Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

TRƯỜNG TIỂU học PHÚ đa 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.38 KB, 35 trang )

TRƯỜNG TIỂU HỌC PHÚ ĐA 3 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
TỔ 2 & 3
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Phú Đa , ngày 28 tháng 8 năm 2016
BÁO CÁO TỰ BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
NĂM HỌC 2016 – 2017
Nội dung 1: Triển khai NQ số 29- NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 đổi mới
căn bản toàn diện GD&ĐT.
I. Thông tin cá nhân:
1. Họ và tên: Hoàng Ngọc
Giới tính:Nam
2. Ngày tháng năm sinh: 10/01/1983
Năm vào ngành giáo dục: 2007
3. Trình độ học vấn : ĐHSP
Nơi đào tạo : Trường Đại học sư phạm Huế
4. Tổ chuyên môn: Tổ 1
Môn dạy(1): Giáo viên – Tổng phụ trách Đội
5. Trình độ ngoại ngữ : B
Trình độ tin học: A
6. Chứng nhận chuyên môn, nghiệp vụ: Đại học sư phạm giáo dục Tiểu học
7. Chức vụ: Giáo viên – Tổng phụ trách Đội
II. Nội dung bồi dưỡng 1: Triển khai NQ số 29- NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm
2013 đổi mới căn bản toàn diện GD&ĐT.
PHẦN 1
Phần nhận thức việc tiếp thu kiến thức và kĩ năng được quy định trong mục
đích, nội dung chương trình, tài liệu bồi dưỡng thường xuyên.
Thực hiện Nghị quyết TW 2 khóa VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà
nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo, nước ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc.


Cụ thể là: Đã xây dựng được hệ thống giáo dục và đào tạo tương đối hoàn
chỉnh từ mầm non đến đại học. Cơ sở vật chất thiết bị dạy học đào tạo được cải
thiện rõ rệt và từng bước hiện đại hóa chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ.
Đội ngũ nhà giáo và quản lí giáo dục phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng với
cơ cấu ngày càng hợp lí. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh, hệ thống giáo dục và
đào tạo ngoài công lập góp phần đáng kể vào phát triển giáo dục và đào tạo chung
của xã hội, công tác quản lí giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến nhất định.
Những thành tựu và kết quả trên trước hết bắt nguồn từ truyền thống hiếu học của
dân tộc, sự quan tâm chăm lo của Đảng, Nhà nước, mặt trận tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân, của mỗi gia đình và toàn xã hội, sự tận tụy của đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lí giáo dục, sự ổn định về chính trị cùng với những thành tựu phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.


Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, nhà nước
và toàn dân.
Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn,
cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương
pháp, cơ chế, chính sách bảo đảm thực hiện đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lí của Nhà nước đến hoạt động giáo dục
Phát triển giáo dục là nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, học đi dôi với
hành.
Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn liền với
nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ tổ quốc, phù hợp với quy luật khách
quan.
Đối với hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc
học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo chuẩn hóa, hiện đại hóa
giáo dục và đào tạo.
Chủ động phát huy tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo, ưu tiên giáo

dục đối với vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách.
PHẦN 2
Phần vận dụng kiến thức, kĩ năng đã được bồi dưỡng vào hoạt động nghề
nghiệp thông qua các hoạt động dạy học và giáo dục.
-Bản thân nắm vững các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới
căn bản toàn diện nền giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nâng cao nhận
thức về vai trò bản thân trong việc quyết định chất lượng giáo dục của nhà trường,
người học là chủ thể trung tâm của quá trình giáo dục, gia đình có trách nhiệm phối
hợp với nhà trường và xã hội trong việc giáo dục nhân cách, lối sống cho con em
mình.
-Trong quá trình dạy học, theo định hướng coi trọng phát triển phẩm chất,
năng lực của người học. Trên cơ sở mục tiêu đổi mới giáo dục và đào tạo, ngay từ
đầu năm học bản thân đề ra chỉ tiêu chất lượng môn Tiếng Anh theo từng khối lớp
mà mình phụ trách trong bản kế hoạch cá nhân .Coi đó là cam kết bảo đảm chất
lượng của nhà trường ,là căn cứ giám sát, đánh giá chất lượng dạy học của bản
thân.
-Không ngừng đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại, phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của học sinh,
khắc phục lối truyền thụ, áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc tập trung cách dạy
học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để học sinh tự cập nhật và đổi mới
tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức
hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động ngoại khóa.
- Ứng dụng CNTT và truyền thông trong tiết dạy.


- Việc thi, kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục học sinh theo đúng thông tư 22
bảo đảm tính trung thực, khách
quan.
- Bản thân luôn tích cực việc đổi mới phương pháp dạy học và hướng dẫn
cách học của học sinh cho phù hợp với đặc trưng môn học, từng tiết dạy, lớp dạy ,

tăng cường sử dụng thiết bị dạy học có hiệu quả.
- Bản thân không ngừng học tập, rèn luyện, trau dồi kiến thức để có phương
pháp dạy học phù hợp với môn học , đối tượng học sinh.
III. Nhận xét, đánh giá
1. Tự nhận xét đánh giá, xếp loại:
- Ưu điểm: Đã áp dụng những điều đã học vào quá trình công tác dạy học .
- Khuyết điểm: Trong quá trình công tác có những lúc chưa thật sự vận dụng
một cách hiệu quả.
Tự đánh giá, xếp loại: 9, 5 điểm. Xếp loại: Giỏi.
Giáo viên báo cáo

Hoàng Ngọc
2. Nhận xét đánh giá, xếp loại của tổ chuyên môn:
……………………………..………………………………………………………..
…………………………………………………………………….…………………
…………………………………………………………………….…………………
Đánh giá: …….. điểm

Xếp loại: ……………..
Phú Đa, ngày
tháng
Tổ trưởng

năm 2016

3. Nhận xét đánh giá, xếp loại của Ban giám hiệu:
……………………………..………………………………………………………..
…………………………………………………………………….…………………
…………………………………………………………………….…………………
Đánh giá: …….. điểm


Xếp loại: ……………..
Phú Đa, ngày
tháng năm 2016
Hiệu trưởng


TRƯỜNG TIỂU HỌC PHÚ ĐA 3 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
TỔ 2 & 3
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Phú Đa , ngày 30 tháng 9 năm
2016
BÁO CÁO BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
NĂM HỌC 2016 – 2017
Nội dung bồi dưỡng 2: Nghiên cứu về môn Tiếng Việt lớp -1CGD.
I. Thông tin cá nhân:
1. Họ và tên: Hoàng Ngọc
Giới tính:Nam
2. Ngày tháng năm sinh: 10/01/1983
Năm vào ngành giáo dục: 2007
3. Trình độ học vấn : ĐHSP
Nơi đào tạo : Trường Đại học sư phạm Huế


4. Tổ chuyên môn: Tổ 1

Môn dạy(1): Giáo viên – Tổng phụ trách

Đội

5. Trình độ ngoại ngữ : B
Trình độ tin học: A
6. Chứng nhận chuyên môn, nghiệp vụ: Đại học sư phạm giáo dục Tiểu
học
7. Chức vụ: Giáo viên – Tổng phụ trách Đội
II. Nội dung bồi dưỡng: Nghiên cứu về môn Tiếng Việt lớp -1CGD.( Nội dung
bồi dưỡng 2)
PHẦN 1
Phần nhận thức việc tiếp thu kiến thức và kĩ năng được quy định trong mục
đích, nội dung chương trình, tài liệu bồi dưỡng thường xuyên.
1. MỤC TIÊU
Mục tiêu của dạy môn Tiếng Việt lớp 1 – CNGD là giúp các em học sinh đọc
thông, viết thạo, học đâu chắc đấy, nắm chắc luật chính tả, nắm chắc hệ thống cấu
trúc ngữ âm Tiếng Việt. Đồng thời giúp các em phát triển tư duy và biết cách làm
việc trí óc, phát huy năng lực tối ưu của mỗi cá nhân học sinh.
2. QUY TRÌNH
Quy trình bốn việc là một giải pháp kỹ thuật cho tiết học, được thể hiện như sau:
Việc 1 – Phân tích ngữ âm của Tiếng là CÁCH chiếm lĩnh một đối tượng vật
chất với tư cách VẬT THẬT. Phát âm chuẩn là CÁCH thuần hóa tiếng nói tự nhiên
thường mang tính phương ngữ. Việc 1 nắm lấy bản chất âm của Tiếng, làm một
cách vật chất, bằng cơ bắp, làm từ thô đến tinh.
- Tách ra tiếng giống nhau.
- Tách ra thanh của tiếng
- Tách ra hai phần của tiếng thanh ngang.
Cuối cùng, tách ra từng âm vị.
Việc 2 – Viết, làm theo quy ước. Hãy làm một cách tự nhiên, đừng quan trọng hóa,
cứ nói tự nhiên, không có gì đặc biệt. Làm theo quy ước một cách tự nhiên và đánh
giá sản phẩm một cách tự nhiên.
Việc 3 – Đọc. Vì sao phải “Đọc trơn” ngay từ đầu?
- Chữ thay cho âm thanh (âm vị, vần, tiếng) theo quy ước.

