Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Khóa luận tốt nghiệp: Phát triển làng nghề truyền thống ở Việt Nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.25 KB, 46 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hàng thủ công mỹ nghệ là những mặt hàng thuộc các ngành nghề truyền
thống, được sản xuất ra bởi các nghệ nhân, thợ thủ công có tay nghề tinh xảo
độc đáo của các làng nghề và được truyền từ đời này sang đời khác. Hàng thủ
công mỹ nghệ có nhiều chủng loại khác nhau, phát triển theo nhu cầu của
cuộc sống. Đời sống xã hội thay đổi thì nhu cầu về mặt hàng này cũng tăng
lên cho cả tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Đẩy mạnh sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ mang lại lợi ích
kinh tế thực mà còn ý có ý nghĩa xã hội rất lớn. Là sản phẩm của những
ngành nghề thủ công truyền thống, mang đậm nét văn hóa của dân tộc, có dấu
ấn lịch sử nên hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ là những vật phẩm đáp ứng
nhu cầu sử dụng trong cuộc sống hàng ngày, mà còn là những văn hóa phẩm
phục vụ đời sống tinh thần, đáp ứng nhu cầu thưởng thức những tinh hoa văn
hóa của các dân tộc. Nhờ tính độc đáo này mà nhu cầu hàng thủ công mỹ
nghệ ngày càng tăng do sự giao thoa nền văn hóa giữa các quốc gia trên thế
giới.
Trong những năm qua, việc phát triển làng nghề truyền thống của Việt
Nam đã thu được những kết quả tương đối tốt, góp phần thiết thực vào việc
phục hồi và phát triển các làng nghề, bảo tồn và phát triển một trong những di
sản văn hóa quý báu của dân tộc. Ngoài ra có tác dụng tạo hàng ngàn công ăn
việc làm và thu nhập cho nhân dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, đẩy lùi các
tệ nạn xã hội, đảm bảo trật tự an ninh xã hội.
Qua thời gian học tập và nghiên cứu, tôi nhận thấy việc phát triển làng
nghề truyền thống của Việt Nam vẫn còn có vấn đề cần được nghiên cứu hoàn
thiện hơn. Do vậy tôi lựa chọn đề tài: “phát triển làng nghề truyền thống ở
Việt Nam thực trạng và giải pháp”.

1



2. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển làng nghề truyền thống
nước ta hiện nay đang trong quá trình hội nhập.
- Phân tích thực trang làng nghề truyền thống của Việt Nam trong thời gian
qua.
- Đưa ra hệ thống định hướng giải pháp cho các làng nghề truyền thống của
Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phương phát nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Phát triển làng nghề truyền thống Việt Nam .
- Phạm vi nghiên cứu: Làng nghề truyền thống Việt Nam thời kỳ hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu duy vật biện chứng. Dựa vào phương
pháp này những vấn đề nêu ra đều trên cơ sở khách quan đồng thởi phải phù
hợp vói những thay đổi của thực tế nhằm phản ánh các vấn đề một cách chân
thực nhất. Ngoài ra báo cáo còn sử dụng phương pháp thống kê so sánh đối
chiếu, dựa vào các cuộc điều tra, quan sát, phân tích nhận định về việc phát
triển làng nghề truyền thống Việt Nam, tìm hiểu nguyên nhân để đưa ra cac
giải pháp cho phù hợp.
5. Kết cấu báo cáo
Ngoài phần mở đầu, kết luận báo cáo có kết cầu gồm 3 phần:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về phát triển làng nghề trong nền
kinh tế.
Chương 2: Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống ở Việt Nam hiện
nay.
Chương 3: Định hướng và giải pháp để phát triển làng nghề truyền thống
ở Việt Nam thời gian tới.

2



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT
TRIỂN LÀNG NGHỀ TRONG NỀN KINH TẾ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của làng nghề
1.1.1. khái niệm làng nghề
Làng nghề là những làng mà tại đó hầu hết dân cư tập trung vào làm một nghề
duy nhất nào đó, nghề của họ làm thường có tính chuyên sâu cao và mang lại
nguồn thu nhập cho dân làng.
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm
trước đây, nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các vùng nông thôn Việt
Nam, việc hình thành các làng nghề bắt đầu từ những nghề ban đầu được cư
dân tranh thủ làm lúc nông nhàn, những lúc không phải là mùa vụ chính.
Bởi lẽ trước đây kinh tế của người Việt cổ chủ yếu sống dựa vào việc trồng
lúa nước mà nghề làm lúa không phải lúc nào cũng có việc. Thông thường chỉ
những ngày đầu vụ, hay những ngày cuối vụ thì người nông dân mới có việc
làm nhiều, những ngày còn lại thì nhà nông rất nhàn hạ, rất ít việc để làm. Từ
đó nhiều người đã bắt đầu tìm kiếm thêm công việc phụ để làm nhằm mục
đích ban đầu là cải thiện bữa ăn và những nhu cầu thiết yếu hằng ngày về sau
là tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Theo thời gian, nhiều nghề phụ ban đầu đã thể hiện vai trò to lớn của nó,
mang lại lợi ích thiết thân cho cư dân. Như việc làm ra các đồ dùng bằng mây,
tre, lụa... phục vụ sinh hoạt hay đồ sắt, đồ đồng phục vụ sản xuất. Nghề phụ
từ chỗ chỉ phục vụ nhu cầu riêng đã trở thành hàng hóa để trao đổi, đã mang
lại lợi ích kinh tế to lớn cho người dân vốn trước đây chỉ trông chờ vào các vụ
lúa. Từ chỗ một vài nhà trong làng làm, nhiều gia đình khác cũng học làm

3


theo, nghề từ đó mà lan rộng ra phát triển trong cả làng, hay nhiều làng gần

nhau.
Và cũng chính nhờ những lợi ích khác nhau do các nghề thủ công đem
lại mà trong mỗi làng bắt đầu có sự phân hóa. Nghề đem lại lợi ích nhiều thì
phát triển mạnh dần, ngược lại những nghề mà hiệu quả thấp hay không phù
hợp với làng thì dần dần bị mai một. Từ đó bắt đầu hình thành nên những làng
nghề chuyên sâu vào một nghề duy nhất nào đó, như làng Gốm, làng làm
Chiếu, làng làm Lụa, làng làm Đồ Đồng...
Những phát hiện về khảo cổ học, những cứ liệu lịch sử đã chứng minh
được các làng nghề Việt Nam đã ra đời từ hàng ngàn năm trước đây. Các làng
nghề thường tập trung chủ yếu ở các vùng châu thổ sông lớn như châu thổ
sông Hồng, tại Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định ...
Dù nhiều làng nghề đã biến mất cùng với thời gian, nhưng hiện nay, các
con số thống kê cho thấy, Việt Nam còn có gần 2.000 làng nghề thuộc các
nhóm nghề chính như: Sơn mài, gốm sứ, thêu ren, mây tre đan, cói, giấy,
tranh dân gian, gỗ, đá...
Cùng với sự phát triển của đất nước, có rất nhiều làng nghề cũng phát
triển mạnh và có những sản phẩm, những thương hiệu nổi tiếng, có sức hấp
dẫn rất lớn như:
Làng nghề gốm và bánh đa nem Thổ Hà, huyện Việt Yên, Bắc Giang
Gốm Bát Tràng, Gia Lâm, Hà Nội
Dát vàng quỳ Kiêu Kỵ
Làng gốm Phù Lãng, xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, Bắc Ninh
Đồ gỗ Đồng Kỵ
Làng tranh Đông Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh
Chiếu Nga Sơn, Thanh Hóa
Làng đá Non Nước, Đà Nẵng
Làng nghề trạm bạc Đồng Xâm

