Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

đề cương ôn thi những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.62 KB, 27 trang )

MÁC – LENIN 2
Câu 1: Khái niệm hh, hai thuộc tính của hh và tính chất hai mặt của LĐ SX hh
• Khái niệm: hh là sp LĐ có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua
trao đổi, mua bán.
 HH có 2 loại:
+ HH hữu hình: hh có hình dạng vật chất nhất định (Vd: lương thực, thực phẩm,
sắt thép,…) có thể tích lũy được, quá trình SX tiêu dùng tách rời nhau.
+ HH vô hình: hh không có hình dạng VC nhất định (Vd: vận tải, thương mại,…)
không thể tích lũy được, quá trình SX và tiêu dùng diễn ra đồng thời.
• 2 thuộc tính của hh
 GTSD: Là công dụng, là tính có ích của vật phẩm có khả năng đáp ứng thỏa mãn
nhu cầu nào đó của con người. Ví dụ GTSD của cơm là để ăn, của áo là để mặc…
và ngay mỗi một vật có thể có nhiều thuộc tính khác nhau, do đó nó có nhiều
GTSD hay công dụng khác nhau như gạo có thể dùng nấu cơm nhưng cũng có thể
dùng nấu rượu bia…
- Đặc trưng:
+ GTSD do thuộc tính tự nhiên của hh quyết định, là nội dung VC-CC. Vì vậy,
GTSD là một phạm trù vĩnh viễn.
+ GTSD được phát hiện dần trong quá trình phát triển của KHKT và của LLSX.
+ GTSD của hàng hóa là GTSD cho XH chứ không phải GTSD cho bản thân
người SX.
 Một vật khi đã là hh thì nhất thiết nó phải có GTSD nhưng không phải bất cứ vật
gì có GTSD cũng đều là hh Vd: kk, nước suối, quả dại… Một vật muốn trở thành
hh thì GTSD của nó phải là vật được sx ra để bán để trao đổi cũng có nghĩa là vật
đó phải có GTTĐ.
 GTHH:
- GTTĐ: Là tỷ lệ TĐ, quan hệ TĐ về mặt lượng giữa những hh KN về GTSD
VD: 1m vải= 20kg thóc
+ Cơ sở của sự bằng nhau là gạt bỏ GTSD của hh, mọi hh đều là sp của LĐ.
+ Thực chất của TĐ sp là TĐ LĐ
- GTHH: Là hao phí LĐ XH cần thiết của người SX hh kết tinh trong hh đó


VD: 1m vải= 20kg thóc. Sở dĩ phải TĐ theo tỷ lệ nhất định, vì người ta cho rằng
LĐ hao phí SX ra 1m vải = LĐ hao phí để SX ra 10kg thóc. LĐ hao phí để SX hh
ẩn giấu trong hh chính là GTHH
+ Đặc trưng:
Phản ánh quan hệ giữa người SX hh
Là một phạm trù lịch sử gắn liền với nền SX hh. Giai cấp, NN là những
phạm trù lịch sử có quá trình phát sinh, tồn tại, phát triển, có sinh có diệt.


Là thuộc tính XH của hh
GTTD là hình thức biểu hiện của GT, GTND là cơ sở của GTTD. Nếu GTSD là
thuộc tính tự nhiên thì giá trị là thuộc tính HX của hh.
 Mối quan hệ giữa GT và GTSD
- HH là một trong những phạm trù cơ bản KT chính trị. Theo nghĩa hẹp, hh là vật
chất tồn tại có hình dạng xác định trong kg và cụ thể TĐ, mua bán được. Theo
nghĩa rộng, hh là tất cả những gì có thể TĐ, mua bán được
- Trong mỗi hình thái kinh tế- xã hội, SX hh có bản chất KN, nhưng hh đều có 2
thuộc tính: GTSD, GTHH
- Giữa 2 thuộc tính của hh luôn có mối quan hệ ràng buộc lân nhau, nó vừa mâu
thuẫn vừa thống nhất với nhau, mặt thống nhất thể hiện ở chỗ 2 thuộc tính này
cùng đồng thời tồn tại trong một hh, một vật phải có đầy đủ 2 thuộc tính hh, nếu
thiếu một trong hai thuộc tính đó sẽ không phải là hh.
 Mâu thuẫn giữa 2 thuộc tính của hh thể hiện ở chỗ
+ Vơi tư cách là GTSD thì các hh không đồng nhất về chất. Nhưng với tư cách là
GT thì các hh lại đồng nhất về chất đều là sự kết tinh của LĐ.
+ Tuy GT và GTSD cùng tồn tại trong một hh nhưng quá trình thực hiện chúng lại
tách rời nhau về cả mặt kg và tg
- Hai thuộc tính hh này không phải là do có 2 thứ LĐ khác nhau kết tinh trong hh
mà là do LĐ SX hh có tính chất 2 mặt, vừa có tính trừu tượng (LĐ trừu tượng),
vừa có tính cụ thể (LĐ cụ thể). Ta có thể nói, GT cua hh là LĐ trừu tượng kết tinh

trong hh
- Đây chính là mặt chất của GTHH. Trong đó, GTND là cơ sở của GTTD, còn
GTTD là hình thức biểu hiện của GT ra bên ngoài. Khi TĐ sp cho nhau, những
người SX ngầm so sánh LĐ ẩn giấu trong hh với nhau. Thực chất của quan hệ TĐ
là người ta TĐ đối tượng LĐ hao phí của mình chứa đựng trong các hh. Vì vậy,
GT là biểu hiện quan hệ XH giữa những người SX hh. GT là một phạm trù lịch sử,
gắn liền với nền SX hh. Nếu GTSD là thuộc tính tự nhiên thì GT là thuôc tính XH
của hh. Như vậy, hh là sự thống nhất của 2 thuộc tính GTSD và GT, nhưng là sự
thống nhất của 2 mặt độc lập. Đối với người SX hh, họ tạo ra GTSD, nhưng mục
đích của họ không phải là GTSD mà là GT, họ quan tâm đến GTSD là để đạt mục
đích GT mà thôi. Ngược lại, đối với người mua, cái mà họ quan tâm là GTSD để
thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng muốn có GTSD thì phải trả GT cho
người SX ra nó. Như vậy, trước khi thực hiện GTSD phải thực hiện GT của nó.
Nếu không thực hiện được giá trị sẽ không thực hiện được GTSD.
 Giá trị được thực hiện trước trong quá trình lưu thông còn GTSD được thực hiện
sau trong quá trình tiêu dùng
-


• Tính 2 mặt của lao động SX hh. Sở dĩ có 2 thuộc tính GT và GTSD là do LĐ của
người SX ra hh có tính 2 mặt. Chính tính 2 mặt của LĐ SX hh quyết định tính 2
mặt của bản thân hh
- LĐ cụ thể:
Là LĐ có ích của người SX hh được biểu hiện dưới một hình thức cụ thể của
những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi LĐ cụ thể có mục đích riêng, đối
tượng riêng, phương tiện riêng, pp riêng và kq riêng.
VD: LĐ cụ thể của người thợ mộc mục đích là SX cái bàn, cái ghế, đối tượng LĐ
là gỗ, pp là các thao tác cưa, bào, khoan, đục, phương tiện được sử dụng là cái
cưa, cái đục, cái bào, cái khoan, kq là tạo ra cái bàn cái ghế
Đặc trưng

+ LĐ cụ thể tạo ra một loại GTSD nhất địnhLĐ cụ thể càng nhiều loại thì càng tạo
ra nhiều loại GTSD KN.
+ Các LĐ cụ thể hợp thành hệ thống phân công LĐ XH. Cùng với sự phát triển
của KHKT, các hình thức LĐ cụ thể ngày càng đa dạng, phong phú, nó phản ánh
trình độ phát triển của phân công LĐ XH.
+ LĐ cụ thể tạo GTSD của hh. Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn, vì vậy LĐ
cụ thể cũng là phạm trù vĩnh viễn tồn tại gắn liền vối vật phẩm, nó là một điều
kiện không thể thiếu trong bất kỳ hình thái KT - XH nào.
+ Các hình thức phong phú và đa dạng của LĐ cụ thể phụ thuộc vào trình độ phát
triển và sự áp dụng KH - công nghệ vào SX, đồng thời cũng là tấm gương phản
chiếu trình độ phát triển KT và KH - công nghệ ở mỗi thời đại.
+ LĐ cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất của GTSD do nó bao giờ cũng do
hai nhân tố hợp thành: VC và LĐ. LĐ cụ thể của con người chỉ thay đổi hình thức
tồn tại của các VC, làm cho nó thích hợp với nhu cầu của con người.
-

LĐ trừu tượng
Là LĐ của người SX hh sau khi đã gạt bỏ những hình thức biểu hiện bên ngoài để
quy về cái chung đồng nhất là sự hao phí tg và SLĐ
+ Ví dụ: LĐ của người thợ mộc và LĐ của người thợ may, nếu xét về mặt LĐ cụ
thể thì hoàn toàn KN, nhưng nếu gạt bỏ tất cả những sự KN ấy sang một bên thì
chúng chỉ còn có một cái chung, đều phải hao phí sức óc, sức bắp thịt và sức thần
kinh của con người.


