Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

skkn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 4 tuổi ở trường mầm non na mèo 2, huyện quan sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.31 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUAN SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
CHO TRẺ 3 – 4 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON
NA MÈO 2, HUYỆN QUAN SƠN

Người thực hiện: Phạm Thị Cảnh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Na Mèo 2
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HÓA, NĂM 2018

0


MỤC LỤC
MỤC

NỘI DUNG

Trang

Mục lục

1


Mở đầu

2

1.1

Lý do chọn đề tài

2

1.2

Mục đích nghiên cứu

2

1.3

Đối tượng nghiên cứu

2

1.4

Phương pháp nghiên cứu

2

Nội dung của Sáng kiến kinh nghiệm


2

Cơ sở lý luận của Sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
Các giải pháp giải đã được sử dụng để giải quyết vấn để
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Kết luận và kiến nghị

2

1

2
2.1
2.2
2.3
2. 4
3

4
6
15
17

3.1

Kết luận


17

3.2

Kiến nghị

17

1


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất
của giáo dục mầm non. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui
chơi. Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ em. Bên cạnh
đó ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự
phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hoá.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 3 - 4 tuổi nói riêng, trẻ rất nhạy cảm
với nghệ thuật ngôn từ. Âm điệu, hình tượng của các bài hát ru, đồng dao, ca
dao, dân ca sớm đi vào tâm hồn tuổi thơ. Những câu chuyện cổ tích, thần thoại
đặc biệt hấp dẫn trẻ... Vì vậy, phát triển ngôn ngữ cho trẻ em là nhiệm vụ rất
quan trọng, đặc biệt là lứa tuổi 3 - 4 tuổi. Đây là thời kỳ “phát cảm về ngôn
ngữ”, ở giai đoạn này sự phát triển về vốn từ đạt tốc độ nhanh nhất. Cho nên,
trong giai đoạn này cha mẹ trẻ, giáo viên, những người xung quanh cần đặc biệt
quan tâm để rèn luyện phát âm và phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Ông bà ta xưa đã có câu “Trẻ lên 3 cả nhà học nói”. Thật đúng như vậy,
dạy tiếng mẹ đẻ cho trẻ 3 tuổi có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ
phát triển tốt sẽ giúp trẻ nhận thức và giao tiếp tốt, hình thành và phát triển nhân
cách cho trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 tuổi sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận

với các môn học khác, giúp trẻ khả năng phát triển tư duy và ngôn ngữ, cảm thụ
được cái hay, cái đẹp xung quanh trẻ. Phát triển ngôn ngữ là một trong các
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ mầm non.
Xuất phát từ những lý do trên và để trẻ phát triển tốt về ngôn ngữ, tôi đã
lựa chọn đề tài “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi ở
trường Mầm non Na Mèo 2” để thực hiện trong năm học này.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trường mầm non Na Mèo 2 thực hiện chương trình chăm sóc giáo dục
mầm non mới. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu
phát triển toàn diện cho trẻ mầm non. Năm học 2017 – 2018 tôi được phân công
chủ nhiệm lớp Mẫu giáo bé, sỉ số 16 cháu. Đa số cháu đã biết nói, nhưng phát
âm chưa rõ ràng, một số cháu còn nói ngọng, nói chưa trọn câu… Do vậy là giáo
viên dạy trẻ 3 - 4 tuổi tôi đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc phát
triển ngôn ngữ cho trẻ.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
+ Các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi
* Đối tượng thực nghiệm:
+ Trẻ lớp mẫu giáo 3 – 4 tuổi trường Mầm non Na Mèo 2.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp thực hành
+ Phương pháp nghiên cứu
+Phương pháp hội thảo
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Muốn phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt, tôi phải dựa trên cơ sở lý luận sau:
2


a) Cơ sở tâm lý:

Ngay từ khi lọt lòng trẻ đã được nghe các bà, mẹ hát các bài hát ru, đồng
dao, ca dao, dân ca. Lớn lên trẻ được làm quen với các tác phẩm văn học thơ
truyện, làm quen với môi trường xung quanh trẻ, các tranh ảnh, đồ dùng đồ
chơi...
Khoa học đã nghiên cứu về đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi này, chúng ta thấy
trẻ 3 tuổi phát triển rất nhanh về thể lực và tâm lý, ngôn ngữ ngày càng đóng vai
trò quan trọng với trẻ. Trẻ có thể sử dụng lời nói để trao đổi với mọi người xung
quanh. Trẻ 3 đến 4 tuổi có thể sử dụng ngôn ngữ để thể hiện sự hiểu biết, cảm
xúc, ấn tượng của mình. Sự phát triển ngôn ngữ gắn liền với sự mở rộng giao
lưu của trẻ với thế giới xung quanh, với con người, với đồ vật và thiên nhiên.
Việc mở rộng phạm vi tiếp xúc và các mối quan hệ xã hội giúp cho khả
năng tri giác của trẻ nhanh nhạy hơn. Vốn từ của trẻ phong phú, bao gồm nhiều
từ loại. Số lượng các từ loại: tính từ, đại từ, trạng từ được tăng lên, trẻ hiểu được
ý nghĩa của nhiều từ loại khác nhau và biết sử dụng chúng để thể hiện mối liên
hệ đa dạng giữa các sự vật và hiện tượng về thời gian, định hướng không gian,
số lượng, nguyên nhân và kết quả đơn giản. Các câu nói của trẻ cũng được phát
triển và hoàn thiện hơn. Số lượng các câu nói đúng ngữ pháp của trẻ được tăng
lên, các thành phần trong câu nói được phát triển. Do đó, khả năng giao tiếp của
trẻ từ 3 đến 4 tuổi có những bước tiến mới về chất so với trẻ dưới 3 tuổi. Vì vậy,
ở thời kì này, chúng ta cần tích cực cung cấp các từ mới cho trẻ, mở rộng phạm
vi tiếp xúc của trẻ với thế giới xung quanh, tạo điều kiện cho trẻ có thể giao tiếp
nhiều với.
b) Cơ sở lí luận:
Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí của trẻ 3 tuổi, đây là giai đoạn đầu tuổi
mẫu giáo, vốn từ của trẻ chưa phát triên nhiều, khả năng phát âm của trẻ chưa
thành thạo, do trẻ không biết điều khiển bộ máy phát âm của mình và thính giác
ngôn ngữ chưa phát triển đầy đủ, trẻ chưa biết cách phân tích các âm thành
những âm thành phần và xác định thành phần âm nên khả năng phát âm của trẻ
còn hạn chế, trẻ chủ yếu sử dụng câu đơn là chính. Sự phát triển ngôn ngữ gắn
liền với sự phát triển của tư duy đã giúp trẻ có khả năng nhận thức thế giới bên