- Tiếng trong cuộc sống là một thể thống nhất, tư duy đã phân giải nó, thì nay phải
trả lại Tiếng tổng thể ban đầu: Đọc trơn.
Đọc trơn/đọc phân tích nên sử dụng liên hoàn. Đọc phân tích để kiểm tra đọc trơn.
Đọc trơn để thẩm định đọc phân tích.
CGD dùng phương pháp phân đôi (tách đôi) trong mỗi lần phân tích:
Ví dụ: /toan/ - /tờ/ - /oan/
/oan/ - /o/ - /an/
/an/ - /a/ - /n/
/toàn/ - /toan/ - /huyền/


Cách làm này buộc phải đọc trơn tiếng thanh ngang.
Đánh vần theo cơ chế phân đôi có năng lực kiểm tra tính bền vững của sản phẩm
đã có.
Việc 4 – Viết chính tả. Viết chính tả là việc trí óc, buộc phải tư duy (suy nghĩ) để
tìm ra giải pháp, không như tập chép chỉ bắt chước. Viết chính tả là một thách thức
đặc ra cho tư duy của học sinh, cho nghiệp vụ của thầy giáo. Cần huấn luyện từng
bước nhỏ.Trước hết, viết ở bảng con (bảng lớp).Sau đó, viết vào vở.
Tất cả các kỹ năng được huấn luyện ở ba việc trước đều dùng cho việc 4, là cơ hội
vừa đánh giá các sản phẩm của ba việc đã làm, vừa cũng cố tri thức cho vững chắc
hơn.
Thầy giao việc chỉ nói một lần, làm mẫu một lần, nhưng học sinh nhắc lại nhiều
lần, làm đi làm lại nhiều lần.
Lần đầu phải làm kỹ từng chi tiết, theo trật tự, không nhảy cóc. Các lần sau, làm
một cách tự nhiên, các chi tiết ấy liền lại thành từng khối lớn.
Đừng vội, đi chậm, miệt mài đi sẽ đến đích nhanh hơn.
3. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN
3.1 Thuận lợi:
– Dạy học theo chương trình Tiếng việt Công nghệ giáo dục giáo viên phát huy
được tính tích cực của học sinh, giờ học diễn ra sôi nỗi, hào hứng; học sinh nắm

được cách phân tích cấu trúc ngữ âm, xác định được các âm trong một tiếng như:
âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối…
– Giáo viên không phải soạn bài nên có thời gian để quan tâm đến học sinh nhiều
hơn, nghiên cứu tài liệu, để nắm qui trình dạy, cách tổ chức thực hiện lên lớp với
học sinh.
– Tài liệu sách thiết kế chi tiết cho các dạng bài, các mẫu của từng tiết dạy.
3.2 Khó khăn:
– Đối với học sinh, các em có vốn từ ít, kỹ năng giao tiếp chưa mạnh dạn, chưa
tốt…đôi khi các em chưa tiếp thu kiến thức kịp bằng các bạn trong các hoạt động
học tập, cũng như nhận và hoàn thành nhiệm vụ.
– Học sinh còn chưa nắm vững luật chính tả từ đó viết chính tả còn mắc lỗi.
– Học sinh còn phát âm sai các âm, vần, tiếng… vì đây là một chương trình học
mới so với trước đây
4. CÁC GIẢI PHÁP
4.1 Tạo môi trường giao tiếp cho các em thông qua các hoạt động học tập phát
triển vốn từ.
– Các em học sinh từ môi trường mầm non, bước vào lớp 1, các em còn rất bở
ngỡ, rụt rè, chưa mạnh dạn. Thông qua việc học tuần 0 sẽ giúp các em làm quen
với thầy( cô), cũng như các bạn trong lớp.Từ đó phát triển vốn từ và khả năng giao
tiếp một cách tự nhiên ở các em, giúp các em tự tin hơn trong giao tiếp, cũng như
khi nhận và hoàn thành nhiệm vụ.


– Ở tuần 0 giáo viên cần giúp cho các em làm quen với các đồ dùng học tập, tư thế
viết bảng con, cách cầm viết, xóa bảng, sách giáo khoa, bút chì…Tuy đó là những
điều đơn giản, nhưng với các em mới vào lớp 1 đặc biệt quan trọng. Các em nắm
được những điều đó, thì khi giáo viên giao việc học sinh sẽ thực hiện tốt.
4.2 Các thủ thuật ghi nhớ các âm, vần trong Tiếng việt lớp 1-CGD
a) Về âm:
– Giáo viên phải phát âm chuẩn để học sinh phát âm theo.Giáo viên chỉ phát âm

một lần, nhưng cần rõ ràng, và chính xác.Nhưng đối với các em còn chậm, giáo
viên cần quan tâm chú trọng đến các em nhiều hơn.Nếu các em phát âm còn sai âm
mới, giáo viên cần phát âm lại 2-3 lần, để giúp các em sửa chữa và nắm được và
nắm chắc các âm đó.
– Cần nắm được đó là nguyên âm hay phụ âm( thông qua việc phát âm), để đưa
vào mô hình phân tích tiếng cho đúng.Tránh nhầm lẫn khi đưa vào mô hình (phần
đầu là phụ âm, phần vần bao giờ cũng là nguyên âm).
Ví dụ:
ch
a
Phụ âm
Nguyên âm
b) Về vần
– Để học tốt phần vần của Tiếng việt lớp 1-CGD, trước hết các em phải nắm chắc
các âm đã học.
Ví dụ: Học vần /an/ biết gồm có 2 âm, âm a đứng trước, âm n đứng sau.
– Phải nắm chắc việc phân tích tiếng, vị trí các âm trong mô hình.
Ví dụ: / loa/
/ lờ/- / oa/ -/loa/
– Nắm chắc các mẫu vần đã học để khi đưa tiếng vào mô hình không bị sai.Các em
đôi khi còn sai khi đưa tiếng đã học vào mô hình.Vì vậy, giáo viên cần giúp các em
nắm chắc các mẫu vần, nếu sai giao viên kịp thời giúp học sinh sửa lỗi.
c) Nắm chắc cơ chế đánh vần
Các em còn nhầm lẫn với cách đánh vần ở mẫu giáo, và do ảnh hưởng do phụ
huynh.Vì vậy giáo viên cần giúp các em nắm chắc cơ chế đánh vần với các bước:
Bước 1: Tạm thời tách thanh ra để lại tiếng thanh ngang
Bước 2: Đọc tiếng thanh ngang
Bước 3: Trả lại thanh.
Đối với các học sinh chậm, nếu các em không đọc được, thì chúng ta cần chia nhỏ
ra nữa.

Ví dụ: Tiếng /bà/ các em không đọc được, thì cho các em đánh vần ra:
/ bà/
/ ba/ -/huyền/ -/bà/, nếu không đọc được nữa, cho học sinh phân tích
tiếng /ba/: / bờ/- / a/ -/ ba/, không đọc được nữa thì gợi mở cho các em nhớ lại các
nét cơ bản cấu tạo nên / b/ và /a/.Nắm được cơ chế đó các em sẽ đọc được dù bất
kể tiếng nào.
4.3 Cách viết chính tả:


– Học sinh thường viết sai chính tả do các em có vốn từ ít và chưa nhớ hết chữ
cái.Vì vậy, cần cho các em nắm chắc các nét cơ bản( tuần 0).Từ đó các em sẽ nhớ
cấu tạo các âm tạo thành chữ, chữ tạo thành tiếng…
Ví dụ: Bài 2: Âm (Phụ âm/ nguyên âm) của tuần 2, các em bắt đầu viết chính
tả.Từ việc nắm vững các nét cơ bản (tuần 0); biết con chữ / b/ viết thường gồm 1
nét khuyết trên, 1 nét móc ngược và một nét xoắn; con chữ / a/ viết thường gồm 1
nét cong kín, 1 nét móc ngược. Nắm được điều đó các em sẽ viết tốt chính tả.
– Giáo viên cần giúp các em nắm chắc các luật chính tả. Học tới đâu có liên quan
đến luật chính tả trước đó, thì giáo viên cho các em nhắc lại tới đó, nhằm khắc sâu
kiên thức cho các em.
4.4 Sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức phát huy tính tích cực.
Để cho các em ghi nhớ và khắc sâu các kiến thức đã học, giáo viên không chỉ nắm
vững qui trình 4 việc trong sách thiết kế, mà còn phải làm cho lớp học sôi nổi, học
sinh thoải mái trong học tập.Chính vì điều đó, giáo viên phải tạo ra nhửng trò chơi
học tập để làm cho không khí sôi nổi, tích cực, đồng thời củng cố kĩ năng.
Ví dụ: Khi dạy vần / ât/, tuần 12, Giáo viên có thể sử dụng trò chơi “ Bắn tên” để
cho học sinh tìm tiếng mới, mà lại giúp các em hứng thú học tập hơn.
Và luôn quan tâm chú ý đến những học sinh còn chậm, chưa mạnh dạn, luôn tạo
điều kiện để lần lượt các em được điều khiển trò chơi cho các bạn.
PHẦN 2
Phần vận dụng kiến thức, kĩ năng đã được bồi dưỡng vào hoạt động nghề

nghiệp thông qua các hoạt động dạy học và giáo dục.
- Qua nội dung bồi dưỡng môn Tiếng Việt lớp 1 – CGD , bản thân có cơ hội khắc
sâu hơn những kiến thức rất cần thiết trong giảng dạy môn Tiếng Việt như: kiến
thức về 37 âm vị, 14 nguyên âm; các quan điểm về dạy học Tiếng Việt- Công
nghệ giáo dục rất bổ ích trong đổi mới phương pháp dạy và học như:
+ Tiết học vẫn có giáo viên , nhưng không phải để giảng bài , mà để hướng dẫn
các em cách học . Điều này giúp trẻ hình thành phương pháp tự học , tạo cho trẻ
được trải nghiệm thêm kỹ năng làm việc.
+ Không được đem cái chưa đúng của học sinh ra để trừng phạt hay để phân tích
trước cả lớp.Em nào đúng thì khen, em nào chưa đúng thì phải giúp để em làm
được mới thôi.
+ Trong lớp được phép” ồn” nếu là ồn trong học tập, không nhất thiết im lặng mới
là ngoan.
+ Yêu cầu các em học hết sức, chứ không quá sức.
+ Trân trọng học sinh, hiểu rõ từng em để dạy, dạy học sinh biết tư duy , biết yêu
thương và biết cách tự phục vụ.
+Trong quá trình dạy, giáo viên sử dụng các ký hiệu thay cho ngôn ngữ nói để giao
nhiệm vụ cho học sinh làm.


+ Tăng cường nề nếp lớp học như: thực hiện theo các kí hiệu, lệnh của giáo viên;
cách trình bày vở viết, hướng dẫn học sinh tự học , hoạt động theo nhóm , cặp.
III. Nhận xét, đánh giá
1. Tự nhận xét đánh giá, xếp loại:
- Ưu điểm: Đã áp dụng những điều đã học vào quá trình công tác dạy học .
- Khuyết điểm: Trong quá trình công tác có những lúc chưa thật sự vận dụng
một cách hiệu quả.
Tự đánh giá, xếp loại: 9, 5 điểm. Xếp loại: Giỏi.
Giáo viên báo cáo


Hoàng Ngọc
2. Nhận xét đánh giá, xếp loại của tổ chuyên môn:
……………………………..………………………………………………………..
…………………………………………………………………….…………………
…………………………………………………………………….…………………
Đánh giá: …….. điểm

Xếp loại: ……………..
Phú Đa, ngày
tháng
Tổ trưởng

năm 2016

3. Nhận xét đánh giá, xếp loại của Ban giám hiệu:
……………………………..………………………………………………………..
…………………………………………………………………….…………………
…………………………………………………………………….…………………
Đánh giá: …….. điểm

Xếp loại: ……………..
Phú Đa, ngày
tháng năm 2016
Hiệu trưởng


TRƯỜNG TIỂU HỌC PHÚ ĐA 3 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
TỔ 2 & 3
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Phú Đa , ngày 29 tháng 10 năm
2016
BÁO CÁO TỰ BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
NĂM HỌC 2016 – 2017
Nội dung 3:
MÔ ĐUN TH 31: TỔ CHỨC DẠY HỌC, DẠY HỌC CẢ NGÀY



A. Thông tin cá nhân:
1. Họ và tên: Hoàng Ngọc
Giới tính:Nam
2. Ngày tháng năm sinh: 10/01/1983
Năm vào ngành giáo dục: 2007
3. Trình độ học vấn : ĐHSP
Nơi đào tạo : Trường Đại học sư phạm Huế
4. Tổ chuyên môn: Tổ 1
Môn dạy(1): Giáo viên – Tổng phụ trách Đội
5. Trình độ ngoại ngữ : B
Trình độ tin học: A
6. Chứng nhận chuyên môn, nghiệp vụ: Đại học sư phạm giáo dục Tiểu học
7. Chức vụ: Giáo viên – Tổng phụ trách Đội
B. Nội dung:
I. MÔ ĐUN TH 31: TỔ CHỨC DẠY HỌC, DẠY HỌC CẢ NGÀY
Khái niệm:
Dạy học cả ngày ở trường tiểu học là tổ chức cho học sinh học tập và vui chơi cả
ngày ở trường. Buổi thứ nhất thực hiện chương trình chính khóa, buổi thứ hai là
thời gian dành để bổ sung chương trình và tổ chức ôn luyện kiến thức đã học, tăng



cường nội dung các môn nghệ thuật, thể dục nhằm phát triển năng khiếu cho học
sinh, tổ chức dạy học các môn tự chọn và các hoạt động tập thể .
- Giáo viên có thời gian và điều kiện gần gũi, gắn bó với học sinh hơn, thông qua
đó để phát hiện năng khiếu cũng như giúp học sinh bổ sung những kiến thức cơ
bản cần thiết.
- Giảm áp lực học tập cho học sinh, các em có điều kiện hoàn thành bài ngay tại
lớp mà không phải mang bài về nhà.
- Học sinh học đủ môn và có chất lượng đối với các môn học bắt buộc , đồng thời
được tiếp xúc với các môn tự chọn (ngoại ngữ , tin học…) , các môn học được
phân bổ hợp lý trong ngày, trong tuần. Nội dung dạy học gồm toàn bộ nội dung của
dạy học 1 buổi/ngày và thêm một số nội dung: thực hành kiến thức đã học; phụ đạo
học sinh yếu, bồi dưỡng học sinh năng khiếu; dạy học các môn tự chọn; tổ chức
các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp;…
* Mục tiêu:
Thực hiện tốt mục tiêu GD nâng cao CLGD toàn diện.
Giảm sức ép, tránh quá tải. Xây dựng môi trường giáo dục thân thiện. Phù hợp với
đặc điểm tâm sinh lí trẻ em. Góp phần hình thành nhân cách : tự tin, năng động,
sáng tạo, giàu lòng nhân ái, có khả năng hợp tác và hội nhập.
Thực hiện dạy học phân hóa, HS có nhiều cơ hội để phát huy các khả năng và sở
thích cá nhân; nhu cầu của cá nhân người học được đáp ứng tốt hơn; HS yếu có
nhiều cơ hội được quan tâm giúp đỡ hơn để đạt chuẩn của chương trình.
Mang lại cơ hội được học tập, góp phần tạo sự bình đẳng về quyền lợi học tập cho
trẻ em ở những vùng, miền khác nhau .
Việc dạy học cả ngày nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục tiểu học, đó là :
nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và
lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp
tục học THCS (Luật giáo dục 2005)
Cụ thể, việc dạy học cả ngày nhằm:
- Thực hiện tốt mục tiêu giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
- Giảm sức ép, tránh quá tải, làm việc học tập của học sinh ở trường. Hình

thành nhân cách học sinh tiểu học.
- Học sinh có nhiều cơ hội để phát huy các khả năng và sở thích cá nhân.
- Góp phần tạo sự bình đẳng về quyền lợi học tập cho trẻ em vùng khó khăn,
vùng dân tộc thiểu số.
1.
1. Nguyên tắc tổ chức dạy học cả ngày
Nguyên tắc tổ chức dạy học : HS có nhu cầu, cha mẹ tự nguyện; Nhà trường
đảm bảo CSVC, TTBDH; Đảm bảo GV; Công khai, minh bạch thu chi đảm bảo
cho sự phát triển hài hòa nhân cách học sinh.
1.
2. Nội dung dạy học cả ngày