Đặc trưng
+ LĐ trừu tượng tạo ra GTHH, làm cơ sở cho sự ngang bằng TĐ.
+Giá trị của hh là một phạm trù lịch sử, do đó lao động trừu tượng tạo ra GTHH
cũng là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền SX hh.
 Vì sao hh lại có hai thuộc tính?


Vì LĐ SX ra hh có t/c 2 mặt là LĐ cụ thể và LĐ trừu tượng. Trong đó, LĐ cụ thể
của người SX tạo ra thuộc tính GTSD của hh, còn LĐtrừu tượng của người SX tạo
ra thuộc tính GTHH

Câu 2: Bản chất và các chức năng của tiền tệ


Bản chất tiền tệ là một loại hh đặc biệt được tách ra khỏi thế giới hh để làm vật
ngang giá chung cho việc TĐ các loại hh, nó thể hiện LĐ XH và mối quan hệ giữa
những người SX
VD Vàng

hh thông thường có GTSD như trang sức… GT là hao phí LĐ
XH cần thiết
Hh đặc biệt ( tiền) GTSD là vật ngang giá chung. GT là hh
mà nó đại diện biểu hiện một cách gián tiếp

• Các chức năng
- Thước đo GT:
+ Tiền tệ dùng dể biểu hiện ra bên ngoài và đo lường GT của hh. Muốn đo lường
GT của hh, bản thân tiền cũng phải có GT. Vì vậy tiền tệ làm chức năng giá trị
phải là tiền vàng.
+ Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của GT. Phụ thuộc vào GTHH, GT đồng
tiền, quan hệ cung cầu về hh đó trên thị trường ( cung > cầu thì giá cả< GT, cung=
cầu thì giá cả = GT, cung < cầu thì giá cả > GT) nhưng vì GTHH là nội dung của
giá cả nên trong 3 nhân tố trên thì GT vẫn là nhân tố quyết định giá cả. Giá cả chỉ
quay xung quanh trục GT
+ Thực hiện chức năng này không cần phải có tiền mặt, tiền thật mà chỉ cần một
lượng tiền tưởng tượng, tiền quy ước

+ Giá cả hh chịu ảnh hưởng của các nhân tố: GTHH, giá trị của tiền, quan hệ cung
– cầu về hàng hóa. Nhưng vì GTHH là nội dung của giá cả nên trong ba nhân tố
nêu trên thì giá trị vẫn là nhân tố quyết định giá cả.


+ Để tiền làm được chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được
quy định một đơn vị tiền tệ nhất định làm tiêu chuẩn đo lường giá cả của hh. Đơn
vị đó là một trọng lượng nhất định của kim loại dùng làm tiền tệ. Ở mỗi nước, đơn
vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau. Chẳng hạn ở Mỹ, tiêu chuẩn giá cả của 1 đồng
đôla có hàm lượng vàng là 0.736662gr, ở Pháp 1 đồng frăng hàm lượng vàng là
0,160000gr, ở Anh 1 đồng Fun St’zelinh có hàm lượng vàng là 2,13281 gr.. .Tác
dụng của tiền khi dùng làm tiêu chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi
dùng; làm thước đo giá trị. Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hh
khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá
trị của hh tiền tệ thay đổi theo sự thay đổi của số lượng LĐ cần thiết để SX ra hh
đó. GTHH tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến "chức năng" tiêu chuẩn
giá cả của nó, mặc dù giá trị của vàng thay đổi ntn. Ví dụ. 1 đôla vẫn bằng 10 xen.
 Phương tiện lưu thông
- Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới trong quá trình
TĐHH. Để làm chức năng lưu thông hh đòi hỏi phải có tiền mặt. TĐHH lấy tiền
làm môi giới gọi là lưu thông hh.
- CT lưu thông hh là: H - T - H, khi tiền làm môi giới trong TĐHH đã làm cho hành
vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về tg và kg. Sự không nhất trí giữa
mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng hoảng KT.
- Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thỏi, bạc nén. Dần
dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao
mòn dần và mất một phần giá trị của nó. Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận
như tiền đúc đủ giá trị.
- Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình trạng
này vì tiền làm phương lện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Người ta đổi hàng

lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông,
tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà
nước tìm cách giám bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của
tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự
ra đời của tiền giấy. Nhà nước có thể in tiền giấy ném vào lưu thông. Nhưng vì bản
thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là ký hiệu của nén vàng, nên nhà nước
không thể tùy ý in bao nhiêu tiền giấy cũng được, mà phải tuân theo quy luật lưu
thông tiền giấy. Quy luật đó là: "việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn trong
số lượng vàng (hay bạc) do tiền giấy đó tượng trưng, lẽ ra phải lưu thông thực sự".
Khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành và lưu thông vượt quá klg tiền cần
cho lưu thông, thì giá trị của tiền tệ sẽ bị giảm xuống, tình trạng lạm phát sẽ xuất
hiện.
 Phương tiện cất trữ:
- Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Sở dĩ
tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải XH dưới hình thái
giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải. Để làm chức năng phương
tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền, vàng, bạc. Chức năng cất trữ làm
cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho


lưu thông. Nếu SX tăng, lượng hh nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu thông.
Ngược lại, nếu SX giảm, lượng hh lại ít thì một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông
đi vào cất trữ
 Phương tiện thanh toán: Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ,
nộp thuế, trả tiền mua chịu hàng... Khi SX và TĐHH phát triển đến trình độ nào đó
tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này, trước tiên tiền
làm chức năng thước đo giá trị để định giá cả hh. Nhưng vì là mua bán chịu nên
đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm phương tiện thanh toán. Sự
phát triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ bằng cách
thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt. Mặt khác, trong việc mua bán

chịu người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi hệ thống chủ nợ
và con nợ phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó không thanh
tóan được sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng
hoảng KT tăng lên
 Tiền tệ thế giới: Khi TĐHH vượt khỏi biên giới quốc gia thì nên làm chức năng tiền

tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại hình thái ban đầu
của nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương tiện mua bán
hàng hóa, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của XH.
Năm chức năng của tiền trong nền KT hh quan hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển
các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của SX và lưu thông hh.
 Có phải do thuộc tính tự nhiên của vàng mà tiền ra đời?
Không phải. Vì tiền ra đời do yêu cầu của SX và TĐ hh.
Câu 3: Nội dung và tác động của QLGT
• Nội dung: Là quy luật KT cơ bản của SX và trao đổi hh, ở đâu có SX và trao đổi
hh ở đó có sự hiện diện và hoạt động của QLGT. Sự hoạt động của QLGT được
biểu hiện thông qua sự biến động của giá cả trên thị trường, cơ chế hoạt động của
QLGT là sự tách rời giữa giá cả và HT hh
- Yêu cầu của quy luật giá trị:
+ Thứ nhất, theo quy luật này, sản xuất hh được thực hiện theo hao phí LĐ XH cần
thiết, nghĩa là cần tiết kiệm LĐ (cả LĐ quá khứ và LĐ sống) nhằm: đối với một hh
thì giá trị của nó phải nhỏ hơn hoặc tg LĐ XH cần thiết để SX ra hhđó, tức là giá
cả thị trường của hh.
+ Thứ hai, trong TĐ phải tuân theo nguyên tắc ngang giá, nghĩa là phải đảm bảo
bù đắp được chi phí chí người SX (tất nhiên chi phí đó phải dựa trên cơ sở tg LĐ
XH cần thiết, chứ không phải bất kỳ CP cá biệt nào) và đảm bảo có lãi để tái SX
mở rộng.
- Tác động
 Thứ nhất, điều tiết SX và lưu thông hh.