ngoài, do đó ở trẻ luôn xuất hiện câu hỏi “ Tại sao” với chúng ta.
Hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non được tổ chức nhằm thực
hiện những nhiệm vụ giáo dục sau: Hình thành ở trẻ khả năng về ngôn ngữ,
giúp trẻ phát triển vốn từ, giúp trẻ có khả năng phát âm đúng, chính xác, rõ
ràng, nói đủ câu, đúng ngữ pháp.
c) Cơ sở thực tiễn:
Hoạt động phát triển ngôn ngữ là một hoạt động được dạy xuyên suốt từ
khi trẻ lọt lòng đến mẫu giáo. Đối với trẻ ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp,
học tập và vui chơi. Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ
em. Bên cạnh đó ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn
diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành
vi văn hoá.
Ngôn ngữ của trẻ tiến bộ nhanh hay chậm tùy thuộc vào điều kiện sống,
quan hệ giao tiếp với những người xung quanh. Đây là giai đoạn trẻ đang học
3


nói hay bắt chước người lớn và chính thời điểm này cô giáo sẽ dạy trẻ, uốn nắn
trẻ cách nói rõ câu, cách phát âm rõ ràng…
Muốn làm được điều đó người giáo viên phải có ý thức trau dồi ngôn ngữ,
tự học, tự rèn luyện cho mình cách nói rõ ràng, ngắn gọn, chính xác, nói chuyện
với trẻ đúng đắn, thân ái, lịch sự.
2.2 Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
a) Thực trạng chung:
Năm học 2017 – 2018, bản thân tôi được phân công chủ nhiệm nhóm lớp 3–4
tuổi. Trường mầm non Na mèo 2 Với số trẻ là: 16 cháu (Trong đó có 7 cháu trai và
9 cháu gái). Đây là ngôi trường thuộc diện miền núi đặc biệt khó khăn, với điều
kiện cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn, phần lớn là sự trong chờ vào đầu tư hỗ trợ
của cấp trên. Đa số dân cư ở đây là công nhân viên chức nhà nước, một số sống
bằng nghề kinh doanh buôn bán nhỏ, số ít là dân tộc thiểu số. Trình độ dân trí

không đồng đều, cha mẹ các cháu phần nhiều phải lo lắng kiếm sống, trình độ có
hạn. Một số gia đình là dân tộc thiểu số lại chưa trú trọng đến việc học tập của con
em mình. Ngay từ đầu năm học 2017 - 2018, khi nhận các cháu vào lớp tôi cảm
nhận được rằng khả năng ngôn ngữ của cháu rất phát triển, tuy nhiên vẫn còn rất
nhiều hạn chế. Các cháu nói thường không đủ câu, một số cháu nói bị ngọng và nói
lắp, còn một số cháu thì nói chuyện không tự tin trước đông người nên cũng trở nên
lầm lì, ít nói, ít giao lưu với cô và bạn bè. Chính vì thế trong quá trình thực hiện đề
tài này, tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
* Thuận lợi:
- Được sự phân công của Ban giám hiệu Trường Mầm non Na Mèo 2 tôi
trực tiếp nhận phụ trách chính nhóm lớp 3 - 4 tuổi, bản thân tôi luôn nhận được
sự ủng hộ, quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của ban giám hiệu nhà trường.
- Có đội ngũ đồng nghiệp nhiệt tình, trình độ chuyên môn đạt chuẩn và đạt
nhiều giải trong các cuộc thi giáo viên giỏi, luôn tạo điều kiện để học hỏi lẫn
nhau trong công tác.
- Bản thân tôi là giáo viên có trình độ ĐHSP Mầm non, nhiệt tình yêu nghề
mến trẻ. Có khả năng về ngôn ngữ rõ ràng, diễn cảm, có nhiều cố gắng trong
quá trình tự học, tự rèn luyện. Biết ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.
Nắm vững phương pháp dạy của bộ môn, được bồi dưỡng thường xuyên và
tham gia học tập các lớp chuyên đề.
- Tôi luôn ý thức được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ,
luôn trau dồi kiến thức học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp để làm sao đưa ra
phương pháp dạy, giúp trẻ lĩnh hội được kiến thức một cách có hiệu quả nhất.
- Các cháu đi học được sắp xếp vào lớp theo đúng độ tuổi của mình. Các
cháu đều khỏe mạnh nhanh nhẹn, ngoan ngoãn, thích hoạt động vui chơi.
- Phụ huynh thường xuyên quan tâm trao đổi về việc học tập của con em
với cô giáo.
* Khó khăn:
- Trong lớp có 1 số trẻ là con em dân tộc thiểu số vốn từ đã ít lại còn phát
âm không được chuẩn và không phát âm được chọn vẹn câu bằng tiếng việt, còn

nói ngọng, nói lắp. Trí nhớ của trẻ cũng hạn chế, trẻ chưa biết hết khối lượng các
âm, cũng như trật tự các từ trong câu. Vì thế trẻ bỏ bớt từ, bớt câu khi nói.
4


- Do trình độ nhận thức không đồng đều, một số trẻ mới lần đầu tiên đến
lớp. Nên việc hình thành các thói quen, nế nếp rất vất vả, một số cháu nói chưa
rõ, còn nói ngọng. Ở nhóm lớp tôi phụ trách 10% số trẻ trong lớp chưa qua nhà
trẻ nên trẻ còn nhút nhát, không giao lưu với cô giáo và các bạn, không tích cực
tham gia các hoạt động.
- Một số phụ huynh bận công việc ít quan tâm chăm lo, trò chuyện với trẻ
và nghe trẻ nói để uốn nắn cho trẻ về ngôn ngữ.
- Môi trường cho trẻ hoạt động còn nghèo nàn, đồ dùng để phục vụ cho
hoạt động ngôn ngữ còn hạn chế: Chưa có đầy đủ tranh, ảnh, sa bàn, máy chiếu,
tivi, đầu đĩa...phục vụ cho các hoạt động phát triển ngôn ngữ.
- Phòng học đang có nguy cơ xuống cấp và không đủ ảnh hưởng đến việc
học của học sinh.
- Phần lớn phụ huynh chưa nhận thức được đầy đủ về tầm quan trọng của
việc học, họ đang xem nhẹ ngành học mầm non. Một số phụ huynh tuy cũng có
quan tâm tới việc học của trẻ, song phương pháp dạy trẻ chưa đúng phương
pháp vì vậy chưa tạo điều kiện để trẻ phát huy hết khả năng ngôn ngữ của mình.
b) Kết quả thực trạng ban đầu qua khảo sát
Đầu năm tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng ban đầu trên trẻ để nắm bắt
khả năng phát triển của trẻ từ đó có các phương pháp biện pháp phù hợp.
Kết quả khảo sát đầu năm như sau:
Kết quả khảo sát đầu năm
Số
Cháu đạt
Không đạt
T Nội dung

trẻ
Tốt
Khá
TB
Yếu
T khảo sát khảo
Số
Số
Số
Số
sát
Đạt
Đạt
Đạt
Đạt
trẻ
trẻ
trẻ
trẻ
Trẻ hứng
thú tham
1 gia hoạt
16
3 18%
3 18%
6 37%
4 25%
1 động phát
triển ngôn
ngữ

