Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng và cách thức xử lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.96 KB, 15 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Gia đình là tế bào của xã hội trong đó hôn nhân là cơ sở. Hôn nhân một vợ
một chồng xuất hiện trong xã hội dân chủ, nam nữ bình quyền. Hiện nay, trong luật
hôn nhân và gia đình 2014 cũng quy định nguyên tắc hôn nhân là hôn nhân một vợ
- một chồng. Tuy nhiên hiện nay, khi xã hội càng phát triển thì dường như hiện
tượng vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng cũng ngày càng trở phổ
biến và trở thành một vấn đề đáng quan tâm trong xã hội. Vì vậy, để hiểu rõ hơn về
vấn đề này em xin chọn đề tài: “Vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng
và cách thức xử lý”.

B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung về nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
1. Một số thuật ngữ và khái niệm chung
Theo điều 3, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“- Chế độ hôn nhân và gia đình là toàn bộ những quy định của pháp luật về
kết hôn, ly hôn; quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa các
thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài và những vấn đề khác liên quan đến hôn
nhân và gia đình;
- Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy
định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn;


- Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn
theo quy định tại Điều 8 của Luật này.”
Tại khoản 1 điều 2 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định: “hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.”.
Về bản chất, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng có nghĩa là trong thời
kì hôn nhân chỉ tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp và là quan hệ hôn nhân duy
nhất. Theo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng thì chỉ những người chưa có vợ


hoặc chưa có chồng hoặc đã kết hôn nhưng hôn nhân đó đã chấm dứt (vợ hoặc
chồng họ đã chết hoặc vợ chồng đã ly hôn) thì mới có quyền kết hôn với người
khác. Việc kết hôn của họ phải với những người đang không có vợ hoặc chồng, đó
là những người không thuộc trường hợp nêu tại khoản 2 điều 5 Luật hôn nhân gia
đình 2014.
Nguyên tắc này còn nhằm điều chỉnh hành vi chung sống như vợ chồng.
Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ không có đăng kí kết hôn nhưng về
chung sống với nhau. Minh chứng cho việc chung sống như vợ chồng là việc hai
người có con chung với nhau, được hàng xóm và những người xung quanh coi như
vợ chồng và có tài sản chung. Trường hợp nam, nữ lén lút quan hệ với nhau mà
không chung sống công khai không được coi là chung sống như vợ chồng. Theo
nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng thì hành vi chung sống như vợ chồng giữa
những người đang có vợ hoặc có chồng với người khác hoặc ngược lại, những
người đang không có vợ, có chồng mà chung sống với người đang có vợ hoặc có
chồng là chung sống trái pháp luật vì đã vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một
chồng.


Như vậy, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng mang tính bắt buộc hai
chiều đối với cả hai bên chủ thể tham gia quan hệ. Nguyên tắc này không chỉ đặt ra
với những người đang có vợ, có chồng mà còn yêu cầu cả những người chưa có vợ,
có chồng phải tuân thủ. Có như vậy thì mới đảm bảo nguyên tắc này được thực
hiện một cách triệt để và có hiệu quả trong thực tế.
2. Nguyên nhân của của việc quy định chế độ hôn nhân một vợ một chồng
Thứ nhất, hôn nhân một vợ một chồng lấy tình yêu giữa nam và nữ làm cơ
sở xác lập hôn nhân; và tình yêu giữa vợ và chồng là cơ sở duy trì quan hệ hôn
nhân nên đây cũng là quy định nhằm hướng hôn nhân đi tới sự bền vững, ổn định,
hạnh phúc của gia đình. Ăngghen đã từng khẳng định: “Vì bản chất của tình yêu là
không thể chia sẻ...cho nên hôn nhân dựa trên tình yêu giữa nam và nữ do ngay
bản chất của nó, là hôn nhân một vợ một chồng”.

