Tải bản đầy đủ (.pdf) (300 trang)

Tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.32 MB, 300 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THANH PHƯƠNG

TỰ NHẬN THỨC BẢN THÂN
CỦA TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI

Ngành: Tâm lý học
Mã số: 9 31 04 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ THANH BÌNH

HÀ NỘI, 2018



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi; các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án
là trung thực, có xuất xứ rõ ràng; những phát hiện đưa ra
trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN





MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TỰ NHẬN THỨC
BẢN THÂN CỦA TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI ...................................................... 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới và việt nam về tự nhận thức .......... 9
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới và việt nam về tự nhận thức bản
thân của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ...................................................................................... 21
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU TỰ NHẬN THỨC BẢN THÂN
CỦA TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI ............................................................................. 32
2.1. Nhận thức .............................................................................................................. 32
2.2. Tự nhận thức bản thân ........................................................................................... 36
2.3. Tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ................................................. 41
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ........ 53
Chương 3: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................... 63
3.1. Vài nét về khách thể và địa bàn nghiên cứu ......................................................... 63
3.2. Tổ chức nghiên cứu ............................................................................................... 67
3.3. Các phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 68
Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN VỀ TỰ NHẬN THỨC
BẢN THÂN CỦA TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI .................................................... 91
4.1. Thực trạng tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ........................................91
4.2. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 56 tuổi ............................................................................................................................ 121
4.2. Kết quả thực nghiệm tác động nhằm nâng cao tự nhận thức bản thân cho trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi ....................................................................................................... 133
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................. 146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN .................................................................................................................. 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 152


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

ĐC

Đối chứng

MN

Mầm non

MG

Mẫu giáo

TNT

Tự nhận thức

TNTBT

Tự nhận thức bản thân

TN

Thực nghiệm



DANH MỤC BẢNG

Trang
Bảng 2.1. Mức độ tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu...................................
Bảng 3.1. Khách thể nghiên cứu…………………………………………....

51
64

Bảng 3.2: Độ tin cậy của các thang đo tự nhận thức bản thân của trẻ MG
5-6 tuổi ..........................................................................................................

74

Bảng 4.1. Mức độ chung về tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi………………………………………………………………………….

92

Bảng 4.2. Kết quả tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi và đánh
giá của giáo viên, phụ huynh về trẻ………………………………………...
Bảng 4.3. Sự khác biệt về kết quả tự nhận thức bản thân của trẻ và đánh

95

giá của giáo viên, phụ huynh về trẻ theo giới tính và khu vực…………….
Bảng 4.4. Kết quả tự nhận thức về đặc điểm thể chất của trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi..................................................................................................................
Bảng 4.5. Kết quả tự nhận thức về đặc điểm tâm lý của trẻ mẫu giáo 5-6


98

tuổi…………………………………………………………………………..
Bảng 4.6. Kết quả tự nhận thức về đặc điểm xã hội và mối quan hệ của trẻ
với mọi người xung quanh ...........................................................................
Bảng 4.7. Sự khác biệt về mức độ tự nhận thức về đặc điểm xã hội và mối
quan hệ với mọi người xung quanh của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi tại các
trường mầm non……………………………………………...…………..…
Bảng 4.8. Kết quả chung về cách ứng xử của cha mẹ trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi.............................................................................................................

104

Bảng 4.9. Tương quan giữa cách ứng xử của cha mẹ đối với các khía cạnh
tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi…………………
Bảng 4.10. Mức độ dự báo của cách ứng xử của cha mẹ đến tự nhận thức
bản thân của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi…………………………………………...
Bảng 4.11: Mức độ tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trước
thực nghiệm tác động …...………………………………………………….
Bảng 4.12: Mức độ tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trước
thực nghiệm tác động …...………………………………………………….
Bảng 4.13: Mức độ tự nhận thức của bé T.Đ và đánh giá của mẹ T.Đ……

99

112

118
126
130

132
133
135
144


DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ

Trang
Biểu đồ 4.1. Kết quả tự nhận thức bản thân của trẻ và đánh giá của giáo
viên và phụ huynh về trẻ ………………….........……..….......................…

96

Biểu đồ 4.1. Kết quả tự nhận thức bản thân của bé T.Đ và đánh giá của mẹ
so bé so với kết quả chung toàn mẫu……………………………………..

137

Biểu đồ 4.3. Cách ứng xử của mẹ T.Đ so với kết quả chung toàn mẫu…

140

Sơ đồ 4.1. Mối tương quan giữa các mặt biểu hiện tự nhận thức bản thân
của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi………………….........................……..………..

119

Sơ đồ 4.2. Mối tương quan giữa các yếu tố ảnh hưởng với tự nhận thức
bản thân của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi………………………………………….


122

Đồ thị 3.1. Sự phân bố điểm tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi ……………………………………………………………………….

77

Đồ thị 3.2. Sự phân bố điểm đánh giá của phụ huynh về tự nhận thức bản
thân của trẻ ……………………………………………………………….

78

Đồ thị 3.3. Sự phân bố điểm đánh giá của giáo viên về tự nhận thức bản
thân của trẻ ……………………………………………………………….

79


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Sự phát triển của xã hội đòi hỏi những yêu cầu đặt ra đối với mỗi quốc
gia về nguồn nhân lực. Vì vậy, tự nhận thức đúng đắn về bản thân càng trở nên
quan trọng, bởi có hiểu đúng về bản thân, đánh giá đúng mình mới có thể thành
công trong mọi hoạt động, giống như Tôn Tử đã từng nói: Biết người biết ta, trăm
trận trăm thắng. Tự nhận thức về bản thân một cách đúng đắn, khách quan sẽ giúp
cá nhân thành công và hạnh phúc hơn trong cuộc sống, tránh được những sai lầm
không đáng có do sự ảo tưởng hay sự tự ti về bản thân mang đến [31]. Mặt khác, tự
nhận thức bản thân đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh, điều khiển hành
vi của mỗi người [38]. Nó quyết định thái độ của cá nhân đối với bản thân, đối với

