SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ
25-36 THÁNG Ở TRƯỜNG MẦM NON XUÂN DƯƠNG
HUYỆN THƯỜNG XUÂN
Người thực hiện: Trần Thị Phương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Xuân Dương
Sáng kiến kinh nghiệm thuộc lĩnh vực: Chuyên môn
THANH HÓA, NĂM 2017
MỤC LỤC
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
CÁC PHẦN CHÍNH CỦA SKKN
Mục lục
1. Mở đầu.
1.1.Lý do chọn đề tài.
1.2.Mục đích nghiên cứu.
1.3.Đối tượng nghiên cứu.
1.4.Phương pháp nghiên cứu.
2. Nội dung.
2.1. Cơ sở lý luận.
2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến.
2.3. Các biện pháp thực hiện.
2.4. Hiệu quả đạt được sau khi tổ chức và thực hiện các
biện pháp
3. Kết luận, kiến nghị.
Kết luận.
Kiến nghị.
Tài liệu tham khảo
SỐ
TRANG
1
1
2
2
2
2
2
4
5
14
15
15
15
16
1. Mở đầu.
1.1. Lý do chọn đề tài.
Ngôn ngữ giữ vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống con người, vì bản
chất con người là tổng hòa của quan hệ xã hội. Con người muốn tồn tại thì phải
gắn bó với cộng đồng và ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, ngôn ngữ là phương
tiện nhận thức thế giới xung quanh, là cơ sở của mọi sự suy nghĩ, là công cụ của
tư duy.
Trẻ em sinh ra đầu tiên là những cơ thể sinh học, nhờ có ngôn ngữ là
phương tiện giao lưu, bằng hoạt động tích cực của mình dưới sự giáo dục và dạy
học của người lớn trẻ em dần chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử - xã
hội của loài người và biến nó thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngôn
ngữ sẽ trở thành những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người
xây dựng xã hội ngày càng phát triển hơn.
Trong thực tế, qua nhiều năm làm giáo viên chủ nhiệm, hàng ngày được
tiếp xúc với trẻ, tôi nhận thấy việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là việc làm đầu
tiên rất cần thiết đối với trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự
hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện giữ gìn bảo
tồn, truyền đạt và phát triển những kinh nghiệm lịch sử và phát triển xã hội của
loài người.
Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy, là công cụ hoạt động trí tuệ
và là phương tiện để giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Như vậy ngôn ngữ có
vai trò to lớn đối với xã hội và đối với con người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ
một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách trẻ, ngôn ngữ đóng vai trò
vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế
giới xung quanh. Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu khám phá và nhân thức về môi
trường xung quanh. Đặc biệt thông qua các môn học sẽ giúp ích cho ngôn ngữ
của trẻ 25 – 36 tháng phát triển tốt.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 25 – 36 tháng tuổi nói riêng, trẻ rất
nhạy cảm với nghệ thuật ngôn từ. Âm điệu, hình tượng của các bài hát ru, ca
dao…. rất dễ đi vào lòng trẻ. Những câu truyện cổ tích, thần thoại đặc biệt hấp
dẫn trẻ. Đặc biệt là hoạt động kể chuyện, đọc thơ..... cho trẻ nghe qua hoạt động
có chủ định là con đường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất, hiệu quả nhất.
Thông qua các môn học giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, óc tưởng tượng
sáng tạo, biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ được nghe cô phát âm,
phát âm cùng qua các tiết học giúp trẻ mở rộng vốn từ. ngôn ngữ của trẻ phát
triển. Qua đó làm phong phú thêm vốn từ cho trẻ, trẻ biết trình bày ý kiến, suy
nghĩ, kể về một sự vật hay sự kiện nào bằng chính ngôn ngữ của mình.
Là một cô giáo đang trực tiếp giảng dạy trẻ 25 – 36 tháng tôi luôn có những
suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy các con phát âm đúng, rõ ràng, chính xác Tiếng
Việt. Vì thế tôi đã dạy trẻ thông qua các môn học và dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi
1
qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện
tượng, về thế giới xung quanh trẻ, phát triển tư duy. Tôi thấy mình cần phải đi
sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để từ đó rút ra nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với
yêu cầu phát triển của lứa tuổi nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ
đối với chương trình giáo dục mầm non hiện nay.
Trong năm học 2016 – 2017 này Tôi được nhà trường giao phụ trách nhóm
lớp 25 – 36 tháng tuổi. Tôi nhận thấy việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 – 36
tháng tuổi là vô cùng cần thiết. Từ đó tôi đã đi sâu nghiên cứu và lựa chọn đề tài
“Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 – 36 tháng” làm đề tài
nghiên cứu của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Xuất phát từ nhu cầu cần thiết của trẻ tôi đã tiến hành tổ chức, hướng dẫn
trẻ giúp trẻ 25 – 36 tháng phát triển ngôn ngữ.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ nói riêng việc dạy cho trẻ
phát triển ngôn ngữ là cần thiết giúp cho trẻ bước đầu có ý thức trong việc phát
âm và giao tiếp hằng ngày.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Năm học: 2016 – 2017 tôi được phân công phụ trách nhóm trẻ 25 – 36 tháng
tuổi khu Xuân Thịnh tại trường mầm non Xuân Dương huyện Thường Xuân.
