Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng trong thơ hàn mặc tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.68 KB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
---------------------------

NGUYỄN THỊ TUYẾT MAI

DẤU ẤN CHỦ NGHĨA TƯỢNG TRƯNG
TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Lí luận văn học
Người hướng dẫn khoa học
Th.S MAI THỊ HỒNG TUYẾT

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn cô ThS. Mai Thị Hồng Tuyết
đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ cho em trong suốt quá trình xây dựng và
hoàn thành các yêu cầu của bài khóa luận.
Xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong khoa Ngữ văn đã giảng dạy,
cung cấp những kiến thức quý báu và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em
trong suốt quá trình học tập vừa qua.

Xuân Hòa, tháng 5 năm 2014
Sinh viên

Nguyễn Thị Tuyết Mai



LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận này là kết quả của bản thân em trong quá trình học tập và
nghiên cứu. Bên cạnh đó em được sự quan tâm của các thầy, cô giáo trong
khoa Ngữ văn, đặc biệt là sự quan tâm hướng dẫn tận tình của cô ThS. Mai
Thị Hồng Tuyết.
Trong khi nghiên cứu hoàn thành bài khóa luận này em đã tham khảo
một số tài liệu trong phần tài liệu tham khảo.
Em xin khẳng định kết quả của đề tài Dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng
trong thơ Hàn Mặc Tử không trùng lặp với kết quả của đề tài khác. Nếu sai
em hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội đồng phản biện.

Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Sinh viên

Nguyễn Thị Tuyết Mai


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1.Lí do chọn đề tài........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................. 2
3. Nhiệm vụ và ý nghĩa của khoá luận ............................................................. 4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................ 5
6. Cấu trúc khóa luận....................................................................................... 5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA TƯỢNG TRƯNG VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA NÓ ĐẾN PHONG TRÀO THƠ MỚI GIAI ĐOẠN CUỐI ..................... 6

1.1. Khái quát chủ nghĩa tượng trưng .............................................................. 6
1.1.1. Khái niệm tương trưng .......................................................................... 6
1.1.2. Sự hình thành của chủ nghĩa tượng trưng ............................................. 7
1.1.3. Tuyên ngôn và đặc trưng thẩm mỹ của chủ nghĩa tượng trưng .............. 9
1.2. Ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đến phong trào Thơ mới giai đoạn cuối.......12
1.2.1. Khái quát về Thơ mới giai đoạn cuối. .........................................................................12
1.2.2. Dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng trong phong trào Thơ mới giai đoạn cuối......14
CHƯƠNG 2
BIỂU HIỆN CỦA CHỦ NGHĨA TƯỢNG TRƯNG
TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ ...................................................................... 18
2.1. Trực giác và vô thức trong thơ Hàn Mặc Tử ........................................... 18
2.1.1. Trực giác trong thơ Hàn Mặc Tử ......................................................... 18
2.1.2. Vô thức trong thơ Hàn Mặc Tử........................................................... 23
2.2. Biểu tượng trong thơ Hàn Mặc Tử.......................................................... 37
2.2.1. Khái niệm biểu tượng .......................................................................... 37


2.2.2. Biểu tượng trong thơ Hàn Mặc Tử ....................................................... 38
2.3. Cấu trúc hình ảnh như một sự tương giao giữa các giác quan ................. 49
2.4. Nhạc tính trong thơ Hàn Mặc Tử ............................................................ 51
2.4.1 Nhạc tính được tạo từ “thanh” và "vần” ................................................ 52
2.4.2. Nhạc tính được tạo ra từ những cấu trúc đặc biệt. ................................ 55
KẾT LUẬN .................................................................................................. 57


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 . Phong trào Thơ mới là cuộc cách mạng của thi ca Việt Nam hiện
đại. Phong trào này tạo lên dấu ấn ở chỗ không đi theo thi pháp truyền thống
mà tìm kiếm những hình thức vận - luận - học mới. Cách thay đổi ấy thích

nghi với xu hướng phát triển của tâm lý con người, của xã hội, chính điều ấy
đã làm cho thơ mới mở ra những chân trời khác lôi cuốn thế hệ trẻ làm về nó.
Bài thơ Tình già của Phan Khôi công bố 1932, được coi là công trình đầu tiên
của công cuộc cách mạng thơ ấy.
1.2 . Hàn Mặc Tử chính thức gia nhập phong trào Thơ mới năm 1936 với
tập thơ Gái quê, ông được xem là nhà thơ lạ nhất trong phong trào Thơ mới
(1932-1945), người “cai trị Trường thơ Loạn của các nhà thơ Bình Định”.
Hàn Mặc Tử là cây bút để lại dấu ấn độc đáo. Ông được coi là người vượt
thời gian bằng những giấc mơ đậm hiện thực. Thế giới thơ Hàn Mặc Tử là
điểm gặp gỡ của Mơ Ước, Huyền Diệu, Sáng Láng và nhiều khi vượt ra khỏi
Hư Linh. Ông đã đi qua bầu trời Thơ như “một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu
trời” (Chế Lan Viên) và sẽ tỏa tới muôn đời sau. Không còn nghi ngờ gì nữa,
Hàn Mặc Tử chính là một hiện tượng văn học có sức sống mãnh liệt, đã, đang
và sẽ luôn đòi hỏi được khám phá, chiếm lĩnh, nghiên cứu.
Hiếm có một nhà Thơ mới nào như Hàn Mặc Tử mà lại có sức hút ghê
gớm đến thế, và cũng là nhà thơ khiến cho những nhà nghiên cứu lại tốn
nhiều giấy mực nhiều đến thế. Nhưng đến nay những công trình nghiên cứu
về Hàn Mặc Tử nhiều như thế nhưng mà người đời vẫn chưa khám phá hết
những cái gì gọi là tinh túy nhất trong thơ ông.
1.3. Do đó, thơ Hàn Mặc Tử đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục khám phá để
ngày càng sáng tỏ hiện tượng rất đỗi phức tạp này. Việc đi sâu khám phá
chẳng những góp phần tháo gỡ, khai thông những khúc mắc còn tồn đọng trên

