Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Làng nghề thủ công truyền thống ở huyện mỹ đức hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.4 MB, 82 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

NGUYỄN THỊ TRANG

LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG
Ở HUYỆN MỸ ĐỨC – HÀ NỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. BÙI MINH ĐỨC

HÀ NỘI, 2014


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến các thầy cô giáo trong
khoa Ngữ Văn Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2 và đặc biệt là TS. Bùi
Minh Đức người hướng dẫn khoa học.
Đồng thời tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới các cán bộ thuộc Ủy Ban
Nhân Dân xã Phùng Xá, Ủy Ban Nhân Dân xã Đại Nghĩa, đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi, cung cấp những tư liệu cần thiết và những kiến thức thực tế
quý báu giúp tôi hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp.

Hà Nội, ngày 29 tháng 5 năm 2014
Sinh Viên
Nguyễn Thị Trang



LỜI CAM ĐOAN
Khoá luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS. Bùi
Minh Đức. Tôi xin cam đoan rằng:
Khoá luận này là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi.
Những tư liệu được trích dẫn trong khoá luận là trung thực.
Kết quả nghiên cứu này không hề trùng khít với bất kì công trình
nghiên cứu nào từng được công bố.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 29 tháng 5 năm 2014
Tác giả khoá luận

Nguyễn Thị Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 1
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................. 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................................ 3
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. .............................................................................. 3
6. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................... 3
7. Dự kiến đóng góp của đề tài ...............................Error! Bookmark not defined.
8. Bố cục của khoá luận ................................................................................................ 3
NỘI DUNG.................................................................................................................... 5
CHƢƠNG 1. LÀNG NGHỀ VÀ LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN
THỐNG ......................................................................................................................... 5
1.1. Làng nghề ................................................................................................................ 5
1.2. Làng nghề thủ công truyền thống.......................................................................... 7
1.3. Đặc điểm của làng nghề và làng nghề thủ công truyền thống............................ 9

1.3.1. Làng nghề và làng nghề thủ công truyền thống tồn tại ở nông thôn, gắn bó
chặt chẽ với nông nghiệp ............................................................................................... 9
1.3.2. Công nghệ, kỹ thuật sản xuất mang tính truyền thống...................................10
1.3.3. Đại bộ phận nguyên liệu của làng nghề truyền thống là tại chỗ ..................10
1.3.4. Phần đông lao động trong làng nghề truyền thống là lao động thủ công ...10
1.3.5. Sản phẩm của làng nghề truyền thống mang tính đơn chiếc, có tính mỹ
thuật cao, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, địa phương, vùng miền................11
1.3.6. Hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề truyền thống chủ yếu ở quy
mô hộ gia đình, một số đã có sự phát triển thành tổ chức hợp tác và doanh nghiệp
tư nhân...........................................................................................................................11


1.4. Vai trò của làng nghề truyền thống. ....................................................................12
1.4.1. Vai trò của làng nghề truyền thống trong sự phát triển kinh tế xã hội ........12
1.4.2. Vai trò làng nghề truyền thống huyện Mỹ Đức đối với hoạt động du lịch .....12
CHƢƠNG 2 TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG DU LỊCH Ở CÁC LÀNG
NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG TẠI HUYỆN MỸ ĐỨC ..................16
2.1. Khái quát về huyện Mỹ Đức................................................................................16
2.1.1. Điều kiện tự nhiên..............................................................................................16
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ..................................................................................18
2.2. Tiềm năng phát triển du lịch làng nghề tại huyện Mỹ Đức. .............................20
2.2.1. Làng nghề dệt Phùng Xá...................................................................................20
2.2.3. Làng nghề trồng dâu nuôi tằm thôn Trinh Tiết – xã Đại Hưng ....................26
2.3. Thực trạng phát triển du lịch làng nghề tại huyện Mỹ Đức. .............................40
2.3.1. Tình hình phát triển các làng nghề truyền thống huyện Mỹ Đức .................40
2.3.2. Hiện trạng khai thác các làng nghề thủ công truyền thống tại huyện Mỹ
Đức cho hoạt động du lịch ..........................................................................................42
CHƢƠNG 3 CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI CÁC LÀNG
NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG TẠI HUYỆN MỸ ĐỨC .................49
3.1. Định hướng phát triển du lịch làng nghề truyền thống tại huyện Mỹ Đức .....49

3.1.1. Phát triển du lịch làng nghề gắn với phát triển cộng đồng ...........................49
3.1.2. Phát triển du lịch làng nghề gắn với việc bảo tồn và phát huy các giá trị
truyền thống làng quê ..................................................................................................50
3.1.3. Phát triển du lịch làng nghề gắn với việc bảo vệ môi trường và cảnh quan
thiên nhiên.....................................................................................................................51
3.1.4. Phát triển theo phương châm mỗi làng một sản phẩm ..................................51
3.2. Một số giải pháp phát triển du lịch tại các làng nghề thủ công truyền thống tại
huyện Mỹ Đức..............................................................................................................52
3.2.1. Khuyến khích nghệ nhân gắn bó với nghề và truyền nghề cho thế hệ trẻ....52


3.2.2. Tăng cường sự hợp tác giữa đơn vị kinh doanh lữ hành với các làng nghề
truyền thống cho hoạt động du lịch tại huyện Mỹ Đức ............................................53
3.2.3. Xây dựng các chương trình xúc tiến du lịch đối với các làng nghề truyền
thống ..............................................................................................................................53
3.2.4. Nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước trong việc bảo tồn phát triển làng nghề
truyền thống trong hoạt động du lịch .........................................................................54
KẾT LUẬN .................................................................................................................56
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................58


