Tải bản đầy đủ (.pdf) (222 trang)

Nhu cầu tự khẳng định của sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 222 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THỦY

NHU CẦU TỰ KHẲNG ĐỊNH CỦA SINH VIÊN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THỦY

NHU CẦU TỰ KHẲNG ĐỊNH CỦA SINH VIÊN

Chuyên ngành: Tâm lí học
Mã số: 9 31 04 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS TRẦN HỮU LUYẾN

HÀ NỘI – 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, số
liệu nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Thủy


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NHU CẦU TỰ
KHẲNG ĐỊNH CỦA SINH VIÊN ............................................................................. 10
1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài .......................................................................... 10
1.2. Những nghiên cứu ở trong nước .......................................................................... 22
Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU VỀ NHU CẦU TỰ KHẲNG ĐỊNH
CỦA SINH VIÊN ....................................................................................................... 27
2.1. Nhu cầu ................................................................................................................ 27
2.2. Nhu cầu tự khẳng định ......................................................................................... 34
2.3. Nhu cầu tự khẳng định của sinh viên ................................................................... 37
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tự khẳng định của sinh viên ......................... 57
Chương 3. TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................... 63
3.1. Địa bàn và khách thể nghiên cứu ......................................................................... 63
3.2. Tổ chức nghiên cứu .............................................................................................. 65
3.3. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................... 72
Chương 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN VỀ NHU CẦU TỰ KHẲNG

ĐỊNH CỦA SINH VIÊN ............................................................................................ 80
4.1. Đánh giá chung thực trạng mức độ nhu cầu tự khẳng định của sinh viên ........... 80
4.2. Thực trạng mức độ từng mặt biểu hiện nhu cầu tự khẳng định của sinh viên ..... 83
4.3. Đánh giá các biểu hiện nhu cầu tự khẳng định của sinh viên xét theo các biến
độc lập ....................................................................................................................... 107
4.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tự khẳng định của sinh viên.. ....................... 19
4.5. Một số biện pháp cơ bản nhằm kích thích nhu cầu tự khẳng định của sinh viên 128
4.6. Phân tích trường hợp ………………………………………………………...128
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ............................. 150
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 151
PHỤ LỤC .................................................................................................................. 157


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Stt Chữ viết tắt

Xin đọc là

1

SV

Sinh viên

2

ĐTB

Điểm trung bình


3

TB

Trung bình

4

ĐH

Đại học

5

ĐHQGHN

Đại học Quốc gia Hà Nội

6

ĐHKHXH&NV

Đại học Khoa học xã hội và nhân văn

7

ĐHCNGTVT

Đại học Công nghệ giao thông vận tải


8

NXB

Nhà xuất bản

9

Stt

Số thứ tự


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Nhu cầu được yêu thương theo các quan điểm khác nhau ...........................
Bảng 2.2. Nhu cầu được tôn trọng theo các quan điểm khác nhau ..............................
Bảng 2.3. Nhu cầu tự thể hiện bản thân theo các quan điểm khác nhau ......................
Bảng 2.4. Mức độ nhu cầu tự khẳng định của sinh viên ..............................................
Bảng 3.1. Phân bố khách thể nghiên cứu theo giới tính, trường, năm học...................
Bảng 3.2. Thiết kế câu hỏi đo mức độ nhu cầu được công nhận mình ........................
Bảng 3.3. Thiết kế câu hỏi đo mức độ nhu cầu được thể hiện mình ............................
Bảng 4.1. Thực trạng chung về mức độ nhu cầu tự khẳng định của sinh viên.............
Bảng 4.2. So sánh giá trị trung bình giữa mức độ nhu cầu tự khẳng định của sinh
viên với các biến số giới tính, trường, năm học ............................................................
Bảng 4.3. Thực trạng mức độ nhu cầu được công nhận năng lực trong học tập, giao
tiếp và hoạt động xã hội ................................................................................................
Bảng 4.4. Thực trạng mức độ nhu cầu được yêu thương trong học tập, giao tiếp và
hoạt động xã hội ............................................................................................................
Bảng 4.5. Thực trạng mức độ nhu cầu được tôn trọng trong học tập, giao tiếp và