1


con đường tiếp cận đối tượng, mà còn giúp vào việc làm chủ một di sản thi ca
quý giá, cũng như góp phần khẳng định vị trí văn học xứng đáng của thi sĩ
này. Và với việc chúng tôi chọn đề tài Dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng trong
thơ Hàn Mặc Tử, với một cái nhìn chỉnh thể, và tổng quan chúng hy vọng sẽ

góp phần nhận diện thơ Hàn Mặc Tử sâu hơn, rộng hơn. Với kết quả, và
thông qua quá trình nghiên cứu về vấn đề này, chúng tôi sẽ nâng cao được
trình độ học tập và giảng dạy sau này.
2. Lịch sử vấn đề
Để trả lời cho câu hỏi “Hàn Mặc Tử anh là ai?” người ta đã huy động
rất nhiều các lối tiếp cận mà khoa nghiên cứu văn chương để khám phá văn
chương. Trên thực tế ít có công trình nào chỉ dùng riêng một phương pháp,
một phép đọc. Phối hợp liên phương pháp có lẽ là ý muốn của tất cả những
người nghiên cứu lẫn đối tượng tiếp cận. Tuy nhiên, vẫn có thể thấy rằng
trong khi phối hợp nhiều kiểu tiếp cận, thì từng công trình vẫn dành ưu thế
cho một kiểu chủ đạo nổi trội nào đó. Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập tới một số
kiểu tiếp cận chủ đạo mà thôi.
2.1. Kiểu tiếp cận ấn tượng chủ quan. Không phải thuyết minh cho đối
tượng, đó là kiểu tiếp cận của Hoài Thanh Hoài Chân trong cuốn Thi nhân
Việt Nam với lối tiếp cận ấn tượng chủ quan, các nhà nghiên cứu đã dựa vào
ấn tượng chủ quan của cá nhân mình “lấy hồn tôi để hiểu hồn người” các tác
giả đã sắp xếp các tập thơ của Hàn Mặc Tử theo trật tự thời gian và ghi lại ấn
tượng chủ quan của riêng mình trước từng tập kế tiếp ấy. “Bây giờ đã ra khỏi
cái thế giới kì dị ấy và đã trở về với cuộc đời tầm thường mà ý nhị, tôi thử sắp
xếp những cảm tưởng hỗn độn của riêng tôi” [20, tr.203] vì lấy thước do là
kinh nghiệm cá nhân mình để đối chiếu với kinh nghiệm của thi sĩ rồi lại quy
tụ vào những câu đặc sắc nhất, nên lối tiếp cận này đã giúp hai nhà phê bình
lấy ra được những câu thơ hay “đọc lên như bước vào hồn người những sáng

2


lạng” [20, tr.205] bởi ở đó chứa đựng “những cảm giác mà ta có thể có” [20,
tr.205].
2.2. Tiếp cận theo phương pháp tiểu sử phân tâm học. Đó là lối tiếp

cận và những thao tác phổ biến trong các công trình của Nguyễn Mộng Giác
(Hàn Mặc Tử và sự sáng tạo cuồng nộ), Đào Trường Phúc (Hàn Mặc Tử,
trăng và thơ)… Song người đầu tiên vận dụng lối tiếp cận này phải kể đến
Trần Thanh Mại. Trong công trình Hàn Mặc Tử thân thế và thi văn. Nhà
nghiên cứu đã gắn những tác phẩm của nhà thơ với những quãng đời của Hàn
Mặc Tử. Nhờ đó mà Trần Thanh Mại là người đầu tiên phát hiện ra ảnh
hưởng của chiêm bao trong thơ Hàn Mặc Tử “Một phần nửa trong thi ca Hàn
Mặc Tử là chịu ảnh hưởng của chiêm bao” [10, tr.64] và Trần Thanh Mại
cũng là người đầu tiên phát hiện ra biểu tượng Trăng, Hồn đó là những biểu
tượng có sức ảnh hưởng lớn với Hàn Mặc Tử.
2.3. Kiểu tiếp cận xã hội học Mác xít. Đáng kể nhất là những chuyên
luận của tác giả Phan Cự Đệ. Trong cuốn Phong trào Thơ mới 1932 - 1945,
Phan Cự Đệ không nghiên cứu riêng về Hàn Mặc Tử, mà đã xem nhà thơ
trong trào lưu phong trào Thơ mới. Nhà nghiên cứu cũng muốn tìm ra một
trục tư tưởng xuyên suốt sự nghiệp thơ ca của thi sĩ. Nhưng tiếc rằng, do bị
chi phối bởi quan điểm chính trị mà Phan Cự Đệ xem Hàn Mặc Tử như một
hiện tượng suy đồi “Cuối thời kì thứ nhất đã thấy những dấu hiệu của suy đồi
của thời kì thứ 2: 1937 Đau thương (Hàn Mặc Tử), Xác Thu (Hoàng Diệp)
1939: Tinh Huyết (Bích Khê), Xuân như ý (Hàn Mặc Tử)”, “ Hàn Mặc Tử là
dấu nối giữa thời kì thứ nhất và thời kì thứ 2) [3, tr.51]. Điều đáng nói, sau
thời kì đổi mới, Phan Cự Đệ vẫn trung thành với lối tiếp cận Mác xít, nhưng
nhà nghiên cứu đã có nhìn nhận mới về thơ Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên, ông vẫn
cho rằng thơ Hàn Mặc Tử “nghệ thuật vị nghệ thuật”.

3


2.4. Lối tiếp cận triết học. Điển hình nhất là của Nguyễn Xuân Hoàng
với tiểu luận Nỗi khắc khoải siêu hình trong thơ Hàn Mặc Tử và Huỳnh Phan
Anh với công trình Văn chương và kinh nghiệm hư vô. Cả hai công trình các

nhà nghiên cứu đã vận dụng triết học hiện đại, nhất là tư tưởng của Heideger
và nguồn gốc nghệ thuật và lý thuyết tiếp nhận để nghiên cứu Hàn Mặc Tử. Ở
đây Huỳnh Phan Anh đã nhìn sâu vào biểu tượng nổi bật trong thơ Hàn Mặc
Tử là Trăng và nhận định “Thi sĩ nói nhiều tới Trăng, nhắc nhiều tới Trăng.
Trăng lấp đầy thi hứng. Trăng biểu hiện niềm cô đơn tuyệt đối” [1, tr.125].
Tiếp tục theo hướng này, một vài tác giả đã cụ thể hóa hơn. Chẳng hạn, Đặng
Tiến “Ở đây ta bắt gặp ba hình tượng Trăng, Hồn, Máu dồn dập lại trong
tương quan rất chặt chẽ: nhà thơ khạc hồn ta khỏi miệng, hay điên cuồng mửa
máu ra, hay ngậm cả miệng trăng là trăng, cả ba hình ảnh điều thấy rõ từ thân
xác Đau thương” [20, tr.23].
Ngoài các lối tiếp cận này, để trả lời cho câu hỏi “Hàn Mặc Tử anh là
ai?” còn có những lối tiếp cận khác mà chúng tôi chưa kịp bao quát. Đó là
những tiền đề quan trọng giúp chúng tôi có cơ sở để triển khai một cách sâu
rộng, cụ thể hơn khi nghiên cứu đề tài Chủ nghĩa tượng trưng trong thơ
Hàn Mặc Tử trong công trình tương đối dài hơi và đầy đủ này.
3. Nhiệm vụ và ý nghĩa của khoá luận
- Nhiệm vụ của khoá luận.
Nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận này, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu
dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Hàn Mặc Tử, trong tương quan của
chủ nghĩa tượng trưng tiếp nhận và ảnh hưởng của nó tới thơ Hàn Mặc Tử. Để
từ đó thấy được giá trị độc đáo trong Hàn Mặc Tử, vị trí xứng đáng của ông
trong phong trào Thơ mới.
- Ý nghĩa của khoá luận.