4



Làng Lụa Vạn Phúc, Hà Đông, Hà Nội
Làng Nghề Sơn Đồng ...
Tuy nhiên, các làng nghề lại không tập trung ở một nơi nhất định nào đó
mà nằm rải rác trên các tỉnh khác nhau, chủ yếu là các nơi chưa được phát
triển, cơ sở hạ tầng còn thô sơ, vì vậy nó gây ra không ít khó khăn và ảnh
hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển các sản phẩm.
Chính vì vậy, để tháo gỡ một phần khó khăn cho các làng nghề, để duy
trì sản phẩm và quảng bá các sản phẩm của các làng nghề một cách có hệ
thống và hiệu quả, tập trung thì cần phải có một hướng đi đúng đắn và tích
cực. Cổng Thông Tin Làng Nghề Việt Nam ra đời một phần đáp ứng được
những yêu cầu cụ thể.
Cổng thông tin làng nghề này là nơi tổng hợp một các có hệ thống thông
tin và sản phẩm của các làng nghề trên toàn lãnh thổ Việt Nam, qua đó mọi
làng nghề đều có thể đưa thông tin và các sản phẩm chủ chốt của mình lên
Cổng để đưa đến cho những người quan tâm tìm hiểu thêm về những đặc
trưng của mình.
Ngoài ra, đây còn là nơi mà các làng nghề có thể làm Thương mại điện
tử một cách hiệu quả và cũng là nơi để các doanh nghiệp trong và ngoài nước
quan tâm đến các sản phẩm thủ công tìm đến và giao dịch.
Đây là một trong những hướng đi đúng đắn để phát triển và quảng bá
sản phẩm thủ công của các làng nghề ở Việt Nam ra thế giới một cách nhanh
chóng, hiệu quả và tiết kiệm nhất.
1.1.2. Đặc điểm của làng nghề
Các làng nghề truyền thống Việt Nam xuất hiện từ rất lâu đời. Nó gắn liền
với tên những làng nghề, phố nghề và được biểu hiện bằng những sản phẩm
thủ công truyền thống, với những nét độc đáo, tinh xảo, hoàn mỹ.

5



Sản phẩm của các làng nghề truyền thống Việt Nam có những nét riêng và
độc đáo, tên của sản phẩm luôn kèm theo tên của làng làm ra nó; sản phẩm
nổi tiếng cũng làm cho làng nghề tạo ra các sản phẩm ấy nổi tiếng.
Nhiều nghề và làng nghề truyền thống đã nổi bật lên trong lịch sử Việt
Nam. Ở đó không chỉ tập trung một hay nhiều nghề thủ công, trở thành một
trung tâm sản xuất lớn hoặc khá lớn, mà còn là nơi hội tụ các thợ và nghệ
nhân tài khéo, tạo ra những sản phẩm có bản sắc riêng, nơi khác khó bề bắt
chước được.
Những sản phẩm của các làng nghề truyền thống này không chỉ là những
vật phẩm sinh hoạt bình thường hàng ngày, mà một số còn là những tác phẩm
nghệ thuật biểu trưng của nền văn hoá xã hội, mức độ phát triển kinh tế, trình
độ dân trí, đặc điểm nhân văn của dân tộc.
Làng nghề là cả một môi trường văn hoá - kinh tế - xã hội và công nghệ
truyền thống lâu đời. Nó bảo lưu những tinh hoa nghệ thuật và kĩ thuật truyền
từ đời này sang đời khác, chung đúc ở các thế hệ nghệ nhân tài năng, với
những sản phẩm có bản sắc riêng của mình, nhưng lại tiêu biểu và độc đáo
của cả dân tộc Việt Nam. Môi trường văn hoá làng nghề là khung cảnh làng
quê, với cây đa bến nước, đình chùa, đền miếu..., các hoạt động lễ hội và hoạt
động phường hội, phong tục tập quán, nếp sống đậm nét dân gian và chứa
đựng tính nhân văn sâu sắc. Làng nghề truyền thống từ lâu đã làm phong phú
thêm truyền thống văn hoá Việt Nam.
1.2. Vai trò của việc phát triển làng nghề trong nền kinh tế
1.2.1. Giải quyết việc làm, sử dụng hợp lý nguồn lao động nông thôn
Vấn đề việc làm ở nông thôn cho đến nay vẫn là một bài toán hóc búa để
nhà nước ta và các cơ quan quản lý cần quan tâm. Theo những nghiên cứu
gần đây, thì hơn 80% cư dân Việt Nam sống ở nông thôn, trong đó gần 70%
lao động trong nông nghiệp với 77% hộ thuần nông. Năm 2005, năng suất lao
động bình quân trong nông nghiệp chỉ bằng 1/5 trong công nghiệp và dịch vụ


6


(tính theo GDP bình quân đầu người), 90% hộ đói, nghèo trong tổng số hộ đói
nghèo của cả nước là nông dân. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn rất
nghiêm trọng, có khoảng 7 triệu lao động chưa có hoặc thiếu việc làm, mỗi
năm lại bổ sung thêm 400.000 người. [6.tr10]
Việc phát triển làng nghề truyền thống đóng vai trò rất quan trọng trong
nền kinh tế nước ta hiện nay nhất là khâu giải quyết việc làm cho người lao
động. Tỷ lệ thất nghiệp ở các làng nghề gần như không có vì thời gian nông
nhàn đã được người lao động tận dụng vào việc phát triển các nghề phụ như
thêu, dệt, đồ mỹ nghệ… Theo số liệu của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, cả
nước hiện có trên 2017 làng có nghề, trong đó trên 300 làng nghề truyền
thống với hàng triệu cơ sở sản xuất. Đã có hơn 40% sản phẩm được xuất khẩu
đến hơn 100 nước. Tỷ lệ hộ nghèo trong các khu vực có nghề phụ phát triển là
3,7%, thấp hơn nhiều so tỷ lệ hộ nghèo bình quân trong cả nước (10,4%).
Chính vì vậy việc phát triển làng nghề truyền thống đã góp phần không nhỏ
trong tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người nông dân nói
chung và người lao động nói riêng.
Nông thôn Việt Nam có nguồn lao động dồi dào và tiềm năng, là nơi cung
cấp và hậu thuẫn đắc lực cho các khu đô thị và khu công nghiệp. Tuy nhiên,
nguồn lao động này vẫn còn ít cơ hội để phát huy khả năng cống hiến của
mình cho sự phát triển nông thôn. Đây là thách thức đối với chính lao động
nông thôn và các nhà hoạch định chính sách.
Theo số liệu tổng điều tra dân số năm 2009, 70% dân số nước ta đang
sống ở khu vực nông thôn, lao động nông thôn hiện chiếm 75% tổng lực
lượng lao động cả nước và chủ yếu tập trung sản xuất trong lĩnh vực nông
nghiệp, năng suất lao động thấp, phương thức sản xuất lạc hậu, hiệu quả sản
xuất không cao. Giai đoạn 2000-2007, tốc độ tăng trưởng lao động của cả
nước đạt 2,79%, trong đó tốc độ tăng trưởng của lao động nông thôn là

