Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Nội dung ôn thi môn tư tưởng Hồ Chí Minh lớp trung cấp chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.1 KB, 18 trang )

Câu Hỏi. Hoàn cảnh lịch sử ra đời và nội dung khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh:
Trả lời:
-

Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và thế giới có nhiều biến
động.
Trong nước, chính quyền triều Nguyễn đã từng bước khuất phục trước cuộc xâm lược
của tư bản Pháp, biểu hiện cụ thể bằng việc lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, thừa nhận
nền bào hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam.
Cho đến cuối thế kỷ XIX các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu “cần vương" do
các sĩ phu, văn thân lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Hệ tư tưởng phong kiến đã tỏ ra lỗi thời
trước các nhiệm vụ lịch sử.
Các cuộc khai thác của thực dân Pháp cũng khiến cho xã hội nước ta có sự biến
chuyển và phân hóa, tầng lớp.
Tiểu tư sản và tư sản bắt đầu xuất hiện, tạo ra những tiền đề bên trong cho phong trào
yêu nước - giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Cùng vào thời điểm lịch sử đó, các “tân thư”, “tân văn”, tân báo” và những ảnh hưởng
của trào lưu cải cách ở Nhật Bản, Trung Quốc tràn vào Việt Nam, phong trào yêu nước của
nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản.
Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, các sĩ phu nho học có tư tưởng tiến bộ,
thức thời, tiêu biểu như Phan Bội Châu. Phan Chu Trinh đã cố gắng tổ chức và vận động cuộc
đấu tranh yêu nước chống Pháp theo mục tiêu và phương pháp mới. Song, chủ trương cầu
ngoại viện, dùng bạo lực để khôi phục độc lập của Phan Bội Cháu đã thất bại. Chủ trương “ ỷ
Pháp cầu tiến bộ”, khai thông dân trí, nâng cao dân khí trên cơ sở đó mà lần lần tính chuyện
giải phóng... của Phan Chu Trinh cũng không thành công. Còn con đường khởi nghĩa của
người anh hùng Hoàng Hoa Thám thì vẫn mang nặng “cốt cách phong kiến”, chưa phải là lối
thoát rõ ràng, hướng đi đúng đắn. Phong trào cứu nước cua nhân dân ta muốn giành được
thắng lợi, phải đi theo một con đường mới.
- Bối cảnh quốc tế


Khi con thuyền Việt Nam còn lênh đênh chưa rõ bờ bến phải đi tới thì lịch sử thế giới
trong giai đoạn này cũng đang có những biến chuyển to lớn.
Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang giai đoạn độc quyền, đã
xác lập quyền thống
trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung
của các dân tộc thuộc địa.
Có một thực tế lịch sử là trong quá trình xâm lược và thống trị của chủ nghĩa thực dân
tại các nước nhược tiểu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ - latinh, sự bóc lột phong kiến
trước kia vẫn được duy trì, và bao trùm lên nó là sự bóc lột tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh các
giai cấp cơ bản trước kia, đã xuất hiện thêm các giai cấp. tầng lớp xã hội mới.
Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản cuối thế kỷ XIX và nhất là
“sự thức tỉnh châu Á” đầu thế kỷ XX đã dẫn đến một cao trào mới của cách mạng thế giới với
đỉnh cao là Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Cách mạng Tháng Mười Nga đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập Chính quyền Xô viết,
mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài người. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười,
nhiều dân tộc vốn là thuộc địa của đế quốc Nga đã được tự do, được hưởng quyền dân tộc tự


quyết, hình thành nên các quốc gia độc lập và dẫn đến sự ra đời của Liên bang Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Xô viết (1922).
Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, với sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (3-1919),
phong trào công nhân trong các nước tư bản phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa phương Đông càng có quan hệ mật thiết với nhau hơn trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Ở Hồ Chí Minh cũng như ở nhiều anh hùng, danh nhân khác của dân tộc ta, sự kết hợp
hài hòa giữa những điều kiện khách quan và chủ quan chính là nhân tố có ý nghĩa quyết định
dẫn tói hành động cách mạng và giành thắng lợi.
* Phân tích nội dung khái niệm
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ

nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; kế thừa và phát triển những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; sự tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.
Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
mọi hành động của Đảng CS Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là đỉnh cao của tư duy nhân loại; là thế giới quan, phương
pháp luận khoa học và cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
của các đảng cộng sản và công nhân trong đấu tranh xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, xây dựng xã
hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa .
Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin. Đối với Người,
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin cũng có nghĩa là đến với con đường cách mạng vô sản. Từ
đây, Người thực sự tìm thấy con đường cứu nước chân chính, triệt để: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” và “chỉ có
giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có
thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”.
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh có bước nhảy
vọt lớn: kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết hợp dân tộc với giai
cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; nâng chủ nghĩa yêu nước lên một trình độ mới trên
lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Chủ nghĩa
Mác - Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, khoa học nhất, cách mạng nhất, “muốn cách mạng
thành công, phải đi theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và chủ nghĩa Lênin”. Đối với Người, chủ
nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học để giải quyết những
vấn đề do thực tiễn đặt ra. Người không bao giờ xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời kiên
quyết chống chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại.
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin là một nguồn gốc - nguồn gốc chủ yếu nhất, của tư
tưởng Hồ Chí Minh, là một bộ phận hữu cơ - bộ phận cơ sở, nền tảng của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Không thể đặt tư tưởng Hồ Chí Minh ra ngoài hệ tư tưởng Mác - Lênin, hay nói cách
khác, không thể tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi nền tảng của nó là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Cho nên, có thể nói, ở Việt Nam, giương cao tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là giương cao chủ
nghĩa Mác - Lênin. Muốn bảo vệ và quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin một cách có hiệu quả,

phải bảo vệ, quán triệt và giương cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là lịch sử mà cũng là lô-gíc
của vấn đề. Nó giúp chỉ ra sai lầm của quan niệm đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là “kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.


Ở luận điểm này, có hai vấn đề cần làm rõ:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin làm nền tảng, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là sự kế thừa, phát triển các giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nổi bật là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc,
và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, cả phương Đông và phương Tây. Hồ Chí Minh đã từng
tỏ rõ thái độ của mình đối với việc học tập, tiếp thu những học thuyết của các lãnh tụ chính
trị, xã hội, tôn giáo trong lịch sử. Người nói: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu
dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê-su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật
Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giê-su, C. Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao?
Họ đều muốn “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội...”.
Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác - Lênin, bắt nguồn chủ
yếu từ chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa Mác - Lênin,
mà là sự tổng hòa, sự kết hợp giữa tinh hoa văn hóa truyền thống Việt Nam, tinh hoa văn hóa
nhân loại với chủ nghĩa Mác - Lênin, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin... Vậy sự vận dụng và phát triển sáng tạo đó như thế nào?
Ngay từ năm 1924, sau khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành một cán bộ của
Đảng Cộng sản Pháp và của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã vạch rõ sự khác nhau giữa
thực tiễn của các nước tư bản phát triển ở châu Âu mà C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin
đã chỉ ra với thực tiễn Việt Nam - một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp, lạc hậu ở

phương Đông. Do đó, cần bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử phương Đông.
Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ gửi Quốc tế Cộng sản, Người viết: “Cuộc
đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây... Dù sao thì cũng không thể cấm bổ
sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở
thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất
định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn
thể nhân loại... Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc
học phương Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xô viết đảm nhiệm”.
Việc tiếp thu, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh là cả quá
trình gắn với hoạt động thực tiễn, kết hợp lý luận với thực tiễn, xuất phát từ những yêu cầu
của thực tiễn. Người nhấn mạnh rằng, việc học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, trước
hết phải nắm vững “cái cốt lõi”, “linh hồn sống” của nó là phương pháp biện chứng; học tập
“tinh thần, lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập
trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công
tác cách mạng của chúng ta”. Người còn chỉ rõ: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với
nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi
là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Từ những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận thể hiện tư duy độc lập, sáng tạo, Hồ
Chí Minh trong suốt cuộc đời của mình đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam và tạo ra một hệ thống luận điểm mới, sáng tạo, hình thành nên tư
tưởng Hồ Chí Minh.
a. Luận điểm sáng tạo lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là luận điểm về chủ nghĩa thực
dân và vấn đề giải phóng dân tộc. Những tác phẩm của Người là “Bản án chế độ thực dân
Pháp” (xuất bản năm 1925) và “Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương” đã vạch trần
bản chất và những thủ đoạn bóc lột, đàn áp, tàn sát dã man của chủ nghĩa thực dân Pháp đối


với các dân tộc thuộc địa; nêu rõ nỗi đau khổ, của kiếp nô lệ, nguyện vọng khát khao được
giải phóng và những cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Đây là những tài liệu “có một
không hai” về chủ nghĩa thực dân; ở đó, sự phân tích về chủ nghĩa thực dân của Hồ Chí Minh