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Huyện Mỹ Đức hôm nay trên con đường hội nhập phát triển với
những khách sạn và khu nghỉ mát cao cấp được đầu tư xây dựng, đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của du khách. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của đô thị,
vẫn còn những làng nghề thủ công truyền thống như: Làng dệt Phùng Xá,
Làng múa rối cổ Tế Tiêu, Làng trồng dâu nuôi tằm ven sông Đáy… ở những
vùng ven đô thị, tạo nên một dấu ấn riêng cho vùng đất này.
Trải qua thời gian, những giá trị về mặt vật chất và tinh thần từ các sản

phẩm của làng nghề thủ công trong huyện mang lại là điều không thể phủ
nhận. Các làng nghề thủ công đã và đang được khai thác trở thành những sản
phẩm du lịch hấp dẫn.
Tuy nhiên không phải làng nghề nào trên địa bàn huyện cũng có điều
kiện thuận lợi như vậy, các làng nghề cũng đứng trước nguy cơ như các làng
nghề trên cả nước: nguy cơ mai một.
Do sự đơn điệu, thiếu tính sáng tạo về mẫu mã dẫn đến khó khăn cho
đầu ra của sản phẩm. Đồng thời các làng nghề truyền thống ở huyện Mỹ Đức
chưa khai thác có hiệu quả cho hoạt động du lịch. Đây là một thực trạng
chung của các làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện.
Chính vì vậy việc nghiên cứu và xem xét các làng nghề truyền thống cho
sự phát triển của hoạt động du lịch là điều cần thiết. Đề tài thực sự là một cơ hội
cho sinh viên nghiên cứu, tìm hiểu, đi sâu vào thực tế, hoà nhập vào đời sống
cộng đồng. Để từ đó giúp bản thân có cái nhìn toàn diện và chính xác nhất về sự
phát triển của làng nghề truyền thống đối với hoạt động du lịch ngày nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về hệ thống làng nghề thủ công truyền thống ở huyện Mỹ Đức, đã có
các tác giả và công trình, tiêu biểu như:

1


Nhóm tác giả Phượng Vũ, Chu Huy, Trần Lê Văn (1992), Hà Tây làng
nghề làng văn, NXB Sở văn hoá thông tin thể thao Hà Tây. Trong tác phẩm,
tác giả đã đi nghiên cứu về các làng nghề truyền thống ở tỉnh Hà Tây cũ (nay
thuộc Hà Nội).
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (2009), “Hỏi đáp về làng nghề truyền
thống Việt Nam”. Đây là cuốn sách đã giải đáp những thắc mắc về vấn đề liên
quan tới làng nghề, quy trình, lịch sử làng nghề truyền thống nói chung và
nghề dệt, nghề trồng dâu nuôi tằm nói riêng.

Ngoài ra còn:
Phạm Côn Sơn (2004), Làng nghề truyền thống Việt Nam, NXB Văn
hoá Dân tộc. Trong tác phẩm, tác giả đã đưa ra khái niệm cụ thể về làng nghề
truyền thống và đặc điểm của làng nghề truyền thống. Cùng với đó giới thiệu
nét đặc sắc của hệ thống những làng nghề truyền thống tiêu biểu trên cả nước,
trong đó có làng nghề trồng dâu nuôi tằm huyện Mỹ Đức.
Lại Khánh Hồng (2005), “Hà Tây đẩy mạnh phát triển du lịch làng
nghề”, Du lịch Việt Nam. Bài viết thống kê những làng nghề tiêu biểu và đưa
ra giải pháp thiết thực nhằm phát triển những làng nghề truyền thống trên địa
bàn tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc Hà Nội)
Có thể nói đây là những công trình tiêu biểu nói về những làng nghề thủ
công truyền thống trên địa bàn huyện Mỹ Đức. Tuy nhiên đây chỉ là những cuốn
sách nói về làng nghề truyền thống nói chung, chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu từng làng nghề tiêu biểu như: làng dệt Phùng Xá, làng múa rối Tế
Tiêu, làng trồng dâu nuôi tằm Trinh Tiết, trong hệ thống các làng nghề thủ công
truyền thống tại huyện Mỹ Đức - Hà Nội, tất cả mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu
một khía cạnh nhỏ của vấn đề. Vì vậy, tôi thực hiện đề tài “Làng nghề thủ công
truyền thống ở huyện Mỹ Đức - Hà Nội” trên tinh thần kế thừa và phát huy
thành quả nghiên cứu của những người đi trước.

2


3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích tiềm năng, thực trạng của các làng nghề, đề xuất
các giải pháp để các làng nghề truyền thống huyện Mỹ Đức trở thành những
điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
• Nghiên cứu tiềm năng phát triển du lịch làng nghề tại huyện Mỹ Đức Hà Nội.
• Nghiên cứu thực trạng phát triển du lịch làng nghề và những nhân tố

ảnh hưởng tới phát triển du lịch làng nghề tại huyện Mỹ Đức - Hà Nội.
• Đề xuất giải pháp để đẩy mạnh phát triển du lịch làng nghề ở huyện Mỹ
Đức - Hà Nội.
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu.
5.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Tiềm năng du lịch tự nhiên, nhân văn, thực trạng du lịch làng nghề ở
huyện Mỹ Đức.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là làng dệt Phùng Xá, xã Phùng Xá và
làng trồng dâu nuôi tằm Trinh Tiết, xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành phố
Hà Nội.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
•Phương pháp điền dã
•Phương pháp miêu tả, phân tích, chứng minh
•Phương pháp hệ thống lịch sử, thống kê phân loại.
• Phỏng vấn
7. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Làng nghề và làng nghề thủ công truyền thống.