4


Thực hiện đề tài: Dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Hàn Mặc
Tử, chúng tôi hi vọng đóng góp: Khái quát chủ nghĩa tượng trưng trong quá
trình hình thành và phát triển, và ảnh hưởng của nó trong phong trào Thơ mới

một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn. Đặc biệt, với những đặc trưng cơ bản
của chủ nghĩa tượng trưng được in dấu trong thơ Hàn Mặc Tử thông qua
những luận điểm nhất định.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1 . Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là tập trung tìm hiểu Dấu ấn chủ
nghĩa tượng trưng trong thơ hàn Mặc Tử.
4.2 . Phạm vi nghiên cứu
Trong khoá luận này chúng tôi tập trung đi sâu vào việc tìm hiểu dấu
ấn chủ nghĩa tượng trưng thơ Hàn Mặc Tử qua tập thơ Gái quê, Đau Thương.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để viết được đề tài Dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Hàn Mặc
Tử khóa luận này kết hợp, vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp thống kê.
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung
được chúng tôi triển khai thành hai chương:
Chương 1. Khái quát về chủ nghĩa tượng trưng và ảnh hưởng của nó
đến phong trào Thơ mới giai đoạn cuối.
Chương 2. Biểu hiện của chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Hàn Mặc Tử.

5


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA TƯỢNG TRƯNG VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA NÓ ĐẾN PHONG TRÀO THƠ MỚI GIAI ĐOẠN CUỐI

1.1 . Khái quát chủ nghĩa tượng trưng
1.1.1. Khái niệm tượng trưng
Về khái niệm tượng trưng Heghen trong cuốn Mỹ học có nêu: “Tượng
trưng là một sự vật bên ngoài, một dẫn liệu trực tiếp và nối thẳng với trực giác
của chúng ta: tuy vậy sự việc này không phải được lựa chọn và chấp nhận như
nó tồn tại trong thực tế và bản thân nó, trái lại nó được chấp nhận với một ý
nghĩa rộng lớn hơn nhiều và khái quát hơn nhiều” [7, tr.7].
Các tác giả cuốn Từ điển tiếng Việt đã nêu nên ba nghĩa của từ tượng
trưng. Nghĩa thứ nhất “tượng trưng là cho liên tưởng đến một cái trừu tượng
nào đó bằng một sự vật cụ thể: chim bồ câu tượng trưng cho hòa bình” [14,
tr.1743]. Nghĩa thứ hai “tượng trưng là dùng một vật cụ thể để tượng trưng
cho cái trừu tượng nào đó: xiềng xích tượng trưng cho sự nô lệ” [14,tr.1743].
Nghĩa thứ ba “mang tính chất tượng trưng” [14, tr.1743].
Tác giả Luc Benoist trong cuốn Dấu hiệu, biểu trưng và thần thoại, lý
giải nguồn gốc của từ tượng trưng “Biểu trưng (symbole) bắt nguồn từ từ Hy
Lạp sumballein có nghĩa là nối lại với nhau, từ symbole dùng để chỉ dấu hiệu
để nhận biết, một vật được cắt làm đôi và khi ghép lại có thể giúp cho những
người mang hai nửa đó nhận ra họ là anh em, mặc dù trước đó họ chưa gặp
nhau” [10, tr.3-4].
Các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đã làm rõ hơn về thuật ngữ
tượng trưng. Theo nghĩa rộng, “tượng trưng là hình tượng được biểu hiện ở
bình diện kí hiệu, là kí hiệu chứa tính đa nghĩa của hình tượng” [5, tr.390]. Có

6


nghĩa là, mọi tượng trưng đều là hình tượng, nhưng phạm trù tượng trưng
nhằm chỉ cái phần mà hình tượng vượt khỏi chính nó, chỉ sự thể hiện của một
nghĩa nào đó vừa hòa hợp với hình tượng, vừa không đồng nhất hoàn toàn với
hình tượng.

Theo nghĩa hẹp “tượng trưng là một dạng chuyển nghĩa. Khi kết hợp
hai bình diện: nội dung “vật thể” và nghĩa bóng của nó sẽ tạo thành một đối
sánh tượng trưng” [5, tr.391].
Như vậy, tượng trưng là phạm trù phổ quát của mỹ học, được xác lập
thông qua đối chiếu với hai phạm trù kế cận: một phía là kí hiệu, một phía là
hình tượng nghệ thuật.
1.1.2. Sự hình thành của chủ nghĩa tượng trưng
Chủ nghĩa tượng trưng là một trào lưu nghệ thuật và một quan điểm
triết học - mỹ học ở cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Nó nảy sinh như một
khuynh hướng văn học ở Pháp những năm 60 - 70.
Với hoàn cảnh xã hội, chủ nghĩa tượng trưng ra đời trong bối cảnh tình
trạng khủng hoảng của chế độ tư bản bước sang chế độ chủ nghĩa đế quốc độc
tài. Nửa cuối thế kỉ XIX, Napoleon đệ tam đã mở những cuộc chinh chiến qua
tận châu Phi và châu Á. Những cuộc chinh chiến đó đã gây ảnh hưởng không
nhỏ đến bầu không khí xã hội. Chiến tranh Pháp - Đức vào năm 1870 - 1871,
tai họa Sedan năm 1871, cuộc khởi nghĩa Công xã Pari năm 1871, đã làm cho
nước Pháp có nhiều biến động. Trong một xã hội, rối ren và khủng hoảng ấy,
con người trở nên bi quan, mất niềm tin vào tương lai. Con người không còn
tin vào sự tiến bộ của lịch sử, thậm chí con người còn không tin vào khả năng
lý trí của chính họ, hoài nghi chính bản thân mình.
Cơ sở lý thuyết của chủ nghĩa tượng trưng bắt nguồn từ triết học duy
tâm của Schopenhauer và Hecmann với tư tưởng chính là quan niệm thần bí
của thuyết nhị nguyên. Các nhà văn, nhà thơ thời kì này đã bộc lộ những tư
tưởng mới mẻ trong quan niệm của mình về thi ca. Nhà văn Huygo cho rằng:

7


Thi ca, đó là những gì sâu kín trong tất cả và theo ông, dưới thế giới thực tại
có một thế giới lý tưởng đẹp đẽ. Trong khi đó, Nerval nêu nên sự thể nghiệm

về cái siêu thực và sự tràn ngập những giấc mơ trong đời sống con người. Và
nếu như Baudelaire nêu nên sự tương ứng kì bí giữa các giác quan, tình cảm
thì Verlaine cho rằng thơ ca là thứ âm nhạc gợi cảm, qua sắc thái và những
biểu tượng tế nhị dẫn đến những tình cảm bán ý thức. Chính những quan niệm
mới mẻ đó đã dần đưa các nhà thơ đến với thế giới của riêng mình, thế giới
của thơ tượng trưng.
Không chỉ vậy, chủ nghĩa tượng trưng ra đời còn là do cuộc tổng khủng
hoảng của văn hóa nhân văn tư sản dẫn đến sự chống lại các nguyên tắc Thực
chứng luận của nhóm Thi sơn và chủ nghĩa tự nhiên. Chủ nghĩa tự nhiên tồn tại
vào khoảng những năm 1860 - 1880 với những đại diện tiêu biểu như hai anh
em: Edmond, Goncourt, Zola… Họ yêu cầu mô tả cuộc sống bằng phương
pháp khoa học tự nhiên, sử dụng các dữ liệu mới do khoa học tự nhiêm đem lại
để đưa vào văn học. Do đó, trong sáng tác văn học, các nhà tự nhiên chủ nghĩa
coi trọng việc quan sát, sưu tầm tư liệu hơn là sử dụng trí tượng tượng. Còn
nhóm Thi sơn là nhóm các nhà thơ trẻ xuất hiện vào những năm 60 của thế kỉ
XIX với tuyển tập Thi sơn đương đại xuất bản lần đầu năm 1866. Họ rất chú
trọng đến dáng vẻ, đường nét, âm thanh của thế giới bên ngoài.
Tuy nhiên, cho đến cuối thế kỉ XIX, các nhà thơ tượng trưng vẫn tránh
né danh xưng “chủ nghĩa tượng trưng”. Mặc dù vậy, chúng ta cũng không thể
phủ nhận các sáng tác của nhiều nhà thơ lớn của chủ nghĩa tượng trưng như:
P.Verlaine (1844 - 1869), A. Rimbaud (1854 - 1891), Lautréamont (1846 1870) vừa là những người sáng lập vừa là những đại biểu xuất sắc của trường
phái này. Những tác phẩm của những nhà thơ không chỉ có ý nghĩa xã hội mà
còn có giá trị nhân văn rộng lớn, nói về nỗi đau khổ về tinh thần; sự chán ghét
những hình thức tư hữu của xã hội đang tàn phá tâm hồn con người, niềm tin
vào những giá trị văn hóa lâu đời.

8


1.1.3. Tuyên ngôn và đặc trưng thẩm mĩ của chủ nghĩa tượng trưng

Khi một trường phái ra đời thường có những tuyên ngôn và đặc trưng
riêng của nó. Chủ nghĩa tượng trưng cũng vậy. Nó cũng có tuyên ngôn riêng.
Tuyên ngôn của chủ nghĩa tượng trưng được đánh dấu và thể hiện rõ nét nhất
trong bài thơ Tương ứng của Baudelaire được in trong cuốn Tuyển tập thơ văn
xuôi (Việt Nam và nước ngoài), Quỳnh Như Nhiên dịch và Đông Hoài hiệu
đính:
“Thiên nhiên là một ngôi đền trong đó những cột sinh linh
Thỉnh thoảng phát ra những ngôn ngữ mơ hồ:
Con người đi trong Thiên Nhiên qua những rừng biểu tượng
Chúng quan sát con người với những cái nhìn thân quen.
Như những phán hướng dài hỗn độn từ xa
Trong một thể thống nhất tối tăm và sâu thẳm.
Mênh mông như đêm tối và như ánh sáng.
Hương thơm, mầu sắc và âm thanh tương ứng.
Có những hương thơm tươi mát như da thịt trẻ thơ.
Ngọt ngào như kèn bấm, xanh tươi như đồng cỏ,
- Và những loại khác: đồi bại, phong phú và ưu thẳng
Hãy khuếch trương những sự vật vô tận,
Như hồ phách, xạ hương, an tức hương và trần hương
Chúng hát ca những nhiệt hứng của tâm hồn và giác quan”
[4, tr.445 – 446]
Chủ nghĩa tượng trưng thể hiện thế giới mơ hồ huyền bí. Chủ nghĩa
tượng trưng cho rằng, bản thân thế giới là “không rõ ràng”, người nghệ sĩ phải
biết tìm thấy trong cuộc phiêu lưu của thơ ca cách thức khám phá ra cái điều
chưa được biết tới. Người nghệ sĩ không chỉ cảm thấu thế giới bên ngoài, mà