đã vượt hẳn những gì mà những nhà lý luận mác-xít đề cập đến. Những luận điểm của Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa thực dân, đặc biệt là hình ảnh về “con đỉa hai vòi”, “con chim hai cánh”,
đã không chỉ có tác dụng thức tỉnh các dân tộc thuộc địa, mà còn cảnh tỉnh các đảng cộng sản
ở chính quốc.
Hồ Chí Minh là người chiến sĩ tiên phong trong phê phán chủ nghĩa thực dân, đồng
thời cũng là người lãnh đạo dân tộc mình thi hành bản án chôn vùi chủ nghĩa thực dân ở Việt
Nam, mở đầu cho thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.
Đề cương Về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin, viết năm 1920, đã thức tỉnh
Nguyễn Ái Quốc, đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, vì đây là chủ nghĩa duy nhất
quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Nhưng vượt trên những hạn chế lúc bấy giờ trong nhận thức
và đánh giá về phong trào cách mạng thuộc địa: Cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách
mạng chính quốc, là “hậu bị quân” của cách mạng vô sản chính quốc; cách mạng chính quốc
thắng lợi thì các thuộc địa mới được giải phóng, Hồ Chí Minh vốn là người dân thuộc địa,
hiểu sâu sắc khát vọng và tiềm năng, sức mạnh to lớn của các dân tộc thuộc địa, nên đã nêu
lên luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan hệ chặt chẽ với cách
mạng chính quốc, nhưng không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng chính quốc. Nhân dân
các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể “chủ động đứng lên, đem sức ta mà giải phóng cho
ta”, giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc và qua đó, thúc đẩy cách mạng chính quốc.
b. Khi phân tích xã hội của các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng quan
điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo, chủ yếu
xuất phát từ mâu thuẫn cơ bản của các nước thuộc địa, đó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế
quốc, thực dân thống trị và bè lũ tay sai với toàn thể nhân dân, dân tộc, không phân biệt giai
cấp, tôn giáo... Theo Người, ở Việt Nam cũng như ở các nước phương Đông, do trình độ sản
xuất kém phát triển nên sự phân hóa giai cấp và đấu tranh giai cấp không giống như ở các
nước phương Tây. Từ đó, Người có quan điểm hết sức sáng tạo là gắn chủ nghĩa dân tộc chân
chính với chủ nghĩa quốc tế, và nêu lên luận điểm: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất
nước”. Người còn cho rằng, chủ nghĩa dân tộc nhân danh Quốc tế Cộng sản là “một chính
sách mang tính hiện thực tuyệt vời”.
c. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Người khẳng định, phải đi từ giải phóng dân

tộc đến giải phóng giai cấp; dân tộc không thoát khỏi kiếp ngựa trâu thì ngàn năm giai cấp
cũng không được giải phóng. Đường lối của cách mạng Việt Nam là đi từ giải phóng dân tộc,
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội; kết hợp độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội. Động lực cơ bản của toàn bộ sự nghiệp cách mạng đó là đại đoàn kết
toàn dân trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản.
d. Cũng từ luận điểm cơ bản đó, Hồ Chí Minh đã có những phát hiện sáng tạo về Đảng
Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông dân chiếm đa số dân cư; xác định “quy
luật hình thành của Đảng là kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước”. Đảng vừa đại diện cho lợi ích của giai cấp, vừa đại diện cho lợi ích của
dân tộc.
e. Xuất phát từ nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu của Cách mạng Việt Nam là đánh đổ đế
quốc, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, ngay từ đầu, Hồ Chí Minh đã xác định:
phải giành chính quyền bằng bạo lực, bằng khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng nếu
kẻ thù ngoan cố, không chịu hạ vũ khí.


g. Trên cơ sở kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, học tập kinh nghiệm hoạt
động quân sự của thế giới và của các Đảng anh em, tổng kết thực tiễn đấu tranh vũ trang,
chiến tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh đã
sáng tạo ra học thuyết quân sự hiện đại của Việt Nam. Trong đó, nổi bật là quan điểm về chiến
tranh nhân dân, chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ; về xây dựng lực lượng vũ trang
toàn dân với ba thứ quân chủ lực, địa phương, dân quân tự vệ; về nền quốc phòng toàn dân,
toàn diện, hiện đại...
h. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sau khi cách mạng vô sản thắng lợi,
giai cấp vô sản sẽ thiết lập nên nền chuyên chính vô sản. Vận dụng sáng tạo quan điểm đó vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam, một cuộc cách mạng từ giải phóng dân tộc mà phát triển lên,
Hồ Chí Minh cho rằng, “mục đích của Quốc tế Cộng sản là làm thế giới vô sản cách mạng,
thiết lập vô sản chuyên chính”, nhưng chúng ta phải căn cứ vào trình độ chính trị, kinh tế, xã
hội của đất nước mà đề ra đường lối, chiến lược cách mạng phù hợp, “chứ không phải nước

nào cũng phải làm cách mạng vô sản, lập chuyên chính như nhau”. Vì vậy, ngay từ Chánh
cương vắn tắt (1930), Người đã nêu: Thiết lập Chính phủ công nông binh; tổ chức ra quân đội
công nông. Tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), Người đề ra chủ trương thành lập
“một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần Tân dân chủ. Chính quyền cách mạng của
nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng một giai cấp nào, mà của chung toàn thể
dân tộc”.
i. Về vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
trước hết, Người khẳng định: Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, chúng ta
nhất định phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta mới
thực sự giải phóng được dân tộc, xã hội và con người. Vì vậy, chủ trương tiến hành đồng thời
hai nhiệm vụ chiến lược (miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục hoàn
thành cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng dân tộc dân chủ) là một sáng tạo lớn, có
tính cách mạng cao và phù hợp với thực tiễn đất nước.
Người chỉ rõ bản chất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là “đánh
thắng lạc hậu và bần cùng, để xây dựng hạnh phúc muôn đời cho nhân dân ta, cho con cháu
ta”. Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “từ một nước
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa... Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng
vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có
công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến”.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ
nghĩa Mác - Lênin nằm trong sự thống nhất hữu cơ; cả hai đều là nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Chúng ta không thể lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
thay cho tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như không thể hiểu và quán triệt, vận dụng sâu sắc tư
tưởng Hồ Chí Minh nếu không nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin.
Câu 2 Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh?
1. Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước (trước 1911)

- Nguyễn Sinh Cung sinh ra tại quê hương Kim Liên, Nam Đàn, trong một gia đình nhà nho
yêu nước. Anh cũng có quảng thời gian 10 năm sống ở Huế. Anh được khai tâm bằng chữ
Hán, được hấp thụ tinh thần bất khuất của các phong trào đấu tranh chống Pháp, cách đối
nhân xử thế nhân nghĩa, khí khái, thuỷ chung của những người thân và của nhiều nhà nho yêu
nước, được học một số kiến thức về tự nhiên và xã hội; tận mắt chứng kiến sự thống khổ của
nhân dân.


