Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

Giải pháp tạo việc làm cho các hộ tái định cư trên địa bàn khu kinh tế Dung Quất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.76 KB, 92 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu

Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra hết sức mạnh mẽ. Nhiều Khu Công
nghiệp, Khu Chế xuất, Khu Kinh tế đã, đang hình thành và phát triển mạnh
cùng với việc đô thị hóa diễn ra khắp các tỉnh thành trên toàn quốc. Đằng sau
khuôn mặt mới của đô thị, những công trình tầm vóc, các Khu Công nghiệp,
Khu Chế xuất, Khu Kinh tế là hình ảnh người dân mất đất, mất nhà, hy sinh
cuộc sống ổn định vốn có của bản thân và gia đình vì sự nghiệp phát triển của
đất nước, của quê hương.
Khu Kinh tế Dung Quất được thành lập năm 2005 trên cơ sở Khu Công
nghiệp Dung Quất theo Quyết định số 50/2005/QĐ-TTg ngày 11/3/2005 của
Thủ tướng Chính phủ là Khu kinh tế tổng hợp gắn liền với cảng biển. Với vai
trò là Khu kinh tế trung tâm, hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm Miền
Trung; Khu Kinh tế Dung Quất hội đủ các điều kiện thuận lợi về tiềm năng
phát triển đầu tư cùng với Khu Kinh tế mở Chu Lai phát huy tối đa lợi thế để
liên kết phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung - Tây
Nguyên theo chiến lược phát triển kinh tế của cả nước đã được Đảng và Nhà
nước đặc biệt quan tâm trong giai đoạn đầu của thế kỷ 21.
Phát triển Khu kinh tế đồng nghĩa với việc chuyển đổi mục đích sử dụng
đất để triển khai các dự án đầu tư, mà chuyển đổi mục đích sử dụng đất luôn
đặt ra các vấn đề cần phải được giải quyết đồng bộ, đó là: đời sống, việc làm
của người bị thu hồi đất, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động, ổn định
và nâng cao thu nhập. Được sự quan tâm của Tỉnh ủy và UBND tỉnh; sự hỗ
trợ phối hợp với các Sở, Ban, ngành, UBND huyện Bình Sơn; bước đầu, đời



2

sống của người dân hậu tái định cư đã được triển khai xây dựng đồng bộ. Đó
là xây dựng hạ tầng kỹ thuật các Khu tái định cư: Tây sông Trà Bồng, Trảng
Bông mở rộng, Trung Minh, Mẫu Trạch, Bình Đông, Đồng Rướn, Bình
Thuận... cho các hộ dân trong vùng di dời. Tuy nhiên, trong thực tế, đời sống
của người dân hậu tái định cư còn gặp nhiều khó khăn, vấn đề giải quyết việc
làm cho người lao động thuộc diện bị thu hồi đất nông nghiệp vẫn đang là vấn
đề bức thiết cần được quan tâm giải quyết. Chính sách hỗ trợ đào tạo chuyển
đổi nghề nghiệp chưa kịp thời và phù hợp với trình độ và khả năng thực tế của
các thành viên trong các hộ gia đình tái định cư. Đa số có xu hướng bị bần
cùng hóa, dễ dẫn đến nghèo đói. Tình trạng thất nghiệp của người dân tái định
cư trong Khu Kinh tế Dung Quất đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình
an ninh trật tự trên địa bàn Khu Kinh tế. Vấn đề tạo việc làm cho những đối
tượng này để họ ổn định và nâng cao đời sống không thể một sớm một chiều
có thể giải quyết, chính vì thế đòi hỏi chính quyền địa phương cùng với các
cơ quan chức năng phải có chính sách phù hợp, phương thức thực hiện đồng
bộ và hiệu quả hơn.
Tạo việc làm cho người dân tái định cư đóng vai trò rất quan trọng trong
việc giảm thiểu nguy cơ rủi ro cho những người phải tái định cư bắt buộc. Bởi
vì, đây là những người bị tước đi những tài sản, phải thay đổi lối sống, tập
quán sản xuất vốn có của mình... để chuyển đến một môi trường mới với
những điều kiện sản xuất mới, văn hoá mới, cộng đồng mới. Vì thế, họ rất dễ
bị cô lập hoặc bị nghèo đi so với thời điểm trước khi phải tái định cư.
Việc xây dựng và phát triển Khu Kinh tế Dung Quất cũng như những
công trình quốc gia lớn khác là tất yếu trong tiến trình phát triển của nền kinh
tế Việt Nam. Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định mở rộng Khu
Kinh tế Dung Quất từ 10.300 ha lên 45.332 ha và điều đó có nghĩa là vẫn còn
những cộng đồng dân cư sẽ buộc phải di dời để dành mặt bằng cho Khu kinh



3

tế [16]. Từ đó, vấn đề cần đặt ra là làm thế nào để giảm thiểu tối đa những tác
động không mong muốn đối với người dân phải tái định cư, đặc biệt là việc
làm và thu nhập của bản thân và gia đình họ.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn: "Giải pháp tạo việc làm cho các
hộ tái định cư trên địa bàn Khu kinh tế Dung Quất" làm đề tài luận văn
thạc sỹ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, có một số tác giả đề cập đến khía cạnh mà đề
tại nghiên cứu quan tâm, trong đó có:
- Thạc sĩ Nguyễn Thị Lan Hương: “Thị trường lao động Việt Nam: Định
hướng và phát triển”, Nhà xuất bản Lao động - xã hội, 2002. Tác giả đi từ
việc phân tích các luận cư cơ bản định hướng phát triển thị trường lao động
Việt Nam, sự hình thành và phát triển của thị trường lao động Việt Nam. Từ
đó đề xuất các giải pháp định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam
giai đoạn 2001 – 2010 [10].
- GS-TS KH Lê Du Phong (chủ biên), 2007, cuốn sách: “Thu nhập, đời
sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp,
khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng phục vụ
lợi ích quốc gia”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã nêu
một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thu nhập, đời sống, việc làm của người
dân có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia; đánh
giá thực trạng về thu nhập, đời sống, việc làm của họ; làm rõ những tồn tại,
khó khăn. Trên cơ sở đó đã nêu quan điểm và đề ra các nhóm giải pháp chủ
yếu mang tính khả thi đảm bảo việc làm, thu nhập và đời sống của người dân
bị thu hồi đất [14].