2,18%. Năm 2007, lực lượng lao động nông thôn của cả nước là 34,8 triệu

7


người, chiếm 74,5% tổng lực lượng lao động, trong đó số người nằm trong độ
tuổi lao động là 32,73 triệu người. Lao động nông thôn vùng đồng bằng sông
Hồng chiếm 22,3%, vùng đồng bằng sông Cửu Long chiếm 21,5%, Tây Bắc
chiếm 3,18% và Tây Nguyên chiếm 5,59%.... [8. tr 25].
Sự phát triển của các làng nghề truyền thống thu hút lao động nông thôn
cũng chính là việc sử dụng nguồn lao động hợp lý góp phần đáng kể vào sự
phân bố nguồn lực quốc gia đặc biệt là nguồn lao động nông thôn.
Những năm gần đây công tác dạy nghề đã có nhiều tiến triển, đặc biệt ở
các làng nghề truyền thống, nhiều lao động đã ý thức được việc học nghề và
số người tham gia các khoá đào tạo tăng rõ rệt. Số lao động qua đào tạo ngày
càng tăng đã góp phần giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hướng giảm lao động nông nghiệp, tăng lao động ngành nghề phi nông
nghiệp. Quy mô đào tạo dạy nghề trong những năm qua tăng nhanh, chỉ tiêu
đào tạo bình quân hàng năm tăng 20%. Quy mô tuyển sinh dạy nghề trong 3
năm - từ năm 2006 đến 2008 là 4,3 triệu người (năm 2008 là 1,54 triệu
người), trong đó lao động nông thôn chiếm 52%. Các ngành nghề nông - lâm
- ngư nghiệp chỉ chiếm 5% số học sinh. Số lao động nông thôn được học nghề
ngắn hạn và sơ cấp nghề bằng chính sách hỗ trợ theo Quyết định
81/2005/QĐ-TTg giai đoạn 2006-2008 là 990.000 người. Nhiều địa phương
đã khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức đoàn thể dạy nghề cho
lao động nông thôn, nhất là lứa tuổi thanh niên nhằm phát triển các nghề
truyền thống. Bình quân hàng năm, các làng nghề đã đào tạo được thêm việc
làm cho khoảng 250.000 lao động. Riêng các cơ sở dạy nghề thuộc Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn trong 3 năm từ năm 2006-2008 đã tuyển sinh
được 120.322 người, trong đó quy mô tuyển sinh năm 2008 là 48.000 học

sinh, lao động nông thôn chiếm trên 85%. [7.tr33].
Làng nghề phát triển sẽ tạo ra nhiều lợi thế trong việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn, nhất là cơ cấu lao động. Phát triển làng nghề là một hướng

8


đi phù hợp nhằm giải quyết lao động dôi dư trong nông nghiệp, nông thôn mà
không tạo ra căng thẳng về tình trạng di cư ồ ạt vào các thành phố lớn tìm
việc làm, trên cơ sở thực hiện: “Rời ruộng - không rời làng”. Làng nghề lại là
nơi có nhiều lợi thế trong việc khai thác thị trường tại chỗ về công cụ sản
xuất, hàng tiêu dùng, nhất là góp phần trực tiếp vào việc cải thiện phương tiện
lao động tại các địa phương. Như vậy, phát triển làng nghề không chỉ có ý
nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, các
làng, xã có nghề, mà còn có ý nghĩa đối với quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, đô thị hóa nông nghiệp, nông thôn và vấn đề lao động việc làm ở nước ta
hiện nay.
1.2.2. Nâng cao thu nhập cho người lao động.
Vấn đề nâng cao thu nhập cho người lao động là mối quan tâm lớn của
nhà nước ta nhất là người lao động nông thôn và đặc biệt ở các làng nghề
truyền thống. Nếu nhìn vào thực tế trước khủng hoảng tài chính, ở nông thôn,
địa phương nào có làng nghề, mức sống của người dân nơi đó luôn ở mức
khá. Thu nhập của người lao động ở làng nghề cao hơn 3 - 4 lần so với sản
xuất nông nghiệp đơn thuần. Thường thì ở các làng thuần nông mỗi lao có
mức thu nhập hàng tháng khoảng 500.000 vnđ thấp hơn nhiều so với lao động
ở các làng nghề truyền thống là 1.700.000 – 1.800.000 vnđ/ tháng tại nhiều
làng nghề, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ đạt từ 60% - 80% và ngành
nông nghiệp chỉ đạt 20% - 40%. Trong những năm gần đây, số hộ và cơ sở
ngành nghề ở nông thôn đang tăng lên với tốc độ bình quân từ 8,8% 9,8%/năm, kim ngạch xuất khẩu từ các làng nghề cũng không ngừng tăng lên.
Trung bình mỗi cơ sở doang nghiệp tư nhân chuyên làm nghề tạo việc làm ổn

định cho khoảng 27 lao động thường xuyên và 8 - 10 lao động thời vụ; các hộ
cá thể chuyên nghề tạo 4 - 6 lao động thường xuyên và 2 - 5 lao động thời vụ.
ở những làng nghề thêu ren, dệt, mây tre đan, mỗi cơ sở có thể thu hút 200 250 lao động. Theo thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hồ Xuân Hùng cho biết, tỷ lệ

9


hộ nghèo ở khu vực có làng nghề chỉ chiếm 3,7% trong khi mức bình quân cả
nước là 10,4% [9.tr35]. Vì vậy, nếu các làng nghề dừng hoạt động, số hộ
nghèo và người nghèo trên cả nước sẽ tăng nhanh. Do đó làng nghề thực sự
đóng vai trò quan trọng đối với việc xóa đói, giảm nghèo, trực tiếp giải quyết
việc làm cho người lao động trong lúc nông nhàn, góp phần tăng thu nhập,
nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động
1.2.3. Tạo cơ cấu kinh tế bền vững
Cơ cấu kinh tế bền vững là việc phát triển ổn định lâu dài về kinh tế - xã
hội và môi trường. Sự phát triển các làng nghề truyền thống đã góp phần
không nhỏ vào nền kinh tế đất nước trong đó tạo lên cơ cấu kinh tế bền vững
là một mục tiêu của đảng và nhà nước ta. Không chỉ góp phần vào mục tiêu
của đất nước mà việc phát triển các làng nghề truyền thống đã tạo cơ cấu kinh
tế bền vững cho các vùng nông thôn và đặc biệt là của từng địa phương làm
cho kinh tế - xã hội từng vùng được duy trì ổn định, vấn đề môi trường của
các làng nghề dần được cải thiện rõ rệt do hình thành các khu công nghiệp,
sản xuất tập chung, hợp tác xã hay các doanh nghiệp làng nghề…
Làng nghề truyền thống Việt Nam đã có từ hàng trăm năm, gắn liền với bản
sắc văn hóa dân tộc. Sự phát triển làng nghề đã góp phần xóa đói, giảm nghèo
ở nông thôn, giải quyết việc làm lúc nông nhàn, tăng thu nhập, nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân. Hiện nay, nước ta đang hội nhập sâu vào nền
kinh tế thế giới, các làng nghề cũng đang chuyển mình để thích nghi với nhịp
sống mới và vượt qua những thách thức mới
Như vậy việc phát triển các làng nghề truyền thống ở nước ta hiện nay không

những mang lại lợi ích kinh tế mà còn tạo lên một xã hội ổn định hơn, môi
trường được cải thiện và dễ dàng qui hoạch quản lý hơn nhất là ở các vùng
nông thôn. Đó cũng chính là một phần của cơ cấu kinh tế phát triển bền vững
trong công cuộc đổi mới và hội nhập của Việt Nam

