi của lãng mạn, độc đáo và


7
mong cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Đó là tuổi nhu cầu sáng tạo, nảy nở những
tình cảm mới. Thế giới quan không phải là một niềm tin lạnh nhạt mà đó là sự
say mê ước vọng nhiệt tình. Các em có thái độ tự giác tích cực trong học tập,
xuất phát từ động cơ học tập đúng đắn và hướng tới việc lựa chọn nghề
nghiệp sau này. Do đó quá trình hưng phấn cao hơn quá trình ức chế nên các
em tiếp thu nhanh nhưng cũng chóng chán. Khi đạt được một số kết quả sẽ
dẫn đến tự mãn, điều đó có tác động không tốt đến tập luyện cũng như thi đấu
thể thao. Vì vậy khi tiến hành tập luyện, huấn luyện cho các em ở lứa tuổi này
cần phải uốn nắn nhắc nhở chỉ bảo tận tình định hướng và động viên các em
hoàn thành tốt nhiệm vụ, có hình thức khen thưởng động viên đúng lúc kịp
thời. Trong quá trình huấn luyện dần dần từng bước động viên các em tiếp thu
chậm. Từ đó làm các em không cảm thấy chán có định hướng phấn đấu và
hiệu quả bài tập được nâng cao.
* Đặc điểm tâm lý của học sinh nữ khi tập luyện chạy 200m.
Do đặc điểm của nữ giới khác nam giới nên lượng vận động cũng khác.
Đặc điểm sinh lý của nữ yêu cầu phải xây dựng lượng vận động một cách
thận trọng, hợp lý. Đặc biệt là các bài tập sức mạnh, bài tập bật nhảy, chạy tốc
độ cao, chức năng của cơ quan nội tạng và cơ bắp phụ nữ kém hơn ở nam và
khác nhau, khi đặt kế hoạch phải chú ý đến đặc điểm của khung chậu, các cơ
bụng, cơ vùng hông rất yếu, ngay từ khi bắt đầu tập phải thường xuyên củng

cố hệ thống này. Chính vì các đặc điểm trên làm hạn chế tốc độ chạy, tốc độ
bật nhảy của phụ nữ. Sức mạnh là tính đàn hồi của cơ tăng lên làm cho các cơ
quan nội tạng hoạt động bình thường khi chạy và chạy với tốc độ cao. Đặc
biệt chú ý đến việc tập luyện của học sinh nữ trong thời gian xuất hiện chu kỳ
kinh nguyệt, cả thời gian này lượng vận động phải giảm, nhất là chạy với tốc
độ cao. Nếu không theo chế độ, tính chất nguyên tắc trên sẽ làm giảm hoạt
động bình thường của học sinh nữ bị rối loạn thần kinh.


8
1.2.2. Đặc điểm sinh lý
Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi đầu thanh niên là thời điểm đạt
được sự trưởng thành về mặt thể lực, nhưng sự phát triển cơ thể còn kém so
với sự phát triển cơ thể của người lớn, có nghĩa ở lứa tuổi này cơ thể các em
đang phát triển mạnh, khả năng hoạt động của các cơ quan và các bộ phận cơ
thể được nâng cao cụ thể:
* Hệ thần kinh: Sự phát triển thể hình đã hoàn thiện xong, kích thước
não và hành tủy đã đạt đến mức của người trưởng thành hoạt động phân tích
và tổng hợp của vỏ não tăng lên. Trên vỏ não có các chi giác hoạt động có
định hướng sâu sắc hơn, khả năng nhận biết cấu trúc động tác và tái hiện
chính xác khả năng vận động được nâng cao, ngoài ra do việc hoạt động của
các tuyến giáp trong tuyến sinh dục cũng ảnh hưởng đến hoạt động thể dục
thể thao, các bài tập đơn điệu làm cho học sinh nhàm chán mệt mỏi. Vì vậy
cần thay đổi nhiều hình thức tập luyện [7].
* Hệ cơ: Ở lứa tuổi này cơ của các em phát triển với tốc độ nhanh để đi
đến hoàn thiện, nhưng phát triển không đều và chậm hơn so với hệ xương. Cơ
to phát triển nhanh hơn cơ nhỏ, cơ chi phát triển nhanh hơn cơ dưới, khối
lượng cơ tăng lên rất nhanh, đàn tính cơ tăng không đều, chủ yếu là nhỏ và
dài. Do vậy khi cơ hoạt động chóng dẫn đến mệt mỏi. Vì vậy khi tập luyện
giáo viên giảng dạy cần chú ý phát triển cơ bắp cho các em [7].