hoạt động xã hội ............................................................................................................
Bảng 4.6. Thực trạng mức độ nhu cầu được thể hiện năng lực trong học tập, giao
tiếp và hoạt động xã hội ................................................................................................
Bảng 4.7. Thực trạng mức độ nhu cầu được thể hiện sáng tạo trong học tập, giao
tiếp và hoạt động xã hội ................................................................................................
Bảng 4.8. Thực trạng mức độ nhu cầu được thể hiện quyết định trong học tập, giao
tiếp và hoạt động xã hội ................................................................................................
Bảng 4.9. Kiểm định tương quan giữa các biểu hiện nhu cầu tự khẳng định của sinh
viên ................................................................................................................................
Bảng 4.10. So sánh giá trị trung bình giữa mức độ nhu cầu được công nhận mình
với các biến độc lập .......................................................................................................
Bảng 4.11. So sánh giá trị trung bình giữa mức độ nhu cầu được thể hiện mình với
các biến độc lập .............................................................................................................
Bảng 4.12. So sánh trị trung bình mức độ biểu hiện nhu cầu tự khẳng định của sinh
viên trong các hoạt động lành mạnh và thiếu lành mạnh ..............................................
Bảng 4.13. Kết quả phân tích nhân tố của các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tự
khẳng định của sinh viên ...............................................................................................
Bảng 4.14. Kết quả phân tích hồi quy đa biến các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tự
khẳng định của sinh viên. ..............................................................................................


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
“Mục tiêu của tôi ở đời là gì? Tôi đang nỗ lực để làm gì? Mục đích của
tôi là gì? Đó là những câu hỏi mà mỗi người tự đặt ra cho mình lúc này hay
lúc khác, khi thì bình tĩnh và đăm chiêu, khi thì trong bấp bênh đau khổ hoặc
tuyệt vọng. Đó là những câu hỏi cũ, cũ rích đã được đặt ra và đã được giải
đáp ở mỗi thế kỷ trong lịch sử. Tuy nhiên, đó cũng là những câu hỏi mà mỗi
người phải đặt ra và giải đáp cho bản thân theo cách của riêng mình” [2, tr.
184].

Nhu cầu là khía cạnh tâm lí quan trọng hàng đầu của con người. Bởi lẽ,
nó là động lực thúc đẩy hoạt động, là nguồn gốc tính tích cực của con người.
Mỗi cá nhân có một hệ thống nhu cầu và nhu cầu của con người là không giới
hạn.
Nhu cầu tự khẳng định là nhu cầu chiếm một vị trí quan trọng trong hệ
thống các nhu cầu, là nhu cầu bậc cao của con người. Trong cuộc sống hàng
ngày, nhu cầu tự khẳng định thường xuyên xuất hiện. Theo Steele (1988), tự
khẳng định là cá nhân muốn bảo vệ tính toàn vẹn và giá trị của bản thân. Khi
cá nhân có lòng tự trọng cao, cá nhân ấy sẽ biết tự khẳng định mình nhiều hơn
các cá nhân khác [65]. Trong tâm lí học xã hội, tự khẳng định được xem xét
trong mối quan hệ với các thành tố khác cấu thành nên những tương tác đồng
đẳng với người khác. Nhiều nghiên cứu xếp tự khẳng định vào nhóm kỹ năng
xã hội và là một yếu tố quan trọng trong mối quan hệ với sự phát triển tương
tác [38, 53]. Như thế, nhu cầu tự khẳng định của con người nói chung, của SV
nói riêng phải được nghiên cứu trong mối quan hệ giữa SV với người khác và
liên quan đến năng lực của con người. Trên thực tế, xã hội ngày càng phát
triển, các khủng hoảng tâm lí ngày càng nhiều và con người luôn tìm cách trả
lời câu hỏi: Tôi là ai? Tôi có vị trí như thế nào trong gia đình, cộng đồng, xã
hội? Điều này đã thúc đẩy nhu cầu tự khẳng định ngày càng gia tăng.
1


Nhu cầu tự khẳng định tạo ra tính tích cực và động lực để cá nhân được
thể hiện bản thân, được khẳng định mình trong cuộc sống hay để họ sống và
làm việc theo đam mê và cống hiến hết mình cho xã hội. Như vậy, nếu cá
nhân có nhu cầu tự khẳng định cao, tức họ có đóng góp rất lớn cho sự phát
triển của nhân loại. Sự xuất hiện của nhu cầu tự khẳng định giúp con người
trở nên tự tin hơn, biết khẳng định mình nhiều hơn, xác định mục tiêu phấn
đấu rõ ràng và nỗ lực để thực hiện nó.
Sinh viên (SV) là những người đang chuẩn bị kiến thức và kinh nghiệm