4

- TS Nguyễn Tiệp - chủ nhiệm đề tài, 2005, “Xây dựng một số mô hình
Tạo việc làm đối với lao động bị mất việc làm tại các vùng chuyển đổi mục
đích sử dụng đất”, Trường Đại học Lao động - xã hội, 2006. Đề tài đã nêu cơ
sở lý luận của việc xây dựng mô hình tạo việc làm cho lao động mất việc làm
do chuyển đổi mục đích sử dụng đất, đề tài cũng đi sâu phân tích đánh giá tác
động của việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất đối với lao động, việc làm
thông qua 3 địa phương: Ngoại thành Hà Nội, Hải Dương và Vĩnh Phúc. Trên
cơ sở đó, đề tài đã đưa ra quan điểm và một số mô hình tạo việc làm cho
người lao động do chuyển đổi mục đích sử dụng đất kèm theo một số giải
pháp thực hiện [17].
- TS Bùi Thị Ngọc Lan - Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh, “Những vấn đề nảy sinh từ việc thu hồi đất nông nghiệp cho phát
triển đô thị và khu công nghiệp”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội số 8 - 2007. Trên
cơ sở khảo sát những bức xúc trong đời sống người dân sau thu hồi đất để
phát triển đô thị và khu công nghiệp, tác giả đưa ra 6 giải pháp: Rà soát, hoàn
thiện quy hoạch tổng thể về sử dụng đất nông nghiệp; Tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước, các cấp, các ngành trong việc chuyển đổi đất nông
nghiệp sang phát triển công nghiệp và khu đô thị; Đào tạo nghề cho người lao
động nhất là thanh niên nông thôn; Nghiên cứu bổ sung sửa đổi việc thực hiện
chính sách bồi thường đất nông nghiệp; Tổng kết nhân rộng mô hình thực
hiện tốt việc thu hồi đất; Phát triển khu công nghiệp, đô thị mới theo hướng
công viên công nghiệp… Đây thực sự là hướng mở cho các nghiên cứu tiếp
theo sâu hơn về an sinh xã hội từ góc nhìn việc làm cho nông dân sau khi thu
hồi đất để phát triển các khu công nghiệp [11].
- Ths Nguyễn Văn Đại (chủ biên), 2010, Đề tài CB 2009-02-BS, “Vấn
đề dạy nghề cho lao động nông thôn, thực trạng và giải pháp”, Trường Đại
học Lao động - xã hội. Đề tài đã tập trung giải quyết vấn đề bức xúc và mang

tính thời sự hiện nay, đó là vấn đề dạy nghề cho lao động nông thôn [2].


5

3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề việc làm và
tạo việc làm, những nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm, luận văn ứng dụng
phân tích thực trạng tạo việc làm cho các hộ tái định cư trên địa bàn Khu Kinh
tế Dung Quất (Quảng Ngãi). Qua đó, đánh giá đúng thực trạng đời sống và
việc làm của người dân tái định cư trong quá trình xây dựng và triển khai các
dự án tái định cư của Khu Kinh tế Dung Quất nói chung, ở các điểm điều tra
sâu nói riêng. Rút ra được các kết quả, những vấn đề đặt ra cần giải quyết và
những nguyên nhân của chúng.
Đề xuất các biện pháp tạo việc làm cho các hộ tái định cư trên địa bàn
Khu Kinh tế Dung Quất.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề liên quan đến giải quyết
việc làm cho những các hộ tái định cư, bao gồm việc xây dựng và triển khai
các dự án tái định cư và các dự án phát triển kinh tế xã hội khác có liên quan
trực tiếp đến việc làm và thu nhập của các hộ tái định cư trên địa bàn Khu
Kinh tế Dung quất.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu chung
Trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài, chúng tôi dùng phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nhìn nhận, phân tích đánh giá
các vấn đề một cách khoa học và khách quan. Đây cũng là cơ sở của phương
pháp luận để vận dụng các phương pháp chuyên môn được chính xác trong
quá trình nghiên cứu của đề tài.



6

5.2. Các phương pháp cụ thể
- Phương pháp chuyên gia: Phỏng vấn và trao đổi với các chuyên gia về
vấn đề việc làm và tạo việc làm nhằm thu được những kinh nghiệm, nhận xét
và ý kiến của họ về lĩnh vực này và các khía cạnh cụ thể (chính sách hỗ trợ
giải quyết việc làm, quy hoạch, đền bù, di dân,...) trong từng tình huống cụ
thể tại các dự án phát triển đã và đang thực hiện.
- Phương pháp nghiên cứu định lượng dựa trên phân tích mô tả: Trên cơ
sở tài liệu, thông tin thu được, chúng tôi phân tích, đánh giá và đi đến tổng hợp
để đưa ra nhận xét mang tính khái quát và kết luận về tác động của hoạt động
tái định cư tới người dân. Đặc biệt, là những tổng hợp, đánh giá dựa trên cơ sở
thông tin định lượng, dựa trên thông tin thu thập từ điều tra khảo sát một nhóm
(chọn mẫu) dân TĐC trên địa bàn Khu Kinh tế Dung Quất về tác động của
TĐC đến việc làm và thu nhập.
- Điều tra xã hội học:
+ Lựa chon địa bàn điều tra: Dựa trên tính chất điển hình của các xã tái
định cư trên địa bàn, chúng tôi lựa chọn ngẫu nhiên 200 hộ tái định cư ở 3/8
điểm tái định cư tại Khu Kinh tế Dung Quất để nghiên cứu tác động của quá
trình tái định cư đến việc làm của người lao động.
+ Xác định đối tượng điều tra: Các hộ điều tra thuộc nhóm hộ phải di dời
tái định cư đến nơi ở mới trên địa bàn Khu Kinh tế Dung Quất thông qua chọn
mẫu ngẫu nhiên.
+ Kích thước mẫu điều tra: Dựa trên quy mô số hộ của các khu tái định
cư điều tra, chúng tôi lựa chọn số hộ điều tra gồm 200 hộ, là những hộ tái
định cư thuộc các dự án trên địa bàn Khu Kinh tế Dung Quất.
+ Phương pháp điều tra: Phỏng vấn trực tiếp các hộ tái định cư (đối



7

tượng điều tra có chọn lọc về trình độ học vấn, nhận thức xã hội để hạn chế
thông tin lệch lạc của một số thành phần có ý chống đối chính sách chế độ của
Nhà nước, chỉ vì mục đích quyền lợi cá nhân chứ không vì lợi ích chung của
cộng đồng).
+ Phương pháp phân tích kết quả điều tra: Số liệu sau khi thu thập được
tổng hợp và xử lý thông qua phần mềm tính toán Microsoft Excel.
6. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục và Danh mục tài liệu tham khảo,
Đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về tạo việc làm .
Chương 2: Thực trạng về việc làm và tạo việc làm cho các hộ tái định
cư trên địa bàn Khu Kinh tế Dung Quất.
Chương 3:Những giải pháp chủ yếu nhằm tạo việc làm cho các hộ tái
định cư trên địa bàn Khu Kinh tế Dung Quất.