Thứ hai, quy định nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng và coi đó là
nguyên tắc hiến định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam cũng thể hiện được
bản chất tiến bộ của hôn nhân XHCN. Trước đây, pháp luật phong kiến Việt Nam
duy trì chế độ đa thê. Bộ dân luật Bắc Kì quy định người đàn ông có quyền lấy
nhiều vợ (Điều 79, 80). Pháp luật của nhà nước tư sản về hình thức cũng quy định
hôn nhân theo nguyên tắc một vợ một chồng, nhưng trong thực tế, nguyên tắc đó
đã bị phá vỡ do tệ ngoại tình và nạn mãi dâm công khai. Như vậy, khi xét về bản
chất, hôn nhân của giai cấp tư sản thật ra là chế độ cộng thê.
Thứ ba, đây là một trong những nguyên tắc thể hiện quan điểm tiến bộ của
các nhà lập pháp trên thế giới và là xu hướng tất yếu của thế giới. Hiện nay, trên
thế giới, ở một số nước khu vực Trung Đông, Trung Á, và một số nước ở khu vực
Đông Nam Á (Indonesia, Malaysia,...) do ảnh hưởng của hồi giáo vẫn thừa nhận
chế độ đa thê. Tuy nhiên, đa số các nước đều quy định hôn nhân phải được xây
dựng trên nguyên tắc một vợ một chồng. BLDS Nhật Bản quy định: “Một người
đang có vợ, chồng không thể tiếp tục kết hôn” (Điều 731); hay điều 1452


BLDS&TM Thái Lan quy định: “Việc kết hôn không thể được thực hiện nếu người
đàn ông hoặc người đàn bà đã là chồng hay vợ của người khác”. Như vậy, các
nước đều quy định cấm kết hôn đối với trường hợp người đang có vợ hoặc có
chồng và đó là nội dung cơ bản của nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng.
3. Ý nghĩa của việc quy định nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
Với việc quy định nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là nguyên tắc
hiến định của Luật Hôn nhân và gia đình và được pháp luật bảo vệ đã mang lại cho
gia đình và xã hội nhiều điều tốt đẹp.
Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng được xác lập là tiền đề, điều kiện
ghi nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng. Việc bảo đảm quyền
bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng có ý nghĩa xây dựng một xã hội tự do,
bình đẳng, dân chủ bởi nếu không có tự do, bình đẳng trong gia đình thì sẽ không
có tự do, bình đẳng trong xã hội.

Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là cơ sở duy trì tình yêu giữa vợ và
chồng; củng cố cuộc sống chung vợ chồng lâu dài, đảm bảo xây dựng gia đình
hạnh phúc, bền vững. Chế độ hôn nhân một vợ một chồng đảm bảo mối quan hệ tốt
đẹp, yêu thương giữa các thành viên trong gia đình, tạo điều kiện giúp đỡ nhau
phát triển và cùng tiến bộ. Hơn nữa, gia đình là nền tảng của xã hội, gia đình có
hạnh phúc, phát triển lành mạnh thì xã hội mới thịnh vượng.
Xây dựng chế độ hôn nhân một vợ một chồng tiến bộ đã thay thế chế độ đa
thê trong xã hội phong kiến trước đây và xóa bỏ gần như hoàn toàn những hủ tục,
tôn giáo lạc hậu như: trai tài năm bảy vợ,... vẫn còn tồn tại trong xã hội, đặc biệt là
trong đời sống của đồng bào dân tộc miền núi lạc hậu và ở những vùng nông thôn.
Bên cạnh đó, việc quy định hôn nhân phải theo nguyên tắc một vợ một chồng cũng
góp phần giải phóng người phụ nữ khỏi ách thống trị của chế độ gia trưởng và