* Hệ tuần hoàn: Ở lứa tuổi này, hệ tuần hoàn đang trên đà phát triển
để kịp thời phát triển toàn thân, tim lớn hơn, khả năng co bóp của cơ tim phát
triển mạnh, do đó nâng cao khá rõ lưu lượng máu/phút. Mạch lúc bình thường
chậm hơn (tiết kiệm hơn), nhưng khi vận động căng thì tần số nhanh hơn.
Phản ứng của tim đối với các lượng vận động thể lực đã khá chính xác, tim
trở nên hoạt động dẻo dai hơn [7].


9
* Hệ xƣơng: Xương giảm tốc độ phát triển, sụn ở xương có độ dài
nhưng chuyển thành sương ụ. Cột sống đã ổn định về hình dáng nhưng chưa
được củng cố dễ bị cong vẹo [7].
* Hệ máu: Ở lứa tuổi này các em hoạt động cơ bắp cho nên hệ máu có
những thay đổi nhất định. Hàm lượng hêmôglôbin cũng như hàm lượng trong
máu đều tăng làm cho dung dịch ôxy trong máu cũng tăng lên, sau các hoạt
động kéo dài thì hồng cầu sẽ giảm đi và quá trình hoạt động xảy ra nhanh [7].
* Hệ hô hấp: Ở lứa tuổi này, phổi các em phát triển mạnh nhưng chưa
đều, khung ngực còn nhỏ, hẹp nên các em thở nhanh và lâu không có sự ổn
định của dung tích sống, không khí, đó chính là nguyên nhân làm cho tần số
hô hấp của các em tăng cao khi hoạt động và gây nên hiện tượng thiếu ôxi,
dẫn đến mệt mỏi [7].
* Trao đổi năng lƣợng: Ở giai đoạn này đòi hỏi về các chất đường,
đạm, mỡ và muối khoáng rất lớn, quá trình chuyển hóa xảy ra rất nhanh lượng
tế bào tăng một mặt chuyển hóa cho quá trình trưởng thành cơ thể, mặt khác
để cung cấp cho quá trình vận động thể lực [7].
Như vậy tất cả các bộ phận cơ quan trong cơ thể ở lứa tuổi này vẫn
đang phát triển và dần đi đến hoàn thiện. Do đó việc huấn luyện, giảng dạy
phải hết sức lưu ý để làm sao tạo điều kiện tốt nhất để các em tiếp tục phát
triển cân đối và hoàn thiện.
Tóm lại: Từ những đặc điểm tâm sinh lý chúng tôi đưa ra phương pháp

và khối lượng bài tập một cách hợp lý với lứa tuổi này là cơ thể của các em
phát triển và dần đi đến hoàn thiện về các cơ quan trong hệ thống trong cơ
thể. Do vậy việc sử dụng các bài tập phát triển tố chất thể lực nói chung và
phát triển sức mạnh tốc độ nói riêng, đặc biệt là vận dụng các bài tập phát
triển sức mạnh tốc độ nhằm góp phần nâng cao thành tích chạy 200m. Qua


10
phân tích tài liệu chuyên môn và khảo sát thực tiễn thì ở thời điểm lứa tuổi
này phát triển tố chất sức mạnh tốc độ là hợp lý và có hiệu quả cao.
1.3. Cơ sở lý luận của các tố chất sức mạnh tốc độ
1.3.1. Khái niệm và các quan điểm về SMTĐ
Sức mạnh tốc độ được thực hiện ở những hoạt động nhanh và khắc
phục trọng tải. Trong đó lực và tốc độ có mối tương quan tỷ lệ nghịch với
nhau.
Sức mạnh của con người trong hoạt động thể dục, thể thao phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khác nhau.
+ Cấu trúc của cơ (thiết diện sinh lý của sợi cơ)
+ Nguồn năng lượng yếm khí
+ Quá trình điều hoà thần kinh cơ.
Sức mạnh là khả năng của con người sinh ra lực cơ học bằng sự nỗ lực
của cơ bắp, hay nói cách khác sức mạnh là khả năng của con người khắc phục
lực đối kháng bên ngoài hay đối kháng nó bằng sự nỗ lực của cơ bắp, khi
phân chia theo cấu trúc vận động sức mạnh bao gồm:
* Sức mạnh mang tính nhanh: Là giá trị tốc độ và độ lớn của lực sinh ra
khi co cơ
* Sức mạnh mang tính mạnh: Là nỗ lực thắng trở lực lớn
* Sức mạnh mang tính bền: Là giá trị lặp lại nhiều lần về độ lớn nhanh
và mạnh
Điều này giúp chúng ta thấy được sức mạnh có vai trò then chốt trong

