VAI TRÒ VÀ SỰ VẬN DỤNG LÝ THUYẾT
lượng kiến thức lý thuyết mà sinh viên
TRONG NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC
phải nghiên cứu càng lớn. Nền tảng lý
thuyết vững vàng là yêu cầu tất yếu đối
với những người làm khoa học, nhất là
Th.s Nguyễn Văn Đáng
những ai theo đuổi thiên hướng nghiên
cứu hàn lâm. Bài viết này sẽ trình bày
quan điểm cá nhân của tác giả về vai trò
1. Đặt vấn đề.
và sự vận dụng lý thuyết trong nghiên cứu
Bất cứ một lĩnh vực khoa học nào
khoa học xã hội học.
cũng phải có lý thuyết. Nghiên cứu khoa học
2. Những vấn đề từ thực tiễn.
là phải dựa trên cơ sở lý thuyết và sản phẩm
Thực tế vận dụng lý thuyết trong
cuối cùng, quan trọng nhất của nghiên cứu
các nghiên cứu xã hội học ở Việt Nam
1
khoa học chính là các lý thuyết . Tri thức lý
hiện nay cho thấy những biểu hiện đáng
thuyết - những luận điểm khoa học được khái
quan tâm. Chẳng hạn, có học viên cao học
quát lên từ thế giới tự nhiên và xã hội mà con
XHH đã cho rằng: “theo em, một luận văn
người đang sống - là sự chắt lọc từ hàng ngàn
cao học chỉ cần dùng hai lý thuyết là
nghiên cứu thực nghiệm, là sự kêt tinh trí tuệ
đủ!”. Nếu tư duy như vậy thì rất có thể
của nhiều thế hệ các nhà khoa học. Đến lượt
luận án tiến sỹ sẽ cần đến 4 hoặc 5 lý
mình, mỗi nhà khoa học lại sử dụng lý thuyết
để làm điểm tựa cho các nghiên cứu và sự
đóng góp của họ cho khoa học (nếu có) chính
thuyết! Phổ biến hơn là tình trạng trình
bày tràn lan hàng loạt lý thuyết trong một
nghiên cứu nhưng lại không hề có sự gắn
là sự bổ sung vào kho tàng lý thuyết. Bởi
kết giữa các lý thuyết với nhau hoặc giữa
vậy, hàng năm, khi công bố danh sách các
lý thuyết với nghiên cứu đó2. Chẳng hạn,
nhà khoa học đoạt giải Nobel thi tên tuổi của
có những tác giả đã áp dụng đồng loạt
họ luôn gắn liền với một lý thuyết nào đó
thuyết cấu trúc - chức năng, quan điểm
mới được công bố. Trong các chương trình
duy vật biện chứng, thuyết xung đột, quan
đào tạo, trình độ càng cao (Th.s; TS) thì khối
2
1
Vũ Cao Đàm (2007): “Phương pháp luận nghiên cứu khoa
học”, tr 29. NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
Vì lý do tế nhị tôi không nêu dẫn chứng. Bạn đọc quan
tâm có thể tham khảo các luận án TS, đề tài khoa học tại
thư viện các cơ sở đào tạo, nghiên cứu xã hội học.
1
điểm, đường lối của Đảng…vv trong nghiên
kho tàng tri thức này liên tục được vun
cứu của mình. Thật khó hình dung tác giả lại
đắp, được bổ sung trong quá trình phát
có thể kết hợp nhiều lý thuyết trong một
triển của xã hội học. Do mới được du
nghiên cứu. Bởi lẽ, quan điểm cấu trúc - chức
nhập vào Việt Nam chưa lâu cho nên sự
năng vốn có xu hướng bảo thủ, muốn bảo vệ
phát triển các nghiên cứu xã hội học đến
cái trật tự xã hội hiện có nhưng ngược lại,
nay còn thiên về mảng nghiên cứu thực
quan điểm xung đột nhấn mạnh mâu thuẫn và
nghiệm, ứng dụng. Hiện tượng này không
coi đó là tác nhân quan trọng nhất của sự
chỉ xuất hiện trong các chương trình
biến đổi xã hội. Một bên muốn duy trì trật tự
nghiên cứu của cơ quan quản lý nhà nước
và sự ổn định xã hội còn một bên lại ủng hộ
mà còn khá phổ biến ở một bộ phận đáng
việc giải quyết mâu thuẫn và thay đổi xã hội.
kể cán bộ nghiên cứu trong giới học thuật.