người khác và đối với thế giới xung quanh. Quá trình tự nhận thức bản thân được
gắn liền với sự phát triển nhân cách ở mỗi người.
1.2. Hiện nay, giáo dục mầm non được đổi mới theo hướng lấy trẻ làm
trung tâm, mọi hoạt động chăm sóc - giáo dục đều xuất phát từ nhu cầu, hứng thú và
khả năng của trẻ, luôn tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm và phát huy năng lực của
bản thân. Ngay từ lứa tuổi mầm non, trẻ em đã có nhu cầu nhận thức, tìm hiểu khám
phá sự vật, hiện tượng xung quanh, trẻ sớm có hứng thú nhận thức đối với chính
mình. Đây có thể được coi là bước ngoặt đầu tiên trong sự hình thành và phát triển
nhân cách trẻ. Tự nhận thức bản thân giúp trẻ nhận ra mình là một chủ thể riêng
biệt, và cũng giúp trẻ khám phá cơ thể mình, phát hiện ra những cảm xúc, nhu cầu,
sở thích, khả năng của mình và nhận ra sự khác biệt của mình trong các mối quan
hệ với mọi người xung quanh. Chính vì vậy, những hoạt động của trẻ ở lứa tuổi này
sẽ giúp trẻ kết nối tích cực với thân thể mình và với xã hội như một tổng thể. Điều
đó, sẽ giúp trẻ nhanh chóng hoà nhập với tập thể, với xã hội và hình thành ở trẻ sự
tự tin vào chính mình.
1.3. Tự nhận thức bản thân xuất hiện khá sớm ở trẻ mầm non, ngay từ cuối
tuổi ấu nhi (24 - 36 tháng) [69; Tr.180] khi trẻ biết tách mình ra khỏi mọi người
xung quanh để nhận ra chính mình, biết mình có một sức mạnh và một thẩm quyền
1


nào đó trong cuộc sống. Tuy nhiên, ở độ tuổi này tự nhận thức bản thân của trẻ còn
hết sức mờ nhạt. Khi bước sang tuổi mẫu giáo (3-4 tuổi), đứa trẻ cũng chưa hiểu
biết gì mấy về bản thân mình và những phẩm chất của mình [69] nhưng đến cuối
tuổi mẫu giáo (trẻ 5-6 tuổi) trẻ đã có những hiểu biết nhất định về bản thân mình
khá toàn diện từ đặc điểm thân thể đến cảm xúc, tính cách, phẩm chất, khả năng của
mình cũng như xác định được vị trí, cách ứng xử của mình với mọi người xung
quanh theo chuẩn mực trong xã hội. Mặt khác, trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi cũng là độ tuổi
cuối cho giai đoạn mẫu giáo, là lứa tuổi có đầy đủ những điều kiện để chuẩn bị vào
lớp Một. Trong điều kiện chăm sóc và giáo dục tại trường mầm non trẻ hoàn toàn

có thể đáp ứng đầy đủ các tiêu chí trong Bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi ở tất cả
các lĩnh vực về thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm kĩ năng xã hội và thẩm mĩ
do Bộ giáo dục và đào tạo ban hành [8].
1.3. Tự nhận thức bản thân và các vấn đề liên quan đến nội dung này cũng đã
được một số tác giả trên thế giới quan tâm. Tuy vậy, các nghiên cứu chuyên sâu về
vấn đề này còn chưa nhiều. Những công trình hiện có mới chỉ dừng lại ở việc
nghiên cứu tự nhận thức bản thân trong mối quan hệ với tự ý thức, tự đánh giá như
S. Franz (1979), V.V. Xtolin (1985), Nguyễn Quang Uẩn (2007)[93]; [102]; [70],
hoặc xem xét tự nhận thức bản thân như một kĩ năng sống cốt lõi trong công trình
nghiên cứu cấp Bộ của tác giả Nguyễn Thanh Bình (2007); Nguyễn Công Khanh
(2013) [4], [38] mà chưa đi sâu mô tả các mức độ biểu hiện tự nhận thức bản thân ở
trẻ em lứa tuổi mầm non cũng như chưa làm rõ mối quan hệ của nó với sự phát triển
của trẻ.
1.4. Việc nghiên cứu làm rõ mức độ và các biểu hiện tự nhận thức bản thân
của trẻ về mặt thể chất, tâm lý, xã hội và mối quan hệ của trẻ với mọi người xung
quanh cũng như đối sánh cùng với đánh giá của giáo viên và phụ huynh sẽ cho
những kết quả xác thực để từ đó giúp gia đình phối hợp với giáo viên mầm non có
phương pháp giáo dục trẻ phát triển toàn diện, giúp trẻ tích cực trải nghiệm, khám
phá bản thân để có thể tự nhận thức mình, tự thay đổi, tự điều chỉnh thái độ, hành vi
với chính bản thân trẻ và với mọi người xung quanh. Điều này sẽ mang lại những
2


giá trị khoa học cả về mặt lý luận và thực tiễn trong bối cảnh đổi mới giáo dục
của Việt Nam hiện nay.
Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu: “Tự nhận thức bản thân của
trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lí luận và thực tiễn tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5 - 6

tuổi và các yếu tố ảnh hưởng đến tự nhận thức của trẻ. Trên cơ sở đó đề xuất một
số biện pháp tác động tâm lý - sư phạm nhằm nâng cao tự nhận thức cho trẻ mẫu giáo
5 - 6 tuổi.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi.
- Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu
giáo 5 - 6 tuổi.
- Tìm hiểu, đánh giá thực trạng tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5 - 6
tuổi và một số yếu tố ảnh hưởng đến tự nhận thức bản thân của trẻ
- Đề xuất và thực nghiệm tính hiệu quả một số biện pháp nâng cao tự nhận
thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện và mức độ tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
3.2. Phạm vi nghiên cứu
a. Phạm vi về nội dung và khách thể nghiên cứu:
- Về nội dung nghiên cứu:
Tự nhận thức là một vấn đề rất rộng, trong khuôn khổ nghiên cứu của luận án
chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu các nội dung tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi về 3 mặt: Tự nhận thức về đặc điểm thể chất của bản thân; Tự nhận

3


thức về các đặc điểm tâm lý (sở thích, tính cách, khả năng) của bản thân; TNT về
đặc điểm xã hội và mối quan hệ của trẻ với mọi người xung quanh
Có nhiều yếu tố khác nhau tác động đến tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi. Tuy nhiên, luận án chỉ phân tích một số yếu tố tác động đến tự nhận
thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi: Tính tích cực; khả năng nhận thức của trẻ; Sự

tác động của cha mẹ, giáo viên mầm non và môi trường sống.
- Về khách thể nghiên cứu gồm 690 người, trong đó có:
273 trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi tại 8 trường mầm non thuộc tỉnh Phú Thọ.
273 phụ huynh của trẻ được điều tra.
128 giáo viên mầm non và cán bộ quản lý trường mầm non
16 chuyên gia tâm lý giáo dục.
b. Phạm vi về địa bàn nghiên cứu
Tiến hành khảo sát mức độ tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
tại các trường mầm non trong địa bàn tỉnh Phú Thọ gồm hai khu vực thành thị và
nông thôn, cụ thể:
Các trường mầm non khu vực thành thị: tại Thành phố Việt Trì: Mầm non Gia
Cẩm, Hòa Phong; tại Thị xã Phú Thọ: Mầm non Hùng Vương; Phong Châu.
Các trường mầm non khu vực nông thôn: Huyện Lâm Thao: Mầm non Thạch
Sơn; Kinh Kệ; Huyện Tam Nông: Mầm non Cổ Tiết, Hiền Quan.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu dựa trên ba phương pháp tiếp cận sau:
- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Nghiên cứu xem xét tự nhận thức của trẻ mẫu
giáo 5 - 6 tuổi trong mối quan hệ biện chứng, tương tác, phụ thuộc lẫn nhau giữa các
hoạt động: học tập, vui chơi, giao tiếp, sinh hoạt hàng ngày của trẻ và các yếu tố ảnh
hưởng từ bản thân trẻ, gia đình và trường lớp mẫu giáo, tác động đồng bộ đến tự nhận
thức bản thân của trẻ.
- Phương pháp tiếp cận phát triển: Sự hình thành và phát triển của mỗi cá nhân
trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn phát triển sẽ có những cấu trúc tâm lý đặc trưng
4