- Ngoài vốn Nho học và Quốc học, trong hành trang học vấn của anh Nguyễn hồi đó còn có
những hiểu biết nhất định về nền văn hoá phương Tây, đặc biệt là nền văn hoá, văn minh
Pháp. Hấp dẫn nhất đối với Nguyễn Tất Thành là câu châm ngôn về lý tưởng “Tự do, Bình
đẳng, Bác ái” mà cách mạng Pháp đã khai sinh.
- Điều đặc biệt ở Nguyễn Tất Thành là anh có sự so sánh, nhận xét về các phong trào yêu
nước lúc bấy giờ của các bậc tiền bối Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám và
đi đến quyết định “muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác làm như thế nào,
tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” (Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt
động cách mạng của Hồ Chí Minh)
Chính truyền thống quê hương và gia đình đã hình thành ở người thanh niên Nguyễn Tất
Thành lòng yêu nước, hoài bão cứu nước, lòng nhân ái, thương người, nhất là người nghèo
khổ, tha thiết bảo vệ những truyền thống của dân tộc, ham học hỏi những tư tưởng tiến bộ
của nhân loại.
2. Thời kỳ từ 1911 - 1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
- Để thực hiện hoài bão của mình, anh Nguyễn đã đi và sống ở nhiều nước thuộc châu Âu,
châu Á, châu Phi, Châu Mỹ, tận mắt chứng kiến cuộc sống bị bóc lột, bị đàn áp của nhân dân
các nước thuộc địa và cũng đã trực tiếp tìm hiểu đời sống của nhân dân lao động các nước tư
bản. Anh rút ra kết luận: trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống
người bị bóc lột và chỉ có một mối tình hữu ái - tình hữu ái vô sản là thật mà thôi.
- Năm 1919, Anh cùng với một số nhà yêu nước Việt Nam thảo Yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị
Vécxây đòi quyền tự do dân chủ cho người Việt Nam. Bản yêu sách không được Hội nghị
xem xét, nhưng tên gọi Nguyễn Ái Quốc và nội dung Yêu sách đã gây một tiếng vang lớn.

- Người cũng đã khảo sát, và tìm hiểu cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ, tham gia Đảng
Xã hội Pháp (1919), tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga.
- Năm 1920, khi đọc Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và các vấn đề thuộc địa,
Nguyễn Ái Quốc tìm thấy ở Luận cương những lời giải đáp thuyết phục những câu hỏi mình
đang nung nấu, tìm tòi. Sau này nhớ lại cảm tưởng khi đọc Luận cương, Người viết: “Luận
cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui
mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước
quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta,
đây là con đường giải phóng chúng ta””[1]. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc - con dường cách mạng vô sản, con đường của Lênin.
- 12/1920, tại Đại hội Tua của Đảng Xã hội Pháp, Người đã biểu quyết việc Đảng Xã hội gia
nhập Quốc tế III, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Đây là thời kỳ, từ một thanh niên Việt Nam yêu nước Người trở thành người cộng sản Việt
Nam đầu tiên. Đây là bước nhảy vọt lớn trong nhận thức của Người, một sự chuyển biến về
chất, kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội.
3. Thời kỳ 1921 – 1930: hình thành tư tưởng cơ bản về cách mạng Việt Nam
Thời kỳ này Hồ Chí Minh có những hoạt động rất tích cực và đầy hiệu quả cả trên bình diện
thực tiễn và lý luận.
- 1921 - 1923: Nguyễn Ái Quốc hoạt động với cương vị Trưởng tiểu ban Đông Dương trong
Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp; tham dự Đại hội I, II của đảng này, phê
bình Đảng chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề thuộc địa; Thành lập Hội liên hiệp thuộc địa
và xuất bản báo Le Paria nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, mục đích của
báo là đấu tranh “giải phóng con người”. Tư tưởng về giải phóng con người xuất hiện từ rất
sớm và sâu sắc ở Nguyễn Ái Quốc.


- 1923 - 1924: Người sang Liện Xô tham dự Hội nghị Quốc tế nông dân, tận mắt chứng kiến
những thành tựu về mọi mặt của nhân dân Liên Xô. Năm 1924, Người tham dự Đại hội V
Quốc tế Cộng sản và các Đại hội Quốc tế thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ, Quốc tế Công hội

đỏ. Thời gian ở Liên Xô tuy ngắn nhưng những thành tựu về kinh tế - xã hội trên đất nước này
đã để lại trong Người những ấn tượng sâu sắc.
- Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu thực hiện một số nhiệm vụ do Đoàn chủ
tịch Quốc tế nông dân giao phó.
Khoảng giữa 1925, Người sáng lập “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên”, ra báo Thanh niên,
mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Năm 1925, tác phẩm “Bản án
chế độ thực dân Pháp” được xuất bản tại Pa-ri. Năm 1927, Bác xuất bản tác phẩm “Đường
Kách Mệnh”. Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị hợp nhất và thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. Người trực tiếp thảo văn kiện “Chánh cương vắn tắt”, “Sách lược vắn
tắt”, “Điều lệ vắn tắt” và “Chương trình vắn tắt” của Đảng.
Những tác phẩm lý luận chủ yếu của Người thời kỳ này như Báo cáo Trung kỳ, Nam kỳ và
Bắc kỳ; Bản án chế độ thực dân Pháp; Đường Kách mệnh; Cương lĩnh đầu tiên của Đảng;…
cho thấy những luận điểm về cách mạng Việt Nam được hình thành cơ bản. Có thể tóm tắt nội
dung chính của những quan điểm lớn, độc đáo, sáng tạo của Hồ Chí Minh về con đường cách
mạng Việt Nam như sau:
- Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
- Cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có quan hệ mật thiết với nhau. Phải
đoàn kết và liên minh với các lực lượng cách mạng quốc tế.
- Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mạng”, đánh đuổi đế quốc xâm
lược, giành lại độc lập, tự do.
- Giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng; phải tập hợp lực lượng dân tộc thành
một sức mạnh to lớn chống đế quốc và tay sai. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải
đoàn kết dân tộc, phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp
đến cao, bằng hình thức và khẩu hiệu thích hợp.
- Cách mạng trước hết phải có đảng lãnh đạo, vận động và tổ chức quần chúng đấu tranh.
Đảng có vững cách mạng mới thành công…
Những quan điểm, tư tưởng cách mạng trên đây của Hồ Chí Minh trong những năm 20 của
thế kỷ XX được giới thiệu trong các tác phẩm của Người, cùng các tài liệu mác-xít khác, theo
những đường dây bí mật được truyền về trong nước, đến với các tầng lớp nhân dân Việt Nam,
tạo một xung lực mới, một chất men kích thích, thúc đẩy phong trào dân tộc phát triển theo xu

hướng mới của thời đại.
4. Thời kỳ 1930 – 1945: vượt thử thách, kiên định con đường đã lựa chọn, tiến tới giành thắng
lợi đầu tiên cho cách mạng Việt Nam
- Cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ XX, Quốc tế Cộng sản bị chi phối nặng
bởi khuynh hướng “tả khuynh”. Khuynh hướng này trực tiếp ảnh hưởng đến cách mạng Việt
Nam. Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất do Quốc tế III chỉ
đạo đã chỉ trích và phê phán đường lối của Nguyễn Ái Quốc trong Chánh cương và Sách lược
vắn tắt đã phạm những sai lầm chính trị rất “nguy hiểm”, vì “chỉ lo đến việc phản đế mà quên
mất lợi ích giai cấp đấu tranh”; ra quyết định thủ tiêu Chánh cương, Sách lược của Đảng.
Trên cơ sở xác định chính xác con đường đi của cách mạng Việt Nam, bằng con đường riêng
của mình, Người không lên tiếng phản đối những quy chụp của Quốc Tế Cộng Sản, của nhiều
đồng chí trong Đảng để giữ vững lập trường, quan điểm của mình.