-

Điều tiết SX tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố SX giữa các ngành, các lĩnh vực
của nền KT. Tác lộng này của QLGT thông qua sự biến động của giá cả hh trên thị
trường dưới tác động của quy luật cung - cầu.
+ Nếu cung nhỏ hơn cầu, thì giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa là hh SX ra có lãi, bán
chạy. Giá cả cao hơn giá trị sẽ kích thích mở rộng và đẩy mạnh SX để tăng cung;
ngược lại cầu giảm vì giá tăng.
+ Nếu cung lớn hơn cầu, sp SX ra quá nhiều so với nhu cầu, giá cả thấp hơn giá trị,
hh khó bán, SX không có lãi. Thực tế đó, tự người SXra quyết định ngừng hoặc
giảm SX; ngược lại, giá giảm sẽ kích thích tăng cầu, tự nó là nhân tố làm cho cung
tăng.
+ Cung cầu tạm thời cân bằng; giá cả trùng hợp với giá trị. Bề mặt nền KT người ta
thường gọi là “bão hòa”.

Tuy nhiên nền KT luôn luôn vận động, do đó quan hệ giá cả và cung cầu cũng
thường xuyên biến động liên tục. Như vậy, sự tác động trên của QLGT đã dẫn đến
sự di chuyển sức LĐ và TLSX giữa các ngành SX KN.
- Điều tiết lưu thông của QLGT cũng thông qua diễn biến giá cả trên thị trường. Sự
biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả
thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hh thông suốt.
Như vậy, sự biến động của giả cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động
về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền KT hh.
 Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá SX, tăng NSLĐ, thúc đẩy LLSX
XH phát triển.
Trong nền KK hh, mỗi người SX hàng hoá là một chủ thể KT độc lập, tự quyết
định hoạt động SX KD của mình. Nhưng do ĐK SX KN nên hao phí LĐ cá biệt
của mỗi người KN, SX nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí LĐ XH
của hh ở thế có lợi sẽ thu được lãi cao. Người SX nào có hao phí LĐ cá biệt lớn

hơn hao phí LĐ XH cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh
tranh, và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí LĐ cá biệt của
mình sao cho bằng hao phí LĐXH cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải
tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng NSLĐ. Sự
cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính
XH. Kết quả là LLSX xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.
 Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người SX hh thành người
giàu, người nghèo.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có
DK SX thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị KT tốt nên có hao phí LĐ cá
biệt thấp hơn hao phí LĐXH cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ
mua sắm thêm TLSX, mở rộng SX KD. Ngược lại những người không có ĐK


thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn đến
phá sản trở thành nghèo khó.
Câu 4: Sự chuyển hóa của tiền thành TB: CT chung, mâu thuãn, hh SLĐ
• CT chung
- Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hh, đồng thời cũng là hình thức biểu hiện
đầu tiên của TB TB lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định.
Nhưng bản thân tiền không phải là TB. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những ĐK
nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột LĐ của người khác.
Sự vận động của đồng tiền thông thường và đồng tiền là tb có sự kn hết sức cơ
bản.
-

-

-


-

Trong lưu thông HH giản đơn thì tiền được coi là tiền thông thường, vận động
theo công thức: H - T - H (hàng - tiền - hàng), nghĩa là sự chuyển hóa của hh
thành tiền, rồi tiền lại chuyển hóa thành hh. Ở đây, tiền tệ không phải là TB mà chỉ
là tiền tệ thông thường với đúng nghĩa của nó. Người SX hh bán hh của mình lấy
tiền tệ, rồi lại dùng tiền tệ đó để mua một hh khác phục vụ cho những nhu cầu tiêu
dùng nhất định của mình. Ở đây, tiền tệ chỉ là phương tiện để đạt tới một mục đích
bên ngoài lưu thông. Hình thức lưu thông hh này thích hợp với nền SX nhỏ của
những người thợ thủ công và nông dân.
Còn tiền được coi là tư bản thì vận động theo CT: T - H - T (tiền - hàng - tiền), tức
là sự chuyển hóa của tiền thành hh, rồi hh lại chuyển hóa ngược lại thành tiền.
So sánh công thức lưu thông hh giản đơn H - T - H và CT lưu thông của TBT - H –
T, chúng ta thấy chúng có những điểm GN: Cả hai sự vận động đều do hai giai
đoạn đối lập nhau là mua và bán hợp thành, trong mỗi giai đoạn đều có hai nhân tố
vật chất đối diện nhau là tiền và hàng, và hai người có quan hệ KT với nhau là
người mua và người bán. Giữa hai CT đó còn có những điểm KN:
KN về điểm xuất phát và kết thúc: Lưu thông hh giản đơn bắt đầu bằng việc bán
(H — T) và kết thúc bằng việc mua (T - H). Điểm xuất phát và điểm kết thúc của
quá trình đều là hh, còn tiền chỉ đóng vai trò trung gian. Ngược lại, lưu thông của
TB bắt đẩu bằng việc mua (T - H) và kết thúc bằng việc bán (H-T). Tiền vừa là
điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc của quá trình, còn hh chỉ đóng vai trò trung
gian; tiền ở đây không phải là chi ra dứt khoát mà chỉ là ứng ra rồi thu về.
KN về mục đích: Mục đích của lưu thông hh giản đơn là GTSD để thỏa mãn nhu
cầu, nên các hh TĐ phải có GTSD KN. Sự vận động sẽ kết thúc ở giai đoạn thứ
hai, khi những người TĐ có được GTSD mà người đó cần đến. Còn mục đích của
lưu thông TB không phái là GTSD mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì
vậy, nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra, thì quá trình vận động trở nên vô nghĩa.
Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ
củaTBlà T - H – T’, trong đó T' = T + dentaT. Số tiền trội hơn so với sổ tiền đã

ứng ra (dentaT), C.Mác gọi là GTTD. Số tiền ứng ra ban đầu đã chuyển hóa thành
TB.


-

KN về hành vi: CT lưu thông hh đơn giản bắt đầu bằng hành vi bán và kết thúc
bằng hành vi mua, CT lưu thông hh TBCN bắt đầu bằng hành vi mua và kết thúc
bằng hành vi bán
- KN về giới hạn sự vận động: Vì mục đích của CT lưu thông hh đơn giản là GTSD
nên quá trình vận động sẽ chấm dứt ở giai đoạn lưu thông hh TBCN, khi những
người tham gia TĐ có trong tay GTSD mà mình cần. Mục đích của lưu thông hh
TBCN là giá trị nên sự vận động của nó là không giới hạn. Trog CT lưu thông hh
TBCN số tiền ứng ra ban đầu với mục đích thu đc GTTD đã chuyển hóa thành TB.
- Vậy, TB là giá trị mang lại GTTD. . C.Mác gọi công thức T - H – T’ là công thức
chung của tư bản, vì sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông
dưới dạng khái quát đó, dù đó là tư bản thương nghiệp, tư bản công nghiệp hay tư
bản cho vay.
 Vì sao T- H- T’ dc gọi là CT chung của TB?
Vì mọi TB khi ra lưu thông nó đều vận động theo CT này


Mâu thuẫn: Trong CT T - H – T’, trong đó T’ = T + T. Vậy, GTTD (T) do đâu mà
có?

-

Trong lưu thông, dù người ta TĐ ngang giá hay không ngang giá thì cũng không
tạo ra giá trị mới, do đó cũng không tạo ra GTTD
+ Trường hợp TĐ ngang giá: chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị, từ tiền thành

hàng và từ hàng thành tiền, còn tổng giá trị cũng như phần giá trị nằm trong tay
mỗi bên tham gia TĐ trước sau vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, về GTSD thì cả hai
bên TĐ đều có lợi vì có được những hàng hóa thích hợp với nhu cầu của mình.
+ Trường hợp TĐ không ngang giá: Có thể có ba trường hợp xảy ra, đó là:
TH1 Bán hh cao hơn giá trị.
TH2bán hh thấp hơn giá trị
Nếu hh bán cao hơn giá trị thì người bán được lợi, còn nếu bán hh thấp hơn giá trị
thì người mua được lợi. Nhưng trong nền kinh tế hh, mỗi người SX đều vừa là
người bán vừa là người mua do đó phần lợi mà họ thu được khi bán sẽ bù lại phần
thiệt khi mua và ngược lại
TH3: Mua rẻ, bán đắt thì giá trị mà gười này thu được chẳng qua là giá trị của
những người khác bị mất mà thôi, tổng giá trị trong XH không tăng lên.