Việc giới thiệu rất nhiều lý thuyết, thậm chí
Theo đó, cứ nghiên cứu là phải đề xuất
các lý thuyết đối nghịch nhau như vậy là
giải pháp, chính sách. Hiện tượng này phổ
bằng chứng cho thấy nhiều tác giả đã không
biến đến mức có cảm giác một bộ phận
làm chủ được kiến thức lý thuyết, tức là chưa
cán bộ nghiên cứu đã bỏ quên chức năng
biết cách sử dụng lý thuyết trong nghiên cứu
chinh của nhà khoa học (scientists - sản
xã hội học. Thực tế, tác giả chỉ trình bày các
xuất tri thức) để làm thay chức năng của
luận điểm lý thuyết chứ chưa vận dụng các
nhà lập chính sách (policy makers – xây
lý thuyết đó trong nghiên cứu của mình, chưa
dựng chính sách). Hậu quả của tình trạng
gắn kết được lý thuyết với thực nghiệm. Hậu
này là sự thiếu vắng các công trình nghiên
quả: cơ sở lý luận một đằng, kết quả thực
cứu lý luận có thể trở thành dấu mốc cho
nghiệm một nẻo, các phân tích mang nặng
sự phát triển của khoa học xã hội học ở
tính chất suy diễn chủ quan! Theo quan điểm
Việt Nam.
cá nhân, tôi cho rằng có mấy nguyên nhân
chính sau đây:
Hai là: trong các trường đại học
đào tạo xã hội học, người ta chủ yếu trình
Một là: Tất cả các lý thuyết xã hội
bày nội dung các lý thuyết cho sinh viên
học đều do các tác giả châu Âu (nhất là Tây
chứ chưa dạy họ cách vận dụng lý thuyết
Âu) sáng tạo ra từ cách đây hơn 200 năm và
như thế nào trong một nghiên cứu cụ thể.
2
Do đó, ở phần lý luận, sinh viên cứ trình bày
thuyết chức năng về gia đình, về biến đổi
K. Mark nói rằng, Durkheim và Weber cho
xã hội hoặc về tội phạm và tệ nạn xã
rằng hay Talcott Parson nói rằng…. nhưng
hội…vv. Trong các chương trình đào tạo
đến phần phân tích, lý giải và đề xuất chính
xã hội học, sinh viên được giới thiệu khá
sách thì người đọc lại không thấy bóng dáng
kỹ về các khuynh hướng lý thuyết tổng
tinh thần của các lý thuyết đâu cả. Thay vào
quát nhưng phần lý thuyết chuyên biệt
đó, các phân tích còn nặng về mô tả mà ít sự
gắn với từng lĩnh vực nghiên cứu cụ thể
nghiền ngẫm, phân tích theo chiều sâu. Sinh
còn tỏ ra hạn chế. Theo tôi, đây chính là
viên cũng không được khuyến cáo về nguồn
căn nguyên của tình trạng, sinh viên chỉ
gốc châu Âu của các lý thuyết xã hội học. Họ
trình bày những nét chung chung của lý
được giới thiệu và hiển nhiên áp dụng vào
thuyết đại cương mà không thể vận dụng
nghiên cứu xã hội Việt Nam cứ như là các lý
lý thuyết, thậm chí vận dụng sai lý thuyết
thuyết đó được sinh ra ở Việt Nam. Các
trong nghiên cứu cụ thể của mình. Chẳng
nghiên cứu kiểm định lý thuyết hoàn toàn
hạn, có NCS đã vận dụng quan điểm của
không được đề cập đến trong các buổi thuyết
Randal Collin và K.Mark để nghiên cứu
trình của chuyên gia tại các cơ sở đào tạo.
và giải quyết tranh chấp nảy sinh giữa
Ba là: Có thể chia lý thuyết xã hội
người nông dân bị thu hồi đất và doanh
học ra thành hai bộ phận: lý thuyết xã hội
nghiệp cũng như chính quyền sở tại. Đây
học đại cương (tổng quát) và lý thuyết xã hội
đích thực là sự vận dụng hết sức nguy
học chuyên biệt. Cùng là các khuynh hướng
hiểm tư tưởng xung đột vào việc giải
lý thuyết (thuyết chức năng, thuyết xung đột,
quyết một vấn đề thực tiễn trong bối cảnh
thuyết tương tác biểu trưng, thuyết nữ quyền,
Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, cũng phải
thuyết sự lựa chọn hợp lý…) nhưng khi vân
thừa nhận thực tế là, do lịch sử còn rất
dụng vào các lĩnh vực khác nhau thì nội dung
non trẻ, nhiều cán bộ nghiên cứu xã hội
các lý thuyết cũng có những điểm khác nhau.
học mới chỉ tiếp cận các lý thuyết đại
Chẳng hạn, cùng là thuyết cấu trúc chức năng
cương
nhưng nội dung của thuyết này sẽ thay đổi
Durkheim, Weber, Mark…) mà phần kiến
theo từng lĩnh vực nghiên cứu, đó có thể là
thức lý thuyết chuyên biệt còn rất hạn chế.