để bước vào lao động nghề nghiệp. Trong quá trình học tập trên giảng đường,
cùng với việc cố gắng hoàn thành nhiệm vụ học tập, SV còn tham gia nhiều
các hoạt động khác như: hoạt động nghiên cứu khoa học, hoạt động hỗ trợ học
tập, hoạt động giao tiếp , hoạt động xã hội, thậm chí có cả hoạt động kiếm
sống...Với những hoạt động đặc thù này, SV phải tự khẳng định mình ở mỗi
một lĩnh vực là vô cùng cần thiết và quan trọng. Nói như thế để thấy, nhu cầu
tự khẳng định đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với con người nói chung
và đối với SV Việt Nam nói riêng. Với SV, nhu cầu tự khẳng định góp phần
phản ánh các đặc điểm tâm lí của SV, thúc đẩy SV phấn đấu trong học tập và
rèn luyện. Khi SV có nhu cầu tự khẳng định ở mức độ cao, SV ấy khao khát
được thể hiện tất cả năng lực, tính cách, trí tuệ của mình và đòi hỏi mọi người
phải công nhận năng lực,tính cách, trí tuệ ấy. Đặc biệt, khi SV có nhu cầu tự
khẳng định, SV có những động cơ phấn đấu rõ ràng, biết đặt ra mục tiêu để
quyết tâm đạt được những gì mình kỳ vọng. Như vậy, vai trò của nhu cầu tự
khẳng định đối với SV là không thể phủ nhận.
Trên thực tế, SV không chỉ tự khẳng định mình ở những hoạt động hữu
ích mà SV còn tự khẳng định mình ở những hoạt động thiếu lành mạnh. Họ
bỏ nhà ra đi, phá phách, sa vào các cuộc chơi nguy hiểm, ma túy, lô đề,
nghiện game... Rất nhiều bạn trẻ than rằng cha mẹ không hiểu mình. Các bạn
bị dồn nén như chiếc lò xo nên khi bung ra thì bật lên quá mạnh. Chỉ có một
2


cách, đó là các bạn tự khẳng định theo cách hiểu và suy nghĩ của riêng mình
[36].Theo kết quả điều tra của một số nghiên cứu gần đây, một trong các
nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghiện game, chơi lô đề, uống rượu, ... của SV
hiện nay là SV có những thất bại trong cuộc sống, có những bất ổn trong đời
sống tinh thần, không được tôn trọng dẫn đến mất tự tin, lo lắng và họ sử dụng
trò chơi trực tuyến, chơi lô đề, uống rượu ... như một cách khẳng định bản thân.
Nguyễn Hồi Loan cho biết:“Áp lực bài vở ở trường ngày càng nặng nề, cha mẹ

các em cấm đoán, sân chơi lành mạnh của các em thiếu... dẫn đến việc các em
tìm đến game online để giải tỏa, để khẳng định mình và ngày càng lún sâu”
[39,tr.55; 80]. Một trong những hấp dẫn của các hoạt động thiếu lành mạnh
này là SV được khẳng định mình qua những thành tích, thăng cấp, những lời
tung hô, thách đố từ bạn bè. Nhiều SV uống rượu, chơi lô đề, chơi game,
dùng đồ hàng hiệu... là để thể hiện bản thân, cá tính và để “khác người”.
Đã có không ít tác giả trên thế giới, trong nước nghiên cứu về nhu cầu
nói chung và chỉ ra được cấu thành, quá trình tâm lí... để phân tích nhu cầu.
Tuy nhiên, nghiên cứu về nhu cầu tự khẳng định ở Việt Nam với đối tượng là
SV lại chưa nhiều, chưa rõ và chưa thực sự được khuyến khích. Có thể nói,
nghiên cứu nhu cầu tự khẳng định được thực hiện ở Việt Nam với đặc trưng
của nền văn hoá Á Đông và được khảo sát trên SV - đối tượng có trình độ học
vấn cao và có những hiểu biết nhất định trong xã hội thì liệu mức độ biểu hiện
nhu cầu tự khẳng định có khác so với SV các nước phương Tây? Mức độ biểu
hiện nhu cầu tự khẳng định của SV trong các hoạt động lành mạnh sẽ khác
như thế nào so với mức độ biểu hiện nhu cầu tự khẳng định của SV trong các
hoạt động thiếu lành mạnh? Liệu biến số nào có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến
nhu cầu tự khẳng định của SV?
Xuất phát từ những lí do đó, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu của luận
án là: Nhu cầu tự khẳng định của sinh viên.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
3


2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng nhu cầu tự khẳng định của
SV, luận án sử dụng một số biện pháp tác động sư phạm như: tổ chức hoạt
động nhóm, câu lạc bộ, tham vấn tâm lí cá nhân, từ đó đề xuất một số kiến
nghị nhằm kích thích nhu cầu tự khẳng định của SV.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