3


Chương 2: Tiềm năng và thực trạng du lịch ở các làng nghề thủ công
truyền thống tại huyện Mỹ Đức
Chương 3: Các giải pháp phát triển du lịch tại các làng nghề thủ công
truyền thống ở huyện Mỹ Đức.

4



NỘI DUNG
CHƢƠNG 1.
LÀNG NGHỀ
VÀ LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG
1.1. Làng nghề
Trong xã hội nông thôn Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, làng đã là một
tế bào của xã hội. Làng Việt Nam có vị trí hết sức quan trọng trong lịch sử
dân tộc. Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, làng vẫn được lưu giữ
và phát huy cho đến ngày nay.
Từ buổi ban đầu, phần lớn người dân trong làng đều sinh sống bằng
nghề nông nghiệp. Về sau để đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt, có những
bộ phận dân cư chuyển sang làm và sống bằng nghề thủ công khác. Họ liên
kết với nhau thành các phường hội: phường gốm, phường đúc đồng, phường
dệt vải, phường trồng dâu nuôi tằm... từ đó nghề được lan truyền và hình
thành các làng nghề. Trải qua một thời gian dài phát triển đã có rất nhiều làng
nghề phát triển mạnh, số hộ, số lao động làm nghề truyền thống và sống bằng
nghề đó ngày càng tăng.
Quan niệm về làng nghề có nhiều cách hiểu, có thể xem xét trên các
phương diện khác nhau:
Theo TS. Phạm Côn Sơn trong cuốn “Làng nghề truyền thống Việt
Nam”, làng nghề được định nghĩa như sau: “Làng là một đơn vị hành chính
cổ xưa mà cũng có nghĩa là đơn vị quần cư đông người sinh hoạt có tổ chức,
có kỷ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng. Làng nghề không những là một
làng sống chuyên nghề mà cũng hàm ý là những người cùng nghề sống hợp
quần để phát triển công ăn việc làm. Cơ sở vững chắc của các làng nghề là sự

5



vừa làm ăn tập thể vừa phát triển kinh tế vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và cá
biệt của địa phương”. [14,tr 3 - 5]
GS. Trần Quốc Vượng thì “làng nghề là một làng tuy vẫn còn trồng trọt
theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số nghề phụ khác như đan
lát, gốm sứ, làm tương, dệt vải... song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo
với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có
phường (cơ cấu tổ chức), có ông trùm, ông cả cùng một số thợ và phó nhỏ, đã
chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất
nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra
những mặt hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở
thành sản phẩm hàng và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng rộng
xung quanh và với thị trường đô thị và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể
xuất khẩu ra cả nước ngoài”. [16,tr 5 - 8]
Trước đây khái niệm làng nghề chỉ bao hàm các nghề tiểu thủ công
nghiệp. Ngày nay trên thế giới, khu vực kinh tế thứ ba đóng vai trò quan trọng và
trở thành lĩnh vực chiếm ưu thế về mặt tỉ trọng, thì các nghề buôn bán dịch vụ ở
nông thôn cũng được xếp vào các làng nghề. Như vậy trong làng sẽ có làng một
nghề và làng nhiều nghề, có làng nghề truyền thống và làng nghề mới.
• Làng một nghề là làng duy nhất có một nghề xuất hiện và tồn tại, hoặc
có một nghề chiếm ưu thế tuyệt đối, các nghề khác chỉ xuất hiện ở một vài nhà.
• Làng nhiều nghề là làng xuất hiện và tồn tại nhiều nghề chiếm ưu thế
tương đương nhau. Trong nông thôn Việt Nam trước đây những làng nhiều
nghề có xu hướng phát triển mạnh.
• Làng nghề truyền thống là làng nghề xuất hiện lâu đời trong lịch sử
và tồn tại cho đền ngày nay.
• Làng nghề mới là những làng nghề xuất hiện do sự lan tỏa của những
làng nghề truyền thống trong những năm gần đây, đặc biệt trong thời kì đổi
mới thời kì chuyển sang nền kinh tế thị trường.