-

Trong thực tiễn, dù có lật đi lật lại vấn đề này đến mấy đi nữa thì kết quả cũng vẫn
như thế. C.Mác đã chỉ rõ: "Lưu thông hay TĐHH, không sáng tạo ra một giá trị
nào cả".Như vậy, lưu thông đã không đẻ ra GTTD.
Xét trường hợp ngoài lưu thông, chúng ta xem xét hai trường hợp:
+ Ở ngoài lưu thông, nếu ngươi TĐ vẫn đứng một mình với hh của anh ta, thì giá
trị của những hh ấy không hề tăng lên một chút nào.


+ Ở ngoài lưu thông, nếu người SX muốn sáng tạo thêm giá trị mới cho hh, thì
phải bằng LĐ của mình.
Vậy GTTD không sinh ra trong lưu thông nhưng cũng không thể sinh ra ở ngoài
lưu thông. Đây chính là mâu thuẫn trong CT chung của TB
• HH SLĐ: Sự biến đổi giá trị của số tiền cần phải chuyển hóa thành TB không thể
xảy ra trong bản thân số tiền ấy, mà chỉ có thể xảy ra từ hh được mua vào (T - H).
hh đó không thể là một hh thông thường, mà phải là một hh đặt biệt, hh mà GTSD

của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Thứ hàng hóa đó là SLĐ mà nhà
TB đã tìm thấy trên thị trường.
 Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa
- SLĐ là toàn bộ năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong cơ thể sống của con người
và được người đó đem vận dụng vào quá trình LĐ SX
- SLĐ chỉ có thể trở thành hh khi có hai ĐK:
+ Thứ nhất, người có SLĐ phải được tự do về thân thể, tức là họ có quyền sở hữu,
chi phối và sử dụng SLĐ của mình, kể cà việc bán SLĐ đó như một hh trong một
thời gian nhất định
+ Thứ hai, người có sức lao động bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất, họ không
có khả năng tạo lập quá trình SX. Cho nên, để tồn tại buộc họ phải bán sức lao
động của mình như một hh cho người khác sử dụng.
 Hai thuộc tính của hh SLĐ
Cũng giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính:
giá trị và giá trị sử dụng.
-

GTHH SLĐ: Cũng do thời gian LĐ XH cần thiết để SX và tái SX SLĐ quyết định.
Nhưng sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sống của con người. Muốn tái sản
xuất ra năng lực đó, người công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt
nhất định.
Vậy thời gian LĐ XH cần thiết để tái SX ra SLĐ sẽ được quy thành thời gian LĐ
XH cần thiết để SX ra những tư liệu sinh hoạt ấy; hay nói cách khác, giá trị hh
SLĐ được đo gián tiếp bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi
sống người công nhân và gia đình cua họ.
Là hh đặc biệt, GTHH SLĐ khác với hh thông thường; ở chỗ nó còn bao hàm cả
yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó có nghĩa là ngoài những nhu cầu về vật chất,
người công nhân còn có những nhu cầu về tinh thần, văn hóa... Những nhu cầu đó
phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước ở từng thời kỳ, đồng thời nó còn
phụ thuộc cả vào điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó.

GTHH SLĐ bao gồm 3 bộ phận chủ yếu:
+ Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái SX
SLĐ, duy trì đời sống của bản thân người công nhân.


+ Hai là, những khoản chi phí để đào tạo nâng cao trình độ người công nhân
+ Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết để nuôi dạy
con cái người công nhân..
 GTSD của hh SLĐ: Hàng hóa sức lao động không chỉ có giá trị, mà còn có giá trị
sử dụng như bất kỳ một hàng hóa thông thường nào. Giá trị sử dụng của hàng hóa
sức lao động cũng chỉ thể hiện ra trong qúa trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá
trình LĐ của người công nhân để SX ra một hh nào đó đồng thời trong quá trình
đó, SLĐ tạo ra một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị vốn có của bản thân nó.
Phần giá trị dôi ra ngoài giá trị SLĐ chính là GTTD mà nhà TB chiếm đoạt
Như vậy, GTSD của hh SLĐ có t/c đặc biệt là nguồn gốc sinh ra giá trị. Đặc điểm
này là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn trong CT chung của TB.
 Vì sao hh SLĐ được coi là hh đặc biệt
Nó nằm ở GTSD là nguồn gốc tạo ra GTTD
Hh SLĐ, tiền tệ, TB cho vay là 3 loại hh đặc biệt
Câu 5: Quá trình SX ra GTTD
• Sự thống nhất giữa quá trình SX ra GTTD và quá trình SX ra GTTD
Mục đích của SX TBCN là giá trị, hơn nữa là GTTD . Nhưng để SX GTTD thì trước
hết nhà TB phải SX ra những hh có GTSD vì GTSD là vật mang GTTĐ và GTTD.
Như vậy, quá trình SX TBCN là sự thống nhất giữa quá trình SX ra GTSD và quá
trình SX ra GTTD.
Quá trình SX trong xí nghiệp TB đồng thời là quá trình nhà TB tiêu dùng SLĐ và
TLSX mà nhà tư bản đã mua, nên nó có các đặc điểm:
Một là, công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà TB, LĐ của anh ta thuộc về
nhà TB giống như những yếu tố khác của SX và được nhà TB sử dụng sao cho có
hiệu quả nhất.

Hai là, sp là do LĐ của người công nhân tạo ra, nhưng nó không thuộc về công nhân
mà thuộc sở hữu của nhà TB.
Để hiểu rõ quá trình SX GTTD, chúng ta lấy việc SX sợi của một nhà TB làm VD.
Để tiến hành quá trình SX nhà TB phải mua các yếu tố SX đó là TLSX và SLĐ (giẩ
định việc mua này là đúng giá trị)
Giả sử nhà TB mua 10kg bông: 10USD
Thuê công nhân/ngày (8h): 2USD
Hao mòn máy móc để chuyển 10kg bông thành 10kg sợi : 2USD
Số tiền nhà TB ứng ra là: 14USD


Trong 4h LĐ đầu:
Bằng LĐ cụ thể, người công nhân đã chuyển 10kg bông thành 10kg sợi- giá trị 10kg
bông chuyển vào sợi là 10USD
Bằng LĐ trừu tượng, người công nhân tạo ra một giá trị mới bằng giá trị SLĐ của
người công nhân là 2USD.
Tiền hao mòn máy móc để chuyển 10kg bông thành 10kg sợi là 2USD.
Như vậy giá trị 10kg sợi là 14USD= số tiền nhà TB đã ứng ra.
Nếu quá trình SX kết thúc ở thời điểm này thì nhà TB chưa có GTTD. Nhưng nhà TB
đẫ bỏ tiền công thuê công nhân trong 8h LĐ chứ không phải trong 4h. Vì vậy nhà TB
bắt công nhân làm việc trong 4h tiếp theo.
Giả sử trong 4h sau nhà TB cũng chi thêm 10USD để mua 10kg bông và 2USD tiền
hao mòn máy móc và giả định trong 4h lao động này, người công nhân cũng tạo ra
một giá trị ngang bằng 4h đầu, tức là 10kg sợi với giá trị 14USD. Như vậy trong cả
ngày:
Mua 20kg bông: 20USD
Thuê công nhân/ngày: 2USD
Hao mòn máy móc/ngày: 4USD
Tổng số tiền nhà TB đã ứng ra là 26USD, nhưng gúa trị của 20kg sợi là 28USD. Nhà
TB thu được 2USD trội ra. Đó là GTTD