8

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TẠO VIỆC LÀM
1.1. Lao động và đặc điểm của lao động
1.1.1. Lao động
Để tiến hành quá trình quá trình sản xuất phải có các yếu tố nguồn lực
như : Lao động, vốn, đất đai, khoa học công nghệ… Xét ở góc độ đó, nguồn
lực lao động chính là lực lượng lao động.
Có nhiều quan niệm khác nhau về lực lượng lao động, song nhìn chung
đều thống nhất với quan niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) như sau :
Lực lượng lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi và có khả năng lao động

được pháp luật quy định, thực tế đang làm việc và những người thất nghiệp.
Điểm khác nhau giữa các nước trong quan niệm về lực lượng lao động
là ở độ tuổi lao đọng quy định. Có nước quy định tuổi bước vào hoặc bước ra
sớm hơn, có nước lại muộn hơn. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các nước đều
quy định cận dưới của độ tuổi lao động là 15, còn tuổi tối đa thì tùy thuộc vào
tình hình cụ thể của mỗi đất nước.
Ở nước ta, độ tuổi lao động được pháp luật quy định là đủ từ 15 dến 60
tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ.
Như vậy, khái niệm lực lượng lao động trong độ tuổi được sử dụng
trong thống kê nước ta trùng với khái niệm lực lượng lao động của ILO.
1.1.2. Đặc điểm của nguồn lực lao động nước ta
Nguồn lực lao động ở nước ta là một bộ phận không thể tách rời của
dân cư và cộng đồng dân tộc Việt Nam, là chủ thể của công cuộc xây dựng,
bảo vệ và phát triển đất nước. Tiếp thu được những tinh hoa của dân tộc : lòng
yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, yêu lao động, chịu đựng gian khổ, đoàn


9

kết…, nguồn lực lao động nước ta là những điều kiện quan trọng thúc đẩy
nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân về
lịch sử, kinh tế, xã hội, nguồn lực lao động nước ta còn nhiều hạn chế, chưa
đáp ứng được yêu cầu của việc chuyển nền kinh tế giai đoạn công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hòa nhập với thị trường quốc tế… Các nguy cơ, thách thức đối
với nước ta trong quá trình phát triển kinh tê cũng thể hiện ngay trong phạm vi
nguồn lực lao đông. Những hạn chế của nguồn lực lao động nước ta là :
- Chất lượng nguồn lao động thấp : Chất lượng thấp của nguồn lực lao
động nước ta thể hiện rất đa dạng. Trước hết là sự thấp kém về mặt sức khỏe,
thể chất. Số lao động được đào tạo ít, nhiều ngành nghề chuyên môn đào tạo
chưa phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế cả về cơ cấu ngành nghề và chất

lượng chuyên môn.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường, thực hiện hội nhập quốc tê, tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì nguồn lực lao động nước ta càng bộc
lộ những nhược điểm. Điểm đáng quan tâm là nguồn lực lao động nước ta
không chỉ yếu kém về kỹ thuật, công nghệ mà còn yếu kém cả về trình độ tổ
chức, quản lý các hoạt động SXKD.
- Một bộ phận khá lớn lực lượng lao động chưa có việc làm hoặc có
việc làm chưa thường xuyên : Có việc làm vừa giúp cho bản thân người lao
động có thu nhập, vừa tạo điều kiện để phát triển nhân cách con người, lành
mạnh hóa các quan hệ xã hội. Mặc dù những năm qua tỷ lệ lao động thất
nghiệp ở khu vực thành thị và tỷ lệ thời gian lao động không được sử dụng ở
khu vực nông thôn có xu hướng giảm, song vẫn còn ở mức khá cao. Năm
2005, các tỷ lệ tương ứng là 5,3% và 20%. Nếu quy thời gian chưa được sử
dụng trên ra số người thất nghiệp thì tỷ lệ số người chưa có việc làm của nước
ta lên đến khoảng 15%.


10

- Hầu hết lực lượng lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp lại
không phân bố đồng đều giữa các vùng : Cho đến nay, lao động nông nghiệp
vẫn chiếm gần 60% lực lượng lao động cả nước. Hơn nữa, ở nhiều vùng đồng
bằng lực lượng lao động rất đông đảo, trong khi đó nhiều vùng trung du, miền
núi lại rất thiếu lao động. Cơ cấu lao động theo ngành và theo vùng ở nước ta
hiện nay thế hiện trình độ phát triển thấp của nền kinh tế. Bên cạnh việc chủ
động phân bổ nguồn lực lao động lại nguồn lực lao động giữa các vùng do
Nhà nước tiến hành, hiện tượng di dân tự do ở nước ta diễn ra rất phức tạp.
Việc di dân tự do từ nông thôn ra thành thị, từ các tỉnh miền núi, đồng bằng
phía Bắc vào các tỉnh Tây nguyên, Nam Trung Bộ và Nam Bộ gây nên nhiều
hậu quả xấu về kinh tế, xá hội và môi trường sinh thái cần được khắc phục.

Thực tiễn đó đòi hỏi cùng với việc tập trung các biện pháp nâng cao chất
lượng nguồn lực lao động, cần thiết phải xúc tiến khẩn trương việc phân công
lại lao động giữa các ngành và vùng kinh tế cả nước.
- Thu nhập và đời sống của người lao động còn thấp : Trong những
năm đổi mới, thu nhập của các tầng lớp lao động nước ta tăng nhanh, đời sống
của phần lớn dân cư được cải thiện. Tuy vậy, thu nhập và đời sống của người
lao động vẫn rất thấp. Do thu nhập thấp nên hầu hết người lao động, đặc biệt
là công nhân viên chức đều phải tìm việc làm thêm để tăng thu nhập đảm bảo
đời sống. Do đó, họ không còn nhiều thời gian để học tập nâng cao trình độ
văn hóa và chuyên môn kỹ thuật, sẽ ảnh hưởng đến chất lượng lao động và
cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực trong
xã hội. Một khi tiền lương không còn là thu nhập chính, không đủ sống đủ
sống thì khó có thể bắt buộc người lao động chuyên tâm làm công việc chính
được phân công.
- Nguồn lao động tăng nhanh : Do dân số tăng nhanh, dân số trẻ em
chiếm tỷ lệ cao nên hàng năm tốc độ tăng lực lượng lao động rất lớn. Trong