6



Ngày nay trong quá trình công nghiệp hóa và sự phát triển của nền kinh
tế thị trường, công nghệ sản xuất trong các làng nghề không còn hoàn toàn là
thủ công nữa mà có rất nhiều nghề, nhiều công đoạn sản xuất đã sử dụng công
nghệ - kĩ thuật, cơ khí hiện đại và bán cơ sở chuyên làm dịch vụ đầu ra, đầu
vào cho các hộ làm nghề khác.
Như vậy, có thể hiểu rằng: Làng nghề là một địa phương gắn với cộng
đồng dân cư, có một nghề truyền thống được lưu truyền và có sức lan tỏa
mạnh mẽ. Ổn định về một nghề hay một số nghề có quan hệ mật thiết với
nhau trong quá trình tạo ra sản phẩm. Sản phẩm của làng nghề vừa có ý nghĩa
nuôi sống một bộ phận dân cư và quan trọng hơn là nó mang ý nghĩa giá trị
vật thể và phi vật thể, được phản ánh qua lịch sử, văn hóa và xã hội liên quan
tới họ.
Theo Báo cáo Môi trường quốc gia năm 2008, tiêu chí công nhận làng
nghề đã được hình thành, gồm ba tiêu chí sau:
Thứ nhất: có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia hoạt động
ngành nghề.
Thứ hai: hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính
đến thời điểm đề nghị công nhận.
Thứ ba: chấp hành tốt chích sách Pháp luật của Nhà nước.
1.2. Làng nghề thủ công truyền thống
Làng nghề thủ công truyền thống là gương mặt khác của làng xã nông
nghiệp, một bộ phận không thể tách rời, thậm chí phát triển song hành cùng
làng xã của người Việt. Chính vì vậy, khi tìm hiểu và phân tích về làng nghề
thủ công truyền thống, có nhiều ý kiến và quan niệm khác nhau, mỗi quan
điểm dựa trên một yếu tố, đặc điểm để làm rõ tích chất, đặc trưng của làng
nghề thủ công truyền thống.
GS. Trần Quốc Vượng trong cuốn “Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy
ngẫm” đã đưa ra định nghĩa về làng nghề thủ công truyền thống như sau: “Làng


7


nghề thủ công truyền thống là những làng nghề trước đây nguồn thu cũng dựa
vào nông nghiệp là chủ yếu, nhưng do điều kiện khách quan nào đó, các làng
này đã chuyển hẳn sang sản xuất các sản phẩm mang tính chuyên biệt và nguồn
thu của các sản phẩm là nguồn thu nhập chính trong làng. Sản phẩm làng nghề
gắn với trí thông minh, bàn tay khéo léo và kỹ thuật tinh xảo của các nghệ nhân
được lưu truyền từ hàng trăm năm nay đang được kế thừa, khôi phục”. [16,tr 8]
Làng nghề thủ công là một phần không thể thiếu của làng xã nông
nghiệp cổ truyền, vì nó phản ánh đầy đủ thuộc tính tự cung, tự cấp và tính
khép kín cố hữu của làng xã nông nghiệp. Mặt khác, làng nghề thủ công
truyền thống lại biểu hiện tính năng động, sáng tạo của người nông dân trong
quá trình thích ứng với điều kiện địa lí, kinh tế xã hội nhất định, đồng thời thể
hiện rất rõ yếu tố mở của xã hội tiểu nông.
Tác giả Phạm Thị Thảo đưa ra khái niệm: “Làng nghề thủ công truyền
thống là một thuật ngữ dùng để chỉ các cộng đồng dân cư, có chung truyền
thống sản xuất các sản phẩm thủ công cùng chủng loại tại Việt Nam. Làng
nghề thủ công thường mang tính tập tục truyền thống đặc sắc, đặc trưng,
không chỉ có tính chất kinh tế mà còn bao gồm cả tính văn hóa, đặc điểm du
lịch tại Việt Nam”. [15,tr 8 - 20]
Do đặc tính nông nghiệp và quan hệ làng xã Việt Nam, các ngành nghề
thủ công được lựa chọn và dễ phát triển trong quy mô cá nhân rồi mở rộng
thành quy mô gia đình. Về sau, các nghề thủ công được truyền bá giữa các gia
đình thợ thủ công, dần được lan truyền rộng và phát triển trong cả làng, hay
nhiều làng gần nhau theo nguyên tắc truyền nghề. Và bởi những lợi ích khác
nhau do các nghề thủ công đem lại mà trong mỗi làng bắt đầu có sự phân hóa.
Nghề đem lại lợi ích phát triển mạnh dần, ngược lại những nghề mà hiệu quả
thấp hay không phù hợp với làng thì dần dần bị mai một. Từ đó bắt đầu hình

thành nên những làng nghề thủ công truyền thống chuyên sâu vào một nghề
duy nhất như: làng gốm, làng lụa, làng dệt.

8


Nghề thủ công là nghề sản xuất chủ yếu bằng tay và công cụ giản đơn
với con mắt và bộ óc của nghệ nhân và thợ kỹ thuật. Đối với mỗi nghề được
xếp vào các nghề thủ công truyền thống, nhất thiết phải có các yếu tố sau:
Một là, đã hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời ở nước ta hoặc là
một nghề mới từ địa phương khác mang đến song được các nghệ nhân ở nơi
cũ truyền đạt lại kinh nghiệm và kỹ xảo kinh nghiệm.
Hai là, sản xuất tập trung tạo thành các làng nghề, phố nghề.
Ba là, có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề.
Bốn là, kỹ thuật sản xuất tinh vi, chứa nhiều yếu tố kinh nghiệm từ đời
này sang đời khác và công nghệ khá ổn định.
Năm là, sử dụng nguyên liệu tại chỗ, trong nước hoàn toàn và chủ yếu
nhất. Nhìn chung nghề truyền thống được hình thành gắn liền với điều kiện tự
nhiên của vùng (đất đai, khí hậu, môi trường...) và như vậy nó gắn bó với
vùng nguyên liệu có tính đặc thù cho sản xuất.
Sáu là, sản phẩm sản xuất ra mang tính chất độc đáo vừa là hàng hóa,
vừa là sản phẩm văn hóa văn nghệ, kỹ thuật, mỹ thuật mang bản sắc văn hóa
dân tộc, có giá trị chất lượng cao và có vị trí cạnh tranh trên thị trường trong
nước và quốc tế.
Bảy là, là nghề nghiệp nuôi sống một bộ phận dân cư của cộng đồng,
có đóng góp đáng kể về kinh tế và ngân sách nhà nước, đồng thời nó còn sử
dụng lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp nông thôn và lao động thành thị.
1.3. Đặc điểm của làng nghề và làng nghề thủ công truyền thống.
1.3.1. Làng nghề và làng nghề thủ công truyền thống tồn tại ở nông thôn,
gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp

Các làng nghề xuất hiện và tồn tại trong từng làng xã ở nông thôn. Các
ngành nghề thủ công nghiệp tách dần khỏi nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp
và sản xuất kinh doanh thủ công nghiệp trong các làng nghề đan xen nhau.