Vậy, GTTD là một bộ phận của giá trị mới trội ra ngoài giá trị SLĐ do công nhân làm
thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt, là kết quả lao động không công của công
nhân cho nhà TB. Quá trình SX ra GTTD là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá thời
điểm mà ở đó giá trị SLĐ của người công nhân được bù đắp bằng một vật ngang giá
Ngày LĐ của công nhân được chia thành hai phần: phần ngày LĐ mà người công
nhân tạo ra một lượng giá trị ngang với giá trị SLĐ của mình gọi là thời gian LĐ
cần thiết và lao động trong thời gian này là LĐ cần thiết. Phần còn lại của ngày
LĐ gọi là tg lao động thặng dư, và LĐ tg đó gọi là lao động thặng dư.
Qua n/c quá trình SX GTTD mâu thuẫn trong CT chung của TB đã được giải
quyết: việc chuyển hóa của tiền thành TB diễn ra trong lưu thông đồng thời không
diễn ra trong lưu thông. Việc nghiên cứu giá trị thặng dư được sản xuất ra như thế nào
đã vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
• Bản chất của TB, sự phân chia TBBB và TBKB
 Bản chất: TB là giá trị mang lại GTTD bằng cách bóc lột LĐ không công của

công nhnn làm thuê. Bản chất của TB là phản ánh mối quan hệ giữa giai cấp TS


và giai cấp VS. Trong mối quan hệ này, giai cấp TS chiếm đoạt GTTD do giai cấp
công nhân tạo ra
 Sự phân chia TBBB và TBKB
- Cơ sở phân chia: Dựa vào vai trò từng bộ phận TB trong việc tạo ra GTTD.
- TBBB ( c): là bộ phận TB tồn tại dưới dạng TLSX, bao gồm máy móc, thiết bị,
nhà xưởng, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ…Trong quá trình SX, giá trị của
nó được LĐ cụ thể của người cong nhân bào toàn và chuyển vào sp mới- tức là nó
không thay đổi về lượng giá trị trong quá trình SX
TBBB không phải là nguồn gốc GTTD nhưng nó là ĐK cần thiết để SX GTTD.
- TBKB ( v): Là bộ phận TB mà nhà TB ứng ra để mua SLĐ. Trong quá trình SX,
giá trị của nó thông qua LĐ trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là
BĐ về lượng. Bằng LĐ trừu tượng của mình, người công nhân tạo ra một lượng

giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân SLĐ, nó không những bù đắp lại giá trị
SLĐ của công nhân mà nó có GTTD cho nhà TB.
TBKB là nguồ ngốc tạo ra GTTD.
Ý nghĩa của việc phân chia: Việc phân chia cặp phạm trù trên sẽ vạch rõ bản chất
bóc lột của CNTB, tạo cơ sở KH để CMR không phải toàn bộ TB là nguồn gốc
của GTTD, mà chỉ có TB để mua SLĐ hay nói đúng hơn chỉ có lao động của công
nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
• 2 pp SX GTTD và SX GTTD siêu ngạch
 2 pp SX GTTD

Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì vậy, các nhà
tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư.
Khái quát có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
-

Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: GTTD tuyệt đối là GTTD được
tạo ra do kéo dài tg LĐ vượt quá tg LĐ tất yếu trong khi NSLĐ XH, giá trị SLĐ
và tg LĐ tât yếu không thay đổi.
VD giả sử ngày LĐ là 8h, trong đó tg lao động tất yếu là 4h và tg LĐ thặng dư 4h.

Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:


Giả sử nhà TB kéo dài ngày LĐ thêm 2 giờ nữa, trong khi thời gian tất yếu không
thay đổi, vẫn là 4 gịờ.

Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:

Phương pháp này chiếm ưu thế trong giai đoạn phát triển đầu tiên của phương

thức SX TBCN, khi kỹ thuật và NSLĐ còn thấp.
Tuy nhiên pp này gặp phải giới hạn : việc kéo dài ngày LĐ không thể vượt quá
giới hajntuwj nhiên và giới hạn về mặt thể lực, trí lực của người công nhân. Khi
không thể kéo dài ngày LĐ, nhà TB tìm cách tăng cường độ LĐ tức là tăng hao
phí SLĐ trong 1 đơn vị tg. Vì vậy tăng cường độ LĐ thực chất cũng tương tự như
kéo dài ngày LĐ và cũng là biện pháp SX GTTD tuyệt đối.
-

Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối: GTTD tương đối là GTTD
được tạo ra do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao NSLĐ XH,
nhờ đó tăng tg LĐ thặng dư lên trong ĐK độ dài ngày LĐ vẫn như cũ.
VD giả sử ngày LĐ là 8h trong đó tg LĐ tất yếu là 4h và tg LĐ thặng dư là 4h.

Do đó, tý suất giá trị thặng dư là:


Nếu ngày LĐ không đổi, tg LĐ tất yếu giảm xuống còn 2h dó đó tg LĐ thặng dư
tăng lên là 6h.

Do đó, bây giờ tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:

Muốn rút ngắn tg LĐ tất yếu phải giảm giá trị SLĐ. Muốn hạ thấp giá trị SLĐ
phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người công nhân
tiêu dùng. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng NSLĐ trong các
ngành SX ra tư liệu sinh hoạt và các ngành SX TLSX để SX ra những tư liệu sinh
hoạt đó.
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu khi SX TBCN phát triển đến giai đoạn đại
công nhiệp cơ khí, kỹ thuật tiến bộ làm cho NSLĐ tăng lên nhanh chóng.
• Giá trị thặng dư siêu ngạch
Cạnh tranh giữa các nhà TB buộc họ phải áp dụng phương pháp SX tốt NSLĐ

trong xí nghiệp của mình nhằm giảm giá trị cá biệt của hh thấp hơn giá trị XH của
hh, nhờ đó thu được GTTD siêu ngạch.
GTTD siêu ngạch là phần GTTD thu được do tăng NSLĐ cá biệt, làm cho giá trị
cá biệt của hh thấp hơn giá trị của nó.
Xét từng trường hợp thì GTTD siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, nhanh chóng
xuất hiện rồi cũng lại nhanh chóng mất đi. Nhưng xét toàn bộ XH TB thì GTTD
siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi GTTD siêu ngạch là
khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà TB cải tiến
kỹ thuật, hợp lý hóa SX tăng NSLĐ, làm cho NSLĐ XH tăng lên nhanh chóng.
Mác gọi GTTD siêu ngạch là hình thức biến tứơng của GTTD tương đối, vì GTTD
siêu ngạch và GTTD tương đối dều dựa trên cơ sở tăng NSLĐ (mặc dù một bên là
dựa vào tăng NSLĐ cá biệt, còn một bên dựa vào tăng NSLĐ XH).


GTTD siêu ngạch và GTTD tương đối cùng có một cơ sở chung đó là dựa trên cơ
sở tăng NSLĐ để rút ngắn thời gian LĐ cần thiết.
-

Điểm khác nhau giữa GTTD siêu ngạch và GTTD tương đối:
+ GTTD siêu ngạch dựa trên cơ sở tăng NSLĐ cá biệt, còn GTTD tương đối dựa
trên cơ sở tăng NSLĐ XH. GTTD siêu ngạch sẽ được thay thế bằng GTTD tương
đối khi trình độ kỹ thuật mới được áp dụng ở các TB cá biệt trở thành phổ biến
trong XH. Vì thế, C. Mác gọi GTTD siêu ngạch là hình thức biến tướng của
GTTD tương đối.
+ GTTD tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà TB thu được. Nó biểu hiện sự tiến
bộ kỹ thuật của CNTB được áp dụng rộng rãi. Xét về mặt đó thì nó thể hiện quan
hệ giữa giai cấp công nhân và toàn bộ giai cấp các nhà TB. GTTD siêu ngạch là
mục đích trực tiếp mà mỗi nhà TB cố gắng đạt tới trong cuộc cạnh tranh với các
nhà TB khác. Xét về mặt này, GTTD siêu ngạch không chỉ biểu hiện mối quan hệ
giữa công nhân làm thuê và nhà TB, mà còn biểu hiện mối quan hệ giữa các nhà

TB
với
nhau
Từ đó, ta thấy rằng GTTD siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy
các nhà TB cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào SX, hoàn thiện tổ chức
LĐ và tổ chức SX để tăng NSLĐ, giảm giá trị của hh.