10


Ngoài những thuận lợi thì ta còn phải đối mặt với nhiều khó khăn trước
mắt đó là nguy cơ các làng nghề phát triển thiếu bền vững. Hà Nội hiện có
khoảng 1.270 làng có nghề, trong đó là 224 làng nghề truyền thống với 47
nhóm nghề (trên tổng số 52 nghề toàn quốc), góp phần giải quyết việc làm
cho 627.000 lao động. Tuy nhiên, hầu hết các làng nghề phát triển theo hướng
tự phát, quy mô sản xuất nhỏ lẻ dưới dạng hộ gia đình và chưa được đầu tư
chiều sâu về công nghệ và quản lý nên năng suất, chất lượng thẩm mỹ sản
phẩm chưa cao, sức cạnh tranh chấp.
Phần lớn các làng nghề ở Hà Nội đang đối mặt với nguy cơ phát triển
thiếu bền vững vì chưa đăng ký thương hiệu. Dù có tới trên 1.000 làng nghề
nhưng mới chỉ có sản phẩm bánh chưng của làng Tranh Khúc (xã Duyên Hà,
Thanh Trì) đã đăng ký thương hiệu và công bố tháng 12/2009.
Vẫn biết, việc xây dựng thương hiệu cho mỗi sản phẩm làng nghề là rất
khó khăn, vì nó đòi hỏi phải đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất
lượng sản phẩm.... Tuy nhiên, để sản phẩm phát triển bền vững thì phải có
thương hiệu.
Nhiều người vẫn quen với nếp nghĩ chẳng cần khuếch trương xây dựng
thương hiệu mà cứ “hữu xạ tự nhiên hương”, nếu sản phẩm tốt thì ắt sẽ được
mọi người ghi nhận nên chưa quan tâm đến việc đăng ký thương hiệu. Điều
đó dẫn đến tình trạng nhiều làng nghề khi phát hiện sản phẩm của mình bị làm
nhái, làm giả nhưng không biết kiện ai.
Mặt khác, tỷ lệ thành lập tổ chức làng nghề của các địa phương còn rất ít

(chỉ có khoảng gần 10% số làng nghề) nên việc xây dựng chương trình quảng
bá, tiếp thị sản phẩm còn hạn chế.
Nhưng cũng vì chưa có thương hiệu mà việc xuất khẩu hàng hóa vẫn
phải qua trung gian, vừa kém lợi nhuận, vừa không tránh khỏi tình trạng bị
động trong sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là bị đối tác ép giá khiến hiệu quả
sản xuất không cao. Các chuyên gia cho rằng, khó khăn lớn nhất của việc xây

11


dựng thương hiệu là do sản xuất trong các làng nghề hiện nay còn manh mún,
nhỏ lẻ, vẫn theo quy mô hộ gia đình, mạnh ai nấy làm, mẫu mã sản phẩm còn
đơn điệu, tính thẩm mỹ chưa cao.
Việc giới thiệu sản phẩm tại các hội chợ, trung tâm thương mại phải chi
phí nhiều, vì vậy, nhiều cơ sở sản xuất ở làng nghề chưa dám nghĩ đến việc
quảng bá sản phẩm và xây dựng thương hiệu.
Hiện nay đã có một số doanh nghiệp sản xuất, các hộ gia đình ở làng
nghề đã lập trang web riêng nhưng phần lớn hiệu quả chưa cao.
1.2.4. Duy trì làng nghề truyền thống, bảo tồn giá trị văn hóa
Duy trì và phát triển làng nghề truyền thống không chỉ mang lại ích kinh
tế xã hội mà còn nhằm bảo tồn giá trị văn hóa của từng địa phương cho thấy
sự phong phú và bề dày truyền thống của nhân dân ta.
Cùng với việc thống kê, nghiên cứu, quy hoạch bảo tồn và phát triển làng
nghề, các khu tiểu thủ công nghiệp, cần thiết phải bảo tồn giá trị văn hóa phi
vật thể của làng nghề. Đó là kho tàng các kinh nghiệm, kỹ thuật, bí quyết
truyền nghề từ việc sử dụng nguyên vật liệu, kỹ thuật chế tác đến chủ đề sáng
tạo cho từng sản phẩm của mỗi làng nghề. Bởi vì quá trình lao động tức là quá
trình sáng tạo; trong mỗi sản phẩm đơn chiếc ấy là kinh nghiệm, là kỹ thuật,
là bí quyết của nghệ nhân, người thợ thủ công, và họ còn thổi vào sản phẩm ấy
cả tâm hồn và ý niệm. Ví dụ, từ những tảng đất vô tri vô giác, bằng sức lao

động sáng tạo, những người thợ thủ công đã tạo ra hàng vạn sản phẩm tuyệt
vời, mà ở đó là tư duy, là kinh nghiệm được đúc rút qua bao thế hệ. Mỗi sản
phẩm còn là khúc tuỳ hứng, khát vọng của con người và của cả cộng đồng. Đó
chính là phần tồn tại vô hình cần được bảo tồn của làng nghề và sản phẩm của
làng nghề.
Thêm vào đó việc tôn vinh các nghệ nhân, những người thợ thủ công của
các làng nghề cũng là một yêu cầu đặt ra đối với việc bảo tồn di sản văn hóa
dân tộc. Cần thẳng thắn thừa nhận rằng, việc này còn là một thiếu sót. Nguyên

12


nhân ban đầu có thể do nhận thức chưa đúng rằng làng nghề chỉ đơn thuần là
hoạt động kinh tế phụ. Do đó, các giá trị vô hình và đặc biệt là bàn tay khối óc
và tâm hồn của những người thợ tài ba làm ra sản phẩm, những nghệ nhân lại
dễ bị lãng quên. Nghệ nhân không phải là người lao động bình thường, ở họ
ngoài tài ba khéo léo của đôi bàn tay, họ còn giữ trong mình những bí quyết,
kỹ thuật cha truyền con nối và cả những tài hoa, có khi xuất thần, khó giải
thích bằng lời. Ngoài sự sáng tạo, nghệ nhân còn có sứ mệnh truyền nghề cho
các thế hệ sau. Vì vậy việc tôn vinh nghệ nhân không đơn thuần chỉ là đánh
giá công lao và tỏ lòng kính trọng, mà hơn thế, đây là một hoạt động, một
phương pháp, một nội dung nhằm bảo tồn được các giá trị văn hóa phi vật thể
của làng nghề truyền thống.
Cần tiến hành nghiên cứu để bảo tồn tục thờ tổ nghề và các lễ hội gắn
liền với sinh hoạt cộng đồng, sinh hoạt tinh thần của các làng nghề. Tục thờ tổ
nghề và lễ hội làng nghề được cư dân làng nghề và xã hội coi trọng. Thờ tổ
nghề là một nét văn hóa truyền thống chứa đựng ý nghĩa lịch sử xã hội, đời
sống và con người. Từ đặc trưng văn hóa này cho phép chúng ta mở rộng sự
nghiên cứu về “nghề”, về “nghiệp”, về yếu tố “bản địa”, “sự thiên di” hay khả
năng lan tỏa của mỗi nghề hay mỗi làng nghề. Cùng với tục thờ tổ nghề là các