- Đến ĐH VI (7/1935), Quốc tế Cộng sản đã phê phán khuynh hướng “tả khuynh” trong
phong trào cộng sản quốc tế, chủ trương mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất vì hoà bình,
chống chủ nghĩa phát-xít.
Ở Việt Nam, sau quá trình thực hành cách mạng, cọ xát với vấn đề phân hoá kẻ thù, tranh thủ
bạn đồng minh,.. đồng thời dựa trên quan điểm chuyển hướng đấu tranh của QTCS, năm
1936, Đảng đề ra chính sách mới, phê phán những biểu hiện “tả khuynh”, cô độc, biệt phái
trước đây; thực tế là trở lại với Chánh cương, Sách lược vắn tắt của Nguyễn Ái Quốc. Sự
chuyển hướng đó tiếp tục thể hiện trong hai Hội nghị TW VII (11/1939), VIII (5/1941) đã
khẳng định chủ trương chiến lược đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết, tạm gác
nhiệm vụ cách mạng ruộng đất là hoàn toàn sáng suốt.
- Sau hơn 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, trước yêu cầu mới của tình hình, tháng 1/1941,
Nguyễn Ái Quốc trở về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tháng 5/1941, Người
chủ trì Hội nghị TW VIII lịch sử. Những tư tưởng và đường lối chiến lược đưa ra và thông
qua trong Hội nghị này có nghĩa quyết định chiều hướng phát triển của cách mạng giải phóng
dân tộc ở nước ta, dẫn đến thắng lợi trực tiếp của cách mạng tháng Tám năm 1945.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt

Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, trong đó
độc lập, tự do gắn với phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị cốt
lõi, vốn đã được Hồ Chí Minh phác thảo lần đầu trong cương lĩnh của Đảng năm 1930, nay
trở thành hiện thực, đồng thời trở thành chân lý của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc,
xây dựng xã hội mới của dân tộc ta.
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là thắng lợi vĩ đại của 15 năm đấu tranh liên tục của
Đảng, là sự khảo nghiệm và thắng lợi đầu tiên tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam.
5. Thời kỳ 1945 – 1969: tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn thiện
- Đây là thời kỳ mà Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân ta vừa tiến hành
kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa xây dựng chế độ dân chủ nhân dân (1945 - 1954) mà
đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ; tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
- Về lý luận, từ sau cách mạng tháng Tám đến khi qua đời, bằng nhiều tác phẩm của mình
Người đã khơi nguồn cho tư duy đổi mới của Đảng. Đó là các tác phẩm Đời sống mới, Sửa
đổi lối làm việc, Công tác dân vận, và Di chúc.
Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bản Di chúc thiêng liêng - một bản tổng
kết sâu sắc, nói lên những nội dung cơ bản, những tư tưởng, tình cảm lớn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Bản Di chúc là lời căn dặn cuối cùng đầy tâm
huyết, một di sản tư tưởng vô cùng quý báu của Đảng và dân tộc.
- Những nội dung lớn trong tư tưởng của Hồ Chí Minh thời kỳ này là:
+ Tư tưởng kết hợp kháng chiến với kiến quốc, tiến hành kháng chiến kết hợp với xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau: cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam; tư
tưởng về quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển TBCN.
+ Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.
+ Tư tưởng và chiến lược về con người.
+ Tư tưởng chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
+ Xây dựng quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
+ Xây dựng Đảng Cộng sản với tư cách là một Đảng cầm quyền…



Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh trải qua hơn nửa thế kỷ hình thành và phát triển, là sản phẩm
tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, là ngọn cờ thắng lợi của dân tộc Việt
Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, vì giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là
những quan điểm tư tưởng vừa có ý nghĩa lịch sử nhưng đồng thời có giá trị, ý nghĩa to lớn
trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Câu 3. Phân tích quan niệm của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền và nêu ý
nghĩa của quan niệm đó đối với việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hiện nay?
a. Xây dựng nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
Tư tưởng về một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ là giá trị đặc sắc
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó thể hiện ở một số nội dung chính sau đây:
a1. Xây dựng một nhà nước hợp pháp, hợp hiến
- Ngay sau khi giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời
đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới khai sinh nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhờ đó, Chính phủ lâm thời có địa vị hợp pháp và Tuyên ngôn
độc lập trở thành một văn bản pháp lý nổi tiếng.
- Sau đó, Người bắt tay xây dựng hiến pháp dân chủ, tổ chức TỔNG TUYỂN CỬ với
chế độ phổ thông đầu phiếu, thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà. Cuối năm 1946, Hồ Chí Minh được Quốc hội nhất trí bầu làm Chủ tịch Chính phủ
liên hiệp kháng chiến. Đây là Chính phủ hợp hiến đầu tiên do nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư
cách và hiệu lực trong việc giải quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại. (vì vậy, quân đội
Tưởng và đại diện Đồng minh khi vào Việt Nam đã phải làm việc với Chính phủ Hồ Chí
Minh).
a2. Hoạt động quản lý nhà nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp
luật vào cuộc sống
- Theo Hồ Chí Minh, nhà nước dân chủ Việt Nam không thể thiếu pháp luật. Vì pháp
luật là bà đỡcho dân chủ. Dân chủ đích thực bao giờ cũng đi liền với kỷ cương, phép nước.
Mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hoá bằng hiến pháp và pháp luật; và
ngược lại, hệ thống pháp luật phải đảm bảo cho quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn

trọng trong thực tế.
- Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ
nghĩa đảm bảo được việc thực thi quyền lực của nhân dân.
+ Năm 1919, Người đã khẳng định vai trò của pháp luật là: Trăm điều phải có thần
linh pháp quyền.
+ Người có công lớn trong sự nghiệp lập hiến, lập pháp của nước ta. Người luôn chăm
lo hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ở cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã hai lần đứng đầu
Uỷ ban soạn thảo Hiến pháp (Hiến pháp 1946 và 1959), đã ký công bố 16 đạo luật, 613 sắc
lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác. (Theo tài liệu của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, tháng 3 - 1993).
- Phải đưa pháp luật vào đời sống một cách sâu rộng.
Theo Người, công bố luật mới chỉ là bước đầu, phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới
thực hiện luật được tốt. Những biện pháp cơ bản cần làm là:
+ Cán bộ nhà nước phải là gương về tuân thủ pháp luật (trước hết là cán bộ trong
ngành tư pháp và hành pháp).


+ Coi trọng nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hoá chính trị và
tính tích cực công dân; khuyến khích nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước, phê
bình, giám sát công việc của nhà nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức, “làm sao cho
nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám
làm”[1].
+ Pháp luật phải xét xử công bằng, nghiêm minh, “phải thẳng tay trừng trị những kẻ
bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề gì”2.
a3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài
- Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức. Người
coi cán bộ nói chung “là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều
do cán bộ tốt hay kém”.
- Người quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vừa có đức, vừa có tài,
trong đó đức là gốc; đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý và hoạt động có hiệu quả. Những
tiêu chuẩn của đội ngũ này, theo Người là:

+ Tuyệt đối trung thành với cách mạng.
+ Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.
+ Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
Hồ Chí Minh hiểu rõ xu hướng quan liêu hoá khó tránh khỏi của bộ máy nhà nước,
nên Người luôn nhắc nhở công chức nhà nước phải gần dân, trọng dân, không được “lên mặt
quan cách mạng” với dân, phải lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Chỉ có trí
tuệ và lòng dân mới có thể làm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ, sáng suốt.
+ Cán bộ công chức là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách
nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”.
+ Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì sự
lớn mạnh, trong sạch của nhà nước.
- Các biện pháp cơ bản trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức;
+ Đẩy mạnh đào tạo;
+ Tìm kiếm nhân tài;
+ Biết sử dụng cán bộ vào đúng nội dung và tài năng của họ;
+ Xây dựng quy chế công chức và tổ chức thi tuyển công chức.
- Để đảm bảo công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ nhà nước, Người ký sắc
lệnh ban hành Quy chế công chức. Công chức theo chế độ chức nghiệp, vì vậy phải qua thi
tuyển công chức để bổ nhiệm vào ngạch, bậc hành chính. Nội dung thi tuyển khá toàn diện
bao gồm 6 môn thi: chính trị, kinh tế, pháp luật, địa lý, lịch sử và ngoại ngữ. Điều này thể
hiện tầm nhìn xa, tính chính quy hiện đại, tinh thần công bằng dân chủ ... của tư tưởng Hồ
Chí Minh trong việc xây dựng nền móng cho pháp quyền Việt Nam.
b. Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả
b1. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước
Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân không bao giờ tách rời với việc làm
cho Nhà nước luôn luôn trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình lãnh đạo Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Hồ Chí Minh thường
chỉ rõ những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi người đề phòng, khắc phục:
- Đặc quyền, đặc lợi