(kiểu
như
quan
điểm
của
3
2. Lý thuyết khoa học là gì? Vận
phải bao gồm hai bộ phận thiết yếu, đó là
dụng lý thuyết trong nghiên cứu xã hội
lý thuyết và thực nghiệm (Ferrante, 2006:
học như thế nào?
34). Theo tôi, “Lý thuyết xã hội học
Trong các từ điển khoa học trên thế
(sociological theory) là hệ thống các
giới, lý thuyết được coi là hệ thống các ý
nguyên lý và luận điểm trừu tượng được
tưởng giải thích sự vật, là những luận điểm
dùng để cắt nghĩa, lý giải các mối quan
về bản chất sự vật và hiện tượng. Nhà vật lý
hệ và tương tác xã hội, các hành vi cá
học nổi tiếng người Anh là Stephen Hawking
nhân, các cấu trúc tổ chức xã hội, sự vận
cho rằng: lý thuyết phải thoả mãn hai đòi hỏi:
động và biến đổi của xã hội…”2. Nói cách
(1) phải mô tả một cách mạch lạc một lớp lớn
khác, lý thuyết xã hội học trả lời câu hỏi:
các quan sát trên cơ sở một mô hình gồm một
tại sao lại như vậy? Chẳng hạn, tại sao
số rất ít các yếu tố tuỳ hứng; (2) phải có thể
người ta lại nghiện hút? tại sao lại có sự
sử dụng mô hình ấy để đoán trước được các
phân tầng xã hội hoặc bất bình đẳng giới?.
kết quả quan sát trong tương lai1. Đơn giản
Ở góc độ khác, “nghiên cứu thực nghiệm
hơn, lý thuyết khoa học là hệ thống luận
(experimental research) là hoạt động thu
điểm về một đối tượng nghiên cứu của khoa
thập dữ liệu về các sự kiện xã hội, tương
học. Lý thuyết cung cấp một quan niệm hoàn
tác xã hội, quá trình xã hội… và lý giải
chỉnh về bản chất sự vật, những liên hệ bên
các vấn đề đó theo những nguyên tắc đã
trong của sự vật và mối liên hệ cơ bản giữa
được quy định chặt chẽ”. Giữa lý thuyết
sự vật với thế giới hiện thực (Vũ Cao Đàm,
và thực nghiệm tồn tại một mối quan hệ
2007: 31). Tóm lại, lý thuyết khoa học là tập
độc lập bởi hai lý do sau đây:
hợp các luận điểm được dùng để giải thích
- Thứ nhất: Lý thuyết là cơ sở, là
một vấn đề gì đó, dùng để lý giải bản chất
điểm tựa của thực nghiệm và ngược lại,
các mối liên hệ bên trong cũng như bên ngoài
kết quả nghiên cứu thực nghiệm được sử
của vấn đề mà chúng ta quan tâm.
dụng để củng cố, bác bỏ hoặc điều chỉnh
Xét riêng trong lĩnh vực xã hội học,
các lý thuyết.
bất cứ một công trình nghiên cứu nào cũng
1
Trích trong Vũ Cao Đàm (2007), sdd.
2
Các nhà xã hội học trên thế giới gọi là “social facts”
4
- Thứ hai: dữ liệu thu thập được từ
cho rằng: người ta nghiện là do có quan
nghiên cứu thực nghiệm sẽ trở nên vô nghĩa,
hệ với những người nghiện, bắt chước
vô giá trị nếu không có lý thuyết để phân tích
thái độ và hành vi của họ. Hoặc là, cùng
và lý giải. Nói cách khác, các phân tích kết
quan tâm lý giải hiện tượng phân tầng xã
quả thực nghiệm chỉ có chất lượng khoa học
hội, trong khi lý thuyết của K.Mark tập
khi nó dựa trên một hướng tiếp cận lý thuyết
trung vào các yếu tố kinh tế thì mô hình
nhất định.
của Max Weber lại mở rông ra các yếu tố
Trong xã hội học, việc sử dụng lý
chính trị và văn hóa xã hội. Như vậy, mỗi
thuyết nào và bao nhiêu lý thuyết phụ thuộc
lý thuyết sẽ lý giải vấn đề theo một cách
vào chủ đề, đề tài nghiên cứu cũng như cách
khác nhau. Vấn đề là tác giả chọn cách
thức mà tác giả tiếp cận vấn đề đó. Thông
tiếp cận nào? Mark và Weber (xung đột)
thường, mỗi một nghiên cứu các tác giả chỉ
hay T. Parson và R. Merton (cấu trúc -
áp dụng một lý thuyết, tức là một cách lý giải
chức năng). Sẽ rất khó khăn, thậm chí thật
vấn đề. Chẳng hạn, hãy lấy tình trạng nghiện
là khôi hài nếu như tác giả vận dụng cả
hút ở thanh thiếu niên làm ví dụ. Mối quan
quan điểm xung đột và quan điểm cấu
tâm chính của các nhà xã hội học là: tại sao
trúc - chức năng trong nghiên cứu của
họ lại nghiện hút? Lý giải vấn đề này có thể
minh.