lễ hội dân gian là những sinh hoạt cộng đồng. Lễ hội sẽ phản ánh đặc trưng
của nghề, của cơ cấu làng nghề và những quy lệ. Ở đây ngoài yếu tố tâm linh
còn chứa đựng sự ghi nhận những kinh nghiệm, quá trình phát triển, sự biến
động và quá trình giao thoa của “nghề” và làng nghề đó. Như vậy, việc thờ tổ
nghề và lễ hội làng nghề là một hoạt động, một bộ phận văn hóa tạo nên bức
tranh đầy đủ về làng nghề, do vậy việc bảo tồn nó cũng như các giá trị khác là
hết sức cần thiết.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, việc bảo tồn các giá trị văn hóa, bản
sắc văn hóa của mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi dân tộc, mỗi đất nước đang là
một vấn đề thời sự, trong đó vấn đề bảo tồn và phát huy làng nghề truyền

13


thống ở nước ta hiên nay đang trở thành vấn đề quan tâm của ngành văn hóa
mà còn là của toàn xã hội và đặc biệt là cộng đồng cư dân, nơi hiện có các
làng nghề truyền thống. Vì vậy, công tác bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật
thể của làng nghề truyền thống là không thể thiếu khi tiến hành thành lập các
khu tiểu thủ công nghiệp, cũng như trong quá trình công nghiệp hóa nông
thôn Việt Nam .

14


Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống
2.1.1. Về số lượng và các loại hình làng nghề
Làng nghề truyền thống ở nước ta rất đa dạng phong phú cả vể số lượng

và các loại hình làng nghề. Có khá nhiều làng nghề phát xuất hiện cách đây
hơn 100 năm và có một số làng nghề mới được hình thành, phát triển tương
đối ổn định.
Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, hiện nay nước ta có
2.790 làng nghề, riêng ở Hà Nội có 1.160 làng nghề. Rất nhiều trong số này
đã có hàng trăm năm tuổi như làng nghề nổi tiếng Bát Tràng. Làng đúc đồng
Đại Bái (Bắc Ninh) với hơn 900 năm phát triển; nghề chạm bạc ở Đồng Xâm
(Thái Bình), hay nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước (Đà Nẵng) cũng đã
hình thành cách đây hơn 400 năm. Theo tổng hợp của Tổng cục Môi trường
năm 2008, làng nghề nước ta phân bố tập trung chủ yếu tại đồng bằng sông
Hồng, chiếm khoảng 60%, miền Trung, chiếm khoảng 30% và miền Nam
khoảng 10%. Kỹ thuật, công nghệ, quy trình sản xuất cơ bản để làm ra các sản
phẩm của làng nghề được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Sự phát triển của các làng nghề truyền thống Việt Nam không chỉ mang
lại những sản phẩm đặc sắc của từng địa phương mà còn là điểm văn hóa của
khu vực, của vùng cũng là điểm hẹn văn hóa của nhiều du khách trong và
ngoài nước. Chính vì điều này theo xu thế chung, cả hai - làng nghề và du lịch
- đang hướng vào nhau để tạo nên "vùng giao thoa" mà nhiều địa phương có
làng nghề đã phát triển tất yếu. Bằng những sản phẩm du lịch đặc thù trong
tương lai đây được coi là mô hình phát triển của các làng nghề truyền thống.

15


Mô hình làng nghề và du lịch thu hút được rất nhiều lượng du khách cả trong
và ngoài nước mang lại thu nhập không nhỏ cho các địa phương, điển hình là
làng gốm Bát Tràng – Long Biên – Hà Nội mỗi năm đón hàng triệu du khách
thập phương (Du khách có thể đến làng tham quan nơi sản xuất, thử vẽ lên đồ
gốm sứ và mua hàng làm quà kỷ niệm). Một số chuyên gia du lịch nhận định:
“Sự kết hợp chặt chẽ giữa du lịch và làng nghề thủ công truyền thống tại Việt

Nam hầu như không có tại các nước ASEAN khác, trừ Chiềng Mai (Thái
Lan), chính là một thế mạnh để du lịch Việt Nam khai thác, phát triển tiềm
năng này”.
Một số làng nghề mới cũng được hình thành và phát triển mạnh về số
lượng thông qua báo cáo của từng tỉnh về số lượng các cụm, khu công nghiệp
mới xuất hiện và nhiều làng nghề mới được hiệp hội làng nghề công nhận là
làng nghề truyền thống. Các làng nghề mới phát triển đem lại những lợi ích
nhất định cho kinh tế - xã hội của địa phương cũng như kinh tế đất nước. Xu
hướng kết hợp yếu tố truyền thống với hiện đại
Để phát triển làng nghề truyền thống theo hướng CNH, HĐH đòi hỏi các
làng nghề phải đổi cách thức sản xuất, kinh doanh, áp dụng công nghệ tiên
tiến với giữ vững thương hiệu của từng sản phẩm.
Vạn Phúc - ngoại thành Hà Nội là làng nghề dệt nổi tiếng, đã sớm chuyển
từ HTX lên xí nghiệp và tiến tới cổ phần hoá hoàn chỉnh với trên 350 máy dệt
vải, lụa. Các hộ đã cải tiến máy dệt, mẫu mã, nhiều sản phẩm truyền thống đã
được khôi phục như: gấm, the, lụa... được thị trường trong nước và ngoài
nước ưa chuộng.
Phong Khê, huyện Yên Phong Bắc Ninh, là làng nghề giấy cuốn pháo
truyền thống trên 400 năm trước. Hiện Phong Khê có 165 dây chuyền sản
xuất với trên 20 cơ sở sản xuất giấy công nghiệp. Nhiều hộ đã đầu tư mua dây
chuyền sản xuất có công suất từ 200 – 500 tấn/năm, cá biệt có dây chuyền đạt
công suất 10.000 tấn/năm. Vốn đầu tư cho một dây chuyền từ 1 tỷ - 10 tỷ

16


đồng.

[10.tr14].