9


còn nhận biết thế giới bên trong; không chỉ nắm bắt cái hiện hữu, mà còn

nghe thấy, cảm thấy cái vô hình, cái bí ẩn, mơ hồ nằm trong một màn sương
dày đặc. Để tìm ra một sợi dây liên hệ giữa thế giới vô thức và thế giới hữu
thức, người nghệ sĩ phải có một cái nhìn “thấu thị” xuyên suốt các sự vật để
có thể “chọc thủng” màn sương bí ẩn, mơ hồ đó, nhằm tìm ra chân lý đích
thực của nghệ thuật. Nói như nhà thơ tượng trưng Bỉ: “Tượng trưng là sự
thăng hoa của tri giác và cảm giác, nó không chứng minh gì, mà làm nảy sinh
một trạng thái ý thức, nó phá vỡ mọi ngẫu nhiên, nó là biểu hiện cao nhất tinh
thần mà nghệ thuật có thể được”. Các nhà tượng trưng cho rằng, tính chất cảm
xúc, trữ tình của chủ nghĩa lãng mạn không thể giúp họ hoàn thành thiên chức
của người nghệ sĩ, họ phải cần đến “sự tổng hòa các giác quan”. Phát huy tối
đa sự cộng hưởng giữa các giác quan ấy, nó có thể mang lại cho chúng ta một
bản nhạc huyền diệu trong sự giao thoa giữa các âm thanh, màu sắc, ánh sáng
và hương thơm.
Đây là một đặc điểm vượt xa thi pháp lãng mạn, tiến đến một phương
pháp mới trong nhận thức thực tại: không giãi bày tình cảm một cách trực
tiếp, không miêu tả, giải thích sự vật một cách lồ lộ, rõ nghĩa. Ở đây, “ý nghĩa
được gợi nên bởi sự tượng trưng hoàn toàn không tồn tại trong chính ý tưởng
đó; nó được nảy sinh từ sự xích lại gần nhau của những cảm giác và những
thực tế cụ thể thường là tách biệt với nhau”.
Sự tương hợp giữa các giác quan là một đặc điểm nữa của chủ nghĩa
tượng trưng. Baudelaire quan niệm vũ trụ và con người có mối quan hệ bí
mật mà giác quan bình thường không thể nhìn thấy được. Baudelaire cho
rằng: vì vũ trụ có những tương quan bí ẩn nên các hương thơm, màu sắc và
âm thanh tương hợp với nhau. Mà muốn tìm hiểu được thì chúng ta phải tìm
hiểu biểu tượng. Mỗi biểu tượng, người ta có thể ngửi thấy một màu sắc,
nghe thấy một hương thơm. Đây là sự nhất quán của các giác quan. Quan

10



niệm này đã trở thành một nguyên tắc thẩm mỹ trong sáng tạo thơ ca của chủ
nghĩa tượng trưng Valery đưa ra một định nghĩa về thơ gắn với nguyên tắc
tương hợp: “Thơ là sự giao động giữa âm thanh và ý nghĩa”. Rimbaud lại cho
rằng, người nghệ sĩ phải đến với thơ ca bằng con đường thấu thị của một kẻ
có thiên nhãn.
Trong bài Tương ứng, Baudelaire đã tìm thấy mối liên hệ siêu việt, vô
hình giữa vũ trụ, con người và tạo vật:
“Thiên nhiên là một ngôi đền trong đó những cột sinh linh
Thỉnh thoảng phát ra những ngôn ngữ mơ hồ:
Con người đi trong Thiên Nhiên qua những rừng biểu tượng
Chúng quan sát con người với những cái nhìn thân quen.
Như những phán hướng dài hỗn độn từ xa
Trong một thể thống nhất tối tăm và sâu thẳm.
Mênh mông như đêm tối và như ánh sáng.
Hương thơm, mầu sắc và âm thanh tương ứng.
(Tương ứng)
Quả thật, bằng “cảm quan về cuộc sống sâu xa của tinh thần”
Baudelaire đã đánh thức vùng vô thức ngủ yên trong con người trở nên linh
động, tỏa sáng soi rọi vào cái đẹp huyền diệu, tiềm ẩn đằng sau sự vật, hiện
tượng. Nhà thơ tượng trưng không chỉ miêu tả hiện thực khách quan, không
diễn giải, phơi bày tình cảm mà khám phá, nắm bắt lòng người, tạo vật thông
qua biểu tượng bằng phép loại suy. Đây là một nguyên tắc mĩ học của thơ
tượng trưng vượt qua thi pháp lãng mạn, làm nảy sinh ra một lối tư duy mới
trong nhận thức thế giới.
Để mở cánh cửa của một cõi vô tận đó, Baudelaire đã phát huy tối đa
phương thức kết hợp tượng trưng: Ông táo bạo kết hợp những hình ảnh cụ thể
hay những cảm giác, chăm chút những phép tỉnh lược và tạo ra những câu có

11



chất nhạc và ngữ nghĩa mới. Từ đó nảy sinh một quan hệ mới với thế giới mà
trong đó có cảm giác lẫn lộn với nhau và những mâu thuẫn đớn đau biến mất.
Tâm hồn có thể uống ừng ực hương thơm, âm thanh và mầu sắc.
Yếu tố âm nhạc là một đặc điểm quan trọng của thơ tượng trưng, các
nhà thơ tượng trưng cho rằng, để thể hiện thế giới tiên nghiệm cần phải đem
tinh thần âm nhạc vào thế giới thơ ca. Câu thơ phải có nhạc điệu và âm hưởng
để đi vào trực giác của con người. Verlaine quan niệm: Nhạc điệu là trước hết.
Thơ phải “gợi cảm” chứ không kể lể miêu tả. Để đạt được hiệu quả “gợi cảm”
thì thơ phải có nhạc điệu. Schopenhauer chỉ ra rằng âm nhạc có khả năng đi sâu
vào bản chất thuần túy của sự vật và thể hiện nó bằng những giai điệu huyền bí
nhất. Khi nghe nhạc người ta cảm nhận và rung động được trước khi hiểu bằng
lý trí. Có người ví âm nhạc như tiếng nói của thánh thần, có khả năng đi vào
tiềm thức của tâm hồn, bất chấp rào cản lý trí. Âm nhạc đã thoát ra khỏi sự nô lệ
trong việc bắt chước cái vỏ vật chất của sự vật cần thể hiện. Âm nhạc có “ngôn
ngữ” riêng của nó, có sức mạnh sở trường trong việc thể hiện những gì mơ hồ
huyền bí nhất. Cũng như âm nhạc, thơ tượng trưng đã mang âm điệu quyến rũ
tâm hồn, có giá trị như một câu “thần chú” say đắm, mê hoặc con người.
Như vậy, với sự tiếp thu những tinh hoa của văn học nước ngoài thì
thơ tượng trưng đã mang lại một nhãn quan mới cho các thi sĩ thuộc phong
trào Thơ mới giai đoạn cuối, góp phần vào việc đa đạng hóa các thể loại thơ
ca Việt Nam.
1.2 . Ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đến phong trào Thơ mới giai
đoạn cuối
1.2.1. Khái quát về Thơ mới giai đoạn cuối
Chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào Việt Nam sau thế chiến thứ nhất, cùng
với việc người Pháp đẩy mạnh phong trào khai phá thuộc địa đã đẩy nhanh
làn gió văn hóa của phương Tây vào Việt Nam nhanh hơn. Giới trí thức nhanh
chóng tiếp thu văn hóa Pháp và dần nhận ra những vần luật, niêm luật của đạo
12