Phải chống thói cửa quyền, hách dịch với dân, lạm quyền, lợi dụng chức quyền để vơ
vét cho cá nhân.
- Tham ô, lãng phí, quan liêu
Hồ Chí Minh coi đây là những “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng”, thứ giặc còn nguy
hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Quan điểm của Người là: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu
dù cố ý hay không cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến… Tội lỗi ấy cũng nặng
như tội lỗi Việt gian, mật thám”[2].
Mác và Ăngghen đã từng cảnh tỉnh giai cấp vô sản rằng chủ nghĩa quan liêu có thể dẫn
các đảng cộng sản cầm quyền đến chỗ “đánh mất một lần nữa chính quyền vừa giành được”.
Lênin cũng viết “... chúng ta bị khốn khổ trước hết về tệ quan liêu. Những người cộng sản đã
trở thành tên quan liêu. Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó”.
Vì vậy không thể nói đến một nhà nước trong sạch vững mạnh, hiệu quả nếu không
kiên quyết, thường xuyên đẩy mạnh cuộc đấu tranh để ngăn chặn tận gốc những nguyên nhân
gây ra nạn tham ô, lãng phí, quan liêu.
- Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo
Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè kéo cánh, tệ nạn bà con bạn hữu mình không tài
cán gì cũng kéo vào chức này, chức nọ; còn những người có tài, có đức nhưng không vừa lòng
mình thì trù dập, đẩy ra ngoài. Đó là những hành động gây mất đoàn kết, gây rối cho công tác.
b2. Tăng cường tính ngiêm minh của pháp luật di đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức
cách mạng
- Đạo đức và pháp luật vốn có quan hệ khăng khít với nhau, luôn kết hợp, bổ sung cho
nhau trong điều chỉnh hoạt động của con người.
Do tập quán của dân ta là kinh tế tiểu nông nên muốn hình thành ngay một nhà nước
pháp quyền là chưa được. Vì vậy, một mặt phải nhấn mạnh vai trò của luật pháp, đồng thời
tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân nhất là giáo dục đạo đức.
- Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng pháp luật
với phát huy những truyền thống tốt đẹp trong đời sống cộng đồng người Việt Nam được hình
thành qua hàng ngàn năm lịch sử.
“Phép trị nước” của Hồ Chí Minh là kết hợp cả “pháp trị” và “đức trị - nhân trị”;

“pháp trị” rất nghiêm khắc, công minh và “đức trị - nhân trị” cũng rất tình người, bao dung,
thấu tình đạt lý.
Ví dụ: Trong Quốc lệnh do Người ban hành ngày 26/1/1946, đã đưa ra 10 điều khen
thưởng (đức trị) và 10 hình phạt (pháp trị). Trong 10 điều khen thưởng, Điều 3 “Ai vì nước hi
sinh sẽ được thưởng”, Điều 5 “Ai làm việc công một cách trong sạch, ngay thẳng sẽ được
thưởng”, Điều 6 “Ai làm việc gì có lợi cho nước nhà, dân tộc và được dân chúng mến phục sẽ
được thưởng”. Trong 10 điều hình phạt, Điều 1 “Thông với giặc, phản quốc sẽ bị xử tử”, Điều
6 “Để cho bộ đội hại dân sẽ bị xử tử”, Điều 8 “Trộm cắp của công sẽ bị xử tử”.
Thực tế đó cho thấy rằng, Hồ Chí Minh là một nhà lập pháp sắc sảo, đồng thời là một
nhà hành pháp nghiêm minh. Pháp quyền trong tư tưởng của Người là pháp quyền nhân
nghĩa rất đặc sắc.
c. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền đối với việc xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
c1) Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân
Nhà nước phải đảm bảo quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên tất cả các mặt của
đời sống xã hội. Trong vấn đề này, việc mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cướng pháp chế xã


hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, quyền làm chủ của nhân dân phải được thể
chế hoá bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp luật vào cuộc sống.
c2) Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước
Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng dân chủ,
trong sạch, vững mạnh, phục vụ đắc lực cho nhân dân và công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Kiên quyết khắc phục thói quan liêu, hách dịch, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, tham nhũng, bộ
máy cồng kềnh, kém hiệu lực. Chú trọng và tiến hành thường xuyên công tác đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn và đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, công chức.
c3) Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở những nội dung như: Lãnh đạo Nhà nước thể
chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng; đảm bảo sự lãnh đạo cảu Đảng và phát huy vai trò quản lý
của Nhà nước.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bằng cách Đảng lãnh đạo bằng
đường lối, bằng tổ chức, bộ máy của Đảng trong các cơ quan Nhà nước, bằng vai trò tiên phong,
gương mẫu của đội ngũ đảng viên trong bộ máy Nhà nước, bằng công tác thanh tra, kiểm tra, Đảng
không làm thay công việc quản lý của Nhà nước.
Câu hỏi. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ?
Trả lời:
Trong điều kiện Đảng cầm quyền. Đảng có trách nhiệm bố trí đội ngũ cán bộ cho cả hệ
thống chính trị. Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm tới đảng viên mà còn rất quan tâm tới cán
bộ và công tác cán bộ.
Về cán bộ, trước hết Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò của cán bộ. Theo Người
cán bộ là gốc của mọi công việc. Mọi việc thành hay bại đều liên quan tới cán bộ tốt hay xấu.
Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu động cơ dù tốt mấy mà dây chuyền không chạy thì
mấy cũng tê liệt, Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể, vốn lớn thì lãi nhiều...
Cán bộ có vai trò quan trọng như vậy, nên Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ phải rèn
luyện trên năm mối quan hệ: với mình, với nhân dân, với đồng sự, với tổ chức, với công việc.
Cốt lõi của năm mối quan hệ đó là cán bộ phải có đạo đức cách mạng Cũng như sông
phải có nguồn, cây phải có gốc, người cán bộ phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì
mới gánh vác được nhiệm vụ cách mạng tuy nặng nề, nhưng vẻ vang. Cùng với đạo đức làm
gốc, người cán bộ phải có tài năng. Đức tài và hồng chuyên gắn bó mật thiết với nhau, không
được xem nhẹ mặt nào. Trong đức có tài và tài càng lớn thì đức phải càng cao. Có đức mà
không có tài thì giống như ông bụt trong chùa, không làm lợi gì cũng không hại ai. Nhưng có
tài mà không có đức thì không những không làm lợi mà còn làm hại cho nước, cho dân. Một
người làm kinh tế giỏi mà làm thụt két như vậy không đem lại lợi gì, mà còn có hại cho nhân
dân, cho cách mạng.
Là cán bộ thì phải luôn luôn có lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc. Trong bất kỳ
khó khăn, gian khổ, phức tạp nào người cán bộ cũng phải có tinh thần vượt khó khăn, hoàn
thành tốt nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó.
Người cán bộ phải có mối quan hệ mật thiết, máu thịt với nhân dân mà quan trọng
hàng đầu là học hỏi dân hiểu dân. Nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý, chăm lo dân quyền,
dân sinh, dân trí, dân chủ. Là cán bộ thì phải lo trước thiên hạ. vui sau thiên hạ: giàu sang

không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục. Chỉ có như vậy thì
cán bộ mới được dân tin, dân phục, dân yêu.
Là cán bộ thì phải có ý thức học tập để nâng cao trình độ. hiểu biết về mọi mặt. Muốn
và để nâng cao dân trí thì phải nâng cao “đảng trí” tức là cán bộ, đảng viên phải là những


người nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. "Đảng
trí” không thể tụt hậu so với dân trí. Người cán bộ chuyên môn phải có chính trị, cán bộ chính
trị phải có chuyên môn. Không có lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ thì không thể lãnh
đạo và hướng dẫn nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.
Có trình độ hiểu biết phải kết hợp với năng lực tổ chức thực tiễn, thực hiện tốt đường
lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước, biến đường lối thành hiện
thực.
Cuối cùng, phải nói tới phong cách cán bộ. Trong thựctiễn thì tư tưởng, phương pháp,
phong cách của một con người gắn bó chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, phong cách vẫn có cách
thể hiện riêng mà qua đó bộc lộ nhân cách cán bộ. Quan trọng hàng đầu và xuyên suốt phong
cách của một cán bộ là nói thì phải làm. Nhân dân không chấp nhận những cán bộ nói mà
không làm, nói nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo. Phong cách cán bộ theo tư tưởng và
tấm gương Hồ Chí Minh là sâu sát theo tinh thần “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng
nói, tay làm". Điều đó hoàn toàn xa lạ với kiểu cán bộ quan liêu, mệnh lệnh, nhiễm bệnh hình
thức, thành tích, thiếu tính chủ động, sáng tạo.
Về công tác cán bộ Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ thì công tác cán bộ
của Đảng là một khâu hết sức quan trọng. Trong nhiều trường hợp cán bộ tự rèn luyện tốt
nhưng vì công tác cán bộ dở nên cũng hạn chế kết quả của công việc cách mạng. Trong công
tác cán bộ thì trước tiên là phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ. Đây là yêu cầu đầu tiên trong
toàn bộ các khâu của công tác cán bộ. Công việc này không dễ nhưng phải làm tốt, vì chỉ có
làm tốt việc đánh giá cán bộ thì mới sử dụng tốt cán bộ. Hiểu và đánh giá cán bộ không phải
chỉ một việc, chỉ bên ngoài, trong hiện tại, mà phải thông qua nhiều việc, cả quá khứ, hiện tại
và hướng phát triển trong tương lai. Muốn hiểu và đánh giá đúng cán bộ thì trước hết phải
hiểu mình. Mình không hiểu mình thì không thể hiểu đúng cán bộ, giống như một người đã

mang kính mầu. Đòi hỏi đánh giá cán bộ là phải công minh, khách quan.
Trên cơ sở hiểu cán bộ thì phải "khéo dùng cán bộ". Đây chính là tư tưởng-Hồ Chí
Minh về dùng người dùng cán bộ. Phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn rằng, người đời ai cũng
có chỗ hay chỗ dở để dùng chỗ hay và giúp chữa chỗ dở. Từ đó, phải biết dụng nhân như
dụng mộc tức là người thợ khéo thì gỗ to nhỏ, dài ngắn ,cong thẳng đều dùng được vào việc
có ích. Tránh tình trạng thợ mộc bố trí làm thợ rèn, thợ rèn bố trí làm thợ mộc. Làm cho cả hai
người đều lúng túng và hóng việc. Một điều quan trọng nữa là phải biết phát hiện, đào tạo, bồi
dưỡng bản lĩnh trọng dụng nhân tài, chiêu hiền đãi sĩ, cầu người hiền tài. Theo quan điểm Hồ
Chí Minh thì ai có tài, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân phải trọng dụng
họ. Hồ Chí Minh là tấm gương trọng dụng nhân tài vì mục đích cách mạng
Trong công tác cán bộ phải chú ý kết hợp cán bộ. đặc biệt là cán bộ già với cán bộ trẻ,
cán bộ tại chỗ với cán bộ nơi khác điều đến. Phải biết điểm mạnh, yếu mỗi loại cán bộ để
trong quá trình sử dụng cán bộ bíêt phát huy thế mạnh và khắc phục chỗ yếu cua từng loại cán
bộ. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho dù sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.
Cuối cùng, phải nói tới việc cần thiết chống các căn bệnh trong công tác cán bộ. Đó là
bệnh thích người bà con quen biết, cục bộ địa phương. Phải cảnh giác và chống bệnh thích kè
khéo nịnh hót mình ghét người chính trực; bệnh dìm người tài. ăn cắp địa vị của người khác.
Tuyệt đối không được sử dụng loại cán bộ “thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi", “đập
đi hò đứng”, “gió chiều nào che chiều đó", không có khí khái, không có chính kiến, bản lĩnh,
xu nịnh a dua, không dám chịu trách nhiệm, không dám phụ trách.
Câu 5: Trình bày quan niệm của Hồ Chí Minh về phong cách tư duy và tác
phong quần chúng của người cán bộ? (5.0đ) (mở rộng đến chỉ thị 05)
*Khái niệm phong cách là gì?


Phong cách được hiểu là cái riêng, độc đáo, có tính hệ thống, ổn định và đặc trưng của
chủ thể, được thể hiện cả trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Phong cách là sự
kết hợp giữa tư tưởng đạo đức, phương pháp và lối sống của mỗi con người được thể hiện ra
bên ngoài
*Phong cách tư duy

Phong cách tư duy Hồ Chí Minh là sự kết tinh từ tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân
loại, là tài sản tinh thần quý báu của nhân dân ta, giá trị hợp thành nền văn hóa Việt Nam.
Mặc dù thể hiện cái riêng, nhưng phong cách tư duy của Người không xa lạ mà mang tính lan
tỏa, tác động tích cực tới hành động của các thế hệ người dân Việt Nam yêu nước nói riêng,
nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới nói chung.
Được hình thành từ con người có đức dày, tâm trong, trí sáng, tầm cao trí tuệ, nhân
cách, ý chí lớn lao, hoạt động phong phú, đa dạng trên không gian, thời gian rộng lớn, với
nhiều lĩnh vực, vị trí công việc khác nhau, nhưng phong cách tư duy Hồ Chí Minh là biểu
hiện đặc sắc của sự độc lập, tự chủ, sáng tạo.
Độc lập, tự chủ, có nghĩa là Hồ Chí Minh không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào một
luồng ý kiến nào, không bắt chước, “theo đuôi” ai, kể cả “theo đuôi quần chúng”. Trên cơ sở
tiếp thu nhiều luồng tư tưởng tiến bộ của Việt Nam và thế giới, trong từng thời kỳ, Người đúc
kết, tổng hòa thành cái riêng mà không sao chép, giáo điều, máy móc. Đối với chủ nghĩa Mác
– Lê-nin - lý luận chính trị nền tảng rất quan trọng hình thành nên tư tưởng của mình - thì Hồ
Chí Minh coi là “mặt trời soi sáng”, “trí khôn”, “cái cẩm nang thần kỳ” có tính chất phương
pháp luận chỉ dẫn hành động của con người, là “bàn chỉ nam” cho con tàu đi. Đồng thời, coi
việc học tập chủ nghĩa Mác – Lê-nin là học tập cái tinh thần xử trí đối với việc, với người và
với mình. Vì vậy, Người tiếp nhận điều bản chất nhất, mục tiêu cuối cùng của lý luận Mác –
Lê-nin là đấu tranh giải phóng con người, là chủ nghĩa nhân đạo mác xít, và cho rằng: “hiểu
chủ nghĩa Mác – Lê-nin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà
sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lê-nin được”1. Hồ Chí Minh
tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê-nin bằng toàn bộ cái tâm trong sáng, sự khát vọng giải phóng:
dân tộc, xã hội - giai cấp và con người, thông qua hoạt động trong phong trào cách mạng của
nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, chứ không theo kiểu kinh viện, tầm chương trích cú.
Chúng ta thấy rất hiếm khi viết, Người trích dẫn nguyên văn những quan điểm của C. Mác,
Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin cũng như của những nhà tư tưởng khác. Trong bản Tuyên ngôn Độc
lập, Người viết và sau đó đọc vào ngày 02-9-1945, khi dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm
1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791, Người không
trích nguyên văn, chỉ lấy ý và biến nghĩa một số chữ cho phù hợp với tư duy của mình và tình
hình thực tại2.