Đối tượng: Trẻ nhà trẻ 25 – 36 tháng
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc các giáo trình có liên quan đến việc
phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ.
- Đọc sách báo, intenet, và các phương tiện thông tin đại chúng về các hình
thức phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ.
- Phương pháp quan sát: Quan sát việc sử dụng ngôn ngữ của trẻ ở trường,
gia đình, ngoài xã hội để có cơ sở đánh giá thực trạng một cách toàn diện và có
những biện pháp thực nghiệm một cách tích cực và hiệu quả.
- Phương pháp thực nghiệm: Thực nghiệm các biện pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ 25 – 36 tháng thông qua các giờ học trên lớp, giờ đón trẻ, giờ hoạt
động chơi tập theo ý thích, giờ hoạt đông ngoài trời, giờ trả trẻ.
- Phương pháp cho trẻ làm quen với sách, dạy trẻ cầm sách, mở sách, lật
trang khi xem sách, gọi tên sự vật hành động các nhân vật trong tranh, được cầm
bút vẽ lên sách và bảo quản sách.
- Phương pháp trao đổi trò chuyện: Được thực hiện thông qua việc trao đổi
với phụ huynh, với đồng nghiệp, thông qua trẻ nhằm thu thập thêm thông tin
cũng như có những biện pháp đề xuất khả thi hơn.
- Phương pháp thống kê, sử lý số liệu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lý luận sáng kiến kinh nghiệm.
Khoa học đã nghiên cứu về đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi chúng ta thấy trẻ
25 - 36 tháng tuổi phát triển rất nhanh về thể lực và tâm lý. Ngôn ngữ góp phần
đào tạo cho các cháu trở thành những con người phát triển toàn diện.
2
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất, nhờ có ngôn ngữ mà con
người có thể hiểu được nhau và cùng nhau hành động. Không có ngôn ngữ
không thể giao tiếp được, thậm chí không thể tồn tại được nhất là trẻ em. Ngôn
ngữ chính là một trong những phương tiện thúc đẩy trẻ trở thành một thành viên
của xã hội.
Theo các nhà tâm lý học sẽ giúp các nhà giáo dục mầm non xác định được
các đặc điểm tâm lý của trẻ trước tuổi học. Tâm lý của trẻ chia làm nhiều thời
kỳ, dựa vào các đặc điểm đó để tìm ra phương pháp, hình thức tổ chức dạy nói
cho trẻ một cách phù hợp. Giáo dục học là cơ sở để xác định nội dung và
phương pháp tốt nhất để dạy nói cho trẻ. Sinh lý học trang bị cho nhà giáo dục
mầm non những kiến thức cơ bản về những đặc điểm sinh lý liên quan đến việc
phát triển ngôn ngữ, nhờ đó để tổ chức phát triển ngôn ngữ cho trẻ đúng lúc, phù
hợp với lứa tuổi và có hiệu quả.
Kiến thức về ngôn ngữ học sẽ là những kiến thức cơ sở giúp cho các nhà
giáo dục hiểu đúng nhiệm vụ, nội dung, tìm ra các phương pháp, biện pháp hữu
hiệu để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
U. Sinxki đã nhận định “Tiếng mẹ đẻ là cơ sở của mọi sự phát triển, là vốn
quý của mọi tri thức” (Trích phát triển ngôn ngữ nguyên bản tiếng nga. Nhà xuất
bản Matxcơva, trang 3).
Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong việc giáo dục trí tuệ cho trẻ, ngôn ngữ là
công cụ để phát triển tư duy nhận thức, ngôn ngữ chính là cơ sở của sự suy nghĩ và
là công cụ của tư duy. Trẻ em có nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung
quanh như phân biệt được màu sắc, hình dạng, biết được tên gọi của các sự vật.
Ví dụ: Khi dạy trẻ từ “Qủa cam” thì cho trẻ quan sát, cho trẻ nhận biết tên
gọi, đặc điểm của quả cam gắn liền với các từ “Qủa cam, vỏ cam, múi cam, hạt
cam…”
Sự phát triển ngôn ngữ gắn liền với sự phát triển của tư duy đã giúp trẻ có
khả năng nhận thức thế giới bên ngoài, do đó ở trẻ luôn xuất hiện những câu hỏi:
“ Tại sao”, “vì sao” với chúng ta. Đây là giai đoạn trẻ đang học nói hay bắt
chước người lớn và chính thời điểm này cô giáo sẽ dạy trẻ, uốn nắn trẻ cách nói
rõ câu, cách phát âm rõ ràng… để trẻ phát triển vốn từ luyện phát âm và dạy trẻ
nói đúng ngữ pháp.
Ngôn ngữ có tác dụng to lớn trong việc hình thành những phẩm chất đạo
đức tốt đẹp ở trẻ. Ngôn ngữ đã góp phần không nhỏ vào việc trang bị cho trẻ
những hiểu biết về những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, rèn luyện cho trẻ
những tình cảm và hành vi đạo đức phù hợp với xã hội mà trẻ đang sống.
Ví dụ: Khi nghe truyện “Cháu chào ông ạ” trẻ tìm thấy ở bạn “Gà con,
chim bạc má, anh cóc vàng” một tấm gương về sự ngoan ngoãn, lễ phép với
người lớn.
Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong quá trình tác động có mục đích, có hệ
thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp và hiểu đúng đắn cái đẹp
3
trong tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong nghệ thuật, giáo dục cho trẻ lòng yêu
cái đẹp và năng lực tạo ra cái đẹp [2].
Hoạt động nói năng liên quan đến các cơ quan hô hấp, thính giác, bộ máy
phát âm... Quá trình phát âm là quá trình rèn luyện bộ máy cấu âm, rèn luyện
phổi, khí quản và các bộ phận khác của cơ thể.
Để làm được điều đó người giáo viên phải có ý thức trau dồi ngôn ngữ, tự
học, tự rèn luyện cho mình cách nói rõ ràng, ngắn gọn, chính xác, nói chuyện
với trẻ đúng đắn, thân ái, lịch sự.
Qua các môn học mở ra cho trẻ cuộc sống với xã hội và thiên nhiên, các
mối quan hệ qua lại của con người. Những hình tượng đó giúp trẻ nhận thức
được tính rõ ràng, chính xác của từ ngữ.
Muốn khơi dậy ở trẻ tình yêu đối với từ ngữ nghệ thuật thông qua cách đọc
kể diễn cảm, kể chuyện. Yêu cầu khi kể truyện cho trẻ nghe cô cần có lời kể hấp
dẫn, phải thể hiện được tính cách của từng nhân vật một cách rõ nét để cuốn hút
trẻ cùng với việc sử dụng đồ dùng trực quan.
Trẻ tiếp tục được làm quen với việc đọc và viết bắt bầu bằng việc dạy trẻ
cầm sách, mở sách, lật từng trang khi xem sách, bảo quản sách và nhận biết sự
vật, hành động của các nhân vật trong sách. Trẻ cảm nhận được việc học sách và
bằng những suy nghĩ của mình trẻ viết vẽ lên sách nhằm phát triển ngôn ngữ cho
trẻ.
Từ những cơ sở lý luận trên tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện
pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 – 36 tháng tuổi. Nhằm phát triển ngôn
ngữ cho trẻ tốt nhất.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Thuận lợi.
Được sự quan tâm giúp đỡ của phòng giáo dục, sự quan tâm giúp đỡ của
Ban giám hiệu nhà trường, cùng với sự giúp đỡ của đồng nghiệp và phụ huynh.
Năm nay tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp nhà trẻ 25 – 36
tháng tuổi, hàng ngày được tiếp cận với các cháu, nắm bắt được đặc điểm tâm
sinh lí của các cháu.
Trẻ ở trường nơi tôi đang trực tiếp giảng dạy với khuôn viên lớp học rộng
rãi, thoáng mát, trẻ được phân chia theo đúng độ tuổi và trẻ đi học rất đều. Điều
đặc biệt là trẻ rất hứng thú và năng động trong các hoạt động hằng ngày và nhất
là khi được tiếp cận với các môn học.
Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho việc phát triển ngôn ngữ tôi luôn chú trọng
đến màu sắc, hình ảnh hấp dẫn thu hút trẻ và những đồ chơi do mình tự sáng tạo
và làm ra nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
Bên cạnh những thuận lợi còn có một số khó khăn sau.
2.2.2. Khó khăn.
Lớp tôi chủ nhiệm đa số cháu đang tập nói và các cháu còn chưa mạnh rạn
nên khả năng tiếp thu khi cô truyền đạt không đồng đều, điều này khiến tôi phải
quan tâm đến cá nhân trẻ nhiều hơn.
4
Trẻ chưa mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.
Vốn từ của trẻ còn rất ít.
Trình độ nhận thức của trẻ trong một lớp không đồng đều.
Trí nhớ của trẻ còn hạn chế chính vì vậy mà trẻ chưa biết cách sắp xếp trật
tự các từ trong câu nên khi phát âm trẻ thường bỏ bớt từ. Cách diễn đạt lời nói
của trẻ chưa tốt.
Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến trẻ còn coi nhẹ giáo dục
Mầm non dẫn đến tình trạng trẻ không đến lớp hoặc đến lớp không đều, điều
này có ảnh hưởng rất lớn đến công tác chăm sóc giáo dục trẻ ở trường.
Điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu, đồ dùng dạy học và học
tập của trẻ chưa đầy đủ (Chưa đẹp và chưa hấp dẫn trẻ).
Do trẻ còn nhỏ nên khi ở nhà trẻ được ông bà, bố mẹ chiều chuộng nên khi
đến nhà trẻ cháu khóc nhiều làm ảnh hưởng đến nề nếp của lớp.
Đối với một số trẻ đây là lần đầu tiên trẻ đi nhà trẻ, bạn mới, cô giáo mới
nên trẻ còn thấy rất lạ hay khóc nhè và tỏ ra không muốn nói chuyện với ai, một
số trẻ còn có thói quen xấu như đến lớp hay đánh bạn, thích chơi một mình làm
ảnh hưởng đến nề nếp của lớp.
Bên cạnh đó điều kiện để thực hiện tiết dạy trẻ trên lớp còn gặp khó khăn
do “thói quen” ngôn ngữ của trẻ khi tới lớp là ngôn ngữ địa phương, vốn từ của
trẻ nghèo nàn.
Phụ huynh phần lớn là lao động nghèo, nên rất khó khăn trong việc hổ trợ
đóng góp kinh phí để tạo góc hoạt động cho trẻ. Đặc biệt là đồ dùng cho trẻ hoạt
động còn chưa nhiều.