những hủ tục lạc hậu, giúp cho việc giải quyết một cách triệt để các tranh chấp về
nhân thân và tài sản trong các tranh chấp vê hôn nhân,...
II. Thực trạng vi phạm hôn nhân một vợ một chồng
1. Các trường hợp vi phạm
Hôn nhân một vợ một chồng đã được xây dựng thành một trong những nội
dung của nguyên tắc hiến định về hôn nhân và gia đình được Luật hôn nhân và gia
đình 2014 khẳng định là nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình. Tuy
nhiên trên thực tế, hiện tượng vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng vẫn
xảy ra, biểu hiện ở các trường hợp ngoại tình, ở hiện tượng những người đã có vợ,
có chồng chưa ly hôn nhưng đã chung sống với người khác như vợ chồng. Những
hiện tượng này không phải là hiếm gặp mà ngày càng trở nên phổ biến ở nhiều địa
phương và ngoại tình đã trở thành nguyên nhân chính của nhiều cuộc ly hôn.
Theo nội dung của nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, những người vi
phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng có thể có hai trường hợp sau:
Thứ nhất, người đang có quan hệ hôn nhân hợp pháp vi phạm nguyên tắc
hôn nhân một vợ một chồng.

Người đang có quan hệ hôn nhân hợp pháp là người đã kết hôn với người
khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và chưa ly hôn.
Người đó đang trong tình trạng là đang có vợ hoặc có chồng nghĩa là hôn nhân của
họ chưa bị chấm dứt do ly hôn hoặc do một trong hai bên chết hoặc bị tòa án tuyên
bố là đã chết. Cơ sở pháp lý để xác định người đang có vợ, có chồng là dựa vào
giấy chứng nhận đăng kí kết hôn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp vẫn còn
có hiệu lực.


Theo Luật hôn nhân và gia đình, người đang có quan hệ hôn nhân hợp pháp
vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng xảy ra trong hai trường hợp:
-

Người đang có vợ, có chồng mà lại kết hôn với người khác.

Việc kết hôn của người đang có vợ, có chồng với người khác mặc dù có
đăng kí kết hôn tại cơ quan đăng kí kết hôn nhưng đã vi phạm điều kiện kết hôn
(điểm d khoản 1 – Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014) và thuộc một trong
những trường hợp cấm kết hôn tại khoản 2 điều 5 Luật hôn nhân và gia đình. Do
đó, việc kết hôn giữa những người đang có vợ hoặc đang có chồng với người khác
là vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng.
- Người đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ, chồng với người
khác.
Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ không có đăng kí kết hôn nhưng
về chung sống với nhau như vợ, chồng. Việc chung sống với nhâu như vợ chồng
với người đang có vợ, có chồng trong trường hợp này bao gồm: những người đang
có vợ, có chồng cùng chung sống với nhau như vợ, chồng (cả hai bên đều trong
tình trạng đang có vợ, có chồng); người đang có vợ, có chồng, chung sống với
người chưa có vợ, có chồng (chỉ một bên chung sống là người đang có vợ, có
chồng). Việc chung sống như vợ chồng với người đang có vợ hoặc có chồng bất kể

là công khai hay không công khai thì đều là vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ
một chồng.
Thứ hai, nam nữ chung sống như vợ chồng, được coi là có quan hệ vợ
chồng nhưng vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng.