11

những năm qua và nhiều năm tiếp theo, hàng năm lực lượng lao động tăng
thêm hơn một triệu người. Thực tiễn này đòi hỏi vừa phải tiến hành chiến
lược tạo việc làm, vừa thực hiện có hiệu quả cuộc vận động hạ thấp tỷ suất
sinh trong dân cư [9, tr 96-100].
1.1.3. Đặc điểm của lao động TĐC
TĐC

là quá trình di dời, giải tỏa và bố trí nơi ở mới cho một cộng đồng

dân cư. Do đó, điều thay đổi đầu tiên đào tạo đối với các đối tượng tái định cư

là sự thay đổi về chỗ ở. Người dân thường được bố trí để chuyển đến những
nơi ở mới có cơ sở hạ tầng và điều kiện sống hơn, đến các khu chung cư hay
khu tái định cư với các căn hộ và các ngôi nhà khang trang và rộng rãi hơn.
Việc thay đổi chỗ ở dẫn đến hàng loạt những thay đổi khác trong cuộc sống
của người dân tái định cư như : thay đổi về kinh tế (công việc làm ăn, thu
nhập), thay đổi về giáo dục và đào tạo đối với con em họ, thay đổi về các
quan hệ xã hội.
Việc làm của các cá nhân trong các hộ tái định cư là một yếu tố rất
quan trong cần được quan tâm.
Việc chuyển chỗ ở đến khu chung cư hay khu tái định cư còn thưa thớt
gây khó khăn cho công việc mua bán của người dân tái định cư.
Lao động có việc làm tại các công ty, xí nghiệp thì nơi ở mới thường xa
hơn nên chi phí cho việc đi lại tốn kém hơn.
Chi phí sịnh hoạt của người dân tái định cư cũng tăng lên do chỗ ở mới
rộng hơn, tiện nghi hơn, khang trang hơn.
1.2. Nội dung cơ bản về tạo việc làm cho người lao động
1.2.1. Những vấn đề chung về tạo việc làm
1.2.1.1. Việc làm
Việc làm luôn là vấn đề có tính thời sự và là mối quan tâm của mọi


12

Chính phủ, mọi địa phương và mọi tổ chức xã hội. Theo các nhà kinh tế học,
“việc làm được hiểu là sự kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất nhằm
biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của con người” [3, tr.175].
Còn theo điều 13, chương II của Bộ luật Lao động của nước CHXHCN
Việt Nam thì: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp
luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” [8].
Như vậy, khái niệm việc làm mà Bộ luật lao động Nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam đưa ra bao gồm các nội dung sau:
- Thứ nhất là hoạt động đó có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động
và gia đình họ. Điều này thể hiện rõ tính hữu ích và nhấn mạnh tiêu thức tạo
ra nguồn thu nhập của việc làm. Hoạt động đem lại được lượng hóa dưới các
dạng sau:
+ Người lao động nhận được tiền công, tiền lương bằng tiền hoặc hiện
vật từ người sử dụng lao động.
+ Tự đem lại thu nhập cho bản thân thông qua các hoạt động kinh tế mà
bản thân người lao động làm chủ.
+ Đem lại thu nhập cho hộ gia đình mà bản thân người thực hiện công
việc đó là thành viên của hộ gia đình hoặc do gia đình quản lý.
- Thứ hai là hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cấm. Điều này chỉ rõ
tính pháp lý của việc làm. Trong cơ chế thị trường hiện nay, người lao động
được tự do di chuyển nơi làm việc giữa các thành phần kinh tế, được tự do lựa
chọn việc làm hoặc tạo việc làm trong khuôn khổ pháp luật, không bị phân
biệt đối xử cho dù làm việc ở khu vực kinh tế nhà nước hay khu vực kinh tế
ngoài nhà nước.
Hai tiêu chuẩn được nêu trên có quan hệ chặt chẽ với nhau và là điều
kiện cần và đủ của một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Với khái niệm


13

này thì một hoạt động nếu không có đủ hai tiêu chuẩn trên thì sẽ không được
thừa nhận là việc làm.
Tuy nhiên, trên thực tế nếu chỉ căn cứ vào hai tiêu thức là tính hợp pháp
và thu nhập để xác định một hoạt động có được coi là việc làm hay không thì
có những hoạt động khó có thể xác định chính xác được và lại càng khó khăn
hơn trong việc đánh giá vấn đề việc làm. Nếu căn cứ vào tính hợp pháp của
hoạt động thì việc làm phụ thuộc vào pháp luật và thể chế của mỗi quốc gia,

thậm chí ngay trong cùng một quốc gia có những hoạt động ở thời kỳ này
được coi là việc làm nhưng ở thời kỳ khác lại không được coi là việc làm. Ví
dụ: Ở Việt Nam thì hoạt động mại dâm không được coi là việc làm nhưng ở
một số nước như Thái Lan, Philipines thì lại được thừa nhận là việc làm vì
hoạt động này đáp ứng nhu cầu của một số nhóm người trong xã hội và đem
lại thu nhập cho người bán dâm và hoạt động này được luật pháp bảo hộ, quản
lý, được Bộ Y tế và các cơ quan quản lý sức khỏe của những nước này theo
dõi, kiểm tra sức khỏe định kỳ và cấp giấy phép hành nghề. Mặt khác, nếu
căn cứ vào thu nhập đem lại cho người lao động thì có nhiều loại hoạt động
có ích cho xã hội, gia đình cộng đồng nhưng không tạo ra thu nhập hoặc góp
phần tạo ra thu nhập. Ví dụ như cùng là công việc nội trợ với thời gian như
nhau nhưng một người làm công việc nội trợ của gia đình có ích cho gia đình
(vì gia đình không phải thuê người giúp việc và các thành viên trong gia đình
có thể yên tâm đi làm việc kiếm tiền bên ngoài) nhưng không được trả công,
không tạo ra thu nhập nên không được coi là việc làm nhưng cũng với công
việc như vậy một người đi làm giúp việc cho gia đình khác và được trả công
thì lại được coi là việc làm. Như vậy có thể thấy với cách tiếp cận này khái
niệm việc làm chưa thể khái quát được bản chất của việc làm. Vì vậy, đã có
những tác giả có cách tiếp cận khác về việc làm.
Theo giáo trình kinh tế lao động của Khoa KTLĐ - Trường Đại học