có nhiều cách khác nhau. Những người áp
Trên thực tế, cũng có khi người ta
dụng thuyết kiểm soát xã hội sẽ quan tâm đến
kết hợp nhiều lý thuyết trong một nghiên
vai trò kiểm soát của các thiết chế xã hội (gia
cứu (Integrated theory - tổng tích hợp lý
đình – nhà trường – nhóm thành viên – cơ
thuyết). Đó là khi tác giả cho rằng vấn đề
quan làm việc). Họ có thể lập luận rằng
mà anh ta nghiên cứu chịu tác động cộng
người ta nghiện là do khả năng tự kiểm soát
hưởng từ các yếu tố có mối quan hệ mật
kém và thiếu vắng sự kiểm soát từ phía các
thiết với nhau. Chẳng hạn, trở lại với ví
thiết chế nêu trên. Ngược lại, những người áp
dụ trên, sẽ có người cho rằng cá nhân
dụng thuyết bắt chước xã hội lại chỉ quan tâm
nghiện hút là do ảnh hưởng từ những
đến các mối quan hệ xã hội, môi trường xã
người bạn nghiện đồng thời sự kiểm soát
hội mà cá nhân thường xuyên tiếp xúc. Họ
đối với hành vi của anh ta lỏng lẻo. Do
5
đó, nhà nghiên cứu sẽ vận dụng cách lý giải
đầy cảm tính, duy ý chí, thiếu căn cứ khoa
tổng tích hợp từ hai khuynh hướng lý thuyết
học cho nên tất yếu sẽ thiếu thuyết phục.
là thuyết bắt chước xã hội và thuyết kiểm
Cùng một vấn đề nhưng yếu tố phân biệt
soát xã hội. Họ sẽ tìm cách chứng minh: hành
đẳng cấp nhà khoa học chính là cách thức
vi nghiện hút là sản phẩm của sự lôi kéo
người ta lý giải vấn đề đó. Bởi vậy, địa vị
mạnh mẽ từ phía bạn nghiện, kết hợp với sự
khoa học của K.Mark, E.Durkheim, M.
thiếu vắng sự kiểm soát từ phía các thiết chế
Weber, Talcott Parson, Robert Merton
xã hội. Khả năng nghiện hút của cá nhân tỷ lệ
hay M. Falcault… phụ thuộc vào di sản lý
thuận với mức độ quan hệ mật thiết với bạn
thuyết mà họ đóng góp vào kho tàng tri
nghiện và mức độ kiểm soát lỏng lẻo bởi các
thức xã hội học.
thiết chế xã hội. Cần lưu ý là, sự kết hợp
Sa đà vào việc đưa ra các giải pháp,
nhiều lý thuyết trong một nghiên cứu không
chính sách cụ thể, nhà nghiên cứu không
phải là hiện tượng phổ biến trong giới
chỉ nhầm lẫn vai trò với các nhà lập chính
nghiên cứu xã hội học trên thế giới. Điều
sách mà còn xa rời nhiệm vụ của nhà
này có thể trái ngược với rất nhiều nghiên
khoa học. Cái đích cuối cùng của nghiên
cứu xã hội học ở Việt Nam hiện nay.
cứu khoa học là sản xuất ra tri thức khoa
3. Kết luận.
học để làm cơ sở cho việc hoạch định
Như bất kỳ khoa học nào khác, mối
chính sách. Từ kết quả nghiên cứu của các
quan tâm hàng đầu của các nhà xã hội học
nhà khoa học (scientists) đến việc xây
không phải chỉ là mô tả một vấn đề đang diễn
dựng các chính sách là một quá trình đầy
ra như thế nào mà phải lý giải tại sao lại có
khó khăn. Nhà xã hội học có thể tham gia
vấn đề đó. Chính vì vây, kiến thức lý thuyết
vào quá trình đó cùng các nhà lập chính
giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Không dựa
sách chuyên nghiệp (policy makers) chứ
trên lý thuyết, nhà nghiên cứu sẽ không biết
họ không thể chỉ dựa trên một nghiên cứu
bắt đầu như thế nào, tiến hành ra sao và kết
của mình để đưa ra chính sách cụ thể và
thúc khi nào. Không vận dụng lý thuyết, các
khuyến nghị các cơ quan quản lý nhà
phân tích của nhà nghiên cứu có thể sẽ rất lan
nước thực hiện.
man, vụn vặt, các gợi ý chính sách có thể sẽ
6