riêng và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tác động. Nghiên cứu TNTBT của trẻ được
xem xét các hiện tượng tâm lý trong sự nảy sinh, biến đổi và phát triển của nó. Cần
thấy được sự phát triển của trẻ trong quá khứ, hiện tại và tương lai, đồng thời cũng phải

thất được tính ổn định của nó trong một thời điểm nhất định, trong những điều kiện
nhất định.
- Phương pháp tiếp cận hoạt động: Hoạt động và sự phát triển nhân cách của
mỗi cá nhân có mối quan hệ khăng khít với nhau. Đặc biệt đối với trẻ em, hoạt động
là điều kiện để trẻ phát triển toàn diện. Nghiên cứu tự nhận thức bản thân của trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi phải được tiến hành trên cơ sở các hoạt động cụ thể của trẻ như:
hoạt động giao tiếp, hoạt động vui chơi, hoạt động học tập, các hoạt động ăn ngủ, vệ
sinh, các hoạt động tự phục vụ bản thân.
4.2. Giả thuyết khoa học
Có nhiều biểu hiện về TNTBT của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi được tìm thấy, song
kết quả nghiên cứu cho thấy chúng được biểu hiện tập trung ở ba mặt, đó là: TNT
về đặc điểm thể chất của bản thân; TNT về các đặc điểm tâm lý (cảm xúc, nhu cầu,
khả năng) của bản thân; TNT về đặc điểm xã hội và mối quan hệ của trẻ với mọi
người xung quanh, trong đó TNT về đặc điểm tâm lý của bản thân là thấp hơn cả;
Kết quả TNTBT của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi đạt mức trung bình, vẫn có xu hướng cao
hơn so với đánh giá của cha mẹ và giáo viên về trẻ.
Có sự khác biệt về mức độ tự nhận thức bản thân giữa trẻ nam và trẻ nữ; giữa
trẻ khu vực có điều kiện môi trường sống khác nhau;
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi với các mức độ khác nhau như: tính tích cực của trẻ; Khả năng nhận thức của
trẻ; ảnh hưởng của cha mẹ; giáo viên mầm non; môi trường nơi trẻ sinh sống...
Trong đó, cách ứng xử của cha mẹ có tác động mạnh nhất.
Có thể làm thay đổi tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi nếu tác
động lên một hay nhiều yếu tố trên. Đặc biệt, nếu điều chỉnh cách ứng xử của cha mẹ
một cách phù hợp thì sẽ nâng cao TNTBT của trẻ.

5


4.3. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể

- Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp xử lý số liệu bằng toán học thống kê
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
5.1. Về lý luận
- Góp phần bổ sung thêm một số vấn đề lý luận về tự nhận thức bản thân của
trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi vào tâm lý học xã hội, tâm lý học sư phạm như: tự nhận thức;
tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi;
- Xác định được các chỉ báo cơ bản về sự phát triển tự nhận thức của trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi ở ba khía cạnh: thể chất, tâm lý, xã hội.
- Dựa trên các chỉ báo được xác định, luận án đã dịch thuật, chuyển nghĩa
và xây dựng bộ công cụ bằng tranh vẽ để đánh giá mức độ TNTBT của trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi.
5.2. Về thực tiễn
- Luận án đã xác định được mức độ và biểu hiện tự nhận thức bản thân của trẻ
MG 5-6 tuổi trên địa bàn tỉnh Phú Thọ ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Trong
đó, TNT về đặc điểm thể chất có mức độ cao nhất và TNT về đặc điểm tâm lý của
trẻ có mức độ thấp nhất.
- Luận án đã chỉ ra mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tính tích cực, khả năng
nhận thức của trẻ và các yếu tố từ cha mẹ, cô giáo, môi trường sống có những tác
động nhất định đến TNTBT của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, trong đó sự tác động từ phía
cách ứng xử của cha mẹ là mạnh nhất.
Chính cách ứng xử của cha mẹ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến TNTBT của trẻ.
Vì vậy, cha mẹ muốn con tự tin hơn, nhận thức tốt hơn, phát huy tối đa tiềm năng
6



của con thì nên sử dụng linh hoạt cả ba cách ứng xử: yêu thương khích lệ với hà
khắc và nuông chiều, trong đó cách ứng xử yêu thương khích lệ là chủ đạo.
- Trên cơ sở đó, luận án đã xây dựng được một số biện pháp tâm lý sư phạm
giúp các bậc cha mẹ có thể tác động nhằm nâng cao tự nhận thức bản thân của trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về lý luận
- Luận án hệ thống hóa các tri thức liên quan đến tự nhận thức bản thân và
bổ sung nguồn tài liệu cho nghiên cứu, đào tạo về chăm sóc, giáo dục và phát
triển nhân cách cho trẻ em lứa tuổi mầm non.
- Kết quả nghiên cứu của luận án giúp các nhà nghiên cứu có thêm cơ sở
khoa học để xác định các nội dung tự nhận thức bản thân và tiêu chí đánh giá tự
nhận thức bản thân.
- Dựa trên kết quả nghiên cứu của luận án, các nhà giáo dục sẽ có cơ sở
khoa học để xây dựng các biện pháp chăm sóc giáo dục hiệu quả nhằm nâng cao
tự nhận thức bản thân cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
6.2. Về thực tiễn
- Luận án đã nghiên cứu và làm rõ mức độ biểu hiện TNTBT của trẻ MG
5-6 tuổi trên địa bàn tỉnh Phú Thọ về các mặt: TNT về đặc điểm thể chất của bản
thân; TNT về đặc điểm tâm lý của bản thân; TNT về đặc điểm xã hội và mối
quan hệ của trẻ với những người xung quanh.
- Luận án cũng đã chỉ ra thực trạng mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tác
động từ phía cha mẹ, giáo viên, môi trường sống và khả năng nhận thức, tính tích
cực của trẻ đến TNTBT của trẻ MG 5-6 tuổi. Từ đó, chỉ ra sự cần thiết phối hợp
chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trên cơ sở tôn trọng trẻ và phát huy tối đa tiềm
năng của trẻ.
- Kết quả nghiên cứu thực trạng dựa trên sự kết hợp của các phương pháp
định lượng và định tính đã đưa ra cái nhìn chính xác, toàn diện về kết quả TNTBT
của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. Trên cơ sở đó, các phụ huynh, giáo viên mầm non và cán