14

Kinh tế Quốc dân Hà Nội, khái niệm việc làm được hiểu là: “Việc làm là
trạng thái phù hợp về số lượng và chất lượng giữa tư liệu sản xuất với sức
lao động, để tạo ra hàng hóa theo yêu cầu của thị trường”.
Như vậy theo khái niệm này có thể hiểu việc làm là một phạm trù để
chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất hoặc những
phương tiện để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Theo quan

điểm này việc làm có các đặc trưng sau:
Một là, việc làm là sự biểu hiện quan hệ của hai yếu tố sức lao động
(V) và tư liệu sản xuất (C ).
Hai là, mang lại lợi ích (vật chất và tinh thần) cho xã hội.
Ba là, việc làm đó là trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản
xuất hoặc những phương tiện mà họ sử dụng để thực hiện hoạt động. Sự phù
hợp được thể hiện ở cả hai mặt số lượng và chất lượng. Trạng thái phù hợp
này có thể được biểu hiện bằng mối quan hệ: C/V
Trong đó:
C: Đơn vị tư liệu sản xuất.
V: Đơn vị lao động.
Như vậy, chỉ khi ở đâu có sự phù hợp của hai yếu tố sức lao động và tư
liệu sản xuất (hoặc phương tiện sản xuất) thì ở đó có việc làm. Từ mối quan
hệ này cho thấy tỷ lệ một đơn vị sức lao động có thể vận hành bao nhiêu đơn
vị tư liệu sản xuất (thường biểu hiện ở chỉ tiêu suất đầu tư cho một chỗ làm
việc). Tỷ lệ phụ thuộc vào từng ngành nghề, từng nơi làm việc. Mặt khác
trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất chỉ có tính chất tương
đối và thường xuyên thay đổi do tiến bộ khoa học kỹ thuật hay trình độ phát
triển của quan hệ sản xuất, theo hướng một đơn vị lao động sống sẽ vận hành
ngày càng nhiều hơn số lao động vật hóa. Khi chuyển từ trạng thái phù hợp


15

này sang trạng thái phù hợp khác, thông thường sẽ giảm bớt chi phí lao động,
từ đó dẫn đến tình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm.
Như vậy có thể thấy sự phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất
được thể hiện ở một số dạng như:
- Dạng tối ưu : Sử dụng triệt để tiềm năng về lao động và các điều kiện
vật chất. Sự phù hợp này sẽ dẫn đến việc làm hợp lý, hiệu quả nhất.

- Dạng chấp nhận được: Trong trường hợp này chủ yếu mới chỉ sử dụng
hết thời gian lao động mà chưa tính đến hiệu quả của việc làm (việc làm trong
trường hợp này còn gọi là việc làm đầy đủ).
Sự không phù hợp giữa hai yếu tố này được biểu hiện dưới các dạng:
- Một bộ phận người lao động bị tách khỏi quy trình sản xuất trở thành
người không có việc làm hoặc thất nghiệp hữu hình. (Không có việc làm hay
thất nghiệp hữu hình là sự tồn tại một bộ lực lượng lao động có khả năng và
sẵn sàng làm việc nhưng không tìm được việc làm).
- Một bộ phận thời gian lao động không được sử dụng hết và người lao
động trở thành thiếu việc làm hoặt thất nghiệp trá hình. (Thiếu việc làm hay
thất nghiệp trá hình là những người làm việc ít hơn mức mà mình mong
muốn. Thiếu việc làm hay thất nghiệp trá hình được biểu hiện dưới hai dạng:
Một là, người lao động không có đủ việc làm theo thời gian quy định trong
tuần hoặc tháng. Hai là, làm những công việc có thu nhập quá thấp không
đảm bảo cuộc sống nên muốn làm việc thêm để có thu nhập).
Việc làm, thiếu việc làm và thất nghiệp là những phạm trù gắn liền với
người có khả năng lao động. Vậy, thế nào là người có việc làm, người thiếu
việc làm và người thất nghiệp? Những khái niệm này được hiểu như sau:
Người có việc làm:


16

Tại Hội nghị Quốc tế lần thứ 13 các nhà thống kê về lao động của tổ
chức lao động ILO đưa ra quan niệm về người có việc làm như sau:
- Người có việc làm: là người làm một việc gì đó có được trả tiền công,
lợi nhuận bằng tiền hay hiện vật hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính
chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không nhận tiền công
hay hiện vật.
Còn theo tài liệu điều tra lao động việc làm của Bộ LĐTB&XH thì khái

niệm người có việc làm được hiểu như sau:
- Người có việc làm: là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt
động kinh tế mà trong tuần lễ trước điều tra được xác định trên các yếu tố sau:
+ Đang làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hay lợi nhuận bằng
tiền hay hiện vật.
+ Đang làm công việc không được hưởng tiền lương, tiền công hay lợi
nhuận trong các công việc sản xuất kinh doanh của hộ gia đình mình.
+ Đã có công việc trước đó, song trong tuần lễ trước điều tra tạm thời
không làm việc và sẽ trở lại tiếp tục làm việc ngay sau thời gian tạm nghỉ việc.
Người thiếu việc làm:
Khái niệm người thiếu việc làm cũng được nhiều tác giả đề cập đến. Cụ thể:
Theo Tổ chức lao động quốc tế ILO:
Người thiếu việc làm là người có số giờ làm việc trong tuần lễ điều tra
dưới mức quy định chuẩn và họ có nhu cầu làm thêm.
Người thiếu việc làm có hai dạng:
+ Người thiếu việc làm vô hình (dạng không nhìn thấy được) là người
có thời gian làm việc tuy đủ hoặc vượt mức chuẩn quy định về đủ số giờ làm
việc trong tuần lễ tham khảo nhưng việc làm có năng suất thu nhập thấp, công
việc không phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ và họ có nhu cầu tìm kiếm


17

việc làm thêm hoặc việc làm khác.
+ Người thiếu việc làm hữu hình (dạng nhìn thấy được) là người có
việc làm nhưng số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo dưới mức quy định
chuẩn và họ có nhu cầu làm thêm.
Tổ chức lao động quốc tế ILO cũng khuyến nghị các nước nên dùng
khái niệm người thiếu việc làm hữu hình (dạng nhìn thấy được) còn dạng
người thiếu việc làm vô hình rất khó xác định. Việc quy định mức chuẩn về