Đảm bảo kế hoạch giáo dục và thực hiện chương trình giáo dục phổ thông. Đảm
bảo việc tổ chức dạy học sao cho nhẹ nhàng, tự nhiên, phát huy tính tích cực, chủ
động của học sinh, lồng ghép các nội dung: Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục, Hoạt
động tập thể thành hoạt động tổng hợp có định hướng theo chủ đề, tăng cường các
hình thức học theo nhóm, như nhóm Vẽ, Hát-Múa, Thể thao, Tiếng Anh, Tin học,

Các nội dung khác:
+ Thực hành kiến thức đã học và tổ chức học sinh tham gia các hoạt động thực tế
tại địa phương;
+ Giúp đỡ học sinh yếu kém vươn lên hoàn thành yêu cầu học tập,
+ Bồi dưỡng học sinh có năng khiếu môn Tiếng Việt, môn Toán, các môn
năng khiếu;
+ Dạy học các môn học và nội dung tự chọn được quy định trong CT (Ngoại
ngữ, Tin học, Tiếng dân tộc…);
+ Tổ chức các HĐ GD NGLL: các câu lạc bộ, hoạt động dã ngoại.
a) Môn Tiếng Anh và Tin học:
Dạy học theo tài liệu in sẵn của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Tiếng Anh dạy học theo

chương trình mới 4 tiết/tuần; Tin học dạy học theo tài liệu của Bộ: Cùng học Tin
học quyển 1, quyển 2, quyển 3).
b) Môn Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục:
Nên học theo các nhóm năng khiếu, tổ chức thành các hoạt động. Ví dụ: học hát,
múa, trò chơi âm nhạc, nghe nói chuyện và giao lưu về nghệ thuật âm nhạc,…; thi
vẽ tranh theo chủ đề, vẽ tranh tập thể, thi tìm hiểu về mĩ thuật, làm quen với màu
sắc, xé dán,…; trò chơi vận động, các môn thể thao tự chọn.
c) Môn Tiếng Việt và Toán:
Trên cơ sở sách giáo khoa và các tài liệu dạy học 2 buổi/ngày, giáo viên căn cứ vào
đối tượng học sinh, lựa chọn bài tập phù hợp để thực hành những kiến thức buổi 1
chưa được luyện kĩ; dành nhiều thời lượng cho đối tượng học sinh yếu, chậm về
đọc hiểu; biên soạn nội dung riêng và dành thời gian thích hợp cho đối tượng học
sinh khá, giỏi. Kết hợp tổ chức các hoạt động học vui để học sinh bớt căng thẳng,
chẳng hạn Tiếng Việt: thi đọc diễn cảm, đọc thơ, hùng biện, kể chuyện, viết chữ
đẹp,…; môn Toán: thi giải toán nhanh, toán vui, ảo thuật toán học, trò chơi toán…
d) Hoạt động GDNGLL:
Căn cứ vào chủ đề năm học, chủ đề từng tháng, các nội dung giáo dục lồng ghép
(giáo dục môi trường, giáo dục quyền và bổn phận trẻ em, giáo dục an toàn giao
thông, giáo dục kĩ năng sống,…) và tài liệu hướng dẫn tổ chức hoạt động
GDNGLL do Bộ Giáo dục và Đào tạo biên soạn, giáo viên lựa chọn những nội
dung phù hợp chủ đề để tổ chức các hoạt động GDNGLL cho học sinh (Hoạt động
thư viện; Trò chơi dân gian; Hát, múa, đọc thơ, kể chuyện, diễn kịch; Vẽ tranh; Thể
dục thể thao; Tổ chức các ngày Hội; Hoạt động kỉ niệm các ngày lễ lớn; Hoạt động


tham quan du lịch; Hoạt động nhân đạo; Hoạt động giao lưu; Hoạt động môi
trường; Hoạt động Đội, Sao; Hoạt động câu lạc bộ;…).
1.
3. Hình thức dạy học cả ngày
Thực hiện PPGD tích cực giúp HS nắm vững KT, phát triển tư duy sáng

tạoKN làm việc hợp tác, giao tiếp, KN học tập, ....
Thực hiện phân hóa trong DH, phát triển NL cá nhân
Tổ chức đa dạng các hình thức, PPGD
Dành thời gian cho việc tự học của HS với sự hướng dẫn, giúp đỡ của GV.
Khai thác, sử dụng có hiệu quả trang thiết bị, CSVC
Huy động sự tham gia của CMHS, cộng đồng
XD môi trường GD thân thiện, tạo hứng thú, hỗ trợ và thúc đẩy việc học tập
của HS; phát huy tính tích cực, tự giác, vai trò làm chủ ở trường của HS.
* Hình thức dạy học
ND1 được dạy chủ yếu trong 1 buổi, ND 2 -trong buổi còn lại, nhưng cũng có
thể bố trí linh hoạt.
Tổ chức theo hướng các HĐGD phù hợp đối tượng, có thể chia học sinh ở cùng
một khối lớp (hoặc khác khối lớp) theo các nhóm hoạt động trên cơ sở phù hợp khả
năng và nhu cầu.
Tổ chức các hoạt động giáo dục phù hợp đối tượng, theo các nhóm phù hợp khả
năng và nhu cầu của học sinh, có thể là:
- Nhóm củng cố kiến thức.
- Nhóm bồi dưỡng năng khiếu, sở thích (giải toán nhanh, đọc thơ, kể chuyện...)
- Nhóm phát triển thể chất (võ, cờ vua, cầu lông...)
- Nhóm phát triển nghệ thuật (nhạc dân tộc, đàn oocgan, vẽ, nặn...)
- Nhóm hoạt động xã hội (tìm hiểu, TNXH, lịch sử, địa lý...)
1.
4. Tổ chức dạy học cả ngày trên cơ sở phù hợp đặc điểm địa phương
Tổ chức dạy học cả ngày trên cơ sở :
Vùng khó khăn: trước mắt thực hiện chương trình khoảng 30 T/tuần, Hiệu
trưởng, GV chủ nhiệm căn cứ trình độ HS của lớp bố trí nội dung, yêu cầu và thời
lượng hợp lí để đảm bảo mọi HS đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng 2 môn Tiếng Việt,
Toán và tổ chức một số HĐGD.
Vùng thuận lợi: thực hiện chương trình khoảng 35 T/tuần , Hiệu trưởng, GV
căn cứ trình độ HS của lớp bố trí thời lượng hợp lí để đảm bảo mọi HS đạt chuẩn

KT,KN các môn học; căn cứ ĐK của nhà trường, nhu cầu của CMHS để dạy ngoại
ngữ, tin học và phát triển năng khiếu học sinh; tổ chức một số HĐ GD để HS thấy
vui, thích học và học được các môn học.
1.
5. Những yêu cầu sở vật chất, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý trong
dạy học cả ngày
a. Về cơ sở vật chất:


+ Đảm bảo khuôn viên :Cơ sở vật chất được xây dựng theo hướng kiên cố
hóa, chuẩn hóa; sân chơi bãi tập, hệ thống công trình vệ sinh, nước sạch đầy đủ,
cảnh quan môi trường sư phạm đảm bảo xanh - sạch- đẹp, an toàn.
+ Đủ phòng học( Mỗi lớp có một phòng học riêng theo đúng quy cách, Phòng phục
vụ học tập )Phòng thư viện thiết bị, phòng truyền thống, phòng hỗ trợ học sinh
khuyết tật... , phòng chức năng, sân chơi, sân tập, khu phục vụ học tập, vui chơi,
chỗ ăn, nghỉ và các hoạt động văn hoá, thể thao: Phòng học đủ phục vụ cho việc
học 2 buổi/ ngày. Các phòng làm việc, phòng hội đồng; phòng dạy hát nhạc, mỹ
thuật, tin học, các phòng chức năng phục vụ đầy đủ cho dạy các môn văn hoá, các
môn Tự chọn;
+Trang thiết bị dạy học: Có máy vi tính, máy potôcopy, máy chiếu đa năng, ti
vi, điện thoại, đài catset; các trang thiết bị khác, sân chơi, bãi tập, bồn hoa, thảm
cỏ, bàn ghế, bảng chống loá đầy đủ, phục vụ tốt cho dạy - học 2 buổi/ngày và các
hoạt động khác của nhà trường.
b.Về đội ngũ :- Đội ngũ CBQL, GV: GV dạy hầu hết các môn. Ngoài ra có các GV
chuyên biệt dạy thể dục, nghệ thuật, ngoại ngữ,…. 5/ Sự phối hợp gia đình, cộng
đồng, nhà trường: Chú trọng đến sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và cộng
đồng, coi đây là một tiêu chí quan trọng để đảm bảo chất lượng và hiệu quả của
trường tiểu học.
+ CBQL: Có năng lực tổ chức, QL các HĐGD, HĐ bán trú...
+ GV: ĐM PPDH, QL và tổ chức HĐGD; có năng lực tổng hợp, có KN lồng ghép,