7


bộ quản lý có sự nhìn nhận đúng đắn và có các biện pháp chăm sóc, giáo dục phù
hợp để giúp trẻ mẫu giáo nâng cao tự nhận thức bản thân.
- Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo bổ ích cho các giảng
viên tại các trường sư phạm có chuyên ngành đào tạo giáo dục mầm non, các học
viên, sinh viên và giáo viên mầm non cùng các bậc phụ huynh quan tâm, góp phần
nâng cao tự nhận thức bản thân và phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục các công trình của tác giả
đã công bố, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận án được
trình bày trong bốn chương, cụ thể:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về tự nhận thức bản thân của trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi.
Chương 2: Cơ sở lý luận nghiên cứu tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi
Chương 3: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu thực tiễn về tự nhận thức bản thân của trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi.

8


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VỀ TỰ NHẬN THỨC BẢN THÂN CỦA TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
VỀ TỰ NHẬN THỨC


Tự nhận thức là một hướng nghiên cứu nhận được sự quan tâm đông đảo của
nhiều tác giả. Từ những nghiên cứu về tự nhận thức có thể khái quát thành các
hướng nghiên cứu cơ bản về vấn đề này như sau:
1.1.1. Hướng thứ nhất: Nghiên cứu tự nhận thức trong mối quan hệ với cái tôi
Trong Tâm lý học nhân cách, “cái tôi” được nghiên cứu như một thành phần
quan trọng của nhân cách. Để hình thành một con người như một chỉnh thể trọn vẹn có
cá tính, giúp cá nhân phân biệt với những người khác nhờ “cái tôi” của mình, vì vậy
quá trình hình thành nhân cách bao gồm cả việc hình thành hình ảnh “cái tôi” tương đối
bền vững, tức là một quan niệm toàn vẹn về bản thân mình. Vấn đề tự nhận thức trong
mối quan hệ với “cái tôi” được thể hiện rất rõ trong nghiên cứu của các nhà phân tâm
học, mà nổi bật ở đây phải kể đến các kết quả nghiên cứu của S. Freud.
Đối với nhân cách, lý thuyết phân tâm học của Sigmund Freud có ảnh hưởng
mạnh mẽ và rộng khắp trên toàn bộ sự phát triển về mọi mặt xã hội trong thế kỷ
XX. S.Freud đã xây dựng nên quan điểm được hệ thống đầu tiên về bản chất tâm lý
của loài người, tạo thành những công cụ và phương tiện cho việc khám phá nhân
cách và hành vi. Theo Freud, nhân cách của con người khi hình thành thì gồm có ba
ngôi: “cái ấy”, “cái tôi” và “cái siêu tôi”. “Cái ấy” bao gồm tất cả các xung lực bản
năng thôi thúc đứa bé đòi hỏi được thỏa mãn để tìm khoái cảm; hoạt động của “cái
ấy” hoàn toàn vô thức, chạy theo khoái cảm, không cần biết đến thực tế hay xã hội.
Ngay từ lúc mới sinh ra em bé được cha mẹ đáp ứng mọi nhu cầu, nhưng dần dần
em bé phải tuân theo một số ràng buộc. Mâu thuẫn giữa em bé và thực tế dần dần
tạo nên “cái tôi”, em bé cảm nhận về bản chất của mình đối lập với các đồ vật và
những người khác, hay chính là bắt đầu cảm nhận được thực tế. Đây chính là nguồn
gốc của “cái tôi”, sau này chính là ý thức của con người, biết suy nghĩ và hành động
theo đòi hỏi của thực tế chứ không phải chạy theo dục vọng của bản thân. Lúc này,
những cấm đoán và mệnh lệnh, yêu cầu và sự khuyên bảo của người lớn dần dần
9


được nhập tâm và cũng biến thành vô thức chi phối hành vi của đứa trẻ, “cái siêu

tôi” xuất hiện. Khi đó, không còn là những mệnh lệnh của bố mẹ nữa mà trở thành
những quy tắc trừu tượng ẩn náu trong vô thức, giống “như là xuất phát tự đáy lòng
của trẻ”. Cái “siêu tôi” xuất hiện và đảm nhiệm chức năng kiểm soát cái tôi, ra lệnh
cho cái “tôi” [72; tr.10].
Ngoài ra, S. Freud cũng đã chỉ ra rằng, bản ngã tiếp tục hoàn thiện phần chức
năng của nó bằng cách làm đáp ứng và thỏa mãn những nhu cầu bản năng. Chức
năng thực sự của bản ngã phụ thuộc vào sự tiếp xúc và tương tác của cá nhân với
thế giới bên ngoài, chức năng này được mở rộng dần. Như vậy, theo quan điểm của
Freud thì khi đứa trẻ cảm nhận được về mình là lúc đứa trẻ đã bước đầu nhận ra
mình, nhận ra sự khác biệt của mình đối với mọi thứ xung quanh.
Tiếp tục phát triển quan điểm của S. Freud, trong quan điểm về ý thức bản
ngã, nhà phân tâm học Hartmann đã khẳng định, bản ngã đáp ứng nhiều chức năng
hiện thực khách quan khác nhau như sự thay đổi của thế giới xung quanh và nhận
thức tri giác. Tiếp đó, gồm cả nhận thức về thế giới bên ngoài và nhận thức về bản
thân và tri thức, sự hiểu biết về bản thân. Bản ngã “điều khiển tư tưởng, ngôn ngữ,
khả năng hiểu biết sự vật, trí nhớ, bản chất của tính cách và hoạt động cá nhân.
Thêm vào đó, bản ngã chịu trách nhiệm vận hành cơ chế bảo vệ và thực hiện chức
năng tổng hợp năng động, liên quan đến sự điều phối và hòa hợp chức năng nhân
cách tổng thể của cá nhân” [dẫn theo 3; tr. 139]. Ông dùng khái niệm “cá tính” để
đề cập đến quan điểm về thế giới nội tâm. Theo ông, cá tính phản ánh những nét
tính cách của cá nhân và cũng điều khiển cả những chức năng quan trọng khác như
suy nghĩ, kí ức và nhận thức. Đây cũng có thể được coi là một trong những khía
cạnh TNTBT.
Cùng đứng trên quan điểm tâm lý học nhân văn, nhưng Abraham Maslow lại
nhìn nhận tự nhận thức bản thân gắn với nhu cầu của mỗi cá nhân. Nghiên cứu của
Abraham Maslow về các động cơ của con người và sự nỗ lực phấn đấu để đạt được
sự thể hiện đầy đủ tiềm năng bản thân. Ông đã xây dựng hệ thống thứ bậc của nhu
cầu. Ở tầng đáy của thứ bậc nhu cầu này là các nhu cầu về sinh lý, tầng kế tiếp là
nhu cầu an toàn, đây là hai loại nhu cầu được thể hiện rõ ở đối tượng là trẻ em. Khi
các nhu cầu được thỏa mãn, cá nhân tìm đến thỏa mãn các nhu cầu có thứ bậc cao