2 Số trẻ phát
16
2
12%
3 11,6% 4
25%
6
37%
2 âm rõ
Số trẻ
3
không nói
16
2
12%
2
12%
4
25%
8
50%
3
ngọng
Số trẻ phát
4
16
2
12%
2
12%

5
31%
7
43%
âm trọn câu
Số trẻ đặt
5 và trả lời
5 được câu
16
2
12% 2
12%
5
31% 7
43%
5 hỏi đơn
giản
5


Từ thực trạng trên, để có phương pháp dạy đúng và tạo hứng thú cho trẻ
phát triển ngôn ngữ, tôi đã áp dụng một số biện pháp sau :
2.3 Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề:
a) Tìm hiểu đặc điểm, tình hình phát triển nhận thức của trẻ:
Để giúp cho trẻ phát triển ngôn ngữ tốt thì trước hết giáo viên phải nắm
vững đặc điểm tâm, sinh lý và hoàn cảnh của trẻ. Vào đầu năm học tôi đã tổ
chức trò chuyện với phụ huynh và tìm hiểu hoàn cảnh sống của trẻ, tổ chức
nhiều cuộc trò chuyện với trẻ để nắm bắt được khả năng ngôn ngữ và khả năng
diễn đạt ngôn từ của trẻ.

Ví dụ:
- Tôi kể cho trẻ nghe vài câu chuyện ngắn tương đối dễ, sau đó đặt ra các
câu hỏi như:
+ Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện gì?
+ Trong câu chuyện có những ai? ..
- Hoặc cho trẻ kể về gia đình bé:…
+ Gia đình con có mấy người? Là những ai?
+ Bố con tên là gì? Mẹ con tên là gì? Anh (chị) con tên là gì?...
Trong quá trình đó tôi luôn chú ý quan sát đàm thoại với trẻ và tiến hành
khảo sát đặc điểm ngôn ngữ của trẻ, từ đó đề ra phương hướng giáo dục cho
từng các nhân và cho cả lớp một cách thích hợp.
Mặt khác, gia đình là một yếu tố rất quan trọng để giúp trẻ phát triển ngôn
ngữ. Từ những lời ru của bà, câu chuyện kể của ông, lời trò chuyện của cha mẹ,
anh chị là những bài học hiệu quả nhất để giáo dục trẻ, giúp trẻ phát triển hơn về
ngôn ngữ tiếng việt. Một số trẻ ở đây có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn thường ít
được quan tâm chăm sóc, nên khả năng phát triển ngôn ngữ của các cháu còn
gặp nhiều hạn chế….
Từ hoàn cảnh và đặc điểm tình hình nhận thức của trẻ, qua đó tôi có kế
hoạch giảng dạy và bồi dưỡng thích hợp cho trẻ.
b) Trò chuyện với trẻ :
- Tôi phải tích cực trò chuyện cùng trẻ ở mọi lúc mọi nơi, nhất là trong giờ
đón trẻ, trò chuyện sáng. Cô đặt ra các câu hỏi và yêu cầu trẻ lời các câu hỏi của
cô rõ ràng, rành mạch.
Ví dụ:
+ Sáng nay ai đưa con đi học? (Mẹ con ạ).
+ Mẹ con đưa con đi học bằng phương tiện gì? (Bằng xe máy a).
+ Con tên gì? Bố (mẹ) con tên là gì? Anh (chị) của con tên là gì?

6



- Cho trẻ được tiếp xúc và hoạt động với các đồ vật, chơi tự do tôi hỏi trẻ:
Ví dụ : Đây là cái gì? Chiếc ô tô này màu gì? Quả bóng này to hay nhỏ…
Hoặc “Đây là cái gì? Dùng để làm gì?
- Từ những hoạt động này cũng giúp trẻ mở rộng vốn từ, tôi thường xuyên
sửa phát âm sai cho trẻ, nhắc trẻ trả lời đúng câu, hình thành thói quen tư duy về
mọi việc diễn ra xung quanh trẻ một cách tự nhiên nhất.
Ví dụ: Trẻ quan sát vườn hoa ở trường rồi cho trẻ kể lại có những loại hoa
gì?

7


- Những lần sau tôi đã tích cực hóa lời nói của trẻ khi quan sát tôi đưa ra
các câu hỏi: Hoa gì màu đỏ có gai ? Hoa gì cánh dài mà có màu vàng?…
Đối với trẻ 3 tuổi biểu tượng của trẻ còn chưa đầy đủ, tôi luôn bổ sung câu
trả lời chưa đầy đủ cho trẻ. Những lúc trẻ lúng túng tôi đã gợi ý và giúp trẻ trả
lời cho chính xác. Ngoài ra ở mỗi chủ đề mới tôi đều tập trung khai thác ngôn
ngữ, hiểu biết của trẻ qua trò chuyện và đàm thoại về nội dung chính của chủ đề.
c) Tổ chức cho cho trẻ chơi theo từng nhóm
Chơi là mọi hoạt động cần thiết cho mọi lứa tuổi nhưng với trẻ thì chính là
cuộc sống thực của chúng. Vui chơi có tầm quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến sự
hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Đặc biệt ở tuổi mẫu giáo nói chung và lứa tuổi 3-4 tuổi nói riêng trò chơi
đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo. Nó là
phương tiện phát triển tư duy là công cụ của hoạt động trí tuệ. Với tầm quan
trọng trong quá trình hình thành và phát triển ngôn ngữ của trẻ. Song thực tế
hiện nay trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non chưa có nhiều trò
chơi đặc biệt là trò chơi học tập để phát triển ngôn ngữ còn rất nhiều khó khăn.
Chính vì vậy tôi đã sử dụng một số trò chơi vận động, trò chơi đóng vai, trò chơi