Nho đã quá gò bó trong việc thể hiện tiếng thơ của mình. Thơ mới được thai
nghén từ trước 1932 và thi sĩ Tản Đà chính là người dạo bản nhạc đầu tiên
trong bản hòa tấu của phong trào Thơ mới phát triển. Và đến ngày 10-3-1932
khi Phan Khôi đăng bài thơ Tình già trên Phụ nữ tân văn số 22 cùng với lời tự
giới thiệu “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” thì phát súng lệnh của
phong trào Thơ mới chính thức được bắt đầu.
Vào cuối giai đoạn của phong trào Thơ mới xuất hiện sự phân hóa và
hình thành một số khuynh hướng sáng tác khác nhau. Sau năm 1940 trở đi
xuất hiện nhiều khuynh hướng, tiêu biểu là nhóm Dạ Đài gồm: Vũ Hoàng
Chương, Trần Dần, Đinh Hùng…, nhóm Xuân Thu Nhã Tập gồm: Nguyễn
Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đỗ Cung …, nhóm Trường thơ Loạn gồm:
Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê,….
Có thể nói các khuynh hướng thoát ly ở giai đoạn này đã chi phối sâu sắc
cảm hứng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật trong sáng tác của các nhà Thơ mới.
Với thân phận của người dân mất nước và bị chế độ xã hội thực dân o ép, họ
như kẻ đứng ngã ba đường, họ sẵn sàng đón nhận những luồng gió khác nhau
thổi tới. Bên cạnh đó, một số bộ phận các nhà Thơ mới như Huy Cận, Chế Lan
Viên… mất phương hướng, rơi vào bế tắc, không lối thoát.
Do một thời gian rất dài, do có những quan điểm dung tục, độc giả chỉ
thấy đó là phong trào thơ ca tư sản, tiểu tư sản tiêu cực, đồi trụy, có hại cho
cách mạng vô sản, cần phải thay thế bằng một nền thơ ca bắt nguồn từ công
nông binh. Năm 1951, trong công trình Nói chuyện thơ kháng chiến, Hoài
Thanh đã chì chiết những tàn dư của Thơ mới trong thơ ca kháng chiến với
những từ “một dớt”, “đạo dớt”… đầy ý vị khinh miệt và mỉa mai. Khi giải
phóng miền Nam được 6 năm, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ trong cuốn Phong
trào Thơ mới 1932 -1945 còn tiếp tục chỉ trích về tác hại của Thơ mới. Nhưng

13



đến ngày nay thì các nhà nghiên cứu phê bình cũng đã có những cái nhìn, và
đánh giá lại Thơ mới một cách công bằng hơn.
Có thể nói, Thơ mới để lại cho nền văn học nước nhà nhiều đỉnh cao
mà cho đến ngày nay ta vẫn phải ngưỡng vọng. Nếu không có sự ảnh hưởng
của chủ nghĩa tượng trưng ở phương Tây vào Việt Nam thì có lẽ cho đến bây
giờ, thi ca Việt Nam vẫn ngủ quên trong thung lũng khuất nẻo nào đó, và
đương nhiên vẫn sinh sôi nảy nở trong cái ao hồ phẳng lặng suốt mấy ngàn
năm của văn học phương Đông.
1.2.2. Dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng trong phong trào Thơ mới giai
đoạn cuối
Nằm trong dòng chảy của quá trình hiện đại hóa văn học trong nửa đầu
thế kỉ XX, thơ ca Việt Nam không ngừng vận động và phát triển tạo nên những
cú nhảy ngoại mục, đem đến nhiều biến chuyển sâu sắc, rộng lớn cả về chất
lượng đến số lượng. Đặc biệt, phong trào Thơ mới đã làm nên cuộc cách mạng
trong lịch sử thơ ca dân tộc. Thơ mới quy tụ một lực lượng trí thức Tây học trẻ,
táo bạo, có tâm huyết muốn cách tân đem lại những cấu trúc hiện đại phương
Tây vào thi ca Việt Nam.
Phong trào Thơ mới là gặp gỡ, kết tinh văn hóa Đông - Tây. Các nhà
Thơ mới thông qua trường học sách báo, dịch thuật đã tiếp xúc, làm quen với
các trào lưu văn học hiện vốn đã phát triển hoàn chỉnh ở phương Tây. Vì thế,
trong lúc phôi thai cho đến khi những đứa con tinh thần của họ chào đời, mầm
mống ấy được nuôi dưỡng bằng nhiều nguồn dưỡng chất. Với chỉ hơn một
thập kỉ, Thơ mới đã đi trọn con đường hơn một trăm năm thơ Pháp.
Đến với Việt Nam, thơ tượng trưng nhanh chóng được tầng lớp trí thức
trẻ tiếp thu. Hầu hết họ bị ám ảnh bởi tính chất hiện đại của thơ Baudelaire.
Xuân Diệu, Huy Cận, Đoàn Phú Tứ học được ở Baudelaire “nghệ thuật tinh
vi”, các sáng tạo những bản nhạc huyền diệu bằng sự liên tưởng tinh tế, sự


14


hòa hợp tương giao giữa âm thanh, màu sắc hương vị. Hàn Mặc Tử, Chế Lan
Viên, cặp song sinh của trường thơ Loạn đã viết lên những vần thơ kì lạ, kinh
dị, ma quái từ cái siêu thăng của tâm hồn. Lưu Trọng Lư, Bích Khê tìm thấy
giai điệu dịu dàng, trong sáng, mênh mông, hư ảo, huyền hồ trong Verlane.
Đặc biệt là nhóm Xuân Thu nhã tập, đã nâng lên thành Đạo thiêng liêng, cao
quý.
Nhà thơ Xuân Diệu, một trong những nhà thơ sớm ảnh hưởng của thơ
tượng trưng Baudelaire. Trong bài diễn thuyết tại trường Sorbonne, ông nói:
“Với Baudelaire, tôi đi toàn vẹn vào tính chất hiện đại của thơ”. Trong quan
niệm sống và yêu Xuân Diệu hăng hái, say mê đi tìm ảo ảnh trong mộng đến
an ủi hồn mình, muốn điên và hoan lạc thân xác cho lịm đi những khắc khoải
giữa đời thường:
“Trăng vú mộng muôn đời thi sĩ
Giơ hai tay mơn trớn vẻ tròn đầy”.
(Ca tụng)
Trong lời tựa tập Đau thương, Hàn Mặc Tử viết: “Tôi làm thơ? Nghĩa
là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi,
máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. Và cũng có nghĩa là tôi đã mất trí, tôi
phát điên” [23, tr.10]. Trong Mùa thu đã tới, ông còn khẳng định: “Nhà nghệ
sĩ bao giờ cũng điên” và tự hoạ bức chân dung “người thơ” ấy:
“Tôi điên tôi nói như người dại
Van lạy không gian xoá những ngày…”
(Lưu luyến)
Nói đến dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng trong Thơ mới, chúng ta
không thể bỏ qua quan niệm “tương ứng cảm quan” của Baudelaire. Các nhà
Thơ mới đã phối ứng lại thế giới tự nhiên theo những chiều kích thước khác
nhau.