Xu hướng khôi phục nghề truyền thống đi đôi với phát triển nghề mới phù
hợp với thị trường tiêu dùng
Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống phục vụ cho tiêu dùng và
xuất khẩu, nhưng không phải bất cứ làng nghề nào cũng trụ được trong cơ chế
thị trường. Hiện nay, phát triển nghề mới, làng nghề mới đang lan rộng ở
nhiều địa phương như: Làng nghề xây dựng, vận tải, du lịch, làm giấy ép.
Trong xu hướng phát triển của làng nghề và các nghề mới, đã xuất hiện cả
những nghề sản xuất theo hướng công nghiệp, dịch vụ như sản xuất phân bón
từ rác thải, nghề thu gom phế liệu, nấu cán ép nilon, mây tre đan quét sơn giả
gốm, đan bao bì, túi sách bằng thân bèo bồng.... Song cũng có làng nghề
truyền thống đã mai một và dễ lụi tàn như nghề trồng cói, dệt chiếu, dệt đũi,
dệt vải màn. Trung bình 1 gia đình làm nghề có thu nhập trung bình khoảng 5
triệu đồng/tháng.
Xu hướng đa dạng hoá các hình thức sản xuất kinh doanh. Hộ gia đình là
hình thức tổ chức kinh doanh hiệu quả, quản lý và sử dụng lao động hợp lý, tự
chủ được sản xuất kinh doanh. Phương pháp truyền nghề trực tiếp ngay trong
dòng họ, gia đình đã giảm được chi phí đào tạo, giữ được bí quyết nghề
nghiệp,... Cùng với hình thức sản xuất kinh doanh theo gia đình, đã xuất hiện
nhiều hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách
nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần.
Làng nghề là một trong những đặc thù ở nông thôn nước ta, nhiều ngành
nghề truyền thống đang được khôi phục, bảo tồn và phát triển cùng song hành
với một số nghề mới. Tuy vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh còn mang đậm
nét tự phát, nhỏ lẻ, thiếu quy hoạch. Đặc biệt là sản xuất trong hộ gia đình
ngay tại khu dân cư hoặc các khu tập trung lại không có ranh giới rõ rệt với
khu dân cư gây ô nhiễm môi trường, sức khoẻ cộng đồng. Hầu hết các làng
nghề đều không đạt tiêu chuẩn về: Độ ồn, ánh sáng, độ rung, độ ẩm, nhiệt độ

17



cao. Tại một số làng nghề xuất hiện bệnh mới như: Ung thư, quái thai, nhiễm
độc kim loại nặng, đất đai bị nhiễm hoá chất nặng.
Các làng nghề giờ đây đang chuyển mình trong thời kỳ hội nhập kinh tế.
Những thay đổi này vừa mang lại những thuận lợi vừa tạo ra thách thức đối
với các làng nghề trong quá trình phát triển. Mở cửa, hội nhập, các làng nghề
có cơ hội giới thiệu sản phẩm của mình với khách nước ngoài. Đó là những
mặt hàng xuất khẩu mạnh của nước ta trong nhiều năm qua, mà phần nhiều có
xuất xứ từ các làng nghề truyền thống trong cả nước, như thủ công mỹ nghệ,
thêu ren, gốm sứ.... Theo thống kê, hiện hàng hóa của các làng nghề nước ta
đã có mặt ở hơn 100 nước trên thế giới với kim ngạch xuất khẩu ngày càng
tăng. Nếu như năm 2004, kim ngạch xuất khẩu mới đạt 450 triệu USD, thì
năm 2008 đã tăng lên hơn 776 triệu USD. Nếu tính cả các sản phẩm đồ gỗ
xuất khẩu thì tổng kim ngạch đạt trên 2,4 tỉ USD. Tuy nhiên, do đứng trước
khủng hoảng kinh tế, nhiều làng nghề đang có nguy cơ phá sản do đọng vốn,
đọng sản phẩm vì bị đối tác nước ngoài cắt hợp đồng tiêu thụ.
Theo báo cáo của 38 tỉnh, thành phố, đã có ít nhất 9 làng nghề phá sản;
124 làng nghề sản xuất cầm chừng; hơn 2.100 hộ đăng ký kinh doanh bỏ
nghề. Có những làng nghề như đồ gỗ mỹ nghệ Đồng kỵ (Bắc Ninh) với hơn
200 cơ sở sản xuất, mặt hàng chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc, nhưng đến
nay 80% số cơ sở ngừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng, sản phẩm tồn kho
ước tính khoảng 20 triệu USD. Làng nghề giấy Phong Khê (Bắc Ninh) thu hút
khoảng một vạn lao động, nhưng đến nay có 50% số cơ sở ngừng sản xuất,
hoặc sản xuất cầm chừng. Làng nghề tơ lụa ở Vạn Phúc (Hà Nội) là một trong
những làng nghề truyền thống lâu đời nhất ở nước ta, có 600 cơ sở sản xuất
thì hiện nay 30% số này đã đóng cửa... Trước thực trạng suy giảm kinh tế hiện
nay, theo dự báo của Hiệp hội Làng nghề, nếu không có những giải pháp hỗ
trợ kịp thời, sẽ có khoảng 40% số làng nghề có nguy cơ phá sản, kéo theo
hàng vạn người bị mất việc làm. Ngoài ra việc phát triển các làng nghề mới


18


và phát triển các loại hình làng nghề kéo theo nhiều vấn đề nan giải cần được
giải quyết như vấn đề vê môi trường, an ninh chính trị, văn hóa… của địa
phương. Các mô hình làng nghề còn mang tính tự phát thiếu tính đồng bộ
chuyên nghiệp đã gây thiệt hai không nhỏ cho nhà nước chẳng hạn như:
ngoại trừ hai cái tên được nhắc đến liên tục là Bát Tràng và làng lụa Vạn
Phúc, các làng nghề khác gần như bị bỏ quên, mặc dù có chủ trương từ chính
quyền địa phương. Ví như cụm làng nghề mây tre đan ở Chương Mỹ, khảm
trai Chuyên Mỹ, thêu Quất Động, nón làng Chuông, sơn mài Hạ Thái… Dù
được đầu tư phát triển du lịch từ những năm 2003 – 2004, dù có tên trong sản
phẩm tour của các hãng lữ hành, song đến nay tình hình du lịch tại những địa
điểm này không có biến chuyển tích cực nào, lượng tour thưa thớt, khách
hàng thờ ơ. Điển hình như làng mây tre đan Phú Nghĩa (Chương Mỹ) khu
trưng bày sản phẩm được xây dựng 8 năm nay cho khách tham quan đến giờ
vẫn hoang vắng với tổng số khách nước ngoài đón tiếp trong 8 năm là 30
người. Hay cụm làng nghề du lịch của hợp tác xã Một thoáng Việt Nam (xã
An Phú, huyện Củ Chi) đã đi vào hoạt động từ nǎm 1997, nhưng phải ngưng
đón khách từ 5 nǎm nay do doanh thu từ khách tham quan không đủ bù chi
phí hoạt động… và còn rất nhiều những bất cập khác mà ta cần phải khắc
phục trong thời gian tới
2.1.2. Về chất lượng sản phẩm
Làm cách nào để phát triển các sản phẩm làng nghề bắt kịp với xu hướng
thị trường trong nước, xuất khẩu và tiêu dùng là một vấn đề được các nhà
quản lý cũng như các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn, các doanh
nghiệp kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống đặc biệt quan tâm.
Các sản phẩm của làng nghề truyền thống Việt Nam cũng dần bắt kịp với xu
thế hiện nay cả về mẫu mã và chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó cũng có rất
nhiều mặt yếu kém cần phải nói tới. Theo hiệp hội làng nghề truyền thống cho