9


Người thợ thủ công trước hết và đồng thời là người nông dân. Các gia
đình nông dân trước hết vừa làm ruộng vừa làm thủ công nghiệp. Sự ra đời
của các làng nghề đầu tiên là do giải quyết lao động phụ, lao động dư thừa lúc
nhàn rỗi giữa các vụ và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của từng gia đình và của
từng làng xã. Trong các làng nghề, người nông dân thường tự sản xuất, tự sửa
chữa đáp ứng nhu cầu ít ỏi hàng tiêu dùng thường ngày của chính mình.
1.3.2. Công nghệ, kỹ thuật sản xuất mang tính truyền thống
Công cụ lao động trong các làng nghề đa số là công cụ thủ công. Công
cụ sản xuất mang tính đơn chiếc. Có bước tiếp nối, truyền tải, kết tinh giá trị
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chất lượng sản phẩm của làng nghề không
phụ thuộc vào công cụ sản xuất hiện đại, có năng xuất cao, theo dây truyền
mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, bí quyết, tài hoa của người thợ chế tác đồ
thủ công.
1.3.3. Đại bộ phận nguyên liệu của làng nghề truyền thống là tại chỗ
Hầu hết các làng nghề truyền thống được hình thành xuất phát từ các
nguồn nguyên liệu tại chỗ, trên địa bàn địa phương, đặc biệt các nghề truyền
thống sản xuất các sản phẩm tiêu dùng như: đan lát mây, tre, dệt vải sản xuất
vật liệu xây dựng nguyên liệu thường có tại chỗ, trên địa bàn địa phương.
Một số ngành nghề còn dùng cả những phế phẩm, phế thải trong công
nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt để làm nguyên liệu sản xuất, nên chúng lại
càng có sẵn trên địa bàn.
1.3.4. Phần đông lao động trong làng nghề truyền thống là lao động thủ
công

Nhờ vào kĩ thuật khéo léo, tinh xảo của đôi bàn tay, đầu óc thẩm mỹ và
đầy sáng tạo của người thợ, của các nghệ nhân, phương pháp dạy nghề chủ
yếu lao động nhờ vào kĩ thuật khéo léo, tinh xảo. Trước kia, do trình độ kỹ
thuật và công nghệ chưa phát triển thì hầu hết các công đoạn trong quy trình

10


sản xuất đều là lao động thủ công đơn giản. Tuy nhiên, một số loại sản phẩm
còn có một số công đoạn quy trình sản xuất vẫn phải duy trì kĩ thuật lao động
thủ công tinh xảo. Hầu hết các làng nghề truyền thống dù hình thành bằng con
đường nào đi nữa thì chúng đều có các nghệ nhân làm cốt lõi và là người
hướng dẫn để phát triển làng nghề, truyền nghề, đem bí quyết nghề nghiệp ở
nơi khác về truyền cho làng mình.
1.3.5. Sản phẩm của làng nghề truyền thống mang tính đơn chiếc, có tính
mỹ thuật cao, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, địa phương, vùng miền
Mỗi sản phẩm làng nghề gắn với một làng nghề cụ thể, do đó mang
đậm nét độc đáo địa phương. Sự khéo léo của đôi bàn tay cùng với óc thẩm
mỹ của người nghệ nhân đã tạo ra sản phẩm thủ công độc đáo. Vì vậy mỗi
một sản phẩm làm ra không chỉ chứa đựng trong đó biết bao công sức, sự tài
hoa của người nghệ nhân mà còn mang trong nó những bản sắc đặc trưng
không thể thay thế của địa phương.
1.3.6. Hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề truyền thống chủ
yếu ở quy mô hộ gia đình, một số đã có sự phát triển thành tổ chức hợp tác
và doanh nghiệp tư nhân
Trong quá khứ cũng như hiện nay, hình thức tổ chức kinh doanh phổ
biến trong các làng nghề là hộ gia đình. Với hình thức này, hầu như tất cả các
thành viên trong hộ đều được huy động vào làm những công việc khác nhau
của quá trình sản xuất kinh doanh. Người chủ gia đình đồng thời là người thợ
cả, mà trong số họ có không ít những nghệ nhân, tùy theo nhu cầu công việc,

hộ gia đình có thể thuê mướn thêm người lao động thường xuyên hoặc lao
động thời vụ. Tổ chức kinh doanh theo hộ gia đình đảm bảo được sự gắn bó
giữa quyền lợi và trách nhiệm, huy động được mọi lực lượng có khả năng lao
động tham gia sản xuất kinh doanh, tận dụng được thời gian và nhu cầu đầu tư
thấp. Đây là hình thức tổ chức thích hợp với quy môn nhỏ. Tuy nhiên, mô