học tập, trò chơi dân gian để tổ chức cho trẻ chơi.
Tôi cho trẻ tham gia chơi cùng bạn bè trong lớp theo từng nhóm nhỏ.
Thông qua hoạt động ở các góc chơi và khi trẻ chơi tự do. Đây là cơ hội cho trẻ
được trò chuyện với các bạn và phát triển khả năng giao tiếp của trẻ, trẻ sớm học
được cách truyền tải, suy nghĩ, cảm giác thành lời khi chơi với đồ chơi.
Ví dụ: Tôi cho trẻ chơi ru em. Mỗi nhóm ngồi 3 - 5 trẻ, mỗi trẻ ôm 1 con
búp bê, tôi nói trẻ: Ru em à ơi và lắc lư người, từ đó cũng làm cho trẻ gia tăng trí
tưởng tượng và nâng cao khả năng giao tiếp với mọi người xung quanh.
- Cho trẻ chơi các trò chơi dân gian theo từng nhóm như: Trò chơi “Chi chi
chành chành”, “Nu na nu nống”, “ Rồng rắn lên mây”... trẻ vừa chơi vừa làm
động tác vừa đọc lời của trò chơi.
- Trò chơi “ Nu na nu nống” cho một nhóm 4 – 5 trẻ ngồi xúm vòng tròn
và kết hợp đọc lời trò chơi:
“Nu na nu nống
Đánh trống phất cờ
Mở hội thi đua
Chân ai sạch sẽ
Gót đỏ hồng hào
Được vào đánh trống.”
...

8


- Tương tự như vậy với các trò chơi khác.
Khi trẻ tham gia các trò chơi như vật sẽ giúp trẻ được đọc và làm quen với
ngôn từ nhiều hơn, trẻ cũng vui vẽ, thoái mái và tự tin hòa đồng cùng bạn bè
hơn. Hay trong trò chơi xếp hình, xâu hạt. Tôi cũng tổ chức cho từng nhóm trẻ
ngồi cùng nhau thường xuyên để trẻ được hoạt động với đồ vật để trẻ phát triển
tư duy ngôn ngữ và trẻ có thói quen sử dụng các trò chơi.

Việc sử dụng trò chơi vào để phát triển ngôn ngữ cho trẻ rất có hiệu quả
(đặc biệt là lứa tuổi 3 - 4 tuổi) bởi qua trò chơi trẻ được vận dụng, được nói
nhiều từ ngữ vì thế đã có tác dụng tích cực đến trẻ về cả 3 mặt: khối lượng ngôn
ngữ, khả năng sử dụng chính xác ngôn ngữ, khả năng vận dụng ngôn ngữ.
d) Sử dụng tranh ảnh thông qua các hoạt động để giúp trẻ phát triển
ngôn ngữ:
Như chúng ta đã biết tranh ảnh là loại đồ dùng trực quan không thể thiếu
được trong giảng dạy. Thông qua các loại tranh ảnh mà trẻ sẽ được quan sát, tri
giác các sự vật và hiện tượng một cách đầy đủ nhất. Vì vậy trong các tiết dạy tôi
đã đưa ra các bức tranh có các nhân vật, sự vật, hiện tượng thể hiện được nội
dung chủ đề. Tôi hướng dẫn trẻ quan sát một cách chi tiết những nội dung thể
hiện trong tranh, trẻ rất hứng thú quan sát và từ đó hình thành kỹ năng cho trẻ.
Trẻ không chỉ nhắc lời nói của cô giáo mà trẻ thể hiện sự hiểu biết của mình qua
lời nói của trẻ.
Ví dụ: Khi đưa bức tranh về đàn gà trong chủ đề “ Động vật” tôi hỏi trẻ:
+ Các con ơi! Bước tranh này vẽ gì?
+ Ai có nhận xét gì về bức tranh đàn gà này?( Gà mẹ thì to, gà con thì
nhỏ...)
+ Gà mẹ có bộ lông màu gì?...
- Những giờ trả trẻ tôi thường đọc sách, truyện có tranh minh họa, trẻ rất
thích thú và luôn miệng hỏi về những nhân vật trẻ nhìn thấy trong tranh.
9


e) Sử dụng đồ dùng, đồ chơi trong mọi hoạt đông để phát triển ngôn
ngữ cho trẻ:
Các đồ dùng đồ chơi trong lớp như: Búp bê, ô tô, các con vật, các hình
khối... đều có những ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển của trẻ. Nó làm phong
phú những biểu tượng đạo đức, lời nói giữa cô và trẻ, làm tích cực hóa vốn từ
cho trẻ.

Ví dụ: Trong hoạt động khám phá khoa học: “Đồ dùng của bé” tôi thấy trẻ
tham gia hoạt động học một cách tích cực. Tôi sử dụng các câu hỏi đàm thoại:
+ Khi đi học con mang theo những gì?
+ Khi nắng bé phải đội gì?
+ Bé dùng gì để rửa mặt?
Qua đó các chuẩn mực hành vi và thói quen tự phục vụ cho trẻ cũng được
hình thành.
- Tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi tự lập để phát triển lời nói
- Tôi đã hướng dẫn trẻ cách chơi, các kĩ năng cơ bản, trong quá trình chơi
trẻ đã được phát âm nhiều lần các từ khác nhau
Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen với chủ đề “Động vật” Tôi cho trẻ quan sát các con
vật ở trên máy vi tính, các con vật này đang hoạt động đúng với bản chất của
chúng.
+ Như hình ảnh con mèo đang ngồi rình bắt chuột.Tôi hỏi trẻ:
“Đây là con gì?”. Trẻ trả lời: “Đây là con mèo”
“Con mèo đang làm gì?”. Trẻ trả lời: “Con mèo đang rình chuột”
“Con mèo kêu như thế nào?”. “Con mèo đang kêu meo...meo”
+ Hay cho trẻ quan sát hình ảnh con thỏ đang ăn cà rốt. Tôi hỏi trẻ:
“Đây là con gì?” Trẻ trả lời: “Đây là con thỏ”
“Con thỏ như thế nào? Tai làm sao? Mắt làm sao? Thỏ đang ăn gì?
+ Ngoài các con trên con còn biết thêm con vật gì nữa nào? (Cho trẻ tự kể
theo hiểu biết của trẻ)
Tương tự với các chủ đề khác tôi cũng thực hiện cho trẻ được quan sát như
trên, đồng thời tôi kết hợp với các câu hỏi gợi mở cho trẻ trả lời, nếu trẻ chưa
biết tôi sẽ nhắc cho trẻ để trẻ nhắc theo.
g) Phát triển ngôn ngữ thông qua 1 số hoạt động (hoạt động học, hoạt
động góc, hoạt đông ngoài trời...):
Như chúng ta đã biết trẻ chính là trung tâm của quá trình giáo dục. Giáo
dục phát triển ngôn ngữ được tích hợp với các hoạt động giáo dục khác và được
tích hợp theo chủ đề.

 Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động học:
Bản thân tôi luôn nắm chắc phương pháp dạy các môn học, tôi luôn tham
khảo thêm nhiều tài liệu và nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy, chuẩn bị ngôn ngữ
để giao tiếp với học sinh và soạn giáo án trước khi lên lớp một cách khoa học có
lôgic, biết kết hợp giữa đồ dùng trực quan, tranh ảnh, vật thật có màu sắc đẹp,
chất liệu bền, an toàn với các cử chỉ âu yếm gần gũi, lời nói nhẹ nhàng, phát âm
chuẩn, chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu sát thực với nội dung của từng bài, từng tiết
học.
10


Khi lên lớp tôi luôn tìm các thủ thuật để gây hứng thú cho học sinh như:
Câu đố, bài hát, bài thơ, câu chuyện ngắn hay trò chơi gây hứng thú để lôi cuốn
trẻ vào giờ học. Như vậy trẻ tiếp thu bài thoải mái, nhẹ nhàng hơn.
Đặc biệt tôi luôn chú trọng hơn tới giờ học: Phát triển nhận thức và phát
triển ngôn ngữ. Ở các giờ học này chính là cơ hội cho tôi tổ chức cho trẻ làm
quen với với ngôn ngữ tốt nhất.
Ví dụ: Đối với chủ đề “ Giao thông” Lĩnh vực: Phát triển nhận thức:
Đề tài: Tìm hiểu các loại phương tiện giao thông đường bộ.
- Tôi tổ chức cho trẻ vừa hát vừa làm các phương tiện giao thông theo
nhạc:
Ô tô kêu píp píp.
Tàu hỏa kêu tu tu.
Xe đạp kêu kín coong
Xe máy dìn dìn.
- Cho cho trẻ quan sát và đàm thoại:
Tổ chức cho trẻ xem băng hình về các loại phương tiện giao thông đường
bộ.
Các con vừa xem và thấy những phương tiện giao thông gì? (Cho trẻ kể
theo hiểu biết của trẻ).

*Xe đạp:
Đây là xe gì?
+ Cho cả lớp nhắc lại từ “ Xe đạp ” và gọi 4 – 5 trẻ nhắc lại.
+ Ai có nhận xét gì về xe đạp?
+ Xe đạp có mấy bánh?
+ Chuông xe đạp kêu như thế nào? Cho trẻ bắt trước tiêng còi)
*Xe máy:
+ Bạn nào còn biết loại xe nào có 2 bánh nữa
+ Xe máy dùng để làm gì?
+ Xe máy chở được nhiều người hay ít người
*Xe ô tô:
+ Đố các con biết xe gì 4 bánh/ chạy bon bon/ máy nổ giòn/ kêu píp píp.
+ Cô cho trẻ quan sát chiếc ô tô đồ chơi và hỏi trẻ:
+ Ai có nhận xét gì về ô tô?
+ Ô tô chở được nhiều người hay ít người?
+ Ô tô chạy ở đâu?
*Tàu hỏa:
+ Các con nghe xem đây là tiếng kêu của phương tiện giao thông nào?
+ Tu tu xình xịch... Tu tu xình xịch
+ Cho trẻ nhắc lại “ Tàu hỏa” 3 lần. Gọi 1 số cá nhân trẻ nhắc lại
+ Chúng mình cùng làm tiếng kêu của tàu hỏa nào!
+ Ai có nhận xét gì về tàu hỏa?
+ Tàu hỏa chạy ở đâu?
=>Cuối cùng cô khái quát lại và giáo dục trẻ. Tổ chức cho trẻ chơi lô tô các
phương tiện giao thông. Trẻ lấy lô tô và gọi tên theo yêu cầu của cô.
11


Thông qua tiết học bằng hệ thống câu hỏi của cô trẻ có thể mạnh dạn trả lời
cô theo hiểu biết của mình. Kết hợp với sự nhấn mạnh của cô ở những câu trả lời

khó để trẻ được nhắc lại theo cô. Từ việc được quan sát, lắng nghe, được trả lời
cô trẻ sẽ làm giàu thêm vốn từ, ngôn ngữ cho mình.
- Hay ở hoạt động làm quen với các tác phẩm văn học: kể chuyện, đọc thơ,
đồng dao, ca dao, tục ngữ. Tôi luôn lựa chọn các bài thơ, bài đồng dao ngắn, có
nhịp điệu sôi động, giai điệu sảng khoái, trẻ có thể kết hợp vừa đọc vừa vận
động theo vần điệu, nhịp điệu của các bài thơ; những bài đồng dao, ca dao nhẹ
nhàng, vui vẻ.
+ Trong các tiết kể chuyện tôi luôn chọn những câu truyện có nội dung vui
nhộn, hồi hộp, có các từ được lặp đi lặp lại nhiều lần và có ngữ điệu biểu cảm.
+ Khi đọc và dạy trẻ các bài đồng dao, tôi vừa đọc, vừa kết hợp với cử
động của cơ thể, sao cho phù hợp giữa lời với nhịp điệu vận động.
+ Để giúp trẻ cảm thụ tốt ngôn ngữ của thơ. Tôi phải đọc thơ thật diễn
cảm, thể hiện được nhịp điệu, âm điệu và sắc thái của bài thơ.Trò chuyện với trẻ
về nội dung của bài thơ, giải thích nghĩa của 1 số từ, ý của các câu thơ, vẽ đẹp
mà các câu thơ miêu tả...Kết hợp xem tranh minh họa hoặc quan sát thiên nhiên
hoặc làm các động tác minh họa. Trẻ được nghe nhiều lần, được đọc thơ theo
các nhân, theo nhóm. Luyện tập cho trẻ cách đọc diễn cảm.
Ví dụ: Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học: Kể chuyện: “Bác Gấu
đen và hai chú Thỏ”
Trước khi dạy trẻ tôi phải học thuộc truyện và nội dung của truyện, tập kể
diễn cảm.
Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng minh họa sử dụng khi kể. Sưu tầm tranh ảnh,
các bài thơ, bài hát có nội dung gần gủi với nội dung chuyện kể để tích hợp.
Bước 1: Khơi gợi hứng thú của trẻ đến với truyện và nghe cô kể chuyện.
- Cho trẻ hát bài hát “Đi dạo”
“Đi chơi đi chơi nào các bạn ơi
Cùng đi chơi nhé dạo quanh sân trường...”
- Cho trẻ ngắm bức tranh có Bác Gấu đen và 2 chú thỏ, có chữ to ở dưới.
- Cô hỏi trẻ bức tranh vẽ gì? Cô đọc từ ở dưới tranh cho trẻ nghe và đọc
theo.