• SX GTTD- Quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB
Quy luật KT tuyệt đối (cơ bản) của phương thức SX TBCN là SX GTTD, vì nó
phản ánh quan hệ KT bản chất trong CNTB: quan hệ giữa TB và LĐ làm thuê.
Quy luật GTTD vạch rõ mục đích, động cơ của SX TBCN là SX ra GTTD tối đa
và phương tiện để đạt mục đích là tăng cường bóc lột công nhân làm thuê dựa trên
cơ sở tăng cường độ LĐ và kéo dài ngày LĐ, tăng NSLĐ và mở rộng SX.
Quy luật GTTD ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của CNTB. Nó quyết
định các mặt chủ yếu, các quá trình KT chủ yếu của CNTB. Nó là động lực vận
động, phát triển của CNTB, thúc đẩy sự phát triển của phân công LĐ XH, làm cho
NSLĐ tăng lên nhanh chóng, nền SX được XH hóa cao. Mặt khác, quy luật GTTD
cũng làm cho mọi mâu thuẫn của CNTB, đặc biệt là những mâu thuẫn cơ bản của
CNTB ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu CNTB bằng một XH cao
hơn.
 Cạnh tranh tự do TB theo quy luật gì?
- Trong giai đoạn cạnh tranh tự do của CNTB GTTD biểu hiện thành lợi nhuận bình
quân và QLGTTD cũng biểu hiệ thành quy luật lợi nhuận bình quân
- Trong giai đoạn cạnh tranh tự do CNTB, khi GTTD chuyển hóa thành lợi nhuận
bình quân thì GTHH chuyển hóa thành giá cả SX và QLGT cũng chuyển hóa
thành quy luật giá cả SX.
Câu 6: Tích lũy TB: thực chất, động cơ, các yếu tố


• Thực chất và động cơ

Tái SX nói chung được hiểu là quá trình SX được lặp đi lặp lại và tiếp diễn một
cách liên tục không ngừng.
SX hiểu theo nghĩa rộng cũng có nghĩa là tái SX. Căn cứ vào quy mô, có thể chia
tái SX thành hai loại: tái SX giản đơn và tái SX mở rộng.
Tái SX giản đơn là quá trình tái SX được lặp lại với quy mô như cũ. Loại hình tái
SX này thường gắn liền với nền SX nhỏ và là đặc trưng của nền SX nhỏ.
Tái SX mở rộng là quá trình SX được lặp lại với quy mô lớn hơn trước. Loại hình
tái SX này thường gắn với nền SX lớn và là đặc trưng của nền SX lớn.
Tái SX giản đơn không phải là hình thái điển hình của chủ nghĩa TB. Bởi vì, giả
định nếu có tái SX giản đơn thì cũng có nghĩa là các nhà TB sử dụng toàn bộ
GTTD cho tiêu dùng cá nhân. Song trên thực tế, khát vọng không có giới hạn về
GTTD đã buộc các nhà TB phải không ngừng mở rộng quy mô SX để tăng quy
mô GTTD.
Vì vậy, nét điển hình của chủ nghĩa TB phải là tái SX mở rộng Tái SX mở rộng
TB chủ nghĩa là sự lặp lại quá trình SX với quy mô lớn hơn trước, với một lượng
TB lớn hơn trước. Muốn vậy, phải biến một bộ phận GTTD thành TB phụ thêm.
Sự chuyển hóa trở lại của GTTD thành TB được gọi là tích lũy TB. Như vậy, thực
chất của tích lũy TB là sự chuyển hóa một phân GTTD thành TB, hay là quá trình
TB hóa GTTD.
Nói một cách cụ thể, tích lũy TB là tái SX ra tư bản với quy mô ngày càng mở
rộng. Sở dĩ GTTD có thể chuyển hóa thành TB được là vì GTTD đã mang sẵn
những yếu tố vật chất của TB mới.
Có thể minh họa tích lũy và tái SX mở rộng TB chủ nghĩa bằng VD: năm thứ nhất
quy mô SX là 80c + 20v + 20m. Giả định 20m không bị nhà TB tiêu dùng tất cả
cho cá nhân, mà được phân thành 10m dùng để tích lũy và l0m dành cho tiêu dùng
cá nhân của nhà TB. Phần l0m dùng để tích lũy được phân thành 8c + 2v, khi đó
quy mô SX của năm sau sẽ là 88c + 22v + 22m (nếu m' vẫn như cũ). Như vậy, vào
năm thứ hai, quy mô TBBB và TBKB đều tăng lên, GTTD cũng tăng lên tương
ứng.
Nghiên cứu tích lũy và tái SX mở rộng TB chủ nghĩa cho phép rút ra những kết

luận vạch rõ hơn bản chất bóc lột của quan hệ SX TBCN:
Thứ nhất, nguồn gốc duy nhất của TB tích lũy là GTTD và tư bản tích lũy chiếm
tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ TB. C.Mác nói rằng, TB ứng trước chỉ là một
giọt nước trong dòng sông của tích lũy mà thôi. Trong quá trình tái SX, lãi (m) cứ
đập vào vốn, vốn càng lớn thì lãi càng lớn, do đó LĐ của công nhân trong quá khứ
lại trở thành phương tiện để bóc lột chính người công nhân.


Thứ hai, quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hh biến
thành quyền chiếm đoạt TBCN. Trong SX hh giản đơn, sự TĐ giữa những người
SX hh theo nguyên tắc ngang giá về cơ bản không dẫn tới người này chiếm đoạt
LĐ không công của người kia. Trái lại, nền SX TBCN dẫn đến kết quả là nhà TB
chẳng những chiếm đoạt một phần LĐ của công nhân, mà còn là người sở hữu hợp
pháp LĐ không công đó. Nhưng điều đó không vi phạm QLGT.
Động cơ thúc đẩy tích lũy và tái SX mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt đối của
CNTB - QLGTTD. Để thực hiện mục đích đó, các nhà TB không ngừng tích lũy
để mở rộng SX, xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột công nhân
làm thuê. Mặt khác, cạnh tranh buộc các nhà TB phải không ngừng làm cho TB
của mình tăng lên bằng cách tăng nhanh TB tích lũy
• Các yếu tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy TB
Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy TB được chia làm hai trường hợp:
Một là, trường hợp klg GTTD không đổi thì quy mô của tích luỹ TB phụ thuộc
vào tỷ lệ phân chia klg GTTD đó thành hai quỹ: quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng của
nhà TB. Đương nhiên tỷ lệ quỹ này tăng lên thì tỷ lệ dành cho quỹ kia sẽ giảm đi.
Hai là, nếu tỷ lệ phân chia đó đã được xác định, thì quy mô của tích luỹ TB phụ
thuộc vào klg GTTD. Klg GTTD phụ thuộc vào những nhân tố sau dây:
Trình độ bóc lột SLĐ bằng những biện pháp tăng cường độ LĐ, kéo dài ngày LĐ,
cắt xén tiền công của công nhân. Điều đó có nghĩa là tg công nhân sáng tạo ra giá
trị càng được kéo dài ra nhưng chi phí càng được cắt giảm, do vậy klg GTTD càng
lớn và quy mô của tích lũy TB càng lớn.

Trình độ NSLĐ XH: nếu NSLĐ XH tăng lên thì giá cả TLSX và tư liệu sinh hoạt
giảm xuống. Sự giảm này đem lại hai hệ quả:
Thứ nhất, với klg GTTD nhất định, phần dành cho tích luỹ có thể tăng lên, nhưng
tiêu dùng của các nhà tư bản không giảm, thậm chí có thể cao hơn trước.
Thứ hai, một giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ có thể chuyển hoá thành
một khôi lượng TLSX và SLĐ phụ thêm lớn hơn trước.
Như vậy, NSLĐ tăng lên sẽ có thêm những yếu tố vật chất để biến GTTD thành
TB mới, nên làm tăng quy mô của tích luỹ.
Sự chênh lệch giữa TB được sử dụng và TB đã tiêu dùng. Trong quá trình SX, tư
liệu LĐ (máy móc, thiết bị) tham gia toàn bộ vào quá trình SX, nhưng giá trị của chúng
lại chỉ bị khấu hao từng phần. Như vậy là mặc dù đã mất dần giá trị, nhưng trong suốt tg
hoạt động, máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Sự hoạt động này của máy
móc được xem như là sự phục vụ không công. Máy móc, thiết bị càng hiện đại, thì sự
chênh lệch giữa TB được sử dụng và TB đã tiêu dùng càng lớn, do đó sự phục vụ không


công càng lớn, TB lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều, nhờ
vậy quy mô của tích lũy TBcàng lớn.
Quy mô của TB ứng trước. Với trình độ bóc lột không thay đổi thì klg GTTD do
klg TBKB quyết định. Do đó quy mô của TB ứng trước càng lớn, nhất là bộ phận TBKB
thì klg GTTD bóc lột được càng nhiều, tạo ĐK tăng thêm quy mô của tích luỹ TB. Từ sự
n/c bốn nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ TB có thể rút ra nhận xét chung là để tăng
quy mô tích luỹ TB, cần khai thác tốt nhất lực lượng LĐ XH, tăng NSLĐ, sử dụng triệt
để công suất của máy móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu TB đầu.
Câu 7: Các khái niệm: tuần hoàn của TB, chu chuyển TB, TB cố định và TB lưu
động
• Tuần hoàn của TB
TB CN (với nghĩa các ngành SX VC), trong quá trình tuần hoàn đều vận động
theo công thức:


Sự vận động này trải qua ba giai đoạn: hai giai đoạn lưu thông và một giai đoạn
sản xuất.
-

Giai đoạn thứ nhất - giai đoạn lưu thông:
Nhà TB xuất hiện trên thị trường các yếu tố SX để mua tư liệu SX và SLĐ.
Quá trình lưu thông đó được biểu thị như sau:

Giai đoạn này TB tồn tại dưới hình thái TB tiền tệ, chức năng giai đoạn này là mua
các yếu tố cho quá trình SX, tức là biến TB tiền tệ thành TBSX.
Giai đoạn thứ hai - giai đoạn SX:

Trong giai đoạn này TB tồn tại dưới hình thái TBSX có chức năng thực hiện sự kết
hợp hai yếu tố TLSX và SLĐ để SX ra hh là trong giá trị của nó có GTTD. Trong
các giai đoạn tuần hoàn của TB thì giai đoạn SX có ý nghĩa quyết định nhất, vì nó
gắn trực tiếp với mục đích của nền SX TBCN.
Kết thúc của giai đoạn thứ hai là TBSX chuyển hóa thành TB hh.


-

Giai đoạn thứ ba - giai đoạn lưu thông:
H' - T'
Trong giai đoạn này TB tồn tại dưới hình thái TB hh, chức năng là thực hiện giá trị
của klg hh đã SX ra trong đó đã bao hàm một lượng GTTD. Trong giai đoạn này,
nhà TB trở lại thị trường với tư cách là người bán hàng. HH của nhà TB được
chuyển hóa thành tiền.
Kết thúc giai đoạn thứ ba, TB hh chuyển hóa thành TB tiền tệ. Đến đây, mục đích
của nhà TB đã được thực hiện, TB quay trở lại hình thái ban đầu trong tay chủ của
nó nhưng với số lượng lớn hơn trước.

Vậy, tuần hoàn của TB là sự vận động liên tục của TB trải qua ba giai đoạn, lần
lượt mang ba hình thái khác nhau, thực hiện ba chức năng khác nhau để rồi lại
quay trở về hình thái ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư.
• Chu chuyển TB
Sự tuần hòan của tư bản, nếu xét nó với tư cách là một quá trình định kỳ đổi mới
và thường xuyên lặp đi lặp lại thì gọi là chu chuyển của tư bản.
Tg chu chuyển của TB là kgoarng tg kể từ khi TB ứng ra dưới một hình thái nhất
định cho đến khi nó trở về tay nhà TB cũng dưới hình thái áy nhưng có thêm
GTTD. Tg chu chuyển của TB bao gồm thời gian SX và tg lưu thông. Thời gian
SX là thời gian TB nằm ở trong lĩnh vực SX.
Tg SX bao gồm: tg LĐ, tg gián đoạn LĐ và tg dự trữ SX. Tg SX của TB dài hay
ngắn là do tác động của nhiều nhân tố như: t/c của ngành SX; quy mô hoặc chất
lượng các sp: sự tác động của quá trình tự nhiên đối với SX; NSLĐ và tình trạng
dự trữ các yếu tố SX.
-

Tg lưu thông là tg tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Trong tg lưu thông, TB
không làm chức năng SX do đó không SX ra hh, cũng không SXt ra GTTD. Tg
lưu thông gồm có tg mua và tg bán hh. Tg lưu thông dài hay ngắn phụ thuộc các
nhân tố sau đây: thị trường xa hay gần, tình hình thị trường xấu hay tốt, trình độ
phát triển của vận tải và giao thông.
Tg chu chuyển của TB càng rút ngắn thì càng tạo ĐK cho GTTD được SX ra
nhiều hơn, TB càng lớn nhanh hơn.
Tốc độ chu chuyển của TB là số vòng (lần) chu chuyển của TB trong một năm. Ta
có CT số vòng chu chuyển của TB:
n = CH/ch
Trong đó: (n) lả số vòng (hay lần) chu chuyển của TB; (CH) là tg trong năm; (ch)
là tg cho 1 vòng chu chuyển của TB.



Như vậy, tốc độ chu chuyển của TB tỷ lệ nghịch với tg 1 vòng chu chuyển của TB.
Muốn tăng tốc độ chu chuyển của TB phải giảm tg SX và tg lưu thông của nó.
• TB cố định và TB lưu động
Cơ sơ phân chia: Dựa trên phương thức chu chuyển giá trị khác nhau của từng bộ
phận trong quá trình SX. TB chia TB SX ra thành 2 loại TB cố định Và TB lưu
động
Tư bản cố định (C1): là bộ phậnTB tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà
xưởng… về hiện vật tham gia toàn bộ vào quá trình SX, nhưng giá trị của nó bị
khấu hao từng phần và được chuyển dần vào sp mới được SX ra.
TB cố định được sd lâu dài trong nhiều chu kỳ SX và nó bị hao mòn dần trong quá
trình SX. Có hai loại hao mòn :
Hao mòn hữu hình la hao mòn về mặt GTSD do quá trình sd và sư tác động của tự
nhiên
Hao mòn vô hình la hao mòn thuần túy về giá trị do ảnh hưởng của tiến bộ KHKT.
Tăng tốc độ chu chuyển của TB cố định là một biện pháp quan trọng để tăng quỹ
khấu hao TSCĐ, làm cho lượng TB sử dụng tăng lên, tránh được thiệt hại hao mòn
hữu hình do tự nhiên phá hủy và hao mòn vô hình gây ra. Nhờ đó mà có ĐKK đổi
mới thiết bị nhanh.
TB ( C2+V): lưu động là bộ phận TBSX tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu,
vật liệu phụ, SLĐ…, giá trị của nó lưu thông toàn bộ cùng với sp và được hoàn lại
toàn bộ cho các nhà TB sau mỗi quá trình SX.
TB lưu động chu chuyển nhanh hơn TBCĐ. Việc tăng tốc độ chu chuyển của TB
lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển của TB lưu động tăng
lên sẽ làm tăng lượng TB lưu động được sd trong năm, do đó tiết kiệm được TB
ứng trước; mặt khác, do tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động khả biến làm
cho tỷ suất GTTD và khối lượng GTTD hằng năm tăng lên.
Ý nghĩ của việc phân chia TBCĐ và TB lưu động: thấy được đặc điểm chu chuyển
của từng bộ phận để tìm cách nần cao tốc độ chu chuyển của TB. Tăng tốc độ chu
chuyển TBCĐ sẽ tiết kiệm được chi phí bảo dưỡng,sữa chữa. Tăng tốc độ chu
chuyển lưu động sẽ tiết kiệm được TB ứng trước và làm cho tỷ suất và klg GTTD

hàng năm tăng lên
Câu 8: Các hình thái TB và các hình thức biểu hiện của GTTD
• Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
 Chi phí SX TBCN
Muốn tạo ra giá trị hh, tất yếu phải CP một số LĐ nhất định, gọi là CP LĐ, bao
gồm LĐ quá khứ và LĐ hiện tại. LĐ quá khứ (LĐ vật hoá), tức là giá trị của
TLSX (c); LĐ hiện tại (LĐ sống) tức là LĐ tạo ra giá trị mới (v + m).