tích hợp các ND GD...
Trường có đủ tỉ lệ giáo viên 1,5/lớp, đủ giáo viên dạy các môn đặc thù, các môn
Tự chọn ; Giáo viên đạt trình độ chuẩn, trên chuẩn
Đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên, nhân viên nhà trường nhiệt tình, có trách
nhiệm; nhiều cán bộ, giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp
dạy học tốt .
+ Cần có CT, KH bồi dưỡng GV, CBQL về tổ chức DHcả ngày (năng lực phân
phối, SD thời gian ...)
III. Nhận xét, đánh giá
1. Tự nhận xét đánh giá, xếp loại:
- Ưu điểm: Đã áp dụng những điều đã học vào quá trình công tác dạy học .
- Khuyết điểm: Trong quá trình công tác có những lúc chưa thật sự vận dụng
một cách hiệu quả.
Tự đánh giá, xếp loại: 9, 5 điểm. Xếp loại: Giỏi.
Giáo viên báo cáo

Hoàng Ngọc


2. Nhận xét đánh giá, xếp loại của tổ chuyên môn:
……………………………..………………………………………………………..
…………………………………………………………………….…………………
…………………………………………………………………….…………………
Đánh giá: …….. điểm

Xếp loại: ……………..
Phú Đa, ngày
tháng
Tổ trưởng


năm 2016

3. Nhận xét đánh giá, xếp loại của Ban giám hiệu:
……………………………..………………………………………………………..
…………………………………………………………………….…………………
…………………………………………………………………….…………………
Đánh giá: …….. điểm

Xếp loại: ……………..
Phú Đa, ngày
tháng năm 2016
Hiệu trưởng


TRƯỜNG TIỂU HỌC PHÚ ĐA 3 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
TỔ 2 & 3
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Phú Đa , ngày 28 tháng 11 năm
2016
BÁO CÁO TỰ BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
NĂM HỌC 2016 – 2017
Nội dung 3:
MÔ ĐUN TH 32 : DẠY HỌC PHÂN HÓA Ở TIỂU HỌC
A. Thông tin cá nhân:
1. Họ và tên: Hoàng Ngọc
Giới tính:Nam
2. Ngày tháng năm sinh: 10/01/1983
Năm vào ngành giáo dục: 2007
3. Trình độ học vấn : ĐHSP

Nơi đào tạo : Trường Đại học sư phạm Huế
4. Tổ chuyên môn: Tổ 1
Môn dạy(1): Giáo viên – Tổng phụ trách Đội
5. Trình độ ngoại ngữ : B
Trình độ tin học: A
6. Chứng nhận chuyên môn, nghiệp vụ: Đại học sư phạm giáo dục Tiểu học
7. Chức vụ: Giáo viên – Tổng phụ trách Đội
B. Nội dung:
1. Mục tiêu giáo dục phổ thông và mục tiêu giáo dục tiểu học
a) Mục tiêu của giáo dục phổ thông:
Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh (HS) phát triển toàn diện về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân,
tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên
hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
b) Mục tiêu của giáo dục tiểu học:
Giáo dục tiểu học (GDTH) nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu
cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các
kĩ năng cơ bản để tiếp tục học trung học cơ sở.
Nền tảng nhân cách, kĩ năng sống, kĩ năng học tập cơ bản (nghe, nói, đọc, viết
và tính toán) của HS được hình thành ở tiểu học và được sử dụng trong suốt cuộc


đời của mỗi con người. HS tiểu học được dạy từ những thói quen nhỏ nhất như
cách cầm bút, tư thế ngồi viết, cách thưa gửi, đi đứng, ăn mặc cho đến các kĩ năng
tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp, các kĩ năng học tập và khả năng tự học, sáng tạo.
Như vậy, GDTH có giá trị cơ bản, lâu dài, có tính quyết định. Vì thế, làm tốt
GDTH là đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước.
2. Tầm quan trọng của việc dạy học phân hoá ở cấp tiểu học
Quá trình dạy học gồm hai hoạt động có quan hệ hữu cơ: hoạt động dạy của giáo

viên (GV) và hoạt động học của HS. Cả hai hoạt động này đều được tiến hành
nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục. Trong quá trình dạy học, cần dựa trên nhu cầu,
hứng thú, thói quen và năng lực của người học. Chính vì vậy, việc dạy học theo
nhóm đối tượng sẽ giúp cho tất cả HS đều tích cực học tập. Từ đó đạt được chuẩn
kiến thức, kĩ năng của bài học, đồng thời phát triển năng lực học tập của từng HS.
- Dạy học phân hóa sẽ giúp chúng ta khai thác tối đa năng lực của học sinh khá
giỏi.
- Dạy học phân hóa cũng sẽ giúp chúng ta phụ đạo, kèm cặp học sinh yếu kém
tiến bộ trong học tập.
- Tiến hành khảo sát, phân loại đối tượng học sinh ngay từ đầu năm học.
- Lập kế hoạch kèm cặp giúp đỡ và bồi dưỡng các em.
- Luôn quan tâm tới từng đối tượng học sinh, phát huy khả năng học tập của
từng em.
- Trong mỗi tiết học ( tiết chính ) giáo viên cần phải chú ý tới các đối tượng
học sinh . Học sinh yếu đưa các câu hỏi dễ nhằm tạo hứng thú và giúp các em nắm
dược các kiến thức cơ bản của môn học. Với học sinh khá giỏi đưa thêm câu hỏi
mở rộng để phát huy khả năng sáng tạo của các em.
- Tiết Bồi dưỡng – phụ đạo mà dạy nội dung toán cần được GV nghiên cứu kĩ từ
khâu soạn bài. Bài soạn cần thể hiện rõ nội dung phân hoá đối tượng học sinh.
3. Phương pháp thực hiện dạy học phân hoá đối tượng ở một số môn học
ở tiểu học.
Như chúng ta đã biết, đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) ở tiểu học tập trung
theo những định hướng cơ bản: Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS;
hình thành và phát triển khả năng tự học cho HS; đảm bảo tính phù hợp với đối
tượng giáo dục và đặc điểm vùng, miền; đảm bảo tính trực quan; thực hiện dạy học
tích hợp… nhằm khơi dậy hứng thú học tập cho HS.
Ở tiểu học, đảm bảo tính phù hợp với đối tượng giáo dục là tôn trọng sự phát
triển của mỗi cá nhân, tạo cơ hội phát triển tối đa khả năng cho mỗi người học qua
dạy học phân hoá, bồi dưỡng HS có năng lực, phụ đạo HS yếu, HS có khó khăn
trong học tập… Chấp nhận sự đa dạng trong giáo dục thể hiện tính nhân văn của

GDTH. Tính phù hợp trong dạy học ở tiểu học còn thể hiện ở sự phù hợp với đặc
trưng môn học, hoạt động giáo dục; phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
lớp học, của nhà trường, của địa phương…