10


hơn. Tuy nhiên, các nhu cầu phát triển bản thân sẽ bị yếu hơn và dễ bị áp đảo nếu
các nhu cầu cơ bản, thứ yếu không được thỏa mãn. Ở đỉnh của hệ thống thứ bậc nhu
cầu là nhu cầu tự thể hiện đầy đủ tiềm năng của bản thân, tiêu biểu cho sự nhận thức
và việc thực hiện các khả năng đặc biệt nhất của con người [dẫn theo 3;tr.307].
Nghiên cứu về tự nhận thức trong mối quan hệ với “cái tôi” cũng được Hall
và Lindzey quan tâm. Theo các tác giả, “cái tôi” được hiểu theo hai nghĩa khác
nhau. Thứ nhất, “cái tôi” được coi như một khách thể, lúc này “cái tôi” như một
thực thể hay là một đối tượng trong lĩnh vực kinh nghiệm. Đó chính là quá trình cá
nhân tự nhận thức về chính bản thân mình, bao hàm mọi sự phân tích và tổng hợp
của cá nhân đó về cá tính riêng của chính mình. Thứ hai, “cái tôi” lúc này được xem
như là một quá trình, xem bản thân như là một nhóm các quá trình tâm lý như sự
nhận thức, sự chú ý, ý tưởng, kí ức… có thể được bao hàm trong đó, và sự nhận
thức bản thân cũng chịu sự ảnh hưởng của môi trường bên ngoài. Định nghĩa này có
nhiều điểm tương đồng với bản ngã của S.Freud [dẫn theo 3; tr.264]
Ngoài ra, tự nhận thức bản thân cũng được đề cập đến trong các công trình nghiên
cứu của nhiều nhà khoa học khác.
Nhìn chung, các nghiên cứu theo hướng này các tác giả nước ngoài đều chỉ
ra mối liên quan giữa “cái tôi” với tự nhận thức ở mỗi cá nhân, sự ảnh hưởng của
các yếu tố đến sự hình thành tự nhận thức của mỗi người. TNTBT cũng có thể được
hiểu là sự hiểu biết của cá nhân về cái tôi của mình, nó bao hàm nhiều khía cạnh:
cái tôi vật chất, cái tôi xã hội, cái tôi tâm hồn hoặc cái tôi tốt, cái tôi xấu... Mặc
dù tiếp cận từ những hướng khác nhau, song các kết quả nghiên cứu của các tác
giả nước ngoài đều chỉ ra khá nhiều điểm tương đồng giữa “cái tôi” và TNTBT ở
mỗi cá nhân.
Kế thừa và phát triển hướng nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu tại Việt
Nam cũng đã khẳng định một lần nữa về mối quan hệ giữa TNTBT với “cái tôi”
trong các công trình nghiên cứu của mình, cụ thể là:

Tác giả Dương Thị Diệu Hoa và cộng sự, trong nghiên cứu về sự phát triển
tâm lí của trẻ em đã nhận định: “Dấu hiệu đầu tiên của quá trình hình thành nhân
11


cách là sự xuất hiện của tự ý thức, còn được gọi là “cái tôi” hay ý thức bản ngã, tức
là tự nhận thức về bản thân mình [19; tr.103]. Theo nhóm tác giả trẻ tự nhận thức
bản thân liên quan đến bốn sự kiện sau:
Thứ nhất, trẻ tự nhận ra hình dáng bên ngoài và các bộ phận của bản thân.
Thứ hai, trẻ nhận ra và kiểm soát được cảm xúc của mình.
Thứ ba, hình thành cái tôi ban đầu về bản thân.
Thứ tư, tự đánh giá được hành vi của bản thân.
Ngoài ra, các tác giả còn nghiên cứu khả năng tự đánh giá bản thân của lứa
tuổi thanh niên liên quan đến “cái tôi” của chúng với các câu hỏi: Tôi là ai? Tôi là
người như thế nào? Tôi có những năng lực vượt trội nào? Tôi muốn trở thành người
như thế nào? Tôi phải làm gì để cho bản thân tôi cũng như mọi người xung quanh
được tốt hơn?... [19; tr.203]. Như vậy, nhu cầu tự nhận thức bản thân ở mỗi lứa tuổi
là một trong những vấn đề cần được giải quyết và quan tâm. Mặc dù đã có những
mô tả về tự nhận thức bản thân ở các lứa tuổi khác nhau, song nhóm tác giả cũng
chưa khái quát được đặc điểm hình thành và phát triển tự nhận thức trong quá trình
hoàn thiện nhân cách của cá nhân.
Dưới góc độ của tâm lý học khác biệt, nhóm tác giả Ngô Công Hoàn, Trương
Thị Khánh Hà cho rằng “tự ý thức là khả năng nhận biết được những điểm khác biệt
của bản thân trong so sánh với những người xung quanh”. Đồng thời, cũng xác định
rằng tự nhận thức “cái tôi” bản thân được hình thành sớm trong quá trình phát triển
cá thể, “vào khoảng 3 tuổi trẻ đã nhận biết được tên gọi của mình, biết mình là gái
hay trai, theo đó cố gắng hành động phù hợp với vị trí xã hội là con,cháu, là em
hoặc là con trai hay con gái. “Cái tôi” bản thân sau này chính là chủ nhân của mọi
hành vi hoạt động cá nhân. Trong mọi trường hợp “cái tôi” bản thân giữ vai trò điều
khiển, điều chỉnh hành vi hoạt động cá nhân [26; tr.203].