2.2.3. Kết quả của thực trạng trên.
Từ thực trạng trên và qua khảo sát đầu năm tôi thu được kết quả như sau:
Tổng số trẻ được khảo sát là 13 cháu.
Tốt
Khá
TB
Yếu
Phân loại khả năng
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Khả năng nghe hiểu ngôn
2 15,4 3 23,1 6 46,1 2 15,4
ngữ và phát âm
Vốn từ
2 15,4 3 23,1 5 38,4 3 23,1
Khả năng nói đúng ngữ
2 15,4 2 15,4 6 46,1 3 23,1
pháp
Khả năng giao tiếp
2 15,4 3
23
5 38,4 3 23,1
Khả năng trẻ thích được
3 23,1 3 23,1 5 38,4 2 15,4
làm quen với sách
Từ những thực tế trên tôi luôn cố gắng quan sát thực hiện các biện pháp
nhằm phát huy tối đa tác dụng của các môn học đối với trẻ.
Để khắc phục và giải quyết thực trạng trên tôi đã suy nghĩ và tìm ra một số
biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua bộ môn truyện kể
5
2.3. Các biện pháp thực hiện.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là giáo dục khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ và
phát âm chuẩn, phát triển vốn từ, dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, phát triển ngôn ngữ
mạch lạc, giáo dục văn hoá giao tiếp lời nói. Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương
tiện phát triển thẩm mỹ, tình cảm, đạo đức. Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ mà trẻ dễ
dàng tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội
tốt hơn. Chính vì vậy mà trong quá trình dạy trẻ tôi đã mạnh dạn áp dụng một số
biện pháp dạy trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua một số hoạt động sau:
2.3.1. Rèn luyện nề nếp thói quen sử dụng ngôn ngữ tích cực cho trẻ
trong hoạt động hằng ngày.
Ngay từ đầu năm học tôi đã bắt tay ngay vào việc rèn luyện nề nếp thói
quen sử dụng ngôn ngữ tích cực cho trẻ. Xã hội càng văn minh thì vấn đề giáo
dục hành vi văn hóa trong giao tiếp càng trở nên quan trọng. Ngay từ lứa tuổi
Mầm non người lớn đặc biệt là giáo viên Mầm non tôi luôn chú trọng rèn luyện
các nề nếp thói quen, hành vi lễ giáo cho trẻ, uốn nắn trẻ mạnh dạn, tự nhiên khi
giao tiếp với người khác, không rụt rè, e sợ, âm lượng phát ra đủ nghe, không la
hét, nói tục, chửi bậy, biết dùng ngôn ngữ êm dịu, nhẹ nhàng tình cảm để thể
hiện tình cảm yêu thương đối với bạn bè, cô giáo và người thân. Vì vậy trong
công tác giáo dục, cô giáo và người lớn phải thực sự gương mẫu về lời ăn tiếng
nói, nghiêm khắc và uốn nắn kịp thời khi trẻ nói sai, nói trống không, nói thiếu
chủ ngữ, vị ngữ, nói ngược vị trí câu...
Ví dụ: Khi trẻ muốn lấy quả bóng của bạn trẻ sẽ nói: “Đưa đây”, cần sửa
cho cháu nói lại “Bạn ơi! Cho mình mượm quả bóng.
Giáo dục các cháu biết cảm ơn, xin lỗi, lễ phép với người lớn khi giao
tiếp, biết chào hỏi cô khi đến lớp, chào hỏi ông bà, bố mẹ, người lớn và giáo
dục trẻ không nói dối.
Trong sinh hoạt hằng ngày tôi chú ý rèn luyện cho các cháu có thói quen vệ
sinh cá nhân, vệ sinh công cộng tập cho trẻ có thói quen tự phục vụ như : Tự đi
dép, đội mũ, cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định….
Trong tiết học tôi chú ý rèn cho các cháu ngồi học ngay ngắn, chú ý lắng
nghe để trả lời các câu hỏi của cô, không nằm ra chiếu, không được chạy lung
tung trong khi học.
2.3.2. Giáo dục ngôn ngữ thông qua các hoạt động.
a. Thông qua giờ âm nhạc.
Để thu hút trẻ vào giờ học và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt hơn thôi
thúc tôi phải nghiên cứu, sáng tạo những phương pháp dạy học tốt nhất có hiệu
quả với trẻ.
Đối với tiết học âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều đồ vật (Trống, lắc, phách
tre, mõ, sắc xô...và nhiều chất liệu khác) trẻ được học những giai điệu vui tươi
kết hợp với các loại vận động theo bài hát một cách nhịp nhàng. Để làm được
như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức vốn từ, kỹ năng nhất là sự giao tiếp
6
bằng ngôn ngữ của trẻ được tích luỹ và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật, giúp
trẻ yêu âm nhạc.
Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ
có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ bản để miêu tả những hình ảnh
đẹp của bài hát.
Ví dụ: Hát và vận động bài “Một con vịt”
- Câu đầu: “Một con vịt xòe ra hai cái cánh” (người hơi khom, giang 2 tay
sang 2 bên vẫy nhẹ giả làm cánh vịt,chân dậm chân theo nhịp).