Phương pháp thực hiện dạy học phân hoá đối tượng ở một số môn học ở tiểu học
gắn liền với việc tổ chức dạy học. Tổ chức dạy học ở tiểu học linh hoạt, đa dạng
phù hợp với mỗi đối tượng HS và điều kiện của nhà trường. Có thể tổ chức học
theo cá nhân, theo nhóm, theo lớp; có thể học trong lớp hoặc ngoài lớp; có thể
chuẩn bị bài ở nhà hay sinh hoạt theo các câu lạc bộ… giúp HS học tập hứng thú
và đạt kết quả cao. Ví dụ, có thể tổ chức theo hướng các hoạt động giáo dục trên cơ
sở phù hợp khả năng và nhu cầu của HS, chia HS theo các nhóm: Nhóm củng cố
kiến thức; nhóm bồi dưỡng năng khiếu, sở thích; nhóm phát triển thể chất; nhóm
phát triển nghệ thuật; nhóm hoạt động xã hội… Nên dành thời gian thích đáng cho
việc tự học của HS với sự hướng dẫn, giúp đỡ thích hợp của GV. Tất cả hướng vào
mục tiêu phát triển toàn diện cho HS.
Như vậy, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học ở tiểu học phải phù hợp với
nội dung, đối tượng, điều kiện cụ thể của mỗi lớp học. GDTH thực hiện mục tiêu
dạy chữ - dạy người, hướng tới mục tiêu phát triển con người toàn diện. Với mục
tiêu đó, GV cần có cách nhìn tổng thể, tích hợp các nội dung giáo dục của các môn
học, giải quyết hài hoà các nhiệm vụ học tập, đó cũng chính là giải pháp tối ưu để
đạt chất lượng, hiệu quả giáo dục ở tiểu học.
4. Các điều kiện để thực hiện hiệu quả việc dạy học phân hoá ở tiểu học
Với ý nghĩa đảm bảo cho việc thực hiện tốt các mục đích dạy học đối với tất cả
HS đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của cá nhân
trong quá trình học tập, dạy học phân hóa (DHPH) đang được xem là một giải pháp
phổ biến hiện nay.
DHPH là phương pháp dạy học có tính đến sự khác biệt của người học (cá nhân)
hoặc nhóm người học. Ở tiểu học, DHPH thường được thể hiện ở việc lấy chuẩn
kiến thức, kĩ năng làm nền cơ bản. Ngoài kế hoạch dạy học, thông thường phân

hóa để có những kế hoạch dạy học phù hợp, đưa HS yếu kém đạt chuẩn và giúp
các đối tượng đã đạt chuẩn hoặc khá, giỏi phát triển ở mức cao hơn. Ngoài ra, ở
một số nơi DHPH thể hiện ở việc tổ chức cho HS học theo chương trình tự chọn
môn học.
a. Sơ lược một số vấn đề về cơ sở lí luận
Theo tác giả Nguyễn Bá Kim, DHPH có thể được thực hiện theo hai hướng:
“DHPH trong” và “DHPH ngoài”. DHPH trong (hay còn gọi là phân hóa nội tại) là
sử dụng những biện pháp phân hóa thích hợp với các đối tượng khác nhau trong
cùng một lớp học, trong cùng khoảng thời gian, đảm bảo thống nhất một chương
trình và kế hoạch dạy học. Nhìn bề ngoài “DHPH trong” không có gì khác biệt so
với các lớp học thông thường. “ DHPH ngoài” là sử dụng những biện pháp phân
hóa thích hợp để phân hóa rõ rệt về nội dung và cả hình thức tổ chức dạy học, tức
là hình thành những nhóm ngoại khóa, lớp chọn, trường chuyên, sử dụng chương
trình chuyên biệt, nội dung và kế hoạch dạy học không lệ thuộc chặt chẽ vào SGK.


Trong thực tiễn DH hiện nay, thường có hai hình thức DHPH gọi là “DHPH
trung gian” và “DHPH bộ phận”. DHPH trung gian là DHPH dựa trên sự thống
nhất của mục tiêu dạy học cho tất cá các đối tượng HS. HS có thể chọn một môn
học hay lĩnh vực học tập mà mình ưa thích hoặc có sở trường để học chuyên sâu
theo chương trình và tài liệu riêng. Hình thức này ở tiểu học được gọi là dạy học
theo chương trình tự chọn. DHPH bộ phận là DHPH diễn ra ở cấp độ tổ chức hoạt
động dạy học. Trong cùng một nội dung học tập, GV vận dụng các phương pháp và
kĩ thuật dạy học tích cực để tạo cơ hội cho HS được học tập phù hợp với nhịp độ
phát triển của cá nhân, nhằm đạt hiệu quả học tập cao nhất ở mỗi HS. Như vậy có
thể coi DHPH trung gian là một cấp độ của DHPH ngoài và DHPH bộ phận là một
cấp độ của DHPH trong.
* Quy trình thực hiện DHPH ở tiểu học thường diễn ra như sau: Đánh giá,
phân loại trình độ, năng lực học tập của HS. Xây dựng kế hoạch, nội dung và lựa
chọn hình thức, phương pháp dạy học cho phù hợp với từng nhóm đối tượng hoặc

từng đối tượng đặc biệt. Tổ chức triển khai thực hiện. Kiểm tra, đánh giá và điều
chỉnh, hoàn thiện.
b. Một số khó khăn trong thực tiễn hiện nay khi thực hiện DHPH
Qua trực tiếp làm công tác giảng dạy và qua trao đổi với các đồng nghiệp, tôi đã
tổng hợp được một số khó khăn khi tiến hành dạy học phân hóa như sau:
- Sĩ số lớp học hiện nay khá đông (mỗi lớp thường trên dưới 30 HS), nên việc
dạy học phù hợp với từng đối tượng HS rất khó. Chưa kể đến việc HS có thể học
tốt môn này nhưng chưa tốt môn khác nên cần phải có nhiều cách chia nhóm, phân
loại đối tượng HS phù hợp theo từng môn học.
- Cơ sở vật chất còn thiếu thốn; thiếu chương trình, tài liệu tham khảo; thiếu
phương tiện kĩ thuật, đồ dùng dạy học,...
- Trình độ đào tạo và năng lực sư phạm của đội ngũ GV tiểu học hiện nay chưa
đồng đều, chưa có nhiều GV có năng lực và kinh nghiệm trong việc DHPH.
- GV tiểu học phải dạy nhiều môn nên khó khăn trong việc chuẩn bị kế hoạch
bài dạy theo định hướng phân hóa.
- Có thể xuất hiện những biểu lộ mất tự tin hay mặc cảm về tâm lí đối với HS
đầu cấp khi bị xếp vào nhóm yếu, kém cũng như tâm lí lo lắng của phụ huynh HS.
Để khắc phục những khó khăn trong thực tiễn nói trên, cần phải kết hợp nhiều
giải pháp tổng thể như điều chỉnh sĩ số lớp học; tăng cường cơ sở vật chất, phương
tiện dạy học; tổ chức biên soạn chương trình, nội dung; bồi dưỡng chuyên đề cho
đội ngũ GV, tăng cường học liệu cho HS.... Trong đó cần ưu tiên cho việc nâng cao
năng lực nghề nghiệp GV, hỗ trợ cho GV những nghiệp vụ sư phạm để DHPH có
hiệu quả là cần thiết.
c. Một số biện pháp về nghiệp vụ sư phạm để thực hiện dạy học phân hóa
ở tiểu học đạt hiệu quả


Trong từng công đoạn của tiến trình DHPH như đã trình bày ở trên, GV cần
thực hiện những biện pháp về nghiệp vụ sư phạm như sau:
c.1. Kết hợp nhiều hình thức kiểm tra để đánh giá, chẩn đoán, phân loại đối

tượng HS theo trình độ
- Kết hợp kiểm tra định kì, kiểm tra thường xuyên và quan sát lớp học: GV
cần thận trọng khi đưa ra kết luận một HS nào đó thuộc nhóm trình độ nào. Do vậy,
cần phải kết hợp nhiều hình thức kiểm tra trong dạy học để có kết quả khách quan
và chính xác. Ngoài việc kiểm tra định kì và kiểm tra thường xuyên, GV nên có sổ
tay ghi chép kết quả quan sát, theo dõi hàng ngày, trong đó lưu ý đến những trường
hợp đặc biệt, hoặc quá xuất sắc hoặc quá yếu để tiến hành DHPH phù hợp.
- Kết hợp kiểm tra độ khó và độ nhanh, tăng cường cho HS tự đánh giá: Hiện
nay, GV thường chỉ thiết kế đề kiểm tra theo độ khó. Để có thể phân loại sâu hơn,
GV thiết kế đề kiểm tra kết hợp độ khó và độ nhanh, tức là tăng số lượng bài tập
trong mỗi lần kiểm tra, kết quả đánh giá không theo thang điểm 10 mà là GV ghi
nhận trong cùng một khoảng thời gian đó, HS làm đúng được bao nhiêu bài. Cách
làm này khuyến khích HS phát huy hết khả năng của mình đồng thời có thể tự đánh
giá khả năng của mình so với các bạn.
c.2. Phân bậc nhiệm vụ trong thiết kế kế hoạch bài dạy
Phân bậc nhiệm vụ học tập đối với nội dung mang tính lí thuyết: Kĩ thuật cơ
bản cho việc thiết kế này là chia nhỏ nội dung học tập ra thành nhiều nhiệm vụ. HS
khá, giỏi sẽ thực hiện nhiệm vụ khó hơn hoặc nhiều nhiệm vụ hơn hoặc thực hiện
không có sự hướng dẫn. HS TB hoặc yếu sẽ thực hiện ít nhiệm vụ, đơn giản hơn
hoặc ít hơn, hoặc được những chỉ dẫn, hỗ trợ nhiều hơn.
Khi tổ chức DHPH nội dung thực hành luyện tập và sửa bài tập, thường yêu cầu
cao về năng lực tổ chức và quản lý lớp học của người GV. Do đó GV cần dự kiến
về thời gian và biện pháp sao cho phù hợp nhất để phát huy khả năng của từng HS.
c.3. Linh hoạt trong tổ chức hoạt động nhóm khi DHPH
Tùy theo mục tiêu dạy học, việc chia nhóm có thể theo nhiều cách: Nhóm đôi
(nhóm đối ngẫu), nhóm ngẫu nhiên, nhóm hỗn hợp và nhóm phân theo trình độ.
Trong DHPH, nhóm hỗn hợp được sử dụng khi nhiệm vụ của các nhóm là như
nhau, với mục đích là HS giỏi sẽ giúp đỡ HS yếu hơn. Nhóm theo trình độ được sử
dụng khi mức độ yêu cầu của nhiệm vụ từng nhóm khác nhau, như ví dụ nêu ở trên
hoặc trong thực hành giải bài tập để mỗi nhóm được yêu cầu làm những bài tập với