quan hệ với các tố chất khác dựa trên cơ sở phân tích khoa học, người ta chia
năng lực phát huy của con người thành các loại sau:
* Sức mạnh đơn thuần: Khả năng sinh lực trong các động tác chậm
hoặc tĩnh.


11
* Sức mạnh tốc độ: Khả năng sinh lực trong các động tác nhanh trong
khi xây dựng hệ thống bài tập phát triển sức mạnh tốc độ.
* Sức mạnh tuyệt đối: Là khả năng khắc phục lực cản lớn nhất trong cơ
thể.
* Sức mạnh sức bền: Là khả năng duy trì sức mạnh trong thời gian dài.
* Sức mạnh bột phát: Là khả năng công phát huy lớn nhất trong thời
gian ngắn nhất.
Để hiểu rõ hơn về SMTĐ chúng tôi đã tham khảo các quan điểm của
các nhà khoa học TDTT trong và ngoài nước.
Theo quan điểm của các nhà tâm lý thì: Sức mạnh tốc độ là khả năng
VĐV vượt qua lực cản bên ngoài với tốc độ co cơ lớn (các môn ném đẩy,
nhảy cao, chạy ngắn) song các môn thể thao khác đặt ra, sức mạnh luôn luôn
có quan hệ với tố chất thể lực cụ thể với sức mạnh và sức bền.
Năng lực sức mạnh tốc độ là khả năng khắc phục các lực cản với tốc độ
co cơ cao của VĐV, việc vận dụng hệ thống các bài tập nhằm phát triển sức
mạnh tốc độ cho những môn thể thao liên quan trước hết là sức mạnh tương
đối cần phải tiến hành sao cho sức mạnh tốc độ được nâng cao mà không có
sự phì đại cơ to quá mức. Đó là trường hợp khi mà người ta hay sử dụng lực
cản trở và trung bình, những lực cản phải được khắc phục bằng tốc độ co cơ
cao. Trong đó sự căng thẳng cơ cần thiết để tăng sức mạnh được tạo nên bằng
sự co cơ nhanh “bột phát”.
- Theo quan điểm của các nhà sinh lý học: Cơ chế sinh lý điều hòa sức
mạnh có cơ sở khoa học. Lực tối đa mà con người ta sản sinh ra một mặt phụ

thuộc đặc tính sinh cơ của động tác, khả năng thu hút các nhóm cơ lớn tham
gia hoạt động, mặt khác phụ thuộc vào mức độ của từng nhóm riêng biệt và
sự phối hợp giữa chúng. Mức độ hoạt động của cơ được quy định bởi hai
nhân tố xung quanh từ các nơron thần kinh vận động trong tủy sống đến cơ.