15


Trong đau thương, Hàn Mặc Tử chết lịm, mê man với hồn, với máu,
với trăng. Chúng bao bọc, vắt kiệt tinh lực của nhà thơ vì ở đâu cũng đầy
trăng, đầy máu, đầy hồn nhưng chúng cũng là nguồn sáng tạo vô biên:
“Không gian dày đặc toàn trăng cả
Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng”
(Huyền ảo)
Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử không đem lại cảm giác thanh bình, tĩnh
lặng. Đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta bắt gặp một thế giới tràn ngập ánh sáng
của trăng, một niềm ác mộng của hồn, một niềm đau thương, nhuộn màu của
máu và ẩn sau đó là lòng yêu cuộc đời. Lòng yêu ấy lại ẩn dấu trong những ý
thơ lạ ngỡ như là điên rồ.
Bích Khê cũng tìm đến với sọ người nhưng sọ người trong thơ Bích
Khê không mang đến cảm giác ghê rợn, chết chóc điên cuồng như Chế Lan
Viên. Mà lúc này, nhà thơ không chỉ nhìn thế giới ở hữu thức mà cả vô thức.
Cho nên, hình ảnh sọ người trong thơ Bích Khê liên tục chuyển kênh tạo ra
những hình ảnh kì ảo, lạ lẫm:
“Ôi khối mộng của hồn thơ chếch choáng!
Ôi buồn xuân hơ hớ cánh đào sương!
Ôi bình vàng! Ôi chén ngọc đầy hương!
Ôi thân tình! Người chứa một trời thương”.
(Sọ người)
Một đặc điểm nữa là Thơ mới in dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng “là để
thể nghiệm thế giới tiên nghiệm, thế giới chiêm bao và tiềm thức” cần phải
“mang tinh thần âm nhạc” vào thơ ca. Thơ mới đã nhấn mạnh thêm một bước
trên con đường chinh phục âm nhạc hiện đại cho thơ. Đó cũng là nguyên nhân
dẫn dến sự bùng nổ và thắng thế của Thơ mới. Nói như thế không có nghĩa là

thơ cổ điển không chú ý đến nhạc điệu. Trái lại, các nhà thơ xưa có hẳn một
tiêu chí “thi trung hữu nhạc” nhưng tính nhạc của thơ được tạo ra bằng âm

16


thanh những từ được lựa chọn, sắp đặt cốt sao không theo những thi điệu,
nhịp điệu có sẵn (miễn là đúng niêm luật), thành ra trong thơ cũ, âm thanh và
ý nghĩa bị tách ra, mỗi thứ một đường.
Âm nhạc đã mê hoặc, dẫn dắt thi sĩ bước đi như người mộng du vào thế
giới thực hư, huyền ảo của miền quá khứ trong cảm xúc bồng bềnh, chơi vơi:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
(Nhị hồ)
Nếu Xuân Diệu học tập thơ tượng trưng Pháp cách tạo nhạc cho thơ ở
bước thể nghiệm thì đến Bích Khê, Xuân Thu nhã tập được triển khai trên bình
diện rộng với những phá cách táo bạo… Bích Khê có hẳn một bản nhạc đàn
được phối kết từ nhiều thanh âm: Mộng cầm ca, Tỳ bà, Tiếng đàn mưa... Với
nhạc thi sĩ thể hiện cách thẩm âm độc đáo, lạ lẫm, không bằng thính giác mà
bằng cõi lòng, bằng tâm hồn siêu thăng trong trạng thái ngưng đặc biệt:
“Thơ bay! Thơ bay vô bàn tay ngà.
Thơ ngà ngà say! Thơ ngà ngà say!
Nàng ơi! Đừng động… có nhạc trong giây!
Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trong mây
Nhạc vô cung hường, nhạc vô đào động
Ôi nàng tiên nương! Hớp nhạc đầy sương…”
(Nhạc)
Như vậy, Thơ mới có những cuộc bứt phá ngoạn mục, nhanh chóng bắt
kịp nhịp độ phát triển và hòa vào dòng chảy của thi ca hiện đại thế giới. Sự
gặp gỡ thơ tượng trưng Pháp là tâm điểm thu hút các nhà thơ trẻ, giúp họ tiến

nhanh trên con đường hiện đại hóa thơ ca dân tộc. Tuy nhiên, theo nhiều nhà
nghiên cứu: Thơ mới Việt Nam chưa thể hình thành một chủ nghĩa tượng
trưng như ở phương Tây. Song không thể phủ nhận chủ nghĩa tượng trưng đã
in dấu ấn rõ nét và góp phần làm nên giá trị của Thơ mới.

17


CHƯƠNG 2
BIỂU HIỆN CỦA CHỦ NGHĨA TƯỢNG TRƯNG
TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ
Có những tai nạn bất ngờ hay những bất hạnh định đoạt cả chí hướng,
công cuộc và sự nghiệp của một con người: Blaise Pascal suýt bị ô tô cán,
Lord Byron với cái chân què, Marcel Proust với bệnh suyễn kinh niên, John
Keats và A. Camus với chứng lao… Chính hoàn cảnh đó, tài năng của họ
được bộc lộ và đã để lại cho đời những kiệt tác kinh điển.
Còn Hàn Mặc Tử?
Chúng tôi muốn làm sáng tỏ một nét trong tiểu sử của Hàn Mặc Tử đó
là thời điểm nhà thơ bị mắc bệnh phong. Nhà nghiên cứu Võ Long Tê nhận
xét: Một chứng bệnh nan y, một tuổi thanh xuân bị tước đoạt đến hết hy vọng
tươi đẹp nhất, viễn tưởng một cái chết gần kề, đó là những yếu tố của một
thực tại nghiệt ngã cấu thành một chất liệu dồi dào cho trí tưởng tượng sáng
tạo của nhà thơ. Do vậy, mà trong thơ Hàn Mặc Tử có hai thế giới luôn luôn
tách biệt: thế giới bên trong (thế giới tâm hồn nhà thơ) và thế giới bên ngoài
(cuộc sống hiện thực). Chính cuộc sống bệnh tật đã làm cho Hàn Mặc Tử trở
thành một hiện tượng kì lạ, để cho các nhà nghiên cứu phải băn khoăn trăn trở
giải mã hiện tượng thơ ca này.
2.1. Trực giác và vô thức trong thơ Hàn Mặc Tử
2.1.1. Trực giác trong thơ Hàn Mặc Tử
Người nghệ sỹ khác với người bình thường ở khả năng quan sát, tái