11


hình này hạn chế rất nhiều đến khả năng phát triển kinh doanh. Sản xuất theo
mô hình nhỏ khó có thể nhận được các hợp đồng đặt hàng lớn, không mạnh
dạn cải tiến sản phẩm, không đủ tầm nhìn để định hướng phát triển hoặc đề ra
những chiến lược kinh doanh cho sản phẩm của mình.
1.4. Vai trò của làng nghề truyền thống.
1.4.1. Vai trò của làng nghề truyền thống trong sự phát triển kinh tế xã hội
Phát triển làng nghề truyền thống góp phần quan trọng vào chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành nghề phi nông nghiệp trong tỷ
trọng kinh tế nông thôn. Tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động. Tăng thu
nhập cho người lao động trong làng nghề có thu nhập bằng 2,1 - 2,3 lần lao
động nông nghiệp thuần nông.
Góp phần hạn chế di dân tự do ra thành thị, giảm tệ nạn xã hội do
không có việc làm gây ra. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nhàn dỗi trong dân,
góp phần nâng cao phúc lợi xã hội.
Ngoài ra việc phát triển làng nghề truyền thống còn góp phần bảo tồn
các giá trị văn hóa dân tộc được hun đúc trong từng sản phẩm thủ công mỹ
nghệ truyền thống.
1.4.2. Vai trò làng nghề truyền thống đối với hoạt động du lịch
Giữa hoạt động du lịch và làng nghề truyền thống có mối quan hệ chặt
chẽ hữu cơ tác động qua lại lẫn nhau. Phát triển du lịch tại các làng nghề
truyền thống là giải pháp hữu hiệu để phát triển kinh tế xã hội làng nghề

truyền thống nói chung theo hướng tích cực và bền vững. Ngược lại làng nghề
truyền thống cũng là trung tâm thu hút khách du lịch và có tác động mạnh mẽ
trở lại khách du lịch trong mục tiêu phát triển chung.
Làng nghề truyền thống là một không gian văn hóa - kinh tế - xã hội
lâu đời, nó bảo lưu tinh hoa văn hóa từ đời này sang đời khác đúc kết bởi
nghệ nhân tài hoa. Môi trường văn hóa làng quê với cây đa bến nước sân

12


đình, các hoạt động lễ hội và phường hội, phong tục tập quán nếp sống đậm
nét văn hóa truyền thống. Tất cả những điều đó luôn luôn gắn kết với sự hình
thành và phát triển của các làng nghề truyền thống. Tạo ra nét văn hóa riêng
cho mỗi làng nghề truyền thống.
Phong cảnh làng nghề truyền thống cùng những giá trị chứa đựng bên
trong làng nghề truyền thống sẽ là điểm du lịch lí tưởng cho du khách, đặc
biệt là khách quốc tế đến tham quan, tìm hiểu, mua sắm tại các làng nghề.
Làng nghề truyền thống còn là nơi sản xuất ra những mặt hàng thủ
công mỹ nghệ có giá trị nghệ thuật cao, tiêu biểu độc đáo cho mỗi vùng miền,
địa phương. Vì vậy du khách đến với các điểm du lịch làng nghề truyền thống
còn mong muốn chiêm ngưỡng, mua sắm các sản phẩm thủ công làm vật kỷ
niệm trong chuyến đi của mình. Thực tế nhu cầu mua sắm của du khách là rất
lớn, làng nghề truyền thống sẽ đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu tinh thần và
vật chất đa dạng của du khách.
Nước ta có hàng nghìn, hàng vạn làng nghề thủ công truyền thống
thuộc các nhóm ngành nghề như mây tre đan, sơn mài, gốm sứ, thêu ren, đúc
đồng với sự đa dạng các làng nghề đã góp phần quan trọng trong việc giữ gìn
các giá trị truyền thống văn hóa, đồng thời là cơ sở để phát triển ngành du lịch
vốn thừa hưởng những thế mạnh văn hóa. Đi dọc suốt chiều dài của tổ quốc,
trên đất nước ta trải dài từ Bắc vào Nam có rất nhiều làng nghề thủ công

truyền thống tiêu biểu.
Miền Bắc có những làng nghề nổi tiếng như: lụa Vạn Phúc, gỗ Đồng
Kỵ, tranh Đông Hồ, gốm Bát Tràng, gốm Chu Đậu...
Miền Trung có làng nghề điêu khắc Mỹ Xuyên, làng đá Non Nước...
Miềm Nam và các tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long có kẹo dừa Bến
Tre, nem Lai Vũ, lụa Tân Châu. Chừng đó cái tên cũng đủ nói lên sự đa dạng
phong phú đầy tiềm năng để phát triển du lịch làng nghề.

13


Vùng quê Mỹ Đức cũng như nhiều miền quê khác trong cả nước, trải
qua nhiều thế hệ dựng nước và giữ nước, thông qua quá trình lao động sản
xuất phục vụ cho đời sống hàng ngày của người dân, làm nảy sinh nhu cầu
tiêu dùng về các sản phẩm thủ công. Làng nghề ra đời nhằm đáp ứng những
nhu cầu đó của con người.
Các sản phẩm thủ công truyền thống của mỗi làng nghề luôn tạo ra sự
hấp dẫn đối với du khách khi họ tới thăm mỗi làng nghề truyền thống của
huyện Mỹ Đức. Đến với làng nghề, du khách có thể cảm nhận một cách thực
thụ về các sản phẩm truyền thống. Có thể tận mắt chứng kiến quá trình tạo ra
sản phẩm. Từ đó du khách sẽ thấy cảm giác thích thú, thích khám phá sự mới
mẻ và có thể trực tiếp trải nhiệm, tham gia vào hoạt động sản xuất cùng với
mỗi người dân, người thợ thủ công. Có thể mua về những sản phẩm đặc trưng
làm quà tặng cho mỗi người thân trong gia đình. Chính vì vậy, du lịch tham
quan làng nghề truyền thống là một trong những loại hình du lịch mới đang
được đưa vào khai thác cho tour du lịch. Bởi vậy làng nghề truyền thống có
một ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động du lịch của huyện
Mỹ Đức.
Du lịch làng nghề truyền thống đã góp phần phát triển loại hình du lịch
“Du khảo làng quê”. Đây là một loại hình du lịch có thể giúp cho du khách có