12
Phản ứng của cơ tức là do nó sinh ra để đáp ứng xung động thần kinh, nếu lực
cơ phát huy chỉ khoảng 20 - 80% khả năng tối đa của nó thì cơ thể điều hòa số
lượng sợi cơ có ý thức cơ bản, điều hòa đó có ý nghĩa nội lực, kích thích nhỏ
thì chỉ có ít sợi cơ hoạt động tích cực, trong trường hợp lực co cơ phát huy giá
trị tối đa có thể xảy ra một cách điều hòa thứ ba đồng bộ hoạt động bình
thường không quá 20% xung quanh là đồng bộ với nhau. Với sự phát triển
trình độ tập luyện khả năng điều hòa đồng bộ tăng lên rất nhiều.
- Theo quan điểm của PGS.TS Nguyễn Toán cho rằng: Sức mạnh tốc
độ là khả năng sinh lực và khắc phục một trọng lượng nào đó với tốc độ
nhanh nhất hay sức mạnh tốc độ là khả năng sinh lực trong động tác nhanh và
với thời gian ngắn.
Như vậy để rèn luyện sức mạnh người ta sử dụng một số bài tập sức
mạnh là các động tác với lực đối kháng, căn cứ vào tính chất lực đối kháng
của một số bài tập sức mạnh được chia thành các bài tập với lực đối kháng
bên ngoài.
 Các bài tập với dụng cụ nặng
 Các bài tập với lực đàn hồi
 Các bài tập khắc phục trọng lượng cơ thể
Chạy 200m là một hoạt động diễn ra trong thời gian tương đối ngắn với
công suất cực đại. Chạy 200m tốt phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song lý luận và
phương pháp chỉ tập trung vào những yếu tố điều khiển bằng phương pháp sư
phạm. Trong đó điều kiện phát triển và hoàn thiện yếu tố thiết diện cơ, yếu tố
điều hòa trong cơ và điều hòa giữa các nhóm cơ có ý nghĩa chủ đạo.

Như vậy, qua tất cả những điều đã nêu ở trên việc phát triển sức mạnh
tốc độ là hết sức quan trọng và cần thiết trong quá trình huấn luyện cho các
VĐV và nhất là với VĐV chạy 200m thì một số bài tập phát triển sức mạnh
tốc độ có ý nghĩa rất lớn và liên quan trực tiếp đến thành tích. Để tìm hiểu sâu


13
hơn về bài tập sức mạnh tốc độ chúng tôi đi nghiên cứu cơ chế sinh lý của sức
mạnh tốc độ.
Như ta đã biết lực tối đa mà con người có thể sinh ra một mặt phụ
thuộc vào đặc tính sinh cơ của động tác, khả năng thu hút các nhóm cơ lớn
nhất hoạt động. Mặt khác nó còn phụ thuộc vào mức độ hoạt động của từng
nhóm cơ riêng biệt và sự phức tạp giữa chúng, mức độ hoạt động của các cơ
được quy định bởi hai nhân tố sau:
- Xung động từ nơron thần kinh vận động trong sừng trước tủy sống
đến cơ.
- Phản ứng của cơ tức là lực do nó sinh ra để đáp lại xung động thần kinh.
Phản ứng của cơ phụ thuộc vào tiết diện sinh lý đặc điểm cấu trúc của
nó ảnh hưởng dinh dưỡng của hệ thần kinh trung ương thông qua dự phòng
Adrgnalin giao cảm.
Nếu lực do cơ huy động chỉ vào khoảng 20 - 80% khả năng tối đa của
nó thì có thể điều hòa số lượng sợi cơ ý nghĩa cơ bản điều đó có ý nghĩa nếu
lực kích thích nhỏ (trọng lượng nhỏ thì có ít sợi cơ hoạt động tích cực trong
trường hợp đó phát huy đạt trị số tối đa có thể xảy ra các điều hòa thứ ba đồng
bộ các sợi cơ), ở những người không tập luyện thông thường không vượt qua
20% xung động đồng bộ với nhau. Cùng với sự phát triển cả trình độ tập
luyện khả năng điều hòa toàn bộ tăng lên rất nhiều.
Để phát huy sức mạnh, một số vấn đề quan trọng là phải lựa chọn lực
đối kháng bên ngoài là mặt kích thích sinh lý có cường độ nhất định, qua
nghiên cứu về các đặc điểm sinh lý của bài tập với lực đối kháng khác nhau

cho thấy: Muốn phát triển được sức mạnh thì trước hết phải tạo ra được sự
căng cơ tối đa nếu không tạo ra được sự căng cơ tương đối thì sức mạnh
không phát triển được, tập luyện với mức độ căng cơ qua nhỏ sẽ giảm sút sức
mạnh. Trên thực tế ta thấy có ba cách tạo ra sự căng cơ tối đa đó là:


14
* Lặp lại cực đại đối kháng chưa đến mức tối đa
* Sử dụng lực đối kháng tối đa
* Sử dụng trọng lực chưa tối đa độ cực hạn
Để tìm hiểu sâu hơn về cơ sở khoa học về bài tập sức mạnh tốc độ ta
nghiên cứu cơ sở lý luận của bài tập sức mạnh tốc độ.
Sức mạnh tốc độ là khả năng con người thể hiện sự nỗ lực lớn nhất
trong khoảng thời gian ngắn nhất. Ngoài ra để hiểu rõ mối quan giữa sức
mạnh và tốc độ ta cần hiểu rõ tố chất này. Sức mạnh là khả năng con người
sinh lực cơ học bằng sự nỗ lực cơ bắp. Nói cách khác sức mạnh của con
người là khả năng khắc phục lực đối kháng bên ngoài hoặc đề kháng lại bằng
sự nỗ lực của cơ bắp, sức mạnh mà cơ phát ra phụ thuộc vào số lượng đơn vị
vận động tham gia vào sự căng cơ, chế độ của đơn vị vận động của sợi cơ đó
là chiều dài của sợi cơ trước đó.
Tốc độ là khả năng thực hiện động tác trong khoảng thời gian ngắn
nhất yếu tố quyết định đến tốc độ là độ linh hoạt của quá trình thần kinh và
tốc độ co cơ. Độ linh hoạt của quá trình thần kinh thể hiện khả năng biến đổi
nhanh chóng giữa hưng phấn với ức chế trong các trung tâm thần kinh.
Tốc độ co cơ phụ thuộc vào tỷ lệ sợi cơ nhanh và sợi cơ chậm trong bó
cơ. Trong hoạt động TDTT sức mạnh và tốc độ có liên quan mật thiết với
nhau. Mức độ phát triển sức mạnh ảnh hưởng rõ rệt đến tốc độ trong nhiều
môn thể thao. Kết quả hoạt động còn phụ thuộc vào sự phối hợp giữa hai tố
chất, các hoạt động như vậy gọi là sức mạnh tốc độ (các bài tập chạy ngắn,
ném đẩy, nhảy).

Bằng thực nghiệm và phân tích khoa học đi đến một số kết luận có ý
nghĩa cơ bản trong phân loại sức mạnh.
Trị số lực sinh ra trong các động tác chậm hầu như không khác biệt với
trị số lực phát huy trong điều kiện đẳng trường.


15
Trong chế độ nhượng bộ khả năng sinh lực của cơ là lớn nhất đôi khi
gấp hai lần lực phát huy trong điều kiện tĩnh.
Trong các động tác nhanh trị số lực giảm dần theo chiều tăng tốc độ
khả năng sinh lực trong các động tác nhanh tuyệt đối và khả năng sinh lực
trong các động tác tĩnh.
1.3.2. Mối quan hệ giữa tố chất SMTĐ với thành tích chạy 200m
Trong huấn luyện để đạt được thành tích ở cự ly ngắn 200m thì phải
phát triển sức mạnh tốc độ không ngừng nâng cao tốc độ co cơ mà còn phải
làm tăng sức mạnh tốc độ rất có ý nghĩa nhưng nó lại phụ thuộc vào từng
môn. Trong những môn mà sức mạnh tối đa là cơ sở quyết định tốc độ trong
dẫn chứng bằng phương trình (phương pháp này được suy ra từ sự cân bằng
năng lực của giai đoạn cơ sở).
(P +a)(V+b) = không đổi
P: Ngoại lực
V: Tốc độ tối đa của động tác
Cơ là đặc trưng cho mức độ tác động của từng loại cơ. Nếu trong
phương trình giữa P và V là không đổi thì hệ thần kinh co cơ có thể luôn luôn
tạo nên thành tích như nhau mà không phụ thuộc vào độ lớn các ngoại lực.
Điều này có ý nghĩa là ngoại lực nhỏ tạo nên sự co cơ nhanh, trong khi
đó co cơ chậm hơn khi ngoại lực lớn. Từ đó suy ra được kết luận về mặt
phương pháp cho huấn luyện sức mạnh tốc độ là phải nâng cao sức mạnh hoặc
phần sức mạnh một cách có trọng tâm. Nhưng cũng tùy theo nhu cầu ở đây cần
huấn luyện sức mạnh với các lực cản bên ngoài rất lớn thì phù hợp với điều

kiện đặc trưng này, tuy nhiên việc huấn luyện này không có tác dụng nâng cao
tốc độ co cơ nhưng khi nó đặc trưng cho những động tác có lực cản bên ngoài
nhỏ thì sẽ nâng cao được tốc độ co cơ trong điều kiện như nhau. Song không
nâng cao tốc độ co cơ khó phải khắc phục những lực cản bên ngoài lớn, từ đó