Hồ Chí Minh là người tiếp thu những tư tưởng tiến bộ ở trong nước và thế giới, kết
hợp nhân tố chủ quan rồi tạo thành tư tưởng của mình, nhưng tư tưởng của Người không phải
là con số cộng của nhiều luồng tư tưởng, học thuyết, mà là sự kết tinh luồng ánh sáng trí tuệ
của dân tộc và nhân loại. Được như thế là bởi Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ, biết kế
thừa có chọn lọc những tư tưởng, nguyên lý của các nhà lý luận, nhà tư tưởng của dân tộc Việt
Nam và thế giới. Nhiều người nước ngoài cảm nhận, trong phong cách Hồ Chí Minh có dáng
dấp của V.I. Lê-nin, Găng-đi, của Oa-sinh-tơn,… thậm chí còn thấy có một số nét của chính
mình. Phong cách Hồ Chí Minh là riêng biệt, đặc sắc, điều mà không ít người khát khao muốn
học tập. Nhà thơ Liên Xô Ô-xíp Man-đen-sơ-tam, vào cuối năm 1923, sau khi gặp gỡ, trò
chuyện với Nguyễn Ái Quốc, đã viết một bài đăng báo Ogoniok (Ngọn lửa nhỏ), có đoạn:
“Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một
nền văn hóa tương lai,… Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái
Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái
toàn thế giới”3. Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ từ sớm và được rèn giũa qua bao
nhiêu năm tháng hoạt động cách mạng. Năm 1923, Người kể lại với một người bạn nước


ngoài: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng,
Bác ái,… Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những
gì ẩn đằng sau những chữ ấy”4. Vì có tư duy độc lập, tự chủ, nên Người chọn con đường sang
Pháp, các nước Châu Âu, Châu Mỹ và đi hầu khắp các châu lục khác để nghiên cứu, khảo sát,
tìm mục tiêu, con đường cứu nước mới, phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và xu thế của thời
đại. Từ người tìm đường, Hồ Chí Minh trở thành người mở đường, người dẫn đường cho dân
tộc Việt Nam phát triển.
Hồ Chí Minh có phong cách tư duy sáng tạo. Sáng tạo, sáng tạo và sáng tạo là tư duy
của Người trong cuộc sống. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định: cách mạng Việt Nam là
một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Người cho rằng: “Lý luận do kinh nghiệm
cách mạng ở các nước và trong nước ta, do kinh nghiệm từ trước và kinh nghiệm hiện nay
gom góp phân tích và kết luận những kinh nghiệm đó thành ra lý luận. Nhưng phải biết khéo
lợi dụng kinh nghiệm. Nếu thấy người ta làm thế nào mình cũng một mực bắt chước làm theo

thế ấy. Thí dụ: nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu
tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”5. Một số người cho
rằng sự sáng tạo trong tư duy Hồ Chí Minh là sự “vượt gộp”, tức là gộp tất cả những gì là tốt
đẹp, tinh túy đã có để vượt lên phía trước, nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. “Vượt
gộp” không phải là việc dễ dàng trong tư duy, phải biết gộp những gì và làm thế nào để gộp
đã khó, nhưng biết vượt thì lại càng khó hơn. Con đường phát triển tư tưởng, tri thức của cá
nhân hay một dân tộc và toàn nhân loại luôn là sự “vượt gộp” như vậy. Điều này, nhiều nhà tư
tưởng nêu lên từ lâu: thế hệ sau phải biết đứng lên vai những người khổng lồ đi trước thì xã
hội mới phát triển được6.
Là một thành viên của tổ chức chính trị, Hồ Chí Minh phải có trách nhiệm chấp hành
những quyết định của tổ chức. Nhưng với Người, chấp hành không có nghĩa là máy móc, mà
là vận dụng những quyết định, nghị quyết của tổ chức cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Thực
tiễn cho thấy, Quốc tế Cộng sản đã có những quyết định đúng đắn trong lãnh đạo, chỉ đạo
cách mạng thế giới và phong trào giải phóng dân tộc do đảng cộng sản lãnh đạo ở các nước
thuộc địa, phụ thuộc. Nhưng, Quốc tế Cộng sản có lúc không tránh khỏi những hạn chế trong
nhận định, đưa ra chủ trương chưa hẳn phù hợp đối với cách mạng ở các nước thuộc địa. Vì
thế, Hồ Chí Minh đã căn cứ vào tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam để vận dụng nghị
quyết, quyết định của Quốc tế Cộng sản cho sát hợp, mặc dù có lúc bị hiểu sai. Quá trình xây
dựng xã hội mới, trên cơ sở nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Người đã có quan
điểm thực tiễn để vận dụng cho phù hợp với một nước nông nghiệp sản xuất nhỏ, tiểu nông lại
bị chiến tranh tàn phá nặng nề và trong điều kiện vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa tiến
hành cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược. Tư duy sáng tạo của Hồ Chí Minh
biểu hiện rõ ở chỗ, khi cho rằng, Việt Nam “không thể giống Liên Xô” và “có thể đi con
đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Đó là con đường tiến hành cách mạng giải phóng
dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội, không
phải tiến hành ngay cuộc cách mạng vô sản và đi ngay vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội như ở nhiều nước khác.
Như vậy, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo được thể hiện rõ ở việc Hồ Chí Minh rất
chú ý xuất phát từ thực tế Việt Nam. Yêu cầu phát triển của Việt Nam là: dân tộc độc lập, đất
nước giàu mạnh, mọi người được tự do, dân chủ, hạnh phúc. Điều này được Hồ Chí Minh thể

hiện ngay trong tiêu đề văn bản hành chính của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa: “Độc lập Tự do - Hạnh phúc” và trong nhiều lần phát biểu khác. Đặc biệt, trong Di chúc, Người nêu:
“điều mong muốn cuối cùng” là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp cách mạng thế giới”7. Hoàn cảnh thực tế Việt Nam trong từng giai đoạn, mỗi
thời kỳ là một tiêu điểm làm cơ sở cho mọi suy nghĩ của Hồ Chí Minh. Những điều diễn ra
trong thực tế luôn hiển hiện trước mắt mọi người, nhưng không phải ai cũng nhận thức được
như nhau. Nhận thức chính xác tình hình thực tế phụ thuộc rất lớn vào tầm nhìn, bản lĩnh của


con người. Với tầm cao trí tuệ, Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ, chính xác tình hình thực tế Việt
Nam, đưa ra quan điểm sát hợp. Trí tuệ, tầm nhìn và bản lĩnh đã làm nên phong cách tư duy
độc đáo, đúng đắn, sáng tạo Hồ Chí Minh. Người là điển hình trong phong trào cộng sản quốc
tế đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận Mác – Lê-nin vào hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến những
thành công của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, đóng góp phát triển và làm phong phú lý
luận Mác – Lê-nin theo đúng yêu cầu của “học thuyết mở” luôn cần được nạp thêm năng
lượng mới từ cuộc sống của mỗi dân tộc khi áp dụng. Cũng do thế, nên có lúc Hồ Chí Minh
có một số quan điểm khác với quan điểm tập hợp lực lượng cách mạng ở các nước thuộc địa phong kiến của Đại hội VI Quốc tế Cộng sản (năm 1928), nhưng lại hoàn toàn đúng với Việt
Nam - một nước thuộc địa - phong kiến - khi mọi giai cấp, tầng lớp trong cộng đồng người
Việt Nam yêu nước đều có một “mẫu số chung”, một “véc-tơ lực”: giải phóng dân tộc. Trên
thực tế, Hồ Chí Minh luôn chú ý hướng Đảng ta đưa ra đường lối, chủ trương sát hợp với từng
giai đoạn, thời kỳ cách mạng và khi thấy nó chưa sát hợp với thực tế thì cùng Trung ương
Đảng sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện. Thực tế cách mạng Việt Nam đã chứng tỏ hai điều: 1.
Quan điểm của Hồ Chí Minh là đúng về mục tiêu và con đường cách mạng Việt Nam; 2.
Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều bắt nguồn từ đường lối, chủ trương đúng đắn,
phù hợp với tình hình cụ thể Việt Nam của Đảng; tư duy giáo điều, tả khuynh, hữu khuynh,
chủ quan, duy ý chí tất yếu dẫn đến thất bại.
Hồ Chí Minh là một điển hình của tư duy lấy điều kiện thực tế Việt Nam làm điểm
xuất phát cho mọi quan điểm, đường lối, chi phối hành động của Đảng. Không chỉ vậy, Người
chủ động tiếp thu các luồng tư tưởng tiến bộ trên thế giới; phân tích chính xác tình hình thế
giới để hành động phù hợp. Thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh có ưu thế so với nhiều nhà yêu