- Cô kể chuyện diễn cảm, khi kể nên thay đổi giọng để phù hợp với tính
cách, tâm trạng của nhân vật, cho trẻ xem tranh minh họa, con rối, mô hình...
Bước 2: Trò chuyện đàm thoại:
- Cô vừa kể xong câu chuyện gì?
- Trong chuyện có những ai?
- Vì sao Thỏ Nâu không mở cửa cho Bác Gấu vào?
- Ai đã cho Bác Gấu vào trú mưa nhờ?
- Nếu là con gặp Bác Gấu như vậy con sẽ làm gì để giúp Bác Gấu?
- Các con yêu bạn thỏ nào? Vì sao?
Bước 3: Tập cho trẻ kể chuyện:
- Tôi kể lại chuyện cho trẻ nghe (có minh họa)
- Trẻ nhắc lại các câu nói trong truyện. chú ý đến giọng diệu, cử chỉ, thái
độ của từng nhân vật.
12


- Cho trẻ xem tranh truyện và cô kể đoạn đầu để trẻ tiếp theo cô
Bước 4: Chơi đóng kịch
- Tôi sử dụng trang phục (hoặc rối)
- Phân công trẻ đóng vai, mỗi vai là 1 trẻ đóng. Cho trẻ tập các cử chỉ, điệu
bộ, thái độ của từng nhân vật. Tôi cho trẻ lần lượt tập đóng kịch theo nhóm và
tôi sẽ làm người dẫn truyện cho trẻ.
Bước 4: Đọc sách truyện Bác Gấu đen và hai chú Thỏ
- Tôi ngồi ngang hàng cùng với 2 – 3 trẻ. Cho trẻ xem sách, xem tranh vẽ
và đoán tên truyện. sau đó đưa sách cho trẻ xem để trẻ tự “đọc” truyện.
Trong quá trình dạy trẻ học tôi chú ý sửa sai câu từ cho trẻ khi trẻ trả lời
câu hỏi hoặc phát âm từ, luôn giao lưu gần gủi quan tâm trẻ, nhìn vào mắt trẻ
khi trò chuyện với trẻ, động viên khích lệ trẻ kịp thời để trẻ tự tin mạnh dạn
trong giao tiếp.
 Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời:

Khi cho trẻ hoạt động ngoài trời tôi luôn tìm những phương pháp quan
sát, trò chuyện... chú trọng đến việc phát triển vốn từ của trẻ, trẻ được quan sát,
trò chuyện về sự vật, hiện tượng trong thiên nhiên, trò chuyện về các con vật,
cây cối trong sân trường, tôi dùng các câu hỏi kích thích tư duy của trẻ như:
Ví dụ:
- Các con đang quan sát gì vậy?
- Đây là cây gì? Cây có lá mầu gì? Quả của nó như thế nào?
- Hôm nay các con thấy thời tiết thế nào?
Hoặc: Cho trẻ quan sát con cá và nhận xét về màu sắc, hình dạng, tên gọi.
Chẳng hạn cô hỏi: Đây là con gì? Nó đang làm gì? (Bơi, lặn, đớp mồi, ngoi
lên mặt nước...). nó có màu gì? (nếu màu sắc rõ nét).
+ Cô gợi hỏi để trẻ quan sát và gọi tên các bộ phận của cá (như: vẩy, mang,
vây, đuôi cá...) nhận ra một vài đặc điểm khác khi cá thở, bơi, và đoán xem vây
và đuôi cá để làm gì?
+ Cho trẻ biết tên gọi của một vài loại cá khác nhau và mô tả đặc điểm
riêng biệt của mỗi loại cá đó.
+ Cho trẻ nghe đọc thơ (hoặc bài hát) hoặc đọc bài thơ (hoặc hát) về con cá,
như bài thơ: “Con cá vàng” hay bài hát “Cá vàng bơi”
Từ các hoạt động ngoài trời mà tôi giúp trẻ thêm hiểu biết, nghe, nói, trả
lời được các câu hỏi của cô, vốn từ, ngôn ngữ của trẻ phát triển đáng kể.
 Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động góc:
Khi trẻ tham gia hoạt động góc chính là trẻ được hoạt động theo nhóm.
Đây là cơ hội tốt để trẻ được trò chuyện, trao đổi ý tưởng, sáng kiến với bạn bè.
Trong quá trình chơi ở các góc chơi trẻ sẽ nảy sinh ra các tình huống buộc trẻ
phải sử dụng ngôn ngữ vốn từ có sẵn của mình để trao đổi với bạn bè, trẻ được
giao lưu, giao tiếp với bạn bè nhiều hơn.
Ví dụ: Ở góc phân vai: Đóng vai cô giáo đang dạy học
Một nhóm 5 – 6 trẻ chơi. Một trẻ làm cô giáo, các trẻ khác làm học sinh.
Trẻ sẽ bắt chước ngôn ngữ hàng ngày của cô giáo để thể hiện cho vai diễn
của mình.