16
suy ra phải phát triển sức mạnh trong huấn luyện VĐV trẻ. Bên cạnh đó tốc độ
tối đa cũng cần khắc phục nhanh chóng các lực cản bên ngoài tương đối lớn
được nâng lên trước hết là các hình thức của lượng vận động.
Trong huấn luyện VĐV trẻ sức mạnh tối đa cần thiết để khắc phục
nhanh các lực cản bên ngoài tương đối lớn được nâng cao trước hết thông qua
các hình thức của lượng vận động huấn luyện sức mạnh tốc độ. Trong quá
trình tiếp tục phát triển thành tích, nên phải áp dụng hình thức của lượng vận
động huấn luyện sức mạnh tối đa để tiếp tục nâng cao sức mạnh thì cũng phải
đạt được sự phát triển song song của sức mạnh tối đa và sự co cơ. Huấn luyện
sức mạnh tốc độ yêu cầu sắp sếp chính xác tất cả yếu tố của lượng vận động.
Do đó Gundlach yêu cầu cách có căn cứ tất cả sức mạnh thể chất và
tâm lý phải được sử dụng hoàn toàn từ đầu đến cuối đoạn đường tăng tốc với
ý nghĩa của sự co cơ bột phát. Vì tác dụng của sức mạnh tốc độ phụ thuộc vào
hưng phấn tối ưu cả hệ thần kinh trung ương. Do đó người ta không nên tiến
hành nó trong điều kiện mệt mỏi (cần phải hạn chế một cách thích hợp toàn
bộ khối lượng vận động sức mạnh nhanh phải tương đối dài từ 3 - 5 phút để
toàn bộ năng lực thành tích có thể hồi phục). Nếu phát triển năng lực sức
mạnh tốc độ cho các động tác thì chu kỳ cũng phải hướng tới một tần số động
tác tối đa, quá trình sức mạnh tốc độ cho VĐV của cơ bắp đồng thời hoàn
thiện cơ thể cung cấp năng lượng cho các hoạt động trong điều kiện không có
ôxy, về phương pháp tổ chức huấn luyện thì tập luyện các bài tập làm sao cho
phù hợp.
Như vậy từ những điều kiện trên ta có thể thấy các bài tập sức mạnh tốc

độ và sự hoàn thiện nó giúp cho thành tích chạy 200m tăng. Nhưng bên cạnh
việc phát sinh cơ học nhằm hoàn thiện các chuyển động của động tác trong kỹ
thuật chạy 200m cho VĐV vô cùng cần thiết. Bởi lẽ muốn thực hiện động tác
nhanh mạnh chuẩn xác về tư thế của giai đoạn kỹ thuật chạy, cần phải sử


17
dụng lực đúng thời điểm và hợp lý mới có hiệu quả cao và chỉ khi nâng cao
mức độ hoàn thiện kỹ thuật mới đảm bảo cho quá trình phát triển thành tích
chạy 200m. Muốn vậy trong quá trình huấn luyện VĐV đạt thành tích cao cần
vận dụng những bài tập phát triển sức mạnh tốc độ, kết hợp với hoàn thiện kỹ
thuật mặc dù đặc trưng là giai đoạn xuất phát thấp và chạy lao xuất phát.
Đánh giá mức độ hoàn thiện kỹ thuật ở các giai đoạn trong chạy 200m
chúng ta có thể thông qua quan sát thực tế thực hiện kỹ thuật động tác. Với cách
này thì người quan sát phải có trình độ chuyên môn tốt và phải có kinh nghiệm.
Mặt khác chúng ta dùng phương tiện máy móc như video kết hợp với máy móc
xác định sinh cơ học để phân tích các giai đoạn kỹ thuật sẽ chuẩn xác.
Qua nghiên cứu cho thấy ý nghĩa của sức mạnh tốc độ đối với các môn
chạy cự ly càng ngắn càng có ý nghĩa cao.
1.4. Cơ sở lý luận để lựa chọn một số bài tập nhằm phát triển sức mạnh
tốc độ
1.4.1. Khuynh hƣớng giáo dục sức mạnh tốc độ
Từ thực tế trong tập luyện và thi đấu trong các môn TT nói chung và
chạy 200m nói riêng đều chịu sự chi phối bởi rất nhiều yếu tố như: cơ sở vật
chất trang thiết bị tập luyện, điều kiện thi đấu, trạng thái tâm lý…. Trong đó
các tố chất thể lực đóng vai trò quan trọng đến thành tích, song yếu tố quan
trọng để nâng cao thành tích chạy 200m là nâng cao độ dài bước chạy. Vì khi
có độ dài bước tốt thì mức độ đạp sau cần phải ổn định và phát huy được khả
năng dùng lực, mà trong đó yếu tố SMTĐ luôn đóng vai trò quyết định. Hơn
nữa, chạy 200m cơ thể VĐV hoạt động ở trạng thái yếm khí và cơ thể chưa