nước, cách mạng Việt Nam cùng thời là sống và hoạt động ở nước ngoài 30 năm (1911-1941).
Thời gian này, Người nghiên cứu, học tập, hoạt động yêu nước và cách mạng, nên đã trực tiếp
kiểm nghiệm nhiều quan điểm. Người đã trải qua nhiều thăng trầm, thử thách, sóng gió trong
nhiều môi trường sống khác nhau. Sự tự nguyện dấn thân vào cuộc sống lao động, thậm chí
làm những công việc rất nặng nhọc và do vậy, bằng cảm nhận trực tiếp mà Người đã thấu hiểu
tình cảnh và khả năng cách mạng của các giai cấp, tầng lớp lao động. Hồ Chí Minh hoạt động
trong tổ chức cộng sản ở Pháp và ở Quốc tế Cộng sản, nơi mà Người tiếp thu dần dần lý luận
cách mạng Mác – Lê-nin và rèn luyện tư duy biện chứng duy vật; hoạt động trong một môi
trường rộng rãi, đi đến khoảng trên 30 lượt nước trên thế giới, đã hai lần bị đế quốc, thực dân
giam cầm, tù đày, thậm chí chỉ vì luôn nhiệt thành với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, có lúc
bị những người cùng chí hướng hiểu sai. Hồ Chí Minh có 19 năm làm Chủ tịch Đảng Cộng
sản Việt Nam và 24 năm làm Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Là con người lăn lộn
với thực tiễn và quảng giao quốc tế, từ thuở hàn vi cho đến cả khi làm Chủ tịch nước và Chủ
tịch Đảng, Người không ngừng học tập, rèn luyện, tiếp nhận những tri thức mới trên cái nền
bản thể của mình, không bị hòa tan, bắt chước, mà tiếp thu một cách chọn lọc, có phê phán,
không phủ định giản đơn. Trên cơ sở đó, để thu nhận, tiếp biến tư tưởng của mình. Người cho
rằng: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêxu
có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện
chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước
ta. Khổng Tử, Giêxu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ đều
muốn “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội”. Nếu hôm nay, họ còn sống
trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn
mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”8. Hồ
Chí Minh đem bốn vị rất khác nhau về lập trường, quan điểm và lại càng khác nhau về thời
đại ghép vào với nhau, giả định “cho” các vị ấy “họp lại một chỗ” được là vì Người nhìn thấy
ở họ một điểm chung là đều “mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội”.
Hồ Chí Minh cũng nằm trong điểm chung ấy và cố gắng làm người học trò nhỏ của họ. Sự
đặc sắc tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh là kết quả từ phẩm chất, năng lực
với hai điểm chủ yếu: bản lĩnh cao cường và trí tuệ mẫn tiệp. Kết quả đó là do một quá trình
học tập, tu dưỡng, rèn luyện của cả cuộc đời, ở mọi lúc, mọi nơi của Người. Vì thế, Người



luôn tự làm chủ cuộc sống và chú trọng rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, bản lĩnh
chính trị, nên vững vàng trong xử lý mối quan hệ đối với người chung quanh, công việc và
làm chủ bản thân.
Thế giới hiện nay là thế giới của tri thức sáng tạo, trong đó phong cách tư duy Hồ
Chí Minh là điểm nhấn đáng chú ý. Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh là học tập tinh
thần sáng tạo để hành động cho phù hợp với mục tiêu cách mạng đã đề ra. Sáng tạo là trên cơ
sở nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh rồi đưa
vào thực tiễn phù hợp hoàn cảnh cụ thể. Hồ Chí Minh là người vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam thế kỷ XX - thế kỷ bi hùng
của các cuộc đấu tranh kiên cường giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Lớp lớp thế hệ người
Việt Nam trong thế kỷ XXI, nhất là những cán bộ, đảng viên càng cần sự kiên định mục tiêu
và sáng tạo theo phong cách Hồ Chí Minh để xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu trong một thế giới toàn cầu hóa.
*Tác phong quần chúng của người cán bộ
Thấu hiểu vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử và coi quần chúng không chỉ
là động lực mà còn là mục tiêu của cách mạng, Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ phải có tác
phong quần chúng.
Trước hết, người cán bộ phải gần gũi quần chúng, lắng nghe và thấu hiểu mong muốn
của quần chúng. Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê bình những cán bộ cậy thế ở trong ban này,
ban nọ rồi coi khinh dân, lên mặt với dân. Người cũng phê phán lối lãnh đạo quan liêu, chỉ
đạo phong trào trên giấy tờ. Người yêu cầu người cán bộ phải thường xuyên đi xuống cơ sở
mà mình phụ trách, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Ngược lại, nếu “cách xa dân chúng,
không liên lạc chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất
bại”[10]. Tuy nhiên, lắng nghe quần chúng không có nghĩa là “theo đuôi quần chúng” vì
“trong dân chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau. Có lớp
tiền tiến, có lớp chừng chừng, có lớp lạc hậu”[11]. Người cán bộ phải có bản lĩnh vững vàng
để vừa nâng cao trình độ giác ngộ, dân trí của quần chúng, tạo ra sự chuyển biến tích cực
trong nhận thức của một bộ phận quần chúng “chậm tiến”, vừa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo

của mình.
Tiếp đến, người cán bộ phải biết cách tổ chức phong trào phù hợp với trình độ, năng
lực thực tế của quần chúng. Người phê phán mạnh mẽ lối lãnh đạo quan liêu, áp đặt. Người
nói: “Nếu cứ làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của mình, rồi đem cột vào cho
quần chúng, thì khác nào “khoét chân cho vừa giầy”… Ai cũng đóng giầy theo chân. Không
ai đóng chân theo giầy”.
Người cán bộ không được phép cứng nhắc mà phải căn cứ vào thực tế để đề nghị cấp
trên điều chỉnh quy tắc, kế hoạch chưa hợp lý. Hồ Chí Minh còn chỉ ra cách thức làm nghị
quyết và làm công tác chỉnh đốn cán bộ như sau: “Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không
hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức
của ta”.
Người cán bộ còn phải biết dựa vào quần chúng, biết phát huy sức mạnh của quần
chúng để triển khai công việc và hoàn thành công việc. Tóm lại, “cách làm việc, cách tổ chức,
nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo… của chúng ta, đều phải lấy câu này làm khuôn
phép: “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng”.
Thứ nữa, trong công tác và trong sinh hoạt, người cán bộ phải giản dị, hòa đồng với
quần chúng, không cho phép mình hưởng điều gì có tính chất “đặc quyền, đặc lợi”. Người
cảnh tỉnh những suy nghĩ lệch lạc trong cán bộ , rằng “phải ăn mặc bảnh mới giữ được oai tín,
giữ được thể diện. Nói thế hết sức sai. Muốn có oai tín thể diện, thì phải làm việc cho giỏi.


Nếu ăn mặc bảnh, mà được oai tín thể diện, thì mấy chàng Sở Khanh chẳng nhiều oai tín lắm
ư? Mà Hồ Chủ tịch, quanh năm bốn mùa, chỉ mặc một bộ áo vải ka ki cũ, mỗi ngày có rau ăn
rau, có mắm ăn mắm. Như thế, Người chẳng mất oai tín thể diện đi sao”[15]? Suốt đời, vị
Chủ tịch kính yêu của nhân dân Việt Nam đã sống một cuộc đời thanh bạch đến khắc khổ bởi
cho rằng, khi đời sống của nhân dân còn khó khăn mà người cán bộ lại hoang phí thì “hoang
phí là tội ác”.
Khi người cán bộ thấm nhuần tác phong quần chúng, họ sẽ được quần chúng nhân dân
yêu thương, tin cậy, ủng hộ và khi đó, việc gì họ làm cũng thành công.




×