đủ số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo tùy theo tình hình cụ thể của mỗi
nước. Ví dụ: Mức quy định chuẩn về đủ thời gian làm việc trong tuần tham
khảo của một số nước nhu sau:
(+) Ở Ecuado, Nigeria, Thổ Nhĩ Kỳ: 40 giờ
(+) Ở Nhật Bản, Úc

: 35 giờ

(+) Ở Canada, Jamaica

: 30 giờ

(+) Ở Malaysia

: 25 giờ

Ở Việt Nam, tiêu chuẩn này được quy định là 40 giờ. Cụ thể:
Theo hướng dẫn điều tra lao động việc làm hàng năm của Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội thì: “Người thiếu việc làm là những người có số giờ
làm việc trong tuần lễ điều tra dưới 40 giờ và họ có nhu cầu làm thêm”.
Thất nghiệp:
Theo khái niệm của Tổ chức lao động Quốc tế (ILO), thất nghiệp (theo
nghĩa chung nhất) là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi muốn có
việc làm nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công nhất định[7].
Các hình thức thất nghiệp :
+ Thất nghiệp hữu hình
+ Thất nghiệp trá hình.
Thất nghiệp hữu hình là tình trạng thất nghiệp chủ yếu ở khu vực thành



18

thị. Người thất nghiệp là thanh niên chiếm tỷ lệ cao. Theo báo cáo của ILO
(2004), tỷ lệ thất nghiệp trong thanh niên ở các nước đang phát triển cao hơn
3,3 lần so với lứa tuổi khác.
Thất nghiệp trá hình hay còn gọi là thiếu việc làm là một trong những
đặc trưng cơ bản của nền kinh tế nông nghiệp, chậm phát triển. Trong khu vực
thành thị, dạng thất nghiệp này tồn tại dưới dạng khác nhau như: làm việc với
năng suất thấp, không góp phần tạo ra thu nhập cho xã hội mà chủ yếu chỉ tạo
thu nhập đủ sống (nhiều khi dưới mức sống tối thiểu). Dạng thất nghiệp này
còn được gọi là thất nghiệp vô hình.
Cũng theo tài liệu điều tra lao động việc làm hàng năm của Bộ
LĐTB&XH thì khái niệm người thất nghiệp được hiểu như sau:
Người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên thuộc nhóm dân số
hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ điều tra không có việc làm nhưng có nhu
cầu làm việc và sẵn sàng làm việc nhưng không tìm được việc làm, được xác
định trên các yếu tố sau:
+ Có hoạt động đi tìm việc làm trong 4 tuần qua; hoặc không có hoạt
động đi tìm việc làm trong 4 tuần qua vì các lý do không biết tìm việc ở đâu
hoặc tìm mãi mà không được.
+ Hoặc trong tuần lễ trước điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8 giờ.
Muốn làm thêm nhưng không tìm được việc.
Trong các khái niệm người có việc làm, người thiếu việc làm, người
thất nghiệp nêu trên thì tác giả đồng tình với các khái niệm người có việc làm,
người thiếu việc làm và người thất nghiệp của tài liệu điều tra lao động việc
làm hàng năm của Bộ LĐTB&XH và sử dụng làm căn cứ để phân tích thực
trạng việc làm, tạo việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh


19


trong những năm qua để trên cơ sở đó đề ra những giải pháp tạo việc làm cho
người lao động trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010.
Các tỷ lệ người có việc làm, người thiếu việc làm, người thất nghiệp
theo thống kê sử dụng trong luận văn được tính dựa vào các số liệu điều tra
thực trạng lao động việc làm hàng năm. Các thước đo này được hiểu như sau:
- Tỷ lệ người có việc làm: là tỷ lệ phần trăm của số người có việc làm
so với lực lượng lao động.
- Tỷ lệ người thiếu việc làm: là tỷ lệ phần trăm của số người thiếu việc
làm so với lực lượng lao động.
- Tỷ lệ người thất nghiệp: là tỷ lệ phần trăm của số người thất nghiệp
so với lực lượng lao động.
1.2.1.2. Một số lý thuyết về tạo việc làm
Cơ chế quản lý lao động, việc làm là một bộ phận cấu thành của cơ chế
quản lý kinh tế, trong đó Nhà nước kết hợp với thị trường nhằm thiết lập quan
hệ cung cầu về lao động, việc làm. Để điều tiết, tạo lập việc làm nhằm thực
hiện mục tiêu kinh tế - xã hội đã hoạch định, các nhà nghiên cứu kinh tế đã
phân tích một số lý thuyết kinh tế trong lĩnh vực việc làm, đó là:
a) Lý thuyết tạo việc làm của John Maynard Keynes
J.M. Keynes (1883- 1946) là nhà kinh tế người Anh, tác giả đã xem xét
việc làm trong mối quan hệ giữa sản lượng - thu nhập - tiêu dùng - đầu tư tiết kiệm- việc làm. Theo ông, xét trong một nền kinh tế, khi sản lượng tăng,
thu nhập tăng, đầu tư tăng thì việc làm tăng và ngược lại. Xu hướng chung
của người dân là khi tổng thu nhập tăng thì tiêu dùng cũng tăng, nhưng tốc độ
tăng tiêu dùng chậm hơn so với tăng thu nhập và có khuynh hướng tiết kiệm
một phần thu nhập, làm cho cầu tiêu dùng thực tế giảm tương đối so với thu
nhập dẫn đến một bộ phận hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng không có khả năng
bán được. Dư thừa hàng hóa là nguyên nhân gây ra khủng hoảng, ảnh hưởng