hoạt động đến mức độ tối đa với các chức phận của cơ thể, cho nên ở giai
đoạn chạy giữa quãng và về đích cũng có sự phân giải và cung cấp ATP một
cách nhanh chóng. Chính vì lẽ đó mà phải giáo dục sức mạnh tốc độ tốt để
nâng cao yếm khí và sự thích nghi trong cơ thể, một mặt khi có độ dài tốt sẽ


18
giúp cho quá trình thả lỏng cơ bắp dài, tạo điều kiện tái tạo năng lượng ATP
khi cơ bắp hoạt động. Mặt khác, không tạo ra được sự thích nghi đó thì VĐV
chạy về đích xảy ra hiện tượng đau đầu chóng mặt, hoa mắt và có thể bị ngã
do cung cấp và phân giải ATP nhanh chóng mà thành tích của VĐV cũng tốt
hơn rất.
Như vậy, sức mạnh tốc độ không thể thiếu được trong quá trình đào tạo
VĐV chạy cự ly ngắn. Hay nói một cách khác là tố chất sức mạnh tốc độ có
liên quan, quan hệ chặt chẽ mật thiết đối với thành tích chạy 200m.
Xác định được tầm quan trọng trên nhằm mục đích.
+ Phân tích mối quan hệ các chỉ tiêu tố chất SMTĐ với thành tích chạy
200m
+ Đánh giá phân tích các chỉ tiêu SMTĐ và xây dựng hệ thống các bài
tập phát triển SMTĐ phù hợp với VĐV chạy 200m.
1.4.2. Đặc điểm cơ bản trong huấn luyện sức mạnh tốc độ
Như chúng ta đã biết sức mạnh là khả năng sinh lực của cơ thể trong
các động tác nhanh với thời gian ngắn, có rất nhiều bài tập được sử dụng
nhằm phát triển sức mạnh tốc độ tuy nhiên không phải bài tập nào cũng mang
lại hiệu quả trong quá trình huấn luyện. Vì vậy khi lựa chọn các bài tập thì
người huấn luyện viên phải nắm cơ chế động tác của bài tập đó lên cơ thể
VĐV, đồng thời việc sử dụng mỗi loại bài tập cần nghiên cứu và thử nghiệm
nhiều lần trong thực tiễn.
Để xác định hướng tác động qua quá trình huấn luyện tố chất sức mạnh
tốc độ cho nữ VĐV chạy 200m. Song phải hiểu biết phân biệt rõ ràng tác

động của sức mạnh tốc độ ảnh hưởng đến chạy 200m ta cần nghiên cứu kỹ
nhiều lần và áp dụng vào thực tiễn cho có hiệu quả cao.
Trong chạy 200m VĐV phải chạy với tốc độ cao nhất của cơ thể hoạt
động ở mức tối đa trong thời gian tối thiểu. Năng lượng sử dụng chủ yếu là