13


Tôi sẽ chú ý đến ngôn ngữ của trẻ, nếu trẻ nói sai hay gặp khó khăn trong
ngôn từ tôi sẽ nhanh chóng sữa sai cho trẻ ngay. Và đối với các góc chơi khác
cũng vậy.
h) Dạy cho trẻ phát triển ngôn ngữ ở mọi lúc, mọi nơi:
- Để phát triển tốt ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện, tôi luôn chú trọng
dạy trẻ trong các giờ hoạt động khác như: Làm quen với tiếng viết (Dạy trẻ phát
âm các từ Tiếng việt, trẻ nghe, hiểu và trả lời được các câu hỏi của cô) Trong giờ
ăn (Nhắc trẻ mời cô giáo, mời các bạn trước khi ăn), Đến lớp phải biết chào cô
giáo, chào các bạn, tạm biệt bố (mẹ). Khi ra về phải biết chào tạm biệt cô và các
bạn. Khi trẻ chơi với bạn có lỗi với bạn phải biết xin lỗi, biết nói lời cảm ơn khi
được giúp đỡ. Đặc biệt tôi phải thường xuyên nhắc nhỡ trẻ biết lễ phép, kính
trọng người lớn thông qua ngôn ngữ giao tiếp. Khi nói nói đầy đủ câu từ, đúng
ngữ pháp.
Ví dụ: Khi đến lớp trẻ phải khoanh tay và chào cô: “Cháu chào cô ạ” Khi
trẻ được bố mẹ đón về trẻ chào tạm biệt cô: “ Cháu chào cô, cháu về ạ”
Hoặc trước khi ăn trẻ phải biết mời cô và các bạn: “Cháu mời cô mời cơm
ạ. Tôi mời các bạn mời cơm với tôi”...
- Khi tham gia các hoạt động trong ngày cùng với trẻ tôi đặt câu hỏi để trẻ
được gọi tên các đồ vật, đồ chơi xung quanh, tên bố mẹ, tên cô giáo, tên các bạn,
nhà cháu ở đâu? Cây gì đây? Đây là con gì? Kêu như thế nào? Hoặc chim bay ở
đâu?...Khi trẻ đang chơi với bạn tôi hỏi: Cháu đang chơi với bạn gì? Hoặc khi
chơi với đồ chơi tôi hỏi cháu đang chơi với đồ chơi gì?...Từ đó giúp trẻ phát
triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc, rõ ràng.
- Ở lứa độ tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói
những câu không có nghĩa. Vì vậy bản thân tôi thường xuyên nhắc nhở trẻ hoặc
nói mẫu cho trẻ nghe, động viên khuyến khích trẻ nhắc lại. Tôi luôn tạo điều
kiện đáp ứng mọi câu hỏi của trẻ một cách tỉ mỉ, chu đáo, ngắn gọn, dễ hiểu.

14


i) Phối kết hợp với cha mẹ và người chăm sóc trẻ:
Để việc giáo dục phát triển ngôn ngữ của trẻ đem lại hiệu quả tốt, công tác
phối hợp với cha mẹ và người chăm sóc trẻ đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Qua những lúc đón, trả trẻ, những buổi họp phụ huynh, tôi luôn trao đổi với cha
mẹ và người chăm sóc trẻ về tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho
trẻ. Từ đó cha mẹ và người chăm sóc trẻ hiểu được ý nghĩa của môn hchawmcha
mẹ và người chăm sóc trẻ sẽ tạo mọi điều kiện tốt nhất nhằm bồi dưỡng thêm
cho trẻ ở nhà. Ở góc tuyên truyền “Những điều cha mẹ cần biết”, tôi dành riêng
một mảng để tuyên truyền với cha mẹ và người chăm sóc trẻ những nội dung
của giờ học. Trao đổi về đặc điểm ngôn ngữ của trẻ, những bài thơ, câu chuyện
trong chủ đề, chủ điểm với phụ huynh. Để giúp trẻ phát triển tốt hơn nữa, tôi đã
vận độchawcha mẹ và người chăm sóc trẻ mua thêm sách báo, truyện tranh đọc
cho trẻ nghe ở nhà, thường xuyên trò chuyện với trẻ, tập cho trẻ kể chuyện, đọc
thơ, đóng kịch để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc được tốt hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
a) Kết quả đạt được:
Từ khi áp dụng các biện pháp trên đến nay tôi đã thu được một số kết quả
như sau:
*Đối với trẻ:
Với kinh nghiệm của bản thân và những kiến thức được trang bị trong quá
trình công tác tôi đã áp dụng những biện pháp trên vào quá trình phát triển ngôn
ngữ cho trẻ. Tuy chỉ là những biện pháp có được từ cá nhân tôi, dựa vào tình
hình của trẻ lớp tôi chủ nhiệm tôi thấy các cháu lớp tôi cũng có nhiều chuyển
biến rõ rệt:
Trên 80% trẻ đã nói trọn câu: VD“ Cô ăn cơm – Con mời cô mời cơm” Và
nói rõ ràng, không nói ngọng, không nói lắp, có nhiều cháu trả lời lưu loát và

trọn ý, trọn câu. Các cháu đọc thơ đã hay hơn. Các giờ âm nhạc cháu đã hát
được đúng giai điệu, rõ lời và nhịp nhàng
Trong giao tiếp với cô trẻ đã trả lời rõ nghĩa. Khi tham gia các trò chơi tập
thể trẻ trò chuyện với bạn rất vui. Trẻ có yêu cầu gì trẻ đều thể hiện qua lời nói
rất rõ ràng.
Kết quả khảo sát cuối năm như sau:
Kết quả khảo sát cuối năm
Không
Số
Cháu đạt
đạt
T
Nội dung
trẻ
Tốt
Khá
TB
Yếu
T
khảo sát
khảo
sát Số
Số
Số
Số
Đạt
%
%
%
trẻ

trẻ
trẻ
trẻ
Trẻ hứng thú
tham
gia
1
hoạt
động 16
7
43%
5
31%
4
25%
0
0
1
phát
triển
ngôn ngữ
15


2 Số trẻ phát
2 âm rõ ràng
3 Số trẻ không
3 nói ngọng
Số trẻ phát
4

âm trọn câu
Số trẻ đặt và
5
trả lời được
5
các câu hỏi
5
đơn giản

16

8

50%

6

31%

2

12%

2

12%

16

7


43%

8

50%

1

6%

0

0

16

10

62%

4

25%

2

12%

0


0

16

10

62%

5

31%

1

6%

0

0

So sánh kết quả khảo sát trước và sau khi có biện pháp thực hiện:

Nội dung

Trước khi
chưa có biện
pháp thực
hiện


Sau khi có
biện pháp
thực hiện

So sánh kết
quả với nhau

Trẻ không hứng thú tham
gia hoạt động phát triển
ngôn ngữ.