2.2.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu
2.2.2. Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu nhu cầu tự khẳng định của
SV gồm các khái niệm: nhu cầu, nhu cầu tự khẳng định, nhu cầu tự khẳng
định của SV, các biểu hiện nhu cầu tự khẳng định của SV và các yếu tố chủ
quan, yếu tố khách quan ảnh hưởng đến nhu cầu tự khẳng định của SV.
2.2.3. Làm rõ thực trạng mức độ nhu cầu tự khẳng định của SV tại một
số trường Đại học ở Hà Nội và thực trạng những yếu tố ảnh hưởng đến nhu
cầu tự khẳng định của SV ở các trường xem xét.
2.2.4. Tiến hành tham vấn tâm lí thông qua 02 trường hợp điển hình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện và mức độ nhu cầu tự khẳng định của SV.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi nội dung nghiên cứu
Luận án chỉ tập trung nghiên cứu 02 biểu hiện cơ bản cấu thành nhu
cầu tự khẳng định của SV: (1) Nhu cầu được công nhận mình; (2) Nhu cầu
được thể hiện mình.
Các yếu tố ảnh hưởng cũng rất đa dạng, tuy nhiên trong giới hạn của
luận án chúng tôi tập trung tìm hiểu một số yếu tố bao gồm:
Nhóm các yếu tố chủ quan: (1) Năng lực học tập; (2) Niềm tin; (3)
Quyết tâm;

4


Nhóm các yếu tố khách quan: (5) Gia đình; (6) Nhà trường – nhóm
bạn.
3.2.2. Địa bàn nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
3.2.2.1. Địa bàn nghiên cứu
Luận án khảo sát tại Khoa Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, trường

Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội và trường
Đại học Công nghệ giao thông vận tải.
Lí do lựa chọn địa bàn khảo sát : Khoa Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà
Nội, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
và trường Đại học Công nghệ giao thông vận tải đều thể hiện tính đa dạng
trong các chuyên ngành đào tạo. Do vậy khi khảo sát thực tiễn, luận án thu
được số liệu mang tính đại diện về nhu cầu tự khẳng định của SV ở nhiều
ngành nghề khác nhau.
3.2.2.2. Khách thể nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu định lượng:
- 422 SV từ năm thứ nhất đến năm thứ tư thuộc 03 địa bàn khảo sát
trên.
* Khách thể phỏng vấn sâu:
- 15 SV, gồm: 5 SV của Khoa Quốc tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, 5 SV
trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội và 5 SV
trường Đại học Công nghệ giao thông vận tải.
- 6 giảng viên, gồm: 2 giảng viên của Khoa Quốc tế - Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2 giảng viên trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học
Quốc gia Hà Nội và 2 giảng viên trường Đại học Công nghệ giao thông vận tải.
* Khách thể nghiên cứu trường hợp
Luận án sử dụng tham vấn tâm lí trên 02 khách thể thuộc Khoa Quốc tế
- Đại học Quốc gia Hà Nội để nghiên cứu trường hợp điển hình.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
5


4.1. Phương pháp luận nghiên cứu
- Nguyên tắc hoạt động: Hoạt động của con người quyết định và tạo ra
nhu cầu, nhu cầu được thể hiện trong hoạt động. Nghiên cứu nhu cầu tự
khẳng định của SV được tiến hành nghiên cứu thông qua một số hoạt động

thực tiễn chính: Hoạt động học tập, hoạt động giao tiếp và hoạt động xã hội.
- Nguyên tắc tiếp cận hệ thống: Nghiên cứu nhu cầu tự khẳng định của
SV trong mối liên hệ qua lại, biện chứng giữa các yếu tố tâm lí của SV và các
yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tự khẳng định của SV. Trong luận án này, nhu
cầu tự khẳng định được xem xét như là kết quả tác động có hệ thống của tất
cả các yếu tố chứ không phải của từng yếu tố riêng lẻ.
- Nguyên tắc phát triển: Bản chất của sự hình thành và phát triển tâm lý
là quá trình liên tục tạo ra những cấu tạo tâm lý mới. Vì vậy, khi nghiên cứu
về nhu cầu tự khẳng định của SV phải nghiên cứu trong sự vận động, biến đổi
và phát triển của xã hội và dưới sự tác động của nhiều yếu tố. SV càng tích
cực hoạt động, có niềm tin và ý chí quyết tâm thì nhu cầu tự khẳng định của
SV càng cao và ngược lại.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu;
4.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi;
4.2.3. Phương pháp quan sát;
4.2.4. Phương pháp tham vấn tâm lí;
4.2.5. Phương pháp chuyên gia;
4.2.6. Phương pháp phỏng vấn sâu;
4.2.7. Phương pháp nghiên cứu trường hợp;
4.2.8. Phương