19
ATP CP dự trữ trong cơ. Trong quá trình nợ ôxy lên đến 95% song do thời
gian hoạt động ngắn nên tổng nợ ôxy không lớn lắm. Với tín hiệu xuất phát
VĐV nhanh chóng bước vào hoạt động với cường độ các nhóm cơ nhanh với
chức năng vận động càng nhiều ôxy. Nhưng trong chạy 200m quá trình năng
lượng cơ bản không có sự tham gia của ôxy nên được coi là yếm khí. Nếu
quan sát tập luyện VĐV chạy 200m mà không quan sát đến năng lượng thì nó
sẽ dẫn đến năng lượng cơ bản sau:
* Tăng khối lượng và bảo đảm yếm khí phot pho cho hoạt động cụ thể
* Từ từ tăng năng suất hoạt động trên đoạn đường suất phát và tăng tốc
độ tối đa.
Phương pháp cơ bản nhằm phát triển khả năng yếm khí cho VĐV là bài
tập chạy 30 - 50m với tốc độ tối đa không quá 5 - 6 lần. Nhưng chúng ta đã
biết sức mạnh tốc độ là khả năng sinh lực trong các động tác nhanh. Lực tối
đa mà con người có thể sinh sản ra một mặt phụ thuộc đặc tính sinh cơ riêng
biệt và sự phối hợp giữa chúng. Do đó, để phát triển sức mạnh thì nhất thiết
phải tạo ra sự căng cơ tối đa và phương pháp tập luyện sức mạnh tốc độ rất
phong phú các bài tập vật nặng các loại, những bài tập mang vật chất nặng
như: Bật xa tại chỗ, Đạp sau tại chỗ cũng có tác dụng tốt đối với việc phát
triển SMTĐ.
Nhiệm vụ cụ thể để rèn luyện sức mạnh là:
* Tiếp tục hoàn thiện khả năng thực hiện các hình thức sức mạnh cơ
bản như: Sức bền, sức mạnh động lực, sức mạnh đơn thuần nhưng điều quan
trọng nhất là SMTĐ.

* Phát triển cân đối sức mạnh của tất cả nhóm cơ của hệ vận động.
* Phát triển năng lực sức mạnh khác nhau trong các điều kiện cụ thể mà
nhiệm vụ giảng dạy chuyên môn đề ra, các bài tập cơ thể tác động tới hầu hết


20
các nhóm cơ tham gia hoạt động do sự điều khiển của hệ thần kinh trung
ương.
Sức mạnh của con người trong hoạt động thể dục, thể thao phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khác nhau.
+ Cấu trúc của cơ (thiết diện sinh lý của sợi cơ)
+ Nguồn năng lượng yếm khí
+ Quá trình điều hoà thần kinh cơ.
Về quá trình điều hoà thần kinh: có hai trường hợp tuỳ vào cường độ
kích thích, khi cường độ kích thích nhỏ của sợi cơ làm việc theo chế độ luân
phiên, tức là số lần lặp lại tăng lên thì số lần hoạt động luân phiên của các sợi
cơ tham gia hoạt động.
Dựa vào cơ sở khoa học vừa nêu ra mà chúng ta định hướng cho việc
hình thành nội dung các bài tập sức mạnh tốc độ như sau:
Sử dụng các bài tập có trọng lượng nhỏ yêu cầu tốc độ nhanh liên tục.
Đối với độ tuổi học sinh trung học phổ thông đặc điểm giới tính càng rõ nét
nên cường độ và khối lượng tập luyện phải được phân biệt rõ ràng giữa nam
và nữ.
Nhìn chung năng lực tốc độ của con người mang tính chất chuyên biệt
khá rõ rệt, việc chuyển hoá của sức nhanh chỉ diễn ra trong tác động tương tác
tự vệ tính chất hoạt động, có thể chuyển hoá ở giai đoạn đầu của người mới
tập, còn ở những nơi có trình độ tập luyện cao hầu như việc chuyển hoá sức
nhanh không diễn ra. Vì vậy, mà việc phát triển sức nhanh phải rất cụ thể với
từng năng lực tốc độ.
Để phát triển sức nhanh tốc độ (tần số động tác) người ta sử dụng các

bài tập phát huy được tốc độ tối đa các bài tập có chu kỳ. Phương pháp sử
dụng ngắn chủ yếu vẫn là phương pháp lặp lại, tăng và biến đổi cự ly. Cần lựa
chọn sao cho tốc độ không giảm đi vào giai đoạn cuối của bài tập.


×