Như vậy, ở hướng nghiên cứu này, TNTBT được hiểu là sự hiểu biết của cá
nhân về cái tôi của mình, nó bao hàm nhiều khía cạnh: cái tôi vật chất, cái tôi xã hội,
cái tôi tâm hồn hoặc cái tôi tốt, cái tôi xấu... Mặc dù tiếp cận từ những hướng khác
nhau, song các kết quả nghiên cứu của các tác giả đều chỉ ra mối quan hệ giữa
TNTBT với “cái tôi”, chúng có mối liên quan chặt chẽ và có nhiều điểm tương đồng

12


nhau. Song dù phân tích ở khía cạnh nào thì đều chỉ ra được các khía cạnh của bản
thân mỗi người khi tự tìm hiểu, đánh giá về chính mình.
1.1.2. Hướng thứ hai: Nghiên cứu tự nhận thức là thành phần cấu
trúc của tự ý thức
Tự nhận thức được đề cập rất nhiều trong các nghiên cứu về tự ý thức, nó
được xem như là một thành phần cơ bản trong cấu trúc tự ý thức. Điều này được thể
hiện trong các kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả [93], [99]; [70]; [37]…
Trước hết, theo I.S. Kon khi xem xét các nội dung của tự ý thức trong một
cấu trúc tầng bậc, cũng đã nhận định “Tự ý thức là một cấu trúc tâm lý phức tạp bao
gồm: Thứ nhất, ý thức về tính đồng nhất của mình; Thứ hai, ý thức về cái tôi của
bản thân mình như là cơ sở của tính tích cực hoạt động; Thứ ba, ý thức về những
thuộc tính và phẩm chất tâm lí của mình và thứ tư là hệ thống xác định những ý
kiến tự đánh giá về mặt đạo đức xã hội” [49; tr.9]. Như vậy trong kết quả quả
nghiên cứu này, cấu trúc tự ý thức có liên quan khá nhiều đến nội dung TNTBT, khi
mỗi cá nhân nhận thức chính mình thì sẽ xuất hiện tự ý thức ở cá nhân đó.
Tác giả S. Franz (1979) khi nghiên cứu về tự ý thức cho rằng “Tự ý thức là ý
thức về chính bản thân mình, là sự trở nên có ý thức đối với những hiểu biết về bản
thân, sự trở nên có ý thức về những cảm xúc riêng của bản thân” [93; tr.43]. Như
vậy, theo quan điểm của tác giả S. Franz cũng đã cho thấy, TNT chính là những
hiểu biết về các thông tin liên quan đến bản thân, ở đó bao gồm việc con người hiểu
biết được bản thân mình (hiểu biết về khả năng, năng lực và những phẩm chất của

bản thân). Cá nhân không chỉ hiểu biết về các hiện tượng tâm lý đang có ở mình mà
còn ý thức được cả những hiểu biết ấy. Khi con người nhận thức được bản thân
mình, con người thường tỏ thái độ (vui, buồn, hài lòng hay không hài lòng… với
bản thân) và con người còn ý thức được cả những xúc cảm riêng ấy. S. Franz khẳng
định: Tự nhận thức là quá trình phong phú và phức tạp [dẫn theo 39; tr. 32].
Kết quả nghiên cứu của A.G. Xpirkin cũng đã chỉ ra nội dung phản ánh của tự
ý thức, nó bao gồm tất cả những đặc điểm, những thuộc tính về cơ thể, về tâm lí và
nhân cách của bản thân chủ thể. “Tự ý thức là sự tự giác của con người về hành
động cũng như kết quả hành động của bản thân mình, về tư tưởng, tình cảm, bộ mặt

13


đạo đức, hứng thú, lí tưởng, động cơ và hành vi. Đó là sự đánh giá tổng thể về bản
thân và vị trí của mình trong cuộc sống” [99; tr.148 - 149].
Trong kết quả nghiên cứu của mình V.V. Xtolin (1985) xem xét cấu trúc tự ý
thức theo chiều dọc và chiều ngang. Theo chiều dọc, tự ý thức được xác định ở ba
cấp độ tích cực của con người như một cơ thể, một cá thể, một nhân cách. Theo
chiều ngang, tự ý thức gồm tri thức về bản thân và thái độ đối với bản thân [102].
Như vậy, tự ý thức được hình thành trên cơ sở TNT, bao gồm những hiểu biết về
chính mình, các thông tin liên quan đến chính mình và thái độ đối với chính mình.
Tác giả A.G. Chesnokova cho rằng: Tự ý thức như một quá trình phức tạp,
nhiều bậc, trên cơ sở các quá trình tâm lý (quá trình nhận thức, xúc cảm và ý chí).
Cấu trúc tự ý thức có các thành tố: Tự nhận thức, thái độ cảm xúc, giá trị tự điều
chỉnh [97.]. Mặt khác, tác giả cũng chỉ quá trình hình thành tự nhận thức của cá thể
và mối quan hệ giữa tự nhận thức với tự ý thức trong bản thân mỗi cá nhân.
Nhìn chung ở hướng nghiên cứu này, các tác giả nước ngoài đều khẳng định
tự nhận thức bản thân như là một thành phần cơ bản của tự ý thức. Đặc biệt, đã chỉ
ra mối quan hệ chặt chẽ giữa tự nhận thức với tự ý thức trong quá trình hình thành
và phát triển nhân cách của mỗi người.

Kế thừa quan điểm nghiên cứu của các tác giả trên thế giới, nhiều tác giả Việt
Nam đã đồng tình hoặc phát triển hướng nghiên cứu này trong các công trình
nghiên cứu nghiên cứu của mình [15], [23], [27], [63], [70]...Con người không chỉ ý
thức về các sự vật hiện tượng trong thế giới xung quanh mà cao hơn nữa con người
còn có khả năng tự ý thức, tức là có khả năng tự nhận thức về bản thân mình, tự xác
định được thái độ đối với bản thân và biết tự điều khiển, điều chỉnh hành vi của
mình cũng như biết tự hoàn thiện chính mình theo hướng tích cực nhất. Trong quá
trình mỗi các nhân tham gia các hoạt động, giao tiếp trong xã hội sẽ hình thành ý
thức về bản thân mình (ý thức bản ngã - tự ý thức) dựa trên cơ sở so sánh mình với
người khác, với chuẩn mực xã hội mỗi cá nhân sẽ tự nhận thức, tự học hỏi và hoàn
thiện mình.
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành đã chỉ ra
rằng, khả năng tự ý thức là một trong các thuộc tính cơ bản của ý thức. Tự ý thức là
mức độ phát triển cao của ý thức, tự ý thức bắt đầu từ khi trẻ bước vào tuổi mẫu giáo
14


bé 3 tuổi và càng lớn thì khả năng này càng biểu hiện rõ nét. Theo tác giả tự ý thức
biểu hiện ở bốn mặt sau:
+ Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội dung tâm hồn,
đến vị thế và các quan hệ xã hội.
+ Có thái độ đối với bản thân, tự nhận xét, tự đánh giá.
+ Tự điều chỉnh, tự điều khiển hành vi theo mục đích tự giác.
+ Có khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện mình.” [70;tr.62].
Còn theo nhóm các tác giả thuộc Tổ nghiên cứu Tâm lý học Cục tuyên huấn,
Tổng cục Chính trị (1974) lại cho rằng tự ý thức là mức độ cao của ý thức, hay còn
gọi là ý thức bản ngã, ý thức về cái “tôi”. Đó chính là nhận thức và thái độ của mỗi
người đối với bản thân mình, với những tư tưởng, tình cảm, với những mong muốn,
với những hành vi của chính mình, hay chính là về hình ảnh xã hội của chính bản
thân họ. Lúc này, con người dường như là tách biệt cái “ta” của mình ra thành một