8/16

Không

Giảm: 100%

Số trẻ phát âm chưa rõ

7/16

2/16

Giảm 50%

Số trẻ nói còn ngọng

8/16

1/16


Giảm 23%

Số trẻ phát âm chưa trọn câu

10/16

Không

Giảm: 100%

Số không biết trẻ đặt và trả
lời được các câu hỏi đơn
10/16
Không
Giảm: 100%
giản
* Đối với giáo viên:
Giáo viên đã nắm chắc phương pháp, tự tin, linh hoạt hơn trong các tiết
dạy. Bản thân cũng đã biết lập kế hoạch thực hiện phù hợp với nhóm tuổi mình
phụ trách, nắm vững được đặc điểm tâm lý, tình hình của từng trẻ để từ đó đưa
ra những biện pháp có phương hướng giáo dục trẻ thích hợp hơn.
* Đối với cha mẹ và người chăm sóc trẻ:
Từ những kết quả đạt được trên, bản thân tôi đã tạo được lòng tin với cha
mẹ và người chăm sóc trẻ, làm cho cha mẹ và người chăm sóc trẻ càng tin
tưởng, yên tâm đưa con đến trường. Qua đó bản thân cũng đã nâng cao nhận
thức cchawcha mẹ và người chăm sóc trẻ về việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc
cho trẻ là rất cần thiếchawCha mẹ và người chăm sóc trẻ rất quan tâm, phấn
khởi, thường xuyên chăm lo, trao đổi hỏi thăm học lực của con mình. Tôi cảm
thấy rất vui mừng và các bậc cha mẹ và người chăm sóc trẻ cũng tỏ ra hài lòng

và mến phục.
b) Bài học kinh nghiệm:
Từ việc áp dụng các biện pháp trên vào giảng dạy đạt kết quả tôi rút ra một
số bài học kinh nghiệm sau:
- Phải nắm vững đặc điểm tâm lý trẻ, để có phương pháp đúng cho từng trẻ.
16


- Giáo viên cần nâng cao trình độ ngôn ngữ của mình, coi ngôn ngữ là
phương tiện giáo dục chủ đạo.
- Giáo viên cần phải nắm chắc phương pháp, khả năng nhận thức của trẻ.
- Nghiên cứu, tìm tòi vận dụng các phương pháp hữu hiệu vào hoạt động
phát triển ngôn ngữ để đạt được kết quả cao trong dạy trẻ.
- Nghiên cứu kỹ đối tượng trẻ của lớp mình giảng dạy và tâm sinh lý cũng
như khả năng phát triển ngôn ngữ riêng của từng trẻ
- Giáo viên phải thực sự thương yêu và tôn trọng trẻ, phải biết kiềm chế,
kiên trì nhẫn nại, lấy tình cảm làm yếu tố quan trọng nhất để giáo dục trẻ.
- Phải gần gũi thân thiện và nhiệt tình trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
- Giáo viên phải sưu tầm tranh ảnh, các đồ dùng, đồ chơi đẹp, đảm bảo tính
thẫm mỹ và khoa học, thu hút trẻ vào tiết học.
- Cô giáo là người gần gũi trẻ nhất, tiếp xúc với trẻ nhiều nhất phải luôn
phát âm chuẩn, nói chuẩn phải uốn nắn trẻ để trẻ phát âm chính xác.
- Phối hợp với phụ huynh để động viên giáo dục trẻ thực hiện tốt yêu cầu
cần đạt của giáo viên
3.Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận :
Ngôn ngữ đóng một vai trò rất quan trọng, sự chậm trễ về ngôn ngữ ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Cho nên việc phát triển ngôn ngữ
cho trẻ đúng lúc và phù hợp với từng lứa tuổi là điều hết sức cần thiết.
Phát triển ngôn ngữ mạch lạc là cái đích cuối cùng của việc phát triển ngôn

ngữ cho trẻ. Đây là việc làm không phải dễ nhưng đầy lý thú. Vì vậy để trẻ đạt
hiệu quả cao thì giáo viên cần tổ chức hoạt động này một cách khéo léo, nhằm
phát triển tư duy, trí tưởng tượng cũng như năng lực sử dụng ngôn ngữ cho trẻ.
Dạy trẻ phát triển ngôn ngữ cũng là dạy trẻ biết giao tiếp, cũng là dạy trẻ
học làm người. Không chỉ về ngôn từ, cấu trúc câu mà cả học về cái tâm, cái
tình, cái hồn, hay nói cách khác là học giá trị của người đó. Với trẻ thơ thì đây
là sự khởi đầu nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình hình
thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Vì vậy khi gần trẻ người lớn phải có ý
thức nói năng mẫu mực, không nói lắp, nói ngọng hay nhái giọng, lời nói phải
có văn hóa, lịch thiệp để làm gương cho trẻ noi theo. Từ thực tế lớp tôi phụ
trách với những khó khăn mà bản thân tôi gặp phải, tôi đưa ra những biện pháp
nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho
trẻ.
Mong rằng những biện pháp này sẻ áp dụng hiệu quả hơn khi được các cấp
lãnh đạo, các đồng nghiệp góp ý, bổ sung thêm và tích cực đổi mới trong quá
trình vận dụng để giúp trẻ phát triển toàn diện đáp ứng với yêu cầu giáo dục
trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Kiến nghị
* Đối với nhà trường:
- Ban giám hiệu nhà trường nên tổ chức thêm hội nghị phụ huynh để tuyên
truyền vận động, nắm bắt tình hình của trẻ: về đặc điểm tâm lí, về khả năng ngôn
ngữ, nhận thức...của trẻ từ đó phối kết hợp giáo dục trẻ một cách phù hợp nhất.
17


- Ban giám hiệu nhà trường tham mưu với lãnh đạo địa phương tạo điều
kiện về cơ sở vật chất để trẻ có môi trường hoạt động, phát triển tốt nhất.
- Tạo điều kiện giúp đỡ giáo viên trong việc làm đồ dùng dạy học cho trẻ.
Sắp xếp tạo điều kiện cho giáo viên được thường xuyên dự giờ để trao đổi kinh
nghiệm lẫn nhau và đi dự các tiết mẫu do phòng tổ chức.

*Đối với phòng giáo dục:
- Thường xuyên tổ chức tập huấn cho giáo viên, tìm hiểu năng cao kiến
thức, kĩ năng về các phương pháp hướng dẫn trẻ phát triển tốt ngôn ngữ. đồng
thời tổ chức các hoạt động mẫu để học hỏi đồng nghiệp, rút ra kinh nghiệm lẫn
nhau từ đó có phương pháp giáo dục tối ưu nhất, đạt hiệu quả cao nhất.
- Mong các cấp lãnh đạo tăng cường đầu tư thêm về cơ sở vật chất, trang
thiết bị, đồ đùng dạy học cho trường mầm non Na Mèo.
Trên đây là một số kinh nghiệm được rút ra trong quá trình học tập và công
tác của bản thân tôi. Tôi xin mạnh dạn trình bày với các bạn đồng nghiệp mong
được sự đóng góp của các đồng chí giáo viên cùng hội đồng cán bộ ngành. Để
từ đó bản thân tôi rút ra được các kinh nghiệm sâu sắc hơn khi tổ chức cho trẻ
phát triển ngôn ngữ đạt kết quả tốt.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Quan Sơn, ngày 14 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác
( Ký và ghi rõ họ tên)

Phạm Thị Cảnh

18



×