được sự khám phá mới mẻ, sự trải nghiệm và sự gần gũi với thiên nhiên
hoang sơ. Đặc biệt trong loại hình lịch “Du khảo đồng quê” thì làng nghề
truyền thống cũng góp phần quan trọng trong việc giúp du khách trải nghiệm,
tham gia vào hoạt động sản xuất. Mỗi làng nghề truyền thống đều chứa đựng
trong đó những yếu tố văn hóa của mỗi làng nghề. Vì vậy chỉ khi tham gia
vào những tour du lịch này thì du khách mới có thể cảm nhận được những yếu
tố văn hóa của mỗi vùng miền.

14


Hệ thống làng nghề thủ công truyền thống huyện Mỹ Đức còn góp
phần làm tăng doanh thu không chỉ cho nhân dân mỗi làng nghề thông qua
tiêu thụ sản phẩm mà nó còn góp phần tăng doanh thu cho ngành du lịch
huyện Mỹ Đức, khi mà khách du lịch mua tour, tham gia vào hoạt động du
lịch tại các làng nghề truyền thống.
Phát triển làng nghề truyền thống không chỉ mang lại lợi ích kinh tế
góp phần phát triển hoạt động du lịch, mà còn là cơ hội để quảng bá hình ảnh
con người và đất nước Việt Nam trong đó có vùng quê Mỹ Đức.

15


CHƢƠNG 2
TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG DU LỊCH Ở CÁC LÀNG NGHỀ
THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG TẠI HUYỆN MỸ ĐỨC
2.1. Khái quát về huyện Mỹ Đức
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Huyện Mỹ Đức nằm ở phía Tây Nam của thủ đô Hà Nội, trước năm

2008, là một huyện của tỉnh Hà Tây cũ.
Vị trí của huyện:
Phía Đông giáp huyện Ứng Hòa, ranh giới là con sông Đáy.
Phía Bắc giáp huyện Chương Mỹ.
Phía Tây giáp các huyện của tỉnh Hòa Bình:
Lương Sơn (ở phía Tây Bắc).
Kim Bôi (ở phía chính Tây).
Lạc Thủy (ở phía Tây Nam).
Phía Đông Nam giáp huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam.
2.1.1.2. Địa hình và cảnh quan
Địa hình
Huyện Mỹ Đức là vùng huyện bán sơn địa, nằm ở phía Nam của đồng
bằng Bắc Bộ. Cũng là vùng chuyển tiếp giữa dãy núi đá vôi ở phía Tây và
đồng bằng phía Đông. Địa hình của huyện không đồng nhất, nơi cao, nơi thấp
chênh lệch nhau tương đối lớn.
Hướng nghiêng của địa hình từ Tây sang Đông và trải dài từ Bắc xuống
Nam. Nhìn chung địa hình của huyện được chia làm 3 dạng chính:
Phía Nam là vùng núi đá vôi với hang động karst có độ cao trung bình
so với mực nước biển là khoảng 100m - 200m.
Địa hình vùng úng trũng ngập nước nằm chuyển tiếp giữa núi đá vôi
phía Tây và đồng bằng phía Đông.

16


Địa hình đồng bằng phía Đông khá bằng phẳng, là nơi bắt đầu của vùng
châu thổ sông Hồng rộng lớn, có độ cao trung bình so với mực nước biển từ
3,8m - 7m.
Ở rìa phía Đông có sông Đáy chảy theo hướng từ Bắc xuống Nam sang
tỉnh Hà Nam.

Cảnh quan
Huyện Mỹ Đức có khu thắng cảnh Hương Sơn (Thiên Trù, suối Yến,
động Hương Tích) với diện tích hơn 4300 ha, có núi cao, rừng thẳm, suối dài,
được kết hợp hài hòa nổi lên giữa vùng đồng bằng lúa xanh bát ngát. Khu
danh thắng nằm ở rìa phía Tây Nam huyện, trên địa phận xã Hương Sơn, giáp
ranh giới với huyện Lạc Thủy - Hòa Bình.
Khu du lịch hồ Quan Sơn và nhiều hang động đẹp, đền, chùa mang tính
chất lịch sử được nhân dân tôn tạo như: động Linh Sơn, động Ngọc Long,
thung lũng Voi, chùa Linh Sơn.
Khu thắng cảnh chùa Cao, Chùa Hàm Rồng nằm ở rìa phía Tây huyện,
ở địa phận xã Hồng Sơn, Tuy Lai giáp ranh giới với huyện Kim Bôi.
Ven bờ con sông Đáy chảy qua địa bàn huyện là những cánh đồng dâu
xanh biếc, đông về hoa cải vàng nở rộ, ngập hai bên đê sông, tạo nên phong
cảnh quê hương thuần hậu, xanh mát.
Diện tích tự nhiên của huyện Mỹ Đức là 230,0 km².
2.1.1.3. Khí hậu
Khí hậu của Mỹ Đức chịu ảnh hưởng của nền khí hậu chung của miền
Bắc Việt Nam, là khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, có mùa đông khô lạnh với
chế độ sau đây:
Nhiệt độ, độ ẩm: Huyện Mỹ Đức có nền nhiệt trung bình trong năm là
23,5oC. Chênh lệch nhiệt độ giữa hai mùa nóng và lạnh trong năm khá lớn.
Độ ẩm tương đối ổn định, trung bình khoảng 83 - 85%.