Việc nam nữ chung sống như vợ chồng được công nhận là có quan hệ vợ
chồng khi mà cả hai bên nam, nữ chung sống dựa trên cở sở tình yêu thương, muốn
chăm sóc, giúp đỡ nhau và thực sự mong muốn thành vợ chồng, cùng nhau xây
dựng gia đình no ấm, hạnh phúc; đồng thời họ đã chung sống công khai, cùng nhau
thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với nhau như vợ chồng và được họ hàng, xã
hội sung quanh thừa nhận là vợ chồng.
Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, người đang chung sống như
vợ chồng được coi là có quan hệ vợ chồng vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ
một chồng khi họ kết hôn hoặc lại chung sống như vợ, chồng với người thứ ba. Bởi
vì, mặc dù trong quan hệ đầu tiên, giữa nam và nữ chỉ chung sống như vợ chồng và
không có đăng kí kết hôn nhưng nó đã thỏa mãn các yếu tố của một cuộc hôn nhân,
được pháp luật công nhận và bảo hộ như các quan hệ vợ chồng hợp pháp khác. Vì
thế, giữa nam và nữ chung sống như vợ chồng cũng nảy sinh quyền và nghĩa vụ
đối với nhau nên phải tuân thủ nguyên tắc một vợ một chồng. Do đó, khi họ kết
hôn thì lần kết hôn đó là vi phạm nguyên tắc này và được coi là trái pháp luật.
2. Thực trạng giải quyết các trường hợp vi phạm
Ở nước ta, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là một nguyên tắc hiến
định và dần trở thành nguyên tắc của cuộc sống gia đình, là nền tảng để xây dựng
một xã hội văn minh, phát triển bền vững. Tuy nhiên trong thực tế, tình trạng ngoại
tình, nam nữ chung sống như vợ chồng ngày càng phổ biến ở nhiều địa phương,
nhất là các thành phố lớn.
Việc giải quyết các trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một
chồng trong thực tế có nhiều vấn đề còn tồn tại. Cụ thể:
Thứ nhất, các vụ việc vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng trên thực tế xảy

ra với số lượng không hề nhỏ, xong số vụ được đưa ra xét xử còn rất hạn chế,


thông thường được giải quyết bằng sự thoả thuận giữa các bên hoặc bỏ qua hành vi
vi phạm, hai bên vẫn tiếp tục chung sống…
Thứ hai, khi người có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định huỷ kết hôn trái
pháp luật hoặc không công nhận quan hệ vợ chồng đối với quan hệ nam nữ, toà án
sẽ không ra quyết định ngay mà sẽ tiến hành công tác điều tra xem quan hệ đó có
dấu hiệu vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng hay không? Tuy nhiên quá trình
điều tra, xác minh gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Do tính chất của quan hệ vi
phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là quan hệ riêng tư, mang tính tình
cảm, cá nhân nên các quan hệ này thường ít bộc lộ ra bên ngoài. Không những thế,
các đương sự thường có tâm lý muốn che đậy, giấu diếm phần vì họ ngại dư luận
xã hội, muốn giữ cho gia đình yên ấm, con cái hòa thuận, phần vì “xấu chàng hổ
ai…”.
Thứ ba, hiện nay, tình trạng nam nữ chung sống với nhau mà không có đăng
ký kết hôn diễn ra ngày càng phổ biến, được coi là bình thường, nhất là ở các thành
phố lớn. Đặc biệt ở các vùng núi, vùng dân tộc ít người tình trạng nam nữ chung
sống như vợ chồng xuất hiện ngày càng diễn biến phức tạp, khó kiểm soát. Các
trường hợp vi phạm không có chiều hướng giảm mà ngày càng tăng xuất phát từ
nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó một phần là do hoàn cảnh xã hội. Ở nước
ta do tác động từ nền kinh tế thị trường đã hình thành trong xã hội một bộ phận dân
cư khá giỏi, có lối sống tiêu xài. Cùng với đó là lối sống gấp, sống thực dụng,
buông thả trong tầng lớp thanh niên làm cho các trường hợp vi phạm nguyên tắc
một vợ một chồng xuất hiện ngày càng phức tạp, với nhiều biến tướng như: góp
gạo thổi cơm chung, chấp nhận làm cô vợ hờ không thân phận chỉ để được bao ăn
ở. Tuy nhiên đáng buồn là hiện tượng này đang dần trở nên bình thường, vốn thế;
đó cũng là vấn đề bức xúc hiện nay của xã hội.
Thứ tư, một thực tế cho thấy là hiện nay có quan hệ hôn nhân hợp pháp vẫn
ngang nhiên có quan hệ ngoài hôn nhân. Vì thế, làm cho người còn lại trong quan