biết: hiện nay sản phẩm của các cơ sở sản xuất làng nghề truyền thống chủ

19


yếu sản xuất thủ công, mẫu mã ít tính sáng tạo không phù hợp với thị hiếu
tiêu dùng của người mua nhất là người mua trong nước, chất lượng thì lúc
đáng ứng được tiêu chuẩn lúc không. Còn đối với thị trường xuất khẩu thì
chưa thực sự đáp ứng được các yêu cầu của chất lượng sản phẩm cũng như
mẫu mã sản phẩm. Mẫu mã lạc hậu, chủ yếu làm theo mẫu có sẵn và làm chủ
yếu theo kinh nghiệm việc tiếp cận thông tin khoa học công nghệ nhằm nâng
cao chất lượng sản phẩm, cải tiến thiết bị cũng còn nhiều khó khăn nên chi
phí giá thành sản phẩm vẫn còn cao, làm giảm đi khả năng cạnh tranh của
hàng hoá, tính độc đáo và bản sắc riêng của sản phẩm mỗi làng nghề gần như
không có mà yếu tố này rất quan trọng trong việc lựa chọn sản phẩm của
người nước ngoài. Hay sản phẩm không dự đoán được những biến đổi khí hậu
của từng địa phương. Sản phẩm thiếu đồng bộ, tính hoàn thiện sản phẩm còn
thấp, công dụng không rõ nét, độ an toàn chưa được chú ý, bao bì không hấp
dẫn...
Theo nhận xét đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì cả nước hiện có
khoảng 1.544 làng nghề truyền thống, thu hút hơn 10 triệu lao động. Thực tế
những năm qua, hàng thủ công Việt Nam tiến bộ một cách chậm chạp, nhiều
sản phẩm sa sút hơn trước. Đã xuất hiện tình trạng làm hàng ẩu, hàng kém
chất lượng, sản xuất không đúng quy trình kỹ thuật của công nghệ truyền
thống mà chạy theo số lượng là chính. Đó cũng là nguyên nhân sâu xa làm
cho nhiều làng nghề, nhiều cơ sở sản xuất bị suy thoái, mất dần thị trường tiêu
thụ, một số người phải bỏ nghề đi làm việc khác.
Vậy vấn đề về chất lượng sản phẩm của các làng nghề truyền thống nước
ta hiện nay còn rất nan dải và đang được nhà nước cùng các nhà kinh tế
thương mại cũng như người lao động dần cải thiện cả về mẫu mã lẫn chất

lượng sản phẩm qua việc hỗ trợ vốn, thông tin khoa học nghệ, xúc tiến thương
mại…

20


2.1.3. Về trình độ kỹ thuật công nghệ
Tại các làng nghề truyền thống ở Việt Nam hiện nay thì trình độ quản lý
cũng như trình độ kỹ thuật công nghệ vẫn còn quá yếu kém. Chủ yếu việc sản
xuất theo lối thủ công truyền thống, rất ít máy móc, công nghệ được đưa vào
thì cũng chỉ là các thiết bị cũ kĩ, lạc hậu tạo ra năng suất thấp giá thành cao
hạn chế trong việc tìm đầu ra cho sản phẩm làng nghề. Trình độ quản lý và
nắm bắt thông tin của các làng nghề thật sự còn yếu vì hầu hết lao động trong
làng nghề là lao động nông thôn có thể làm việc theo thời vụ hay những lúc
nhàn dỗi mà chủ yếu theo tập quán của từng địa phương. Vấn đề thông tin và
trình độ quản lý thì cực kỳ quan trọng cho chất lượng và đầu ra của sản phẩm
Chính trình độ kỹ thuật công nghệ ở các làng nghề còn kém phát triển như
vậy đã làm ảnh hưởng nhiếu đến kinh tế - xã hội của nhiều địa phương nhất là
vấn đề môi trường còn rất nhiều bất cập nan giải cho các cơ quan bảo vệ môi
trường. Hiện nay trên cả nước có khoảng 1.450 làng nghề nhưng vùng châu
thổ sông Hồng tập trung nhiều nhất với khoảng 800 làng, trong đó Hà Tây,
Thái Bình, Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định và Thanh Hóa là những địa
phương có mật độ làng nghề cao nhất. Với tốc độ tăng trưởng GDP đạt 8%,
làng nghề được coi là có tác động mạnh mẽ nhất làm thay đổi đời sống và bộ
mặt nhiều vùng nông thôn, mang lại nhiều lợi nhuận kinh tế và là nguồn thu
chủ yếu của nhiều hộ gia đình.
Tuy nhiên, với đặc trưng sản xuất manh mún, thủ công, nhỏ lẻ hộ gia đình,
làng nghề đang trở thành gánh nặng về môi trường với những địa phương có
nhiều làng nghề phát triển. Chế biến lương thực thực phẩm, tái chế, dệt
nhuộm được coi là một trong những làng nghề có mức độ gây ô nhiễm môi

trường khủng khiếp nhất.
Theo PGS.TS. Đặng Kim Chi - Viện khoa học và công nghệ môi trường
(Đại học Bách khoa Hà Nội), làng nghề tái chế là loại làng nghề có khả năng
gây ô nhiễm tới cả ba thành phần môi trường không khí, nước, đất. Tại các

21


làng nghề tái chế giấy, vấn đề ô nhiễm chủ yếu là chất rắn như xơ sợi, bột
giấy trong nước thải. Đơn cử như làng nghề sản xuất giấy tái chế Phú Lâm và
Phong Khê (Bắc Ninh), mỗi năm làm ra gần 20.000 tấn sản phẩm thì cũng đã
thải ra môi trường khoảng 1.500 m3 nước thải mỗi ngày. Nước thải chứa
lượng lớn các hóa chất độc hại như xút, thuốc tẩy, phèn kép, nhựa thông và
phẩm mầu... với hàm lượng BOD5 và COD vượt 4-6 lần tiêu chuẩn cho phép.
Đặc trưng công nghệ sản xuất và thiết bị ở các làng nghề phần lớn lạc hậu,
chắp vá. Các cơ sở sản xuất tại làng nghề, do không nhận thức được tác hại
lâu dài của ô nhiễm, chỉ quan tâm đến lợi nhuận trước mắt, nên thường sử
dụng các nhiên liệu rẻ tiền, hóa chất độc hại (kể cả đã cấm sử dụng) để nhằm
hạ giá thành sản phẩm. Trình độ người lao động ở các làng nghề, chủ yếu là
lao động thủ công, văn hóa thấp, số lao động chỉ tốt nghiệp cấp I, II chiếm
trên 60%. Những yếu tố này dẫn tới hậu quả là hoạt động sản xuất tiêu hao
nhiều nhiên nguyên liệu, làm tăng phát thải các chất ô nhiễm môi trường.
Mặt khác, do đặc trưng hoạt động làng nghề có quy mô sản xuất nhỏ ,
phần lớn ở quy mô hộ gia đình (chiếm 72% tổng số cơ sở sản xuất) nằm xen
kẽ với khu dân cư nên sản xuấ t càng phát triển thì nguy cơ lấn chiếm khu vực
sinh hoạt và phát thải ô nhiễm khu dân cư càng lớn, dẫn đến chất lượng môi
trường khu vực càng xấu đi.
2.1.4. Về chất lượng nguồn nhân lực
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn xem
con người là yếu tố đặc biệt quan trọng, nên đã không ngừng đào tạo, bồi

dưỡng nguồn lao động đáp ứng yêu cầu, mục tiêu đề ra ở từng thời kỳ. Tuy
nhiên, trước yêu cầu phát triển mới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang đặt ra nhiều thách
thức. Trong đó, thách thức lớn nhất là lực lượng lao động tuy đông, nhưng về
chất lượng nhìn chung còn thấp, sức cạnh tranh so với nhiều nước khu vực và

22


thế giới hạn chế. Nhất là chất lượng lao động trong các làng nghề truyền
thống.
+