20


tới quy mô sản xuất ở chu kỳ tiếp theo, nên việc làm giảm, thất nghiệp tăng.
Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, khi quy mô đầu tư tư bản tăng thì hiệu
quả giới hạn của tư bản đầu tư có xu hướng giảm sút tạo nên giới hạn chật hẹp
về thu nhập của doanh nhân trong đầu tư tương lai. Doanh nhân chỉ tích cực
mở rộng đầu tư khi hiệu quả giới hạn của tư bản lớn hơn lãi suất. Còn khi
hiệu quả giới hạn của tư bản nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất thì họ không tích cực
đầu tư nên quy mô sản xuất bị thu hẹp, dẫn đến việc làm giảm, thất nghiệp
tăng. Để tăng việc làm, giảm thất nghiệp, phải tăng tổng cầu của nền kinh tế.
Chính phủ có vai trò kích thích tiêu dùng (tiêu dùng sản xuất và phi sản xuất)
để tăng tổng cầu thông qua tăng trực tiếp các khoản chi tiêu của chính phủ,
hoặc thông qua các chính sách của Chính phủ nhằm khuyến khích đầu tư của
tư nhân, của các tổ chức kinh tế xã hội. Keynes còn sử dụng các biện pháp: hạ
lãi suất cho vay, giảm thuế, trợ giá đầu tư, in thêm tiền giấy để cấp phát cho
ngân sách nhà nước nhằm tăng đầu tư và bù đắp các khoản chi tiêu của Chính
phủ. Ông chủ trương tăng tổng cầu của nền kinh tế bằng mọi cách, kể cả
khuyến khích đầu tư vào các hoạt động ăn bám nền kinh tế như: sản xuất vũ
khí đạn dược, chạy đua vũ trang, quân sự hoá nền kinh tế.
Lý thuyết về việc làm của J.M Keynes được xây dựng dựa trên các giả định
đúng với các nước phát triển, nhưng không hoàn toàn phù hợp với các nước
đang phát triển. Bởi vì hầu hết các nước nghèo, nguyên nhân khó khăn cơ bản để
gia tăng sản lượng, tạo việc làm không phải do tổng cầu không đủ cao. Ở các
nước đang phát triển, khi tổng cầu tăng sẽ kéo theo tăng giá cả, dẫn đến lạm
phát. Vì thế, biện pháp tăng tổng cầu để tăng quy mô sản xuất, tạo việc làm
không đúng với mọi quốc gia, trong mọi thời kỳ. Mặt khác, nếu tạo việc làm cho
khu vực thành thị và một số trung tâm công nghiệp bằng cách tăng tổng cầu sẽ
tạo ra làn sóng di dân từ nông thôn ra thành thị và tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị gia
tăng. Điều này có thể làm suy giảm việc làm và sản lượng quốc dân của cả nước.



21

b) Mô hình lý thuyết tăng việc làm bằng gia tăng sản lượng quốc dân
Các nước đang phát triển thường có lợi thế về nguồn lao động dồi dào.
Để tăng việc làm, họ thực hiện các biện pháp tối đa hoá mức thu hút lao động
bằng cách tối đa hoá tốc độ tăng trưởng GDP. Theo mô hình này hiệu quả
tăng trưởng kinh tế là kết quả tổng hợp của tăng sản lượng và việc làm chứ
không thuần tuý là năng suất lao động. Các chính sách vĩ mô của Chính phủ
hướng mạnh vào tăng cầu lao động để tăng việc làm.
c) Lý thuyết của Harry Toshima
Theo Harry Toshima, lý thuyết của Athur Lewis không có ý nghĩa thực tế
với tình trạng dư thừa lao động trong nông nghiệp ở các nước châu á gió mùa.
Bởi vì, nền nông nghiệp lúa nước vẫn thiếu lao động lúc đỉnh cao của thời vụ
và chỉ dư thừa lao động trong mùa nhàn rỗi. Vì vậy, ông cho rằng cần giữ lại
lao động nông nghiệp và chỉ tạo thêm việc làm trong những tháng nhàn rỗi
bằng cách tăng vụ, đa dạng hoá cây trồng vật nuôi...Đồng thời, sử dụng lao
động nhàn rỗi trong nông nghiệp vào các ngành sản xuất công nghiệp cần
nhiều lao động. Việc tạo thuận lợi hơn nữa để có việc làm đầy đủ cho mọi
thành viên gia đình nông dân trong những tháng nhàn rỗi sẽ nâng cao mức thu
nhập hàng năm của họ và sẽ mở rộng được thị trường trong nước cho các ngành
công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, lực lượng lao động sẽ được sử dụng hết.
d) Lý thuyết về tạo việc làm bằng di chuyển lao động của Todaro
Lý thuyết của Todaro nghiên cứu sự di chuyển lao động trên cơ sở thực
hiện điều tiết thu nhập, tiền lương giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Theo
ông, những người lao động ở khu vực nông thôn có thu nhập trung bình thấp.
Họ lựa chọn quyết định di chuyển lao động từ vùng có thu nhập thấp sang khu
vực thành thị có thu nhập cao hơn. Như vậy, quá trình di chuyển lao động
mang tính tự phát, phụ thuộc vào sự lựa chọn, quyết định của các cá nhân.



22

Điều này làm cho cung cầu về lao động ở từng vùng không ổn định, gây khó
khăn cho chính phủ trong việc quản lý lao động và nhân khẩu.
Các lý thuyết về việc làm nêu trên đều tập trung nghiên cứu, xác định ối
quan hệ cung cầu lao động tác động đến việc làm. Những lý luận đó chưa làm
rõ vai trò của Chính phủ thông qua hệ thống các chính sách kinh tế kết hợp
với chính sách xã hội để tạo việc làm ổn định cho nền kinh tế, nhưng có tác
dụng gợi mở cho chúng ta khi phân tích thực trạng việc làm và đề ra những
giải pháp phù hợp tạo việc làm cho người lao động.
1.2.1.3. Tạo việc làm, chính sách tạo việc làm và sự cần thiết phải tạo
việc làm cho người lao động
Tạo việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của mọi quốc
gia nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Hội nghị
thượng đỉnh Copenhagen tháng 3 năm 1995 đã coi mở rộng việc làm là một
trong những nội dung cơ bản nhất của chiến lược phát triển xã hội của các
nước trên thế giới đến năm 2010.
Đối với nước ta, tạo thêm việc làm cho người lao động, kiềm chế thất
nghiệp ở tỷ lệ thấp là một trong những mục tiêu kinh tế vĩ mô mà Nhà nước
thường xuyên quan tâm thực hiện.
Tạo việc làm, theo nghĩa rộng, bao gồm những vấn đề liên quan đến việc
phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn nhân lực. Quá trình đó diễn ra từ
việc giáo dục, đào tạo và phổ cập nghề nghiệp, chuẩn bị cho người lao động
đến tuổi lao động, tự do lao động và hưởng thụ xứng đáng với giá trị lao động
mà họ đã tạo ra.
Tạo việc làm theo nghĩa hẹp chủ yếu hướng vào đối tượng thất nghiệp,
chưa có việc làm hoặc thiếu việc làm nhằm tạo thêm chỗ làm cho người lao
động, duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp.