hệ hôn nhân hợp pháp cảm thấy căng thẳng, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục,
nên chính họ - người không vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng lại
đâm đơn yêu cầu ly hôn. Chính điều này đã giải thoát cho người vi phạm nguyên
tắc hôn nhân một vợ một chồng tiếp tục được thực hiện hành vi vi phạm, thậm chí
hợp lý hóa quan hệ pháp luật của mình.
Thứ năm, công tác xét xử còn mềm dẻo, không mang tính răn đe đối với các
trường hợp vi phạm.
III. Nguyên nhân và cách xử lý
1. Nguyên nhân
Việc vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng xuất phát từ nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu như:
Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng không phải vì tình yêu mà là vì một
mục đích khác. Hiện nay, có nhiều trường hợp các đôi nam nữ kết hôn hoặc chung
sống với nhau như vợ chồng nhưng không phải vì tình yêu mà là vì một mục đích
khác như: do cha mẹ, họ hàng hai bên ép buộc; vì tài sản; vì muốn có một cuộc
sống vật chất đầy đủ... Có những cô gái do muốn tìm một cuộc sống đầy đủ hơn
mà đã chấp nhận là vợ hờ của các đại gia. Do không xuất phát từ tình yêu thương
thực sự và mong muốn được cùng nhau xây dựng gia đình nên khi chung sống, hai
bên dễ gặp phải những mâu thuẫn và do vậy, họ tự tìm đến với những người khác.
Do ngoại tình. Trong cuộc sống giữa vợ và chồng, mâu thuẫn là không thể
tránh khỏi. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách giải quyết các mâu thuẫn đó và
trong trường hợp đó đã dẫn đến hiện tượng ngoại tình. Cũng có những khi người ta
ngoại tình khi cuộc sống hôn nhân trở nên quá nhàm chán và đơn điệu, khi gặp
những cái mới họ dễ dàng bị hấp dẫn và không thể chối từ. Tuy nhiên, ngọn lửa


tình yêu đó cũng tàn lụi rất nhanh như khi nó đến. Có thể bản chất họ không phải
như thế nhưng chỉ một phút sai lầm đã dẫn đến hậu quả nghiêm trọng và một khi

đã có lần đầu thì sẽ có tiếp lần hai, lần ba,... Điều này cũng phần nào có thể giải
thích được bởi lối sống hiện đại, nhịp độ sôi động khiến con người cũng bị cuốn
theo dòng chảy đó, khiến họ đánh mất đi chính mình.
Do tư tưởng phong kiến còn nặng nề, trình độ văn hóa còn thấp. Trong thời
kì hiện nay, vẫn còn có một số gia đình còn mang nặng tư tưởng phong kiến trọng
nam khinh nữ, muốn có con trai và phải có bằng được con trai để nối dõi tông
đường. Do vậy, khi người vợ không thể làm được điều đó, người chồng có thể tìm
đến người phụ nữ khác để giúp họ thực hiện ước nguyện này. Hiện tượng này diễn
ra rất phổ biến ở các vùng nông thôn. Còn ở một số vùn núi, vùng đồng bào dân
tộc ít người, do trình độ văn hóa thấp, không hiểu biết pháp luật nên dẫn đến tình
trạng vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng còn khá phổ biến.
Do các trường hợp vi phạm chưa được xử lý nghiêm và chưa có tính răn đe.
Trên thực tế, vẫn còn có trường hợp các cơ quan chức năng quản lí, giải quyết vấn
đề về hôn nhân gia đình một cách máy móc, tắc trách, để lọt những trường hợp vi
phạm. Khi xử lý vi phạm thì còn quá mềm dẻo nên không có tính răn đe. Hiện
tượng này đã cản trở việc thực hiện và xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình xã
hội chủ nghĩa ở nước ta.
2. Cách xử lý
* Về mặt xã hội
Thứ nhất, phổ biến, tuyên truyền, giáo dục Luật hôn nhân và gia đình một
cách sâu rộng đối với mọi đối tượng, đặc biệt là các vùng nông thôn và vùng núi.


Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng chỉ có thể phát huy được hiệu quả
điều chỉnh khi được tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi người
dân tuân thủ một cách triệt để. Muốn vậy, việc phổ biến, tuyên truyền, giáo dục
Luật hôn nhân và gia đình phải được tiến hành nghiêm túc tới mọi đối tượng. Luật
hôn nhân và gia đình cần sớm được đưa vào trong chương trình giáo dục ở phổ
thông. Tuy nhiên cần chú ý việc giáo dục pháp luật đối với những đối tượng này
phải đồng thời với việc giáo dục đạo đức, truyền thống trong gia đình. Việc tuyên

truyền, phổ biến Luật hôn nhân và gia đình cần được tiến hành song song với việc
vận động nhân dân đấu tranh chống lại những tàn dư của chế độ hôn nhân và gia
đình phong kiến, xóa bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu, tự giác chấp hành
những quy định của Luật.
Thứ hai, bên cạnh những quy phạm pháp luật, sử dụng những chuẩn mực
đạo đức và dư luận xã hội cũng là một trong những biện pháp ngăn chặn hiện
tượng này của xã hội.
Từ xưa đến nay, xã hội luôn lên án gay gắt tình trạng vi phạm hôn nhân một
vợ một chồng và cho đó là hiện tượng cần bài trừ trong xã hội. Do vậy, có thể sử
dụng dư luận xã hội như một kênh thông tin để có thể vận động, tuyên truyền
chống vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng, đồng thời qua đó phát hiện
được các trường hợp vi phạm để kịp thời xử lí.
* Về mặt pháp lí
Để có thể chấm dứt hoàn toàn tình trạng vi phạm nguyên tắc hôn nhân một
vợ một chồng, không chỉ cần có các biện pháp về mặt xã hội như vận động, tuyên
truyền,... mà còn cần phải sử dụng cả những biện pháp cưỡng chế. Do vậy, hoàn
thiện những quy định của pháp luật về nội dung này cũng là một trong những giải
pháp góp phần giải quyết tình trạng vi phạm hiện nay.


Thứ nhất, về mặt pháp lý cần tăng cường hoàn thiện các quy định pháp lý về
việc giải quyết các trường hợp vi phạm thực sự mang lại hiệu quả cao cụ thể như
sau:
Đối với trường hợp ngoại lệ, người đang có vợ, có chồng kết hôn với người
khác và lần kết hôn sau được công nhận là hợp pháp cần có hướng dẫn cụ thể quan
hệ vợ chồng đầu tiên thế nào là đang trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài,
mục đích hôn nhân không đạt được. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan xét
xử áp dụng pháp luật để giải quyết các trường hợp vi phạm trong thực tế, đồng thời
tránh việc các đương sự lợi dụng quyết định này để hợp pháp các quan hệ trái pháp
luật.

Pháp luật cần phân định rõ: Trường hợp nam, nữ chung sống như vợ, chồng
mà vi phạm một trong các điều kiện hôn nhân như giữa người có quan hệ cùng
dòng máu trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời, người đang có
vợ, đang có chồng sống với người khác… thì không thể công nhận là có quan hệ
vợ chồng.
Thứ hai, cải tiến trong công tác đăng ký hộ tịch và đổi mới về tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các án tranh chấp hôn nhân
và gia đình.
Trong công tác đăng ký hộ tịch, việc xem xét các yêu cầu của nhân dân phải
được tiến hành nhanh chóng, chính xác. Một số tờ khai đăng ký hộ tịch cần được
thay đổi lại cho phù hợp để hạn chế những sai sót có thể xảy ra. Trong công tác
giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình, nên thành lập Tòa chuyên trách
về hôn nhân và gia đình. Do quan hệ hôn nhân và gia đình có những đặc thù riêng
nên đòi hỏi những người giải quyết các tranh chấp về loại này phải có những phẩm
chất, năng lực và kinh nghiệm cần thiết.
Thứ ba, việc xử lý đối với những hành vi vi phạm nguyên tắc chế độ hôn
nhân một vợ một chồng cần được các cơ quan có thẩm quyền thực hiện nghiêm