Về số lượng: Theo số liệu điều tra gần đây, thì nước ta hiện có 44,4 triệu

lao động và vẫn tiếp tục tăng nhanh. Đáng lưu ý là lực lượng lao động này
hầu hết (75,1%) ở nông thôn và tập trung đông nhất là 2 vùng đồng bằng sông
Hồng và sông Cửu Long. Trong những năm gần đây, từ năm 2000 đến 2006
mỗi năm bình quân có gần một triệu người bước vào tuổi lao động. Như vậy,
đến nay có thể nói Việt Nam là một trong những nước có nguồn lao động dồi
dào.
+ Về chất lượng: Trình độ học vấn của lao động Việt Nam, kể cả lao động ở
khu vực nông nghiệp nông thôn nhất là ở các làng nghề truyền thống được
chuyên gia quốc tế đánh giá vào loại khá so với nhiều nước trên thế giới, nếu
như năm 2004 mới chỉ có 47% nguồn lao động có trình độ phổ thông cơ sở và
phổ thông trung học, thì đến đầu năm 2006 con số này là 58%.
Tuy trình độ học vấn khá, nhưng chất lượng nguồn lao động Việt Nam lại
thấp so với nhiều nước khu vực và thế giới thể hiện:
- Thứ nhất, sức cạnh tranh, khả năng làm việc của nguồn lao động nhìn chung
bị hạn chế do tay nghề, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thấp và kỹ năng làm

việc còn thấp. Hiện có tới 75,21% lao động chưa qua đào tạo nghề. Điều đáng
quan tâm nhất là một tỷ lệ lớn lao động tuy đã qua đào tạo, nhưng chưa đáp
ứng yêu cầu sử dụng. Đa số học sinh tốt nghiệp các trường dạy nghề hoặc
chuyên môn, nghiệp vụ nhưng còn thiếu kỹ năng cơ bản để có thể thực hiện
công việc độc lập, sau khi ra trường vẫn cần bổ túc thêm từ 6 tháng đến 1 năm
mới có thể làm việc với thiết bị, máy móc của doanh nghiệp hiện đang sử
dụng. Thực trạng hiện nay của nguồn lao động là tuy đông nhưng không
mạnh về chất lượng, đã làm cho lao động Việt Nam không còn ưu thế, khi thị
trường lao động cần công nhân có kỹ thuật, tay nghề cao có xu hướng tăng lên
để cung cấp cho các doanh nghiệp, mà chúng ta chưa có. Đây chính là thách

23


thức lớn khi nước ta đứng trước xu thế hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu
vực



thế

giới.

- Thứ hai, một bộ phận không nhỏ người lao động chưa có tác phong công
nghiệp, mang nặng thói quen và tập quán sản xuất nhỏ, kỷ luật lao động lỏng
lẻo, thiếu trách nhiệm đối với công việc; quan hệ hợp tác yếu và hầu hết
không biết ngoại ngữ. Đặc điểm này đã làm nẩy sinh mâu thuẫn giữa chủ và
thợ tại nhiều doanh nghiệp trong nước và liên doanh, nhất là đối với lao động
đi làm việc ở nước ngoài, ảnh hưởng đến sự tham gia của lao động Việt Nam
trong hợp tác và phân công lao động quốc tế.

- Thứ ba, thể lực và tình hình sức khoẻ nói chung của lao động Việt Nam yếu
so với nhiều nước về cân nặng, chiều cao và sức bền. Trong khi chiều cao
trung bình của Việt Nam 1m50, cân nặng 45kg, thì ở Philipin là 1m55, cân
nặng 50kg và Nhật Bản là 1m64, cân nặng là 54,6kg.
Đây cũng là những hạn chế chung của nguồn nhân lực nước nhà đồng thời
là hạn chế riêng của nguồn nhân lực các làng nghề Việt Nam mà chúng ta cần
phải chú ý và lưu tâm hơn nữa để chất lượng nguồn nhân lực ngày một phát
triển.
2.1.5. Về hiệu quả kinh tế
Kinh tế các làng nghề truyền thống thật sự đã góp phần không nhỏ vào nền
kinh tế đất nước và bình ổn cơ cấu kinh tế nông thôn cũng như trật tự văn hóa
xã hội.
Một điều tra của Bộ Công nghiệp cho thấy làng nghề Việt Nam đang sử dụng
1,3 triệu thợ thủ công chuyên nghiệp và 3-5 triệu lao động thời vụ đã khẳng
định được vị trí quan trọng của làng nghề trong nền kinh tế chung. Làng nghề
phát triển sẽ giải quyết việc làm cho nông thôn đang có quá nhiều người thất
nghiệp; gìn giữ và phát triển văn hóa truyền thống; đặc biệt tạo ra bộ mặt đô
thị hóa mới cho nông thôn để nông dân ly nông nhưng không ly hương và làm
giàu trên quê hương mình. Nó làm giảm bớt căn bệnh “to đầu” vì làn sóng

24


nông dân nhập cư về các thành phố lớn kéo theo hàng loạt hệ quả xã hội nặng
nề.
Bên cạnh đó cũng còn nhiều hạn chế về hiệu quả kinh tế các làng nghề
nhất là hiệu quả sản phẩm của làng nghề truyền thống do tâm lý dựa dẫm vào
truyền thống. Rõ thấy nhất là vấn đề quảng bá thương hiệu các làng nghề vẫn
còn kém nhiều làng nghề có tâm lý lấy không cần quảng bá thương hiệu bởi
làng đã có lịch sử hàng trăm năm nên đương nhiên là sẽ có nhiều người biết

đến sản phẩm của làng nghề mình. Tuy nhiên, thực tế cho thấy cách làm này
không thực sự hiệu quả. Điều đó dẫn đến tình trạng nhiều làng nghề khi phát
hiện sản phẩm của mình bị làm nhái, làm giả nhưng không biết kiện ai. Mặt
khác, tỷ lệ thành lập tổ chức làng nghề của các địa phương còn rất ít (chỉ có
khoảng gần 10% số làng nghề) nên việc xây dựng chương trình quảng bá, tiếp
thị sản phẩm còn hạn chế. Nhưng cũng vì chưa có thương hiệu mà việc xuất
khẩu hàng hóa vẫn phải qua trung gian, vừa kém lợi nhuận, vừa không tránh
khỏi tình trạng bị động trong sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là bị đối tác ép giá
khiến hiệu quả sản xuất không cao.
Đơn cử như làng gỗ Chàng Sơn (Thạch Thất) có truyền thống cả nghìn
năm nay với những sản phẩm nổi tiếng được nhiều người biết đến, trong đó
tiêu biểu là nhóm 18 pho tượng La Hán đặt tại chùa Tây Phương. Năm 2008,
làng nghề Chàng Sơn còn được xếp là một trong 7 xã có làng nghề tiêu biểu
của cả nước. Mặc dù sản phẩm của làng mộc Chàng Sơn đã được nhiều người
sử dụng nhưng trên thực tế thương hiệu Chàng Sơn còn ít được biết đến. Tra
cứu trên internet mới chỉ có vài hộ gia đình quảng cáo sản phẩm trên các
website mua bán, còn website riêng cho cả làng nghề thì chưa có. Không chỉ
có làng mộc Chàng Sơn mới lâm vào tình trạng này mà nhiều làng nghề
truyền thống có lịch sử lâu đời cũng đang lâm vào tình trạng tương tự. Nghệ
nhân Lê Bá Chung, Chủ tịch Hiệp hội vàng, bạc quỳ Kiêu Kỵ cho biết: Hiện

25


×