đối tượng phản ánh, là đối tượng nhận thức. Ban đầu, con người chưa tự nhận ra
mình mà chính là như vào nhìn người khác, so sánh và tự nhận ra mình. “Hành
động tự phản ánh, với tư cách là mối liên hệ ngược trong ý thức con người, là một
nhân tố mạnh mẽ để con người tự kiểm tra, tự điều chỉnh, tự phê phán, tự hoàn
thiện” [64; tr.124].
Nhóm tác giả Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (2001), cũng
đã xác định nội dung của tự ý thức gồm:
- Tự ý thức về đặc điểm cơ thể.
- Tự ý thức về hành vi (trước hết là hành vi riêng lẻ, sau đó mới ý thức được
toàn bộ hành vi của mình).
- Tự ý thức về phẩm chất đạo đức, tính cách và khả năng của mình
[27tr.40,47].
Như vậy, theo cách xác định này của nhóm tác giả, sẽ cho chúng ta thấy rõ
hơn mối quan hệ giữa nội dung của tự ý thức với TNT, tự ý thức lúc này chính là
hướng đến từng nội dung cụ thể của TNT. Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả sẽ
là cơ sở để luận án căn cứ xác định các biểu hiện TNTBT của trẻ MG 5-6 tuổi.
Trong luận án tiến sĩ của mình, tác giả Đào Lan Hương cũng đã khẳng định
“Tự ý thức là ý thức về bản thân, nó bao gồm năng lực nhận thức và xác định thái
15


độ đối với bản thân, năng lực tự điều khiển, điều chỉnh hành vi, thái độ cũng như
toàn bộ sự phát triển nhân cách”. Ngoài ra, tác giả cũng đã chỉ ra rằng, tự đánh giá
là giai đoạn cao hơn của tự ý thức, là mức độ biểu hiện của các hiện tượng tâm lý
của cá nhân [32; tr.23].
Tóm lại, khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa tự nhận thức và tự ý thức ở mỗi
cá nhân, các tác giả đều xem tự nhận thức như là một thành phần không thể thiếu
của tự ý thức, nó giữ vai trò tiền đề, là cơ sở của quá trình hình thành và phát triển
tự ý thức. Song, các tác giả hầu hết chưa chỉ ra các biểu hiện và nội dung tự nhận
thức bản thân.

1.1.3. Hướng thứ ba: Nghiên cứu vai trò của tự nhận thức đối với sự phát triển
nhân cách
Tự nhận thức bản thân có vai trò quan trọng đối với sự phát triển nhân cách
và hoàn thiện chính mình. Trong quá trình sống và hoạt động, con người không chỉ
dừng lại ở mức độ tự nhận biết về mình mà còn tỏ thái độ và tự đánh giá bản thân
mình. Đây là cơ sở quan trọng để cá nhân tiến tới tự kiểm soát, tự điều chỉnh cảm
xúc và hành vi của mình trước mọi người. Tự nhận thức bản thân sẽ là tiền đề quan
trọng để mỗi người xác định được giá trị của bản thân mình, nhận thức được những
năng lực tiềm tàng của chính mình cũng như xác định được vị trí của mình trong
mối quan hệ với mọi người xung quanh. Đồng thời, bản thân mỗi người còn nhận
biết được những mong muốn, nguyện vọng và nhu cầu của chính mình, mình muốn
gì, mình thích gì… Từ đó, biết cách thỏa mãn nhu cầu của mình trên sự dung hòa
giữa quyền lợi và nhu cầu với những người khác. Mặt khác, tự nhận thức bản thân
còn giúp cho mỗi người nhận biết được cảm xúc của mình, xác định được căn
nguyên của những cảm xúc đó, giúp mỗi người biết cách kiểm soát cảm xúc của
mình và có cách ứng xử phù hợp với mọi người xung quanh. Điều này được đề cập
đến trong nhiều công trình nghiên cứu.
Trước hết cần khẳng định vai trò của tự nhận thức với tự đánh giá bản
thân. Có nhiều đóng góp về vấn đề này, trước hết phải kể đến tác giả S.Franz,
khi nghiên cứu đi sâu tìm hiểu bản chất tâm lí và cơ chế của tự đánh giá. Tác giả
đã chỉ ra sự liên quan chặt chẽ của quá trình tự đánh giá trên cơ sở kết quả của tự
nhận thức bản thân ở mỗi người. S. Franz đã xem tự đánh giá như một quá trình
16


tự nhận thức đặc biệt trong đó cá nhân không chỉ xác định được các hiện tượng
tâm lí đang có ở bản thân mà còn phải chỉ ra mức độ tồn tại của các hiện tượng
tâm lí này [dẫn theo 37; tr.29].
Theo tác giả Lipkina tự đánh giá có thể được hiểu như một quá trình mà
trong đó cá thể hình thành và phát triển thái độ đối với bản thân. Đồng thời tác giả

cũng khẳng định mối quan hệ giữa tự nhận thức và quá trình tự đánh giá khi cho
rằng tự đánh giá là “thái độ của con người đối với những năng lực, những khả
năng, những phẩm chất nhân cách cũng như đối với toàn bộ mặt bên ngoài của
mình” [95 tr.7].
Hiểu biết về bản thân, không chỉ giúp cho mỗi người tự nhìn nhận chính
mình, tự đánh giá được những điểm mạnh, điểm yếu của mình cũng như mối quan
hệ của mình với những người xung quanh mà còn giúp họ dần biết tự điều chỉnh,
điều khiển hành vi của mình. Đây cũng là những vấn đề được quan tâm nghiên cứu.
Theo cách này, TNTBT là cơ sở của tự đánh giá.
Tác giả A. Bandura cho rằng, học tập thông qua việc bắt chước các hành vi
mẫu là một dạng điều chỉnh hành vi không phù hợp trong trị liệu tâm lý [dẫn theo 3;
tr.18-19]. A. Bandura cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của các quá trình tự nhận
thức trong thực tiễn điều chỉnh hành vi và đề cao vai trò quá trình cá nhân tự điều
chỉnh bản thân. Theo tác giả, khi cá nhân tự nhận thức tích cực về năng lực của
mình, họ có sự tự tin về bản thân. Khái niệm “cái tôi hiệu quả” do A. Bandura đưa
ra được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Có cái nhìn tương đồng với Louise L.Hay, tác giả S. Yamuna [60], nếu biết
rõ sức mạnh của bản thân sẽ giúp ta đánh giá đúng những khả năng thực của mình
và sẽ giúp ta được thành công trong mọi hoạt động. Điều này sẽ tạo sự phấn khởi,
sẽ tạo ra sự thích thú, thúc đẩy ta sẵn sàng phát huy những điều đã biết và tiếp tục
học tập. Đặc biệt, sẽ tạo ra sự tin tưởng vào khả năng của chính mình và sẵn sàng
thiết lập các mối quan hệ với những người xung quanh. Mặt khác, nếu ý thức được
những tồn tại, những điểm yếu của bản thân sẽ giúp ta biết chấp nhận những hạn
chế của mình và đón nhận những sự giúp đỡ từ người khác, khắc phục điểm yếu của
mình. Tự nhận thức sẽ phát huy được tiềm năng của mỗi người và điều chỉnh hành
vi của họ để cho phù hợp hơn với mọi người xung quanh [5; tr.186 - 187].
17