17


Chế độ bức xạ: Trung bình trong năm có từ 20 đến 40 ngày nắng với số
giờ nắng dao động trong khoảng 67 - 69,5 giờ.
Chế độ gió: Khu vực này là vùng hoạt động của hai hướng gió chính:
hướng gió Đông Bắc và hướng gió Tây Nam.

Chế độ mưa: Do ảnh hưởng của hoạt động gió mùa, các vùng trong
huyện có mùa mưa và mùa khô rõ rệt. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng
10 với lượng nước chiếm từ 85 - 90% tổng lượng nước mưa cả năm. Mùa khô
kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau với lượng mưa chỉ chiếm từ 10 15% tổng lượng mưa của cả năm. Lượng mưa trung bình năm khoảng
1400mm - 1600mm.
Điều kiện khí hậu nơi đây khá ôn hòa, không khí trong lành, thuận lợi
cho hoạt động sản xuất tại các làng nghề trên toàn địa bàn huyện.
2.1.1.4. Dân cư
Huyện Mỹ Đức có dân số là 169.999 người (2009).
Hành chính
Huyện có 01 thị trấn và 21 xã:
Thị trấn Đại Nghĩa (thành lập năm 2003 trên cơ sở sáp nhập thị trấn Tế
Tiêu và xã Đại Nghĩa).
Xã An Mỹ, An Phú, An Tiến, Bột Xuyên, Đại Hưng, Đốc Tín, Đồng
Tâm, Hồng Sơn, Hợp Thanh, Hợp Tiến, Hùng Tiến, Hương Sơn, Lê Thanh,
Mỹ Thành, Phù Lưu Tế, Phúc Lâm, Phùng Xá, Thượng Lâm, Tuy Lai, Vạn
Kim, Xuy Xá.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Mỹ Đức là huyện thuộc vùng bán sơn địa, có địa hình đồng bằng và
một hệ thống núi đá vôi trải đều 40 km trên suốt chiều dài của huyện. Trên địa
bàn huyện có sông Đáy, sông Thanh Hà chảy qua. Đặc biệt sông Đáy xưa kia
từng là tuyến giao thông du lịch chính cho du khách thập phương về lễ hội
chùa Hương. Trong hệ thống núi đá vôi có nhiều hang động và một diện tích

18


các mặt hồ nước ngọt rộng lớn hàng ngàn hecta bao quanh. Những điều kiện
đó rất phù hợp cho việc phát triển kinh tế du lịch, dịch vụ.
Kinh tế của huyện Mỹ Đức chủ yếu là du lịch. Thế nhưng, bên cạnh du

lịch, huyện cũng tập trung phát triển các ngành kinh tế khác như nông nghiệp
và công nghiệp.
Trong những năm qua, huyện đã phát triển theo hướng khai thác những
lợi thế và tiềm năng sẵn có, đổi mới công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hóa
nông nghiệp nông thôn. Từ đó, huyện Mỹ Đức đã đẩy mạnh đầu tư nhiều mặt.
Từ việc xây dựng phương thức quản lí đến việc ổn định cơ chế, chính sách cụ
thể để khuyến khích phát triển từng cây con, từng vùng chuyên canh đưa
nhiều giống cây con, mới, chất lượng, năng suất cao vào sản xuất. Nhờ vậy
giá trị ngành nông nghiệp ngày càng cao, trong đó giá trị chăn nuôi chiếm tỉ
trọng lớn. Vùng trồng dâu nuôi tằm của huyện được duy trì, mở rộng diện
tích. Huyện đang đẩy mạnh tổ chức sản xuất các làng nghề truyền thống như
trồng dâu nuôi tằm, nghề dệt, nghề thêu đồng bộ với mở rộng thêm nghề mới
như mây tre đan.
Xác định trọng điểm phát triển kinh tế của mình là du lịch nên trong
những năm qua, Mỹ Đức đầu tư mạnh cơ sở vật chất, xây dựng, mở rộng
đường giao thông kết hợp chặt chẽ với văn hóa dịch vụ. Theo thông tin từ Ủy
Ban Nhân Dân huyện thì: “Đã tổ chức việc kiểm kê, tu bổ, bảo vệ hàng trăm
di tích đền, đình, chùa, nhà thờ. Huyện đã đầu tư xây dựng hệ thống điện,
đường, trường, trạm. Các lĩnh vực văn hóa xã hội cũng có nhiều chuyển biến
tích cực.
Để du lịch, dịch vụ thể hiện rõ vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn của
huyện, nắm bắt thời cơ, thu hút những nhà đầu tư thực sự có tầm cỡ, huyện
đang có chính sách kêu gọi đầu tư đồng bộ từ Trung ương và thành phố để
khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch từ những khu sinh thái Quan Sơn, Tuy

19


×