23

Chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các mục tiêu,
các giải pháp và công cụ nhằm sử dụng lực lượng lao động (LLLĐ) và tạo
việc làm cho LLLĐ đó [6].
Nói cách khác, chính sách tạo việc làm là sự thể chế hoá pháp luật của
Nhà nước trên lĩnh vực lao động và việc làm, là hệ thống các quan điểm,
phương hướng, mục tiêu và các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao
động.
Chính sách tạo việc làm vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có ý nghĩa về
mặt chính trị và xã hội. Việc hoạch định và thực hiện không tốt chính sách tạo
việc làm sẽ dẫn đến những hậu quả, những thiệt hại trực tiếp cả về kinh tế
(không sử dụng hết tiềm năng lao động để phát triển kinh tế xã hội) và cả về
chính trị, xã hội cho đất nước (Ví dụ: Thất nghiệp tăng thì tệ nạn xã hội cũng
tăng; thất nghiệp đồng hành với đói nghèo...).
Chính sách tạo việc làm có mối quan hệ biện chứng với các chính sách
kinh tế và các chính sách xã hội khác, đặc biệt là mối quan hệ chặt chẽ với các
chính sách như: Chính sách dân số; chính sách giáo dục - đào tạo, chính sách
cơ cấu kinh tế, chính sách công nghệ. Có thể nhận thấy rằng: Giáo dục đào
tạo tốt thì cơ hội việc làm tăng; giảm tốc độ tăng dân số sẽ khắc phục được
tình trạng thất nghiệp về lâu dài. Việc phát triển các ngành nghề sản xuất, các
lĩnh vực, các doanh nghiệp quy mô nhỏ sử dụng nhiều lao động ở cả nông
thôn lẫn thành thị là một vấn đề được tính toán đến khi xây dựng chính sách
cơ cấu kinh tế (theo ngành, theo vùng lãnh thổ hoặc theo thành phần kinh tế).
Việc lựa chọn các công nghệ sản xuất phù hợp sử dụng nhiều lao động đôi khi
có hiệu quả kinh tế - xã hội hơn là nhập những công nghệ quá hiện đại (sử
dụng ít lao động và sử dụng lao động trình độ cao).
Việc làm và tạo việc làm có một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát
triển của một nền kinh tế, bởi vì sự phát triển kinh tế phụ thuộc vào vấn đề sử
dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực và nguồn



24

vốn. Trong đó, việc sử dụng nguồn nhân lực có vai trò quan trọng và quyết
định sự phát triển đó.
Tạo việc làm cho người lao động chính là việc khai thác và sử dụng có
hiệu quả nguồn lực con người. Trong toàn bộ sự phát triển của xã hội, con
người luôn luôn tồn tại với hai tư cách: vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu trong
hoạt động của mình. Với tính cách là chủ thể, con người thực hiện sự phát
triển kinh tế - xã hội mà trước hết là phát triển lực lượng sản xuất. Với tính
cách là mục tiêu, con người hưởng thụ những thành quả của sự phát triển đó.
Như chúng ta đã biết, có việc làm đồng nghĩa với có thu nhập. Vì vậy, tạo
việc làm cho người lao động, tức là đảm bảo đồng thời ba lợi ích: Nhà nước,
tập thể và cá nhân người lao động. Ngược lại, nếu không có việc làm thì
người lao động không tạo ra thu nhập, không cống hiến được sức lực của
mình dẫn đến giảm nhu cầu hưởng thụ, cản trở sự phát triển của kinh tế.
Bất kỳ một đất nước nào giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao
động thì đất nước đó nhất định có nền kinh tế phát triển nhanh chóng, ngay cả
khi quốc gia đó có nhiều điều kiện tự nhiên không thuận lợi, ít tài nguyên,
thậm chí hay bị thiên tai đe dọa. Nhật Bản là một ví dụ, từ một nước bại trận
trong chiến tranh thế giới lần II đã vươn lên thành cường quốc kinh tế thứ hai
trên thế giới chỉ trong vòng 2 thập kỷ, với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung
bình hàng năm đạt 9% trong các năm 1955- 1960, gần 10% trong các năm
1960 - 1965 và 11,6% trong các năm 1965- 1970. Nhật Bản luôn luôn coi
trọng nguồn lực con người trong việc khôi phục và phát triển kinh tế, giải
quyết tốt việc làm cho người lao động để từ đó tận dụng triệt để cả thể lực và
trí lực con người cho công cuộc phát triển kinh tế.
Vấn đề việc làm và tạo việc làm là một trong những vấn đề có tính chất
toàn cầu, là mối quan tâm rất lớn không những của nước ta mà là tất cả các

nước trên thế giới. Việc làm có ý nghĩa to lớn trong việc làm ra của cải vật


25

chất để nuôi sống con người. Tạo việc làm cho người lao động giúp họ có thu
nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo điều kiện thỏa mãn các nhu cầu chính
đáng về vật chất và tinh thần của người lao động, ngày một nâng cao chất
lượng cuộc sống, nâng cao vị thế của người lao động trong gia đình và ngoài
xã hội.
Tạo việc làm cho lao động không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà
còn có ý nghĩa về mặt xã hội. Nếu không có việc làm, thất nghiệp sẽ tăng, đó
là nguồn gốc của các tệ nạn xã hội như: trộm cắp, cờ bạc, ma túy…Như vậy,
tạo việc làm không những góp phần đẩy lùi được các tệ nạn xã hội mà còn
có thể kích thích người lao động sáng tạo, thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy xã hội
phát triển, đảm bảo công bằng xã hội.
Vấn đề tạo việc làm cho lao động là vấn đề cần thiết trong mọi thời kỳ,
đặc biệt đối với đối tượng lao động trong diện giải tỏa đất nông nghiệp do quá
trình đô thị hóa thì vấn đề này càng trở nên bức thiết vì họ là những người có
trình độ chuyên môn thấp, khả năng tìm việc làm và chuyển đổi nghề nghiệp
thường thấp hơn so với các đối tượng khác.
Trong quá trình phát triển và thực hiện hiện các dự án phát triển kinh tế,
nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các công trình đô thị, KCN,
KCX, KKT phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hàng
nghìn hộ nông dân kéo theo hàng vạn nhân khẩu nông nghiệp mất tư liệu sản
xuất dẫn tới mất việc làm, cuộc sống và thu nhập của họ gặp không ít khó
khăn. Một bộ phận nông dân có kiến thức, có trình độ đã chủ động mở mang
các ngành nghề, dịch vụ, phát triển tiểu thủ công nghiệp… tạo việc làm và có
cuộc sống ổn định. Song bên cạnh đó còn rất nhiều hộ còn lúng túng trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế do họ không bắt kịp với cơ chế thị trường, trình độ

thấp, không có nghề, hay tuổi đời cao…họ gặp phải nhiều khó khăn trong
việc tìm và tạo việc làm mới.


×