Như vậy, trong các công trình nghiên cứu của mình các tác giả nước ngoài

đều khẳng định vai trò của tự nhận thức bản thân đối với sự phát triển của mỗi
người. Khi chúng ta tự nhận thức được chính mình sẽ tự đánh giá mình một cách
khách quan nhất, để từ đó biết tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với mọi
người xung quanh và có kế hoạch cho chính mình. Đây cũng là quan điểm của các
tác giả ở Việt Nam.
Nghiên cứu về vấn đề này, nhóm tác giả Nguyễn Thanh Bình, Lê Thu Hà,
Trịnh Thúy Giang, việc hình thành kỹ năng tự nhận thức bản thân là một trong
những kỹ năng sống quan trọng “giúp mỗi người hiểu rõ hơn về bản thân: biết mình
là ai, mình có những điểm chung và những điểm riêng gì so với người khác”. Nhóm
tác giả cũng gửi thông điệp đến tất cả mọi người “mỗi người cần nhận thức đúng về
bản thân để có thể ra quyết định đúng và xác định mục tiêu phù hợp cho mình.
Đồng thời có thể sống và phát triển hài hòa trong mối quan hệ với mọi người xung
quanh trong cộng đồng/ xã hội, chúng ta cần hiểu rõ những cái riêng của chúng ta,
cũng như tôn trọng cái riêng của những người khác để những cái riêng đó phục vụ
tốt nhất cho cái chung của cộng đồng, xã hội” [5; tr.118].
Ngoài ra tác giả Bùi Hồng Quân [52], cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tự đánh giá
và tự nhận thức ở trẻ em lứa tuổi thiếu niên đang sống tại các trung tâm bảo trợ xã
hội. Theo tác giả, để tự đánh giá được thì trước tiên đứa trẻ cần phải tự nhận thức để
biết được các giá trị của mình.
Nhìn chung, ở hướng nghiên cứu này các tác giả quan tâm nhiều hơn đến vai
trò của tự nhận thức đối với quá trình tự đánh giá ở mỗi người. Tuy nhiên, vai trò
của tự nhận thức còn thể hiện ở nhiều mặt như: Tự nhận thức về bản thân sẽ giúp
mỗi cá nhân biết kiềm chế xúc cảm của mình, hình thành lòng tự trọng; Xác định
giá trị của bản thân và hình thành sự tự tin ở mỗi người…
1.1.4. Hướng thứ tư: Nghiên cứu tự nhận thức là một kĩ năng sống cần thiết
Tự nhận thức được xem như một kĩ năng sống cần thiết cho mỗi người trong
xã hội. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, phát triển kĩ năng tự nhận thức sẽ là tiền
đề để phát huy tối đa tiềm năng của mỗi người cũng như mở rộng các mối quan hệ
xã hội với mọi người xung quanh. Giáo dục kĩ năng tự nhận thức là vấn đề được
quan tâm của nhiều tổ chức và cá nhân [12], [89], [55], [5], [16],[29], [31], [37]; …

18


Trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu quan điểm của các tổ chức trên thế giới có liên
quan đến vấn đề này, cụ thể:
Theo cách phân loại xuất phát từ lĩnh vực sức khỏe, tổ chức y tế thế giới
WHO đã phân loại kĩ năng sống gồm ba nhóm lớn: Kĩ năng nhận thức; Kĩ năng
đương đầu với xúc cảm; Kĩ năng xã hội (hay kĩ năng tương tác), trong đó tự nhận
thức được xếp vào nhóm kĩ năng nhận thức [55]. Như vậy, kĩ năng TNT được
UNESCO cũng có cùng cách phân loại như trên theo ba nhóm lớn, ngoài ra còn có
những kĩ năng sống thể hiện các vấn đề cụ thể khác nhau trong xã hội.
Tổ chức Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc UNICEF [55], phân loại kĩ năng sống
nhằm hướng đến những kĩ năng giúp trẻ em có thể ứng phó với các vấn đề trong
cuộc sống và hoàn thiện bản thân mình, vì vậy kĩ năng sống được chia làm 3 nhóm:
Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với chính mình; Nhóm kĩ năng nhận biết và sống
với người khác; Nhóm kĩ năng ra quyết định một cách có hiệu quả. Trong đó,
TNTBT được xếp vào nhóm kĩ năng nhận biết và sống với chính mình và là kĩ năng
sống quan trọng, mang tính chất tiền đề. Theo cách phân loại này, mỗi người cần
nhận biết và hiểu rõ về bản thân, nhận biết được những tiềm năng, tình cảm, những
mặt mạnh, mặt yếu của chính mình. Đặc biệt, khi con người càng nhận thức được
khả năng của mình thì sẽ càng biết được giá trị của mình, biết đánh giá một cách
khách quan về mình với mọi người xung quanh và biết cách tạo ra những điều kiện
để phát triển bản thân. Hay nói cách khác nếu kĩ năng tự nhận thức ở mỗi người tốt
thì sẽ có thể sử dụng các kĩ năng sống khác một cách có hiệu quả.
Ngoài ra, tự nhận thức cũng đề cập đến trong các công trình nghiên cứu của
một số tác giả nước ngoài với tư cách là một trong những kĩ năng sống cơ bản của
mỗi người. Còn đối với các tác giả cụ thể, chúng ta có thể thấy kĩ năng TNT cũng
là đề tài được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, như tác giả Elizabeth Dunn và J.
Gordon Arbuckle [81]; … song đều có điểm chung trong các kết quả nghiên cứu
của họ khi cùng nhấn mạnh vai trò của kĩ năng TNTBT đối với sự phát triển của

mỗi cá nhân trong cuộc sống.
Nhìn chung, trong các công trình nghiên cứu về kĩ năng sống của các tổ chức
và các tác giả trên thế giới, chúng tôi nhận thấy đều tập trung nghiên cứu và giáo
dục nhiều kĩ năng sống cần thiết. Tuy nhiên, mới chỉ nghiên cứu kĩ năng tự nhận
19


×