hiện và sáng tạo. Mọi thăng hoa từ cảm xúc thẩm mỹ của họ tuy khó lý giải,
nhưng nó không phải là cái gì thần bí, kín mít mà là một quá trình tích tụ, sản
sinh đặc biệt. Trong đó, sự cảm thụ, rung động, nắm bắt để đi đến sáng tạo
nghệ thuật của người nghệ sỹ là một sự thai nghén, cất giấu âm thầm để đến

18


một lúc nào đó bừng tỉnh. Nhưng bên cạnh đó, nó cũng có thể đạt tới một
nhận thức bất chợt mà không cần hoạt động nào của lý trí về đối tượng. Đây
chính là yếu tố trực giác.
2.1.1.1. Khái niệm “trực giác”
Con người sống trong cuộc sống, mọi phán đoán và hành động một
phần dựa vào lí trí nhưng phần nữa là dựa vào trực giác. Có một thời kì, đặc
biệt là thế kỉ XVII, XVIII ở phương Tây, người ta đã quá nhấn mạnh vào lí trí
“Tôi tư duy là tôi tồn tại” cho nên họ đã quên mất trực giác. Đến cuối thế kỉ
XIX, đầu thế kỉ XX, vai trò của trực giác mới được khôi phục và khẳng định.
Nhưng trực giác là gì?
Nhà tâm lý học nổi tiếng của Hoa Kỳ I. Brunơ thì lại cho rằng: “Trực
giác là một loại hành vi, thông qua loại hành vi này, con người rõ ràng không
còn phải dựa vào kĩ xảo phân tích cơ cấu, ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề
hoặc tình huống. Trực giác chính xác hay sai lầm không quyết định bởi bản
thân trực giác, mà là ở phép chứng minh thông thường. Tuy nhiên, hình thức
trực giác có thể sinh ra rất nhanh những giả thiết; trước khi biết được giá trị
của những quan niệm được tổ hợp, thì đã phát hiện sự cấu thành của những
quan niệm ấy. Cuối cùng, bản thân trực giác có thể sản sinh một cơ cấu mnag
tính chất thí nghiệm của một loại thức, đồng thời có thể tạo ra một cảm giác,
làm cho chúng ta cảm thấy những sự thực này được cấu thành như vậy mà
không cần phải giảng giải dài dòng. Nó giúp chúng ta chủ yếu ở chỗ nêu ra
quá trình kiểm nghiệm thực tế” [8, tr.280 - 281].

Theo Henri Bergson trực giác là: “sự thông cảm nhờ đó ta đem chính
mình vào trong lòng sự vật để đồng hóa ta với cái duy nhất nhưng không thể
nói lên lời của sự vật đó” [24, tr.144].
Trong cuốn Lý luận văn học (tập 1) Văn học, nhà văn, bạn đọc
Phương Lựu có nêu: “Trực giác là thấy được nhận biết được một cách trực

19


tiếp, không cần phải gián tiếp thông qua phân tích chứng minh của lý trí” [8,
tr. 280].
Như vậy, theo chúng tôi hiểu trực giác: là sự trực tiếp tác động vào não
của con người mà không cần thông qua bất kỳ một sự sàng lọc của lý trí nào.
Vậy về bản chất, chúng ta cảm thấy, hoặc đột nhiên nhận ra vấn đề nào đó,
nó đến từ bên trong, không phải là tư duy logic, nó là nguồn của mọi sáng tạo,
cảm xúc: đó là trực giác, mà mức độ thấp nhất của trực giác là khả năng cảm
nhận, linh cảm.
2.1.1.2 Biểu hiện “trực giác” trong thơ Hàn Mặc Tử
Không ít nhà nghiên cứu cảm nhận thấy một điều là: Thơ Hàn Mặc Tử,
nhất là trong Đau thương có một liên kết kì cục cứ như là “đầu Ngô mình
Sở”. Vũ Quần Phương và Lê Quang Hưng gọi đó là kiểu “Cóc nhảy”. Đó
chính là “Mạch liên kết siêu logic của dòng tâm tư bất định” [17, tr.163].
Nghĩa là, liên kết trong thơ Hàn Mặc Tử cứ muốn tuột ra khỏi tầm kiểm soát
của lý trí, các mảng thơ dính với nhau không phải do áp lực của tính hợp lý
thông thường. Những sản phẩm thơ ca Hàn Mặc Tử ra đời trong các trạng thái
tâm lý đặc biệt nên không thể tuân theo logic thông thường. Có nghĩa là
chúng chỉ là những dòng nội tâm bất định được tốc kí một cách trung thành.
Liên kết trong thơ Hàn Mặc Tử là một liên kết siêu logic. Siêu logic ở
thơ Hàn Mặc Tử có một màu sắc rất riêng. Mỗi bài thơ của thi sĩ hiện ra như
một dòng tâm tư bất định: tình điệu liên tục chuyển vần, hình tượng liên tục

chuyển kênh. Tất cả cứ như một thể lỏng trôi chảy vô định, như một mạch
liên tưởng tuỳ tiện, đứt đoạn nhảy cóc. Nếu có thể tách bạch, một cách giả
định, một bài thơ chia làm hai văn bản: mạch hình tượng và mạch cảm xúc,
thì mạch hình tượng ở bề mặt có vẻ hỗn loạn, trong khi đó văn bản cảm xúc
lại nguyên phiến, liền khối dù nó trải qua nhiều cung bậc. Như thế, về liên
kết, có thể ví Đau thương như một khối vuông ru bích: Các ô vuông màu thì
hỗn loạn trên bề mặt, nhưng tất cả lại châu tuần xung quanh các trục bí mật
náu trong lòng ru bích. Nhưng hình ảnh tán loạn như những mảnh vỡ văng rất

20


×