độ khó khác nhau.
c.4. Giao tiếp trong dạy học phân hóa
Đối với GV, lời nói của GV trong dạy học hoặc giao tiếp với HS rất có ý nghĩa
vì đặc điểm tâm lí cơ bản của lứa tuổi này là vô tư và hồn nhiên, các em đặt rất
nhiều niềm tin vào giáo viên. Do vậy, GV cần có kĩ thuật nói rõ ràng, tốc độ vừa
phải, dễ nghe, thân thiện nhưng nghiêm túc và luôn khuyến khích. Không nên gay


gắt hay nặng lời với những HS yếu kém. Với mỗi trường hợp, cần tìm hiểu nguyên
nhân để có biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ HS phù hợp.
Đối với HS, GV nên khuyến khích HS nói lại bằng ngôn ngữ của mình khi hiểu
một nội dung học tập nào đó. Ví dụ như mô tả lại cách hiểu các mối quan hệ trong
một bài toán, cách thực hiện các bước giải một bài toán, ... để giúp HS hiểu sâu sắc
và ghi nhớ tốt hơn, đồng thời giúp GV có cơ sở để đánh giá HS trung thực hơn.
III. Nhận xét, đánh giá
1. Tự nhận xét đánh giá, xếp loại:
- Ưu điểm: Đã áp dụng những điều đã học vào quá trình công tác dạy học .
- Khuyết điểm: Trong quá trình công tác có những lúc chưa thật sự vận dụng
một cách hiệu quả.
Tự đánh giá, xếp loại: 9, 5 điểm. Xếp loại: Giỏi.
Giáo viên báo cáo

Hoàng Ngọc
2. Nhận xét đánh giá, xếp loại của tổ chuyên môn:
……………………………..………………………………………………………..
…………………………………………………………………….…………………
…………………………………………………………………….…………………
Đánh giá: …….. điểm

Xếp loại: ……………..

Phú Đa, ngày
tháng
Tổ trưởng

năm 2016

3. Nhận xét đánh giá, xếp loại của Ban giám hiệu:
……………………………..………………………………………………………..
…………………………………………………………………….…………………
…………………………………………………………………….…………………
Đánh giá: …….. điểm

Xếp loại: ……………..
Phú Đa, ngày
tháng năm 2016
Hiệu trưởng


TRƯỜNG TIỂU HỌC PHÚ ĐA 3 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
TỔ 2 & 3
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Phú Đa , ngày 28 tháng 1 năm 2017
BÁO CÁO TỰ BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
NĂM HỌC 2016 – 2017
Nội dung 3:
MODULE TH 34: CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở TIỂU HỌC
A. Thông tin cá nhân:
1. Họ và tên: Hoàng Ngọc
Giới tính:Nam

2. Ngày tháng năm sinh: 10/01/1983
Năm vào ngành giáo dục: 2007
3. Trình độ học vấn : ĐHSP
Nơi đào tạo : Trường Đại học sư phạm Huế
4. Tổ chuyên môn: Tổ 1
Môn dạy(1): Giáo viên – Tổng phụ trách Đội
5. Trình độ ngoại ngữ : B
Trình độ tin học: A
6. Chứng nhận chuyên môn, nghiệp vụ: Đại học sư phạm giáo dục Tiểu học
7. Chức vụ: Giáo viên – Tổng phụ trách Đội
B. Nội dung:
1 . Mục tiêu:
- Nắm được những vấn đề lí luận cơ bản về công tác chủ nhiệm lớp và yêu cầu
đối với người giáo viên chủ nhiệm (GVCN) lớp ở tiểu học trong giai đoạn hiện
nay.
- Hiểu vị trí, vai trò quan trọng của GVCN đối với lớp chủ nhiệm trong phát
triển giáo dục toàn diện học sinh trong giai đoạn hiện nay;
- Có kĩ năng lập hồ sơ chủ nhiệm lớp.
- Hiểu và phân tích được nhiệm vụ chung của GVCN cần thực hiện trong năm
học;
- Có mối quan hệ tốt với Ban giám hiệu, đồng nghiệp, phụ huynh, Ban đại diện
cha mẹ học sinh và cộng đồng.
- Có kĩ năng phân tích thực hiện nhiệm vụ chủ nhiệm thông qua các bài học
kinh nghiệm bản thân.
2 . Chức năng, nhiệm vụ và quan hệ của người giáo viên chủ nhiệm trong
trường tiểu học:
2. 1 . GVCN trước hết là người đại diện cho Hiệu trưởng quản lí toàn
diện học sinh một lớp học ở trường tiểu học:
Hiệu trưởng không thể quản lí trong lớp học, nắm vững từng học sinh (trừ
trường hợp đặc biệt), Hiệu trưởng thường giao trách nhiệm cho GVCN là “Hiệu

trưởng nhỏ”.


Quản lí toàn diện một lớp học không chỉ là quản lí nhân sự như: Số lượng,
tuổi tác, giới tính, hoàn cảnh gia đình, trình độ học sinh về học lực và đạo đức,...
mà điều quan trọng là phải đưa ra dự báo, vạch được một kế hoạch giáo dục phù
hợp với thực trạng để dắt dẫn học sinh thực hiện kế hoạch đó, khai thác hết những
điều kiện khách quan, chủ quan trong và ngoài nhà trường đạt tới mục tiêu giáo
dục.
Để thực hiện chức năng quản lí toàn diện giáo dục, đòi hỏi GVCN phải nắm
chắc mục tiêu lớp học, cấp học, có những kiến thức cơ bản về Tâm lí học, Giáo dục
học, có hiểu biết về văn hoá, pháp luật, chính trị,... đặc biệt cần có hàng loạt kĩ
năng tổ chức hoạt động giáo dục như: kĩ năng giao tiếp, ứng xử với các đối tượng
trong và ngoài nhà trường, kĩ năng “chẩn đoán” đặc điểm học sinh, kĩ năng lập kế
hoạch, kĩ năng tác động nhằm cá thể hoá quá trình giáo dục học sinh (bồi dưỡng
học sinh giỏi, học sinh kém, học sinh ngoan, học sinh hư, học sinh có năng khiếu,...
GVCN phải tự xác định như “bà đỡ” tinh thần, tâm lí đối với học sinh. Nhiều khi
một lời khen, một cử chỉ giáo dục đúng lúc, kịp thời... có thể giúp học sinh từ yếu,
kém thành khá, giỏi, ngăn ngừa được những ảnh hưởng tiêu cực,...
2.2 . Quản lí toàn diện hoạt động giáo dục là :
+ Trước hết tiếp thu, nắm vững những đặc điểm của từng học sinh của lớp với
tất cả các tiêu chí về nhân thân (họ tên, tuổi, giới tính, địa chỉ, hoàn cảnh gia đình,
cha mẹ, nghề nghiệp), đặc điểm của gia cảnh (về văn hóa, kinh tế, về tâm lí...). Cần
đặc biệt quan tâm tới những đặc điểm của học sinh (về sức khoẻ, sở thích, học lực,
đạo đức, quan hệ xã hội, bạn bè, tính tình...).
+ Đánh giá phân loại, xác định những mặt mạnh, mặt yếu của tập thể học
sinh. GVCN phải xác định được và phân loại học sinh lớp học theo mục tiêu giáo
dục toàn diện như: Năng lực học tập, sự phát triển trí tuệ, khả năng học tập các
môn để xây dựng kế hoạch phụ đạo, bồi dưỡng học sinh theo môn học. Phân loại
được đặc điểm nhân cách, thái độ, đạo đức học sinh, để có kế hoạch tác động cá