- Câu tiếp theo: “Nó kêu rằng cáp, cáp, cáp,cạp, cạp, cạp” (hai tay đưa lên
phía trước miệng giả bộ làm mỏ vịt vỗ 2 bàn tay vào nhau theo tiếng cạp cạp,
thân người hơi khom).
- Câu tiếp theo: “Gặp hồ nước nó bì bà bì bõm” (hai tay đưa ra trước,ra sau
theo nhịp bài hát,kết hợp dậm chân mạnh).
- Câu cuối: “Lúc lên bờ vẫy cái cánh cho khô” (hai tay giang sang vẫy theo
nhịp bài hát).
b. Thông qua giờ thơ, truyện.
Trên tiết học khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngôn
ngữ nói cho trẻ và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà muốn
7
làm được như vậy trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng
được học thêm được các từ mới qua giờ học thơ, truyện.
Để giờ thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngôn ngữ cho trẻ
thì đồ dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo.
+ Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn và vệ sinh
cho trẻ.
+ Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu truyện, phía dưới phải có chữ
to giúp cho việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi.
+ Bản thân tôi phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong sáng, giọng
đọc phải diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật.
Ví dụ: Trẻ nghe câu truyện “ Đôi bạn nhỏ”. Tôi cung cấp vốn từ cho trẻ đó
là từ “Bới đất”. Cô có thể cho trẻ xem tranh mô hình một chú gà đang lấy chân
để bới đất tìm giun và giải thích cho trẻ hiểu từ “Bới đất”.
( Các con ạ, bản năng của những chú gà là mỗi khi đi kiếm ăn các chú phải
lấy chân để bới đất, đào đất lên để tìm thức ăn cho mình, khi kiếm được thức ăn
chú gà sẽ lấy mỏ để ăn đấy). Sau khi giải thích tôi cũng chuẩn bị một hệ thống
câu hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung truyện và từ vừa học.
- Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện gì?
- Hai bạn Gà và Vịt trong câu truyện cô kể rủ nhau đi đâu? (Đi kiếm ăn ạ)
- Vịt kiếm ăn ở đâu? (Dưới ao)
- Thế còn bạn Gà kiếm ăn ở đâu? (Trên bãi cỏ)
- Bạn Gà kiếm ăn như thế nào? (Bới đất tìm giun)
- Khi hai bạn đang kiếm ăn thì con gì xuất hiện đuổi bắt Gà con? (Con Cáo).
- Vịt con đã cứu Gà con như thế nào? (Gà nhảy phốc lên lưng Vịt, Vịt bơi
ra xa).
Qua câu truyện con thấy tình bạn của hai bạn Gà và Vịt ra sao? (Thương
yêu nhau)
- Nếu như bạn gặp khó khăn thì các con phải làm gì? (Giúp đỡ bạn ạ).
Cô kể 1- 2 lần cho trẻ nghe giúp trẻ hiểu thêm về tác phẩm và qua đó lấy nhân
vật để giáo dục trẻ phải biết yêu thương và giúp đỡ bạn trong lúc gặp khó khăn.
Ví dụ: Qua bài thơ “ Tết là bạn nhỏ” tôi muốn cung cấp cho trẻ từ “La cà”.
tôi sẽ giải thích cho trẻ từ “La cà” có nghĩa là đi chơi hết chỗ này đến chỗ khác.
Bên cạnh đó tôi cũng chuẩn bị câu hỏi để trẻ trả lời:
- Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì? (Tết là bạn nhỏ).
- Bài thơ của tác giả nào? (Phan Trọng Bảo Viên).
- Tác giả gọi tết là gì? (Bạn nhỏ).
- Mọi người có mong đợi tết không? (có ạ).
- Các bạn nhỏ mong ước điều gì? (Mong được đến tết).
8
Như vậy qua bài thơ ngoài những từ ngữ trẻ đã biết lại cung cấp thêm vốn
từ mới cho trẻ để ngôn ngữ của trẻ thêm phong phú.
Ngoài việc cung cấp cho trẻ vốn từ mới thì việc sửa lỗi nói ngọng, nói lắp
cũng vô cùng quan trọng khi trẻ giao tiếp. Khi áp dụng vào bài dạy tôi luôn chú
trọng đến điều này và đã kịp thời sửa sai cho trẻ ngay tại chỗ.
c. Thông qua giờ nhận biết.
Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp
vốn từ vựng cho trẻ.
Trẻ ở lứa tuổi 25 – 36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn
chỉnh, vì vậy trẻ thường nói không đủ từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong tiết
dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ.
Nếu tôi sử dụng tranh minh họa thì trẻ sẽ không có cơ hội để sử dụng các giác
quan của mình, giờ học sẽ không sinh động, trẻ dể chán chóng quên. Vì vậy tôi
đã quyết định phải dạy bằng vật thật sau đó mới cho trẻ quan sát trên màn hình ti
vi . Bởi vì khi trẻ được tiếp xúc với vật thật trẻ sẽ được sử dụng các giác quan
của mình như: Xúc giác, vị giác, thính giác... giờ học sinh động gây hứng thú
đối với trẻ, trẻ tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng và vững chắc hơn.
Bên cạnh đó cô phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn gọn trong
khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu không nói cộc lốc.
Ví dụ: Nhận biết “Xe đạp”
Khi vào bài tôi đặt câu đố:
9
“Xe gì hai bánh
Đạp chạy bon bon
Chuông kêu kính khoong
Đứng yên thì đổ.”
(Đố bé xe gì?)
Trẻ trả lời đó là xe đạp tôi đưa chiếc xe đạp bằng đồ chơi cho trẻ xem và
hỏi trẻ?
- Xe gì đây? (Xe đạp ạ )
- Xe đạp có màu gì? (Màu xanh ạ )
- Xe đạp đi ở đâu? (Xe đạp đi ở trên đường ạ).
- Xe đạp dùng để làm gì? (Dùng để đi ạ).
- Còi xe đạp kêu như thế nào? (kính khoong, ...).
- Đây là cái gì?(Cô hỏi từng bộ phận của Xe đạp và yêu cầu trẻ trả lời)
- Cứ như vậy tôi đặt hệ thống câu hỏi từ tổng thể đến chi tiết để trẻ trả lời
nhằm kích thích trẻ phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ, qua đó lồng liên hệ
thực tế giáo dục trẻ về an toàn giao thông khi đi trên đường.
Ví dụ: Trong bài nhận biết “Con cá” cô muốn cung cấp từ “đuôi cá” cho trẻ
cô phải chuẩn bị một con cá thật và một con cá giả (được làm bằng bìa) để cho
trẻ quan sát. Trẻ sẽ sử dụng các giác quan như: sờ, nhìn…..nhằm phát huy tính
tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ định.
Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát cô cần đưa ra hệ
thống câu hỏi:
- Đây là con gì? (Con cá ạ)
- Các con nhìn xem cá muốn bơi được là nhờ cái gì mà đang quẫy quẫy
đây? (Cái đuôi ạ).
- Các con ơi, cá đang nhìn chúng mình đấy thế mắt cá nằm ở đâu nhỉ?
(Nằm ở trên đầu con cá).
- Đố các bạn biết cá sống ở đâu? (Sống ở dưới nước).
- Trên mình cá có gì mà lấp lánh thế? (Có vẩy).
- Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói
được cả câu theo yêu cầu câu hỏi của cô. Nếu trẻ nói chưa đủ câu, thiếu từ cô
phải sửa ngay cho trẻ.
d. Thông qua hoạt động chơi - tập theo ý thích.
Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một cách
toàn diện được mà phải thông qua các hoạt động khác trong đó có hoạt động
góc. Đây có thể coi là một hình thức quan trọng nhất, bởi giờ chơi có tác dụng
rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hoá vốn từ cho trẻ. Thời
gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời gian trẻ
được chơi thoải mái nhất. Trong qúa trình trẻ chơi sử dụng các loại từ khác
nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung khác nhau.
Ví dụ: Trò chơi xâu vòng trẻ được chơi với hạt vòng và khi trẻ chơi sẽ giao
tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày.
10
- Con đang làm gì đấy? (con xâu vòng)
- Hạt vòng này có màu gì con? ( trẻ trả lời theo ý trẻ)
- Xâu vòng để làm gì? (để học, để chơi trò chơi ạ)
- Con sẽ chơi gì với vòng? (xâu vòng cho búp bê)
Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng xâu mà còn dạy trẻ nghe,
hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những màu sắc cơ bản mà trẻ cần biết
trong cuộc sống.
e. Thông qua hoạt động ngoài trời.
Dạo chơi thăm quan là hoạt động tạo cho trẻ cảm giác thoải mái về tâm lí.
Khi được trải nghiệm thực tế qua hình thức dạo chơi thăm quan sẻ kích thích sự
hứng thú, tìm tòi, khám phá của trẻ đối với môi trường xung quanh.
Ngoài các hoạt động học tập có chủ định, thì ở mọi lúc, mọi nơi cũng
chiếm một thời gian rất quan trọng trong ngày đối với trẻ. Vì vậy việc cung cấp
vốn từ và dạy trẻ nói ngôn ngữ đúng ở mọi lúc mọi nơi sẽ giúp trẻ củng cố và
phát triển bộ máy phát âm.
Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi để
trẻ được gọi tên các đồ chơi quanh sân trường như: Đu quay, cầu trượt, bập
bênh…. Ngoài ra tôi còn giới thiệu cho trẻ biết cây xanh, cây hoa ở vườn trường
và hỏi trẻ:
- Ai có nhận xét gì về cây hoa này? (trẻ trả lời)
11
- Thân cây này như thế nào? (nhỏ, và thấp ạ)
- Cây hoa này rất đẹp và có lá màu gì? (Màu xanh ạ)
- Bông hoa màu gì? (màu tím)
- Các con có nhìn thấy con gì đang bay đến đậu lên bông hoa không?(Có ạ)
- Con gì vậy? (Con bướm)…
Giáo dục: Các con nhớ cây xanh rất tốt cho sức khoẻ của con người các con
không được hái hoa, bẻ cành mà chúng ta phải làm gì để cây mau lớn và ra
nhiều hoa?
Qua những câu hỏi cô đặt ra sẽ giúp trẻ tích luỹ được những vốn từ mới
ngoài ra còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc, rõ ràng hơn.
Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những
câu không có nghĩa. Vì vậy, bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và nhắc nhở trẻ,
nói mẫu cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại.
g. Thông qua giờ vận động.
Trong góc vận động của lớp tôi đã sử dụng những thùng bìa để làm thành
tàu hoả cho trẻ chơi. Mỗi thùng làm thành một toa tàu. Trong khi chơi trẻ có thể
12
vừa chơi vừa kết hợp âm nhạc hát: “Đoàn tàu tí hon”, “Tàu vào ga”…. vận dụng
vào phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Cô cùng trẻ cầm những chiếc vòng lái ô tô
- Ô tô lên dốc: Trẻ cầm vòng giơ tay lên cao.
- Ô tô xuống dốc: Hạ tay xuống về tư thế chuẩn bị.
- Ô tô rẻ phải: Trẻ đưa vòng sang phải
- Ô tô rẻ trái: Trẻ đưa vòng sang trái
- Ô tô chạy nhanh: Trẻ cầm vòng xoay và dậm chân tại chỗ và nói rì rì....
2.3.3. Dạy trẻ nói thông qua phương pháp dạo chơi thăm quan.
Dạo chơi thăm quan cũng là một hình thức bổ sung và cung cấp cho trẻ mở
rộng thêm vốn từ mới, một số khái niệm mới cho trẻ.
Đối với trẻ 25 – 36 tháng, vốn từ của trẻ còn rất ít, nhiều khi trẻ muốn nói
ra một sự việc nào đấy nhưng trẻ lại không biết dùng từ ngữ gì để diễn đạt nên
trẻ thường e ngại hay đang nói giữa chừng lại không nói nữa vì không có từ để
diễn đạt. Vì vậy giáo viên cần bổ sung và làm giàu thêm vốn từ cho trẻ.
Ví dụ 1: Khi cho trẻ quan sát Cánh đồng ngô, cô dùng các câu hỏi đàm
thoại với trẻ về tên gọi, đặc điểm, tác dụng của cây…để trẻ trả lời, cô lắng nghe
bổ sung và tập nói cho trẻ. Ngoài ra tôi còn khéo kéo linh hoạt lồng nghép tích
hợp các chuyên đề vào trong các hoạt động.
Ví dụ 2: Khi trẻ bứt lá cây tôi sẽ lại và bảo trẻ: Nhìn vào cuống lá con có thấy
gì đây không? Đó là mũ cây, là nước mắt của cây vì bị con bứt lá cây đau nên cây
khóc đó. Nên con nhớ từ nay không được bứt lá cây để làm cây đau nữa nhé!
2.3.4. Dạy trẻ nói thông qua đồ chơi, vật thật, tranh minh họa.
Trong khi dạy cháu không nhất thiết phải sử dụng tranh hoặc vật thật hoặc
cho trẻ dạo chơi thăm quan mà tùy vào từng nội dung của đề tài để tôi chọn giáo
cụ trực quan cho phù hợp.
Ví dụ: Khi dạy bài “Quả cam” tôi đã suy nghĩ nêu câu hỏi và chọn dụng cụ
trực quan nào để cháu học có kết quả tốt hơn.
Nếu tôi sử dụng tranh minh họa thì trẻ sẽ không có cơ hội để sử dụng các
giác quan của mình, giờ học sẽ không sinh động, trẻ dể chán chóng quên. Vì vậy
tôi đã quyết định phải dạy bằng vật thật “Quả cam thật” bởi vì khi trẻ được học
bằng quả chuối thật trẻ sẽ được sử dụng các giác quan của mình như: Xúc giác,
vị giác, thính giác... giờ học sinh động gây hứng thú đối với trẻ, trẻ tiếp thu kiến
thức một cách nhẹ nhàng và vững chắc hơn.
2.3.5. Dạy trẻ làm quen với sách.
Chuẩn bị cho việc học đọc trẻ hứng thú đến việc đọc sách khi nghe và quan
sát người khác đọc sách, trẻ còn hứng thú khi hiểu rằng có thể biết nhiều điều
hoặc tạo ra cái gì đó từ việc xem sách.
Dạy trẻ cách cầm cuốn sách đúng chiều, mở sách, lật trang khi xem sách,
nhận biết các nhân vật, sự vật, hành động gần gũi có trong tranh, phát âm chính
xác rõ ràng.
13
Cô tập cho trẻ có thói quen được cầm bút và vẽ theo ý thích nhằm mang lại
kết quả cho sự hình thành và phát triển ngôn ngữ.
2.3.6. Phối hợp với phụ huynh.
Gia đình là môi trường rất quan trọng để hình thành và phát triển nhân cách
trẻ, vì thế tôi cũng thường xuyên phối hợp với phụ huynh trực tiếp và qua góc
tuyên truyền để cùng với cô giáo dục trẻ cho phù hợp.
Hình thức phối hợp được thực hiện như sau:
Mỗi giai đoạn tôi có thể mời phụ huynh đến lớp để trao đổi với phụ huynh
về tình hình phát triển ngôn ngữ của trẻ thông qua bảng theo dõi.
Mời phụ huynh đến dự giờ để phụ huynh biết được đến nhà trẻ là phải học
các môn học chứ không phải đi chơi như nhiều phụ huynh thường nghĩ.
Trao đổi với phụ huynh về một số kiến thức giúp trẻ học nói ở nhà để từ đó
phụ huynh cùng với cô giáo rèn kuyện cho trẻ ở nhà cũng như ở trường.
Thông báo cho phụ huynh biết về một số lỗi phát âm của trẻ như trẻ nói
ngọng, trẻ ít nói, phát âm sai để phụ huynh có biện pháp giáo dục thêm cho trẻ
khi ở nhà.
2.4. Hiệu quả đạt được sau khi tổ chức và thực hiện các biện pháp.
Sau khi áp dụng “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 – 36
tháng” trong thời gian này tôi nhận thấy trẻ lớp tôi có những chuyển biến rõ rệt
trong cuộc sống hàng ngày.
- Đối với giáo viên.
Giáo viên đã hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ
từ đó có kế hoạch cụ thể về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Đối với trẻ.
90% số trẻ đã mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp với cô và các bạn trong
lớp, với mọi người xung quanh.
Vốn từ của trẻ đã phong phú hơn rất nhiều so với đầu năm học.Trẻ đã có
thể tự nói với cô điều trẻ muốn. Đã có trẻ tự kể lại được với cô một sự việc, hiện
tượng vừa xảy ra, có trẻ đã kể lại được một câu chuyện ngắn với sự giúp đỡ của
cô cho cô và các bạn nghe.
Trẻ đã biết cách sắp xếp trật tự các từ trong câu nên khi trẻ nói trẻ không
bớt từ. Trẻ đã phát âm được cả câu trọn vẹn.
Khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của cô đã tốt hơn rất nhiều. Trẻ đã biết
cách trình bày có trình tự, chính xác một nôi dung nhất định với cô. Cách diễn
đạt lời nói của trẻ đã lưu loát hơn nhiều so với đầu năm học, có trẻ đã có thể kể
lại một sự việc mới xảy ra, có trẻ đã kể lại được câu chuyện ngắn với sự giúp đỡ
của cô.
Khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của trẻ đã tiến bộ rõ rệt
Bằng một số kinh nghiệm của mình mà tôi đã áp dụng trong việc phát triển
ngôn ngữ của trẻ lứa tuổi nhà trẻ trong thời gian này và kết quả đạt được như sau:
14
Phân loại khả năng
Tốt
Sl %
Khá
Sl %
TB
Sl %
Yếu
Sl %
Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ
3 23,2 5 38,4 5 38,4 0
0
và phát âm
Vốn từ
4 30,8 5 38,4 4 30,8 0
0
Khả năng nói đúng ngữ pháp
3 23,2 5 38,4 5 38,4 0
0
Khả năng giao tiếp
4 30,8 4 30,8 5 38,4 0
0
Khả năng trẻ thích được làm
4 30,8 4 30,8 5 38,4 0
0
quen với sách
3. Kết luận, kiến nghị.
- Kết luận.
Ngôn ngữ có vai trò rất to lớn, là phương tiện quan trọng nhất để trẻ lĩnh
hội nền văn hóa dân tộc, để trẻ giao lưu vói những người xung quanh, để tư duy
tiếp thu khoa học và bồi bổ tâm hồn hình thành, phát triển nhân cách trẻ.
Sau khi sáng kiến này được tổ chức và triển khai thực hiện trong năm học
2016 – 2017 này bằng cách thực hiện theo kế hoạch đã lên, phối hợp với phụ
huynh, giờ dạy mẫu, dự giờ, đánh giá góp ý rút kinh nghiệm của các giáo viên
trong tổ. nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tốt, giúp giáo viên có kế hoạch và
cách tổ chức tốt giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
Những biện pháp trên đã được tôi phổ biến thực hiện, ứng dụng cho các tiết
dạy, hoạt động vui chơi, các góc chơi và dùng trang trí lớp hiệu quả đạt được
khá cao.
Trẻ tham gia thực hiện cùng cô một cách dể dàng ở mọi nơi, mọi lúc.
- Kiến nghị.
Đối với phòng giáo dục: Mong các cấp lãnh đạo tăng cường đầu tư thêm về
cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học cho các trường mầm non.
Đối với ban giám hiệu nhà trường: Sắp xếp cho giáo viên được dự các giờ
dạy mẫu, thăm quan nhiều hơn nữa để học hỏi đúc rút kinh nghiệm cho bản thân
trong quá trình giảng dạy.
Trên đây là kinh nghiệm “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ
25 – 36 tháng” của bản thân tôi. Tuy nhiên trong quá trình viết không thể không
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự quan tâm, góp ý của các cấp lãnh
đạo, hội đồng khoa học và các bạn đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của
tôi được hoàn chỉnh hơn góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 20 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan trên đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Trần Thị Phương
15
Tài liệu tham khảo
1. Chương trình giáo dục mầm non, vụ giáo dục mầm non – Bộ giáo dục và
đào tạo, Nhà xuất bản giáo dục 2009
2. Lý luận và Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ em của thạc sỹ
Trịnh Thị Hà Bắc nhà xuất bản Đại học Huế năm 2013
3. Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non trẻ 25 – 36
tháng. Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
4. Các trò chơi và hoạt động cho trẻ 25 – 36 tháng. Nhà xuất bản giáo dục
Việt Nam.
5. Tuyển chọn những trò chơi, bài hát, thơ ca, câu đố theo chủ đề 25 – 36
tháng của Tác giả Lê Thu Hương chủ biên
6. Tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non theo hướng tích
hợp – Hà nội 2006 do TS. Lê Thu Hương chủ biên.
16