Đứng trên quan điểm XH mà xét, CPLĐ đó là CP thực tế của XH và tạo ra GTHH.
Ký hiệu GTHH: W = c + v + m.
Đối với nhà TB, họ chỉ quan tâm đến việc ứng TB để mua TLSX (c) và mua SLĐ
(v). Do đó, nhà TB chỉ xem hao phí hết bao nhiêu TB, chứ không tính đến hao phí
hết bao nhiêu LĐ XH. C. Mác gọi CP đó là CPSX TBCN, ký hiệu bằng k (k = c +
v).
Vậy CP SX TBCN là CP về TB mà nhà TB bỏ ra để SX hh.
Khi xuất hiện CPSX TBCN, thì CT GTHH (W = c + v + m) sẽ chuyển thành W =
k + m.
Như vậy, giữa GTHH và CPSX TBCN có sự KN cả về mặt lượng lẫn mặt chất.
Về mặt lượng: CPSX TBCN luôn luôn nhỏ hơn CP thực tế hay GTHH:
(c + v) < (c + v + m)
Vì TB SX được chia thành TBCĐ và TB lưu động cho nên CPSX TBCN luôn luôn
nhỏ hơn TB ứng trước.
Về mặt chất: CP thực tế là CPLĐ, phản ánh đúng, đầy đủ hao phí LĐ XH cần thiết
để SX và tạo ra GTHH, còn CPSX TBCN (k) chỉ phản ánh hao phí TB của nhà TB
mà thôi, nó không tạo ra GTHH.
Việc hình thành CPSX TBCN (k) che đậy thực chất bóc lột của CNTB. GTHH: W
= k + m, trong đó k = c + v. Nhìn vào CT trên thì sự phân biệt giữa c và v đã biến
mất, người ta thấy dường như k sinh ra m. Chính ở đây CPLĐ bị che lấp bởi CP
TB (k), LĐ là thực thể, là nguồn gốc của giá trị thì bị biến mất, và giờ đây hình

như toàn bộ CPSX TBCN sinh ra GTTD.
 Lợi nhuận
Giữa GTHH và CPSX TBCN luôn luôn có một khoảng chênh lệch, cho nên sau
khi bán hh (giá cả = giá trị), nhà TB không những bù đắp đủ số TB đã ứng ra, mà
còn thu được một số tiền lời ngang bằng với m. Số tiền này được gọi là lợi nhuận,
ký hiệu là p. Lợi nhuận là hình thái chuyển hóa của GTTD, được quan niệm là con
đẻ của toàn bộ TB ứng trước
Nếu ký hiệu lợi nhuận là p thì công thức:
W = c + v + m = k + m bây giờ sẽ chuyển thành:W = k + p
Giữa p và m có sự GN và KN
GN: đều có chung nguồn gốc là kết quả của LĐ của công nhân.
KN:
Về mặt lượng: giữa m và p có sự không nhất trí về lượng
Cung = cầu => giá cả= giá trị=> p= m


Cung> cầu => giá cả <giá trị => pCung< cầu => giá cả> giá trị => p>m
Trong một thời gian nhất định, xét trên bình diện toàn bộ nền KT thì tổng giá cả=
tổng giá trị, do đó tổng= tổng m.
Về mặt chất:
M phản ánh nguồn gốc sinh ra từ v còn p thì được xem như toàn bộ TB ứng trước
để đẻ ra.
P che giấu quan ệ bóc lột TBCN, che giấu nguồn gốc thực sự của nó
 Tỷ suất lợi nhuận: là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư
bản ứng trước.
Nếu ký hiệu tỷ suất lợi nhuận là p' ta có: p’=
Tỷ suất lợi nhuận là sự chuyển hoá của tỷ suất GTTD, vì vậy chúng có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng giữa m' và p' lại có sự khác nhau cả về lượng và chất.
Về mặt lượng: p' luôn luôn nhỏ hơn m', vì: p’= còn m’=

Về mặt chất: m' phản ánh trình độ bóc lột của nhà TB đối với công nhân làm thuê.
Còn p' nói lên mức doanh lợi của việc đầu TB.
Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà TB biết TB của họ đầu tư vào đâu thì có lợi hơn. Do
đó, việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động lực thúc đẩy các nhà
TB, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà TB.
 Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận
Sự thèm khát lợi nhuận của các nhà tư bản là không có giới hạn. Mức tỷ suất lợi
nhuận cao bao nhiêu cũng không thoả mãn được lòng tham vô đáy của chúng.
Nhưng mức tỷ suất lợi nhuận cao hay thấp không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của các nhà tư bản, mà phụ thuộc vào những nhân tố khách quan sau đây:
-

Tỷ suất giá trị thặng dư:
Tỷ suất GTTD càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn và ngược lại.

-

Cấu tạo hữu cơ của TB: Trong điều kiện tỷ suất GTTD không đổi, nếu cấu tạo hữu
cơ TB càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại.
Tốc độ chu chuyển của TB: Nếu tốc độ chu chuyển của TB càng lớn, thì tỷ suất
GTTD hàng năm càng tăng lên, do đó tỷ suất lợi nhuận cũng càng tăng.
Tiết kiệm TBBB: Trong ĐK tỷ suất GTTD và TBKB không đổi, nếu TBBB càng
nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn.
Bốn nhân tố trên đây đều được các nhà TB sử dụng khai thác một cách triệt để, để
thu tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Song, với những đặc điểm, ĐK KN, nên cùng một
lượng TB như nhau đầu tư vào các ngành SX KN, mà tỷ suất lợi nhuận thu được


lại KN. Vì vậy, các nhà TB ra sức cạnh tranh kịch liệt với nhau và dẫn tới việc
hình thành lợi nhuận bình quân.

• Lợi nhuận bình quân và giá cả SX
 Cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường
Cạnh tranh xuất hiện và gắn liền với sự phát triển của nền KT hh. Cạnh tranh là sự
ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa những người SX, KD hh nhằm giành giật
những ĐK có lợi về SX và tiêu thụ hh, để thu lợi nhuận cao nhất. Trong nền kinh
tế hh, cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực.
Trong SX TBCN, tồn tại hai loại cạnh tranh là: cạnh tranh trong nội bộ ngành và
cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một
ngành, cùng SX ra một loại hàng hoá nhằm giành giật những ĐK thuận lợi trong
SX và tiêu thụ hh có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Biện pháp cạnh tranh: các nhà TB thường xuyên cải tiến kỹ thuật, nâng cao NSLĐ
làm cho giá trị cá biệt của hh xí nghiệp SX ra thấp hơn giá trị XH của hh đó để thu
được lợi nhuận siêu ngạch.
Kết quả của cạnh tranh nội bộ ngành là hình thành nên giá trị XH (giá trị thị
trường) của từng loại hh.
 Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành lợi nhuận bình quân
Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh trong các ngành SX KN, nhằm mục
đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn, tức là nơi nào có tỷ suất lợi nhuận cao hơn.
Nguyên nhân cạnh tranh: trong các ngành SX KN, do đặc điểm và cấu tạo hữu cơ
của các ngành KN nên p’ của từng ngành là KN
Biện pháp cạnh tranh: tự do di chuyển TB từ ngành này sang ngành khác, tức là tự
phát phân phối tư bản (c và v) vào các ngành SX KN.
Kết quả cuộc cạnh tranh này là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, và GTHH
chuyển thành giá cả SX.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tính theo % giữa tổng GTTD và tổng số TB
XH đã đầu tư vào các ngành của nền SX TBCN, ký hiệu là .

Lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau của những TB bằng nhau, dù đầu
tư vào những ngành KN, ký hiệu là .

p = p'. k
Như vậy, trong giai đoạn cạnh tranh tự do của CNTB, GTTD biểu hiện thành lợi
nhuận bình quân và QLGTTD cũng biểu hiện thành quy luật lợi nhuận bình quân.


• Sự chuyển hoá của giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất
Cùng với sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân thì
GTHH chuyển hoá thành giá cả SX.
Giá cả SX= CPSX + với lợi nhuận bình quân .
Tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Điều kiện
để giá trị biến thành giá cả sản xuất gồm có: đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ
nghĩa phát triển; sự liên hệ rộng rãi giữa các ngành sản xuất, quan hệ tín dụng phát
triển, tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác.
Trước đây, khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả hàng hoá xoay
quanh giá trị hàng hoá. Giờ đây, giá cả hàng hoá sẽ xoay quanh giá cả sản xuất.
Xét về mặt lượng, ở mỗi ngành giá cả sản xuất và giá trị hàng hoá có thể không
bằng nhau, nhưng trong toàn xã hội thì tổng giá cả sản xuất luôn bằng tổng giá trị
hàng hoá. Trong mối quan hệ này thì giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong giá
cả sản xuất; giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường, và giá cả thị trường xoay
quanh giá cả sản xuất.
Thực chất hoạt động của quy luật giá cả sản xuất là sự biểu hiện hoạt động của
quy luật giá trị trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản.


×