thể hoá và phối hợp trong giáo dục. Phải phát hiện, nắm vững và phân loại được
những học sinh có năng khiếu về các mặt hoạt động như thể dục thể thao (TDTT),
văn nghệ, hoạt động xã hội để sử dụng cho các hoạt động của lớp. Đặc biệt phải
quan tâm tới những học sinh yếu về mọi mặt học tập, kĩ năng để có kế hoạch rèn
luyện, bồi dưỡng.
+ Nắm vững gia cảnh, đặc điểm của các gia đình học sinh. Nắm vững đặc
điểm gia đình học sinh bao gồm: đời sống kinh tế, nghề nghiệp, trình độ văn hoá
của bố mẹ học sinh, bầu tâm lí của gia đình, sự quan tâm của các thành viên,
truyền thống, cách sinh hoạt, lối sống của các gia đình... khả năng và thái độ của
các bậc cha mẹ đối với các hoạt động giáo dục của nhà trường... Việc nghiên cứu,
nắm vững đặc điểm từng gia đình học sinh, giúp GVCN có phương hướng kết hợp
giáo dục con em họ và liên kết với họ trong việc thực hiện các nội dung hoạt động
của lớp chủ nhiệm.


+ Nắm vững mục tiêu, nội dung dạy học, giáo dục của lớp chủ nhiệm. Trong
cuộc đổi mới giáo dục lần này mỗi lớp học có mục tiêu, nội dung hoạt động cụ thể,
nhất là chương trình hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động hướng
nghiệp... vì vậy phải nắm vững mục tiêu, nội dung dạy học, giáo dục ở mỗi lớp
mới có thể xây dựng được kế hoạch chủ nhiệm lớp, xác định những nội dung, hình
thức hoạt động.
2.3 . GVCN lớp là người đại diện quyền lợi, nguyện vọng chính đáng của
tập thể học sinh, là “cầu nối” giữa lớp với Hiệu trưởng và các thầy cô giáo:
Đối với tập thể học sinh một lớp học, không có một giáo viên nào (kể cả
Hiệu trưởng) lại có cơ hội, có điều kiện thiết lập quan hệ thân thiện, tự nhiên như
GVCN lớp. Với ưu thế của GVCN, nhiều người đã xây dựng được mối quan hệ
vừa là thầy trò, vừa là anh em, bạn bè... là chỗ dựa tinh thần, luôn được học sinh
tin yêu, chia sẻ những băn khoăn thắc mắc, bộc lộ những nguyện vọng, khát khao...
GVCN lớp cần tận dụng những điều kiện đó để thu thập tất cả những thông tin của
học sinh để xử lí theo hai phương án:

- Vơi những ý kiến không hợp lí của học sinh thì GVCN giải thích, thuyết
phục bằng tình cảm, bằng sự đồng cảm của một nhà sư phạm có kinh nghiệm...,
các em sẽ dễ dàng được giải toả (không ít những học sinh đòi hỏi, thắc mắc, có
những vướng mắc trong quan hệ, về học tập, công việc với bạn bè, thầy cô, cha mẹ
và quan hệ xã hội,... nhiều khi không hợp lí).
- Nếu những phản ánh, nguyện vọng thấy cần phải đáp ứng thì GVCN bàn với
các thầy cô khác, báo cáo Hiệu trưởng tìm biện pháp giải quyết cho có tình có lí,
tạo cơ hội cho học sinh, tập thể lớp có cơ hội phát triển.
Cần khẳng định, GVCN vừa là một nhà sư phạm vừa là đại diện của Hiệu
trưởng, đại diện của tập thể học sinh. Tính giao thoa của vị trí người GVCN đã tạo
nên “cái cầu nối” giữa hiệu trưởng và tập thể học sinh, sẽ tạo ra cơ hội, điều kiện
giải quyết kịp thời, có hiệu quả cao trong tổ chức tác động giáo dục, tránh được
những “mâu thuẫn”, những hiểu lầm của các quan hệ trong và ngoài nhà trường,
trong và ngoài lớp chủ nhiệm.
Ngày nay vị trí “cầu nối” của GVCN vô cùng quan trọng bởi trong bối cảnh
hội nhập, học sinh luôn bị tác động bởi các yếu tố tích cực và tiêu cực, các em có
nhiều suy nghĩ nhạy cảm, năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định nhưng lại thiếu
kinh nghiệm, hiểu biết còn có hạn,... đã dẫn tới sự khó khăn khi lựa chọn các
phương án ứng xử. Có thể thấy rất rõ, chưa bao giờ vị trí, vai trò của người GVCN
lớp lại quan trọng như hiện nay.
2.4 . GVCN lớp còn là “cầu nối” giữa nhà trường với gia đình và các tổ
chức xã hội, là người tổ chức phối hợp, liên kết các lực lượng trong quá trình
thực hiện mục tiêu giáo dục:
Chưa bao giờ trong lịch sử giáo dục của dân tộc lại đặt trên vai người
GVCN lớp (nhất là ở trường phổ thông) một trọng trách nặng nề như hiện nay, đó


là tổ chức, phối hợp, liên kết các lực lượng giáo dục xã hội và gia đình để thực hiện
mục tiêu giáo dục toàn diện.
Phải thừa nhận rằng sự nghiệp đổi mới đất nước đã có những thành quả vĩ

đại, kì diệu, những mơ ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lí tưởng của dân tộc, của
Đảng đã và đang trở thành hiện thực đó là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Chúng ta có quyền tự hào vì đã có những đóng góp
không nhỏ vào sự nghiệp chung của nhân loại những thập niên đầu của thế kỉ XXI.
Song, chúng ta cũng phải tỉnh táo mà nhận diện rõ rằng chưa bao giờ chúng ta gặp
những khó khăn, thách thức phức tạp như hiện nay. Thời cơ là vô cùng thuận lợi,
thách thức cũng vô cùng khó khăn do những yếu tố chủ quan và khách quan đem
lại. Có thể thấy chưa bao giờ thế hệ trẻ được sống và phải sống trong sự lựa chọn
giữa cái tốt và cái xấu, giữa tích cực và tiêu cực, giữa thiện và ác, giữa giá trị vật
chất và tinh thần, giữa trách nhiệm và quyền lợi... như ngày nay. Chính bối cảnh ấy
cũng cần các thế hệ lớn tuổi, những người có trách nhiệm với thế hệ trẻ và dân tộc
phải nâng cao ý thức trách nhiệm trong giáo dục. GVCN phải là người có trách
nhiệm đầu tiên nghiên cứu thực trạng, xác định nội dung, các biện pháp, hình thức,
lên kế hoạch và tổ chức sự phối hợp liên kết các lực lượng xây dựng môi trường
giáo dục lành mạnh, thiết lập quan hệ tốt đẹp nhằm phát huy những yếu tố tích cực,
hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình giáo dục thế hệ trẻ
Việc xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh là trách nhiệm của tất cả
mọi người, mọi thế hệ lớn tuổi, không chỉ là của GVCN. Tuy nhiên, đối với môi
trường giáo dục học sinh phổ thông, GVCN cần tự xác định phải có trách nhiệm, vì
GVCN nắm vững mục tiêu, có năng lực tổ chức phối hợp các lực lượng xã hội và
gia đình.
Việc thực hiện liên kết giáo dục của GVCN có không ít khó khăn vì vậy cần
tận dụng, tranh thủ sự hỗ trợ giúp đỡ của Hiệu trưởng vì cương vị của Hiệu trưởng
mới đủ tư cách pháp nhân quản lí để liên hệ với các tổ chức xã hội ngoài nhà
trường.
3 . Vị trí vai trò của GVCN:
3.1. GVCN có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển học
sinh của lớp chủ nhiệm :
- GVCN là thành viên của tập thể sư phạm và hội đồng sư phạm, là người
thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và phụ huynh học sinh (PHHS) quản lý

và chịu trách nhiệm về chất lượng toàn diện học sinh lớp mình phụ trách, tổ chức
thực hiện chủ trương, kế hoạch của nhà trường ở lớp chủ nhiệm
- Đối với HS và tập thể lớp, GVCN là nhà giáo dục và là người lãnh đạo gần
gũi nhất, người lãnh đạo, tổ chức, điều khiển, kiểm tra toàn diện mọi hoạt động và
các mối quan hệ ứng xử thuộc phạm vi lớp mình phụ trách dựa trên đội ngũ tự
quản là cán bộ lớp, cán bộ Đội và tính tự giác của mọi HS trong lớp .


×