túc, kịp thời và đúng pháp luật để phát huy tác dụng giáo dục ý thức tuân thủ pháp
luật hôn nhân và gia đình.
Mục đích của những biện pháp xử lý không phải là trừng phạt, bắt người vi
phạm phải chịu chế tài của pháp luật mà nhằm giáo dục đối với người có hành vi
phạm tội hay vi phạm pháp luật để họ không tiếp tục vi phạm pháp luật, đồng thời
giáo dục những cá nhân khác có ý thức tôn trọng pháp luật, từ đó không phạm tội
hay không vi phạm pháp luật hôn nhân và gia đình. Có như vậy, pháp luật mới phát
huy hết tác dụng và chức năng của mình đó là răn đe, ngăn chặn các hành vi vi
phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng trong tương lai. Từ đó nâng cao ý
thức của người dân trong việc tôn trọng và tuân thủ nguyên tắc hôn nhân một vợ,
một chồng.

Thứ tư, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng một đội ngũ cán bộ tư
pháp, Thẩm phán có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu giải quyết kịp thời,
chính xác các tranh chấp về hôn nhân và gia đình.
Hoạt động của các cán bộ tư pháp và Thẩm phán là những khâu rất quan
trong việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng. Họ vừa là
người thay mặt Nhà nước kiểm soát việc thực hiện các quan hệ hôn nhân và gia
đình trong xã hội, vừa là người tuân thủ nguyên tắc đó trong quá trình kiểm soát.
Trong tình hình hiện nay, củng cố đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là cán bộ tư pháp ở
cấp xã và Thẩm phán ở tòa án nhân dân cấp huyện là việc làm cần phải được chú
trọng. Bên cạnh đó, cần có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ cho Hội thẩm nhân dân, bởi họ là người đại diện của nhân dân tham gia
vào hoạt động xét xử tại Tòa án, có quyền ngang với Thẩm phán.
Thứ năm, cần sửa đổi các quy định về hình phạt đối với các trường hợp vi
phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng.
Theo Điều 48 nghị định 110/2013/NĐ – CP của chính phủ, mức xử phạt
hành chính đối với các trường hợp vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng là


từ 1.000.000 đồng – 3.000.000 đồng. Với điều kiện kinh tế ngày nay, mức xử phạt
đó còn nhẹ và hầu như không có ý nghĩa ngăn đe đối với vi phạm.

C.KẾT LUẬN
Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập và phát triển mạnh mẽ. Không chỉ
nâng cao tiềm năng kinh tế của đất nước, chúng ta phải đồng thời nâng cao trình độ
văn hóa, đời sống văn minh, hiện đại. Nó cũng thể hiện ở hôn nhân tự nguyện, tiến
bộ, một vợ một chồng “Vì bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ được cho nên
hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu do ngay bản chất của nó là hôn nhân một vợ một
chồng”. Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là một trong những điều kiện cơ
bản và quan trọng để xây dựng hạnh phúc gia đình. Cần có những chế tài nghiêm
khắc hơn nữa để hạn chế hiện trạng vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một

chồng.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
3. Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị Hường, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2010, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
4. Khóa Luận tốt nghiệp: Các trường hợp cấm kết hôn – cơ sở lý luận và thực tiễn
áp dụng pháp luật, Tô Thị Thu Trang, Người hướng dẫn TS.Nguyễn Văn Cừ, Hà
Nội 2011.
5. Khóa luận tốt nghiệp: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc giải quyết
các trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, Trần Thị Thu
Huyền, Người hướng dẫn TS.Nguyễn Phương Lan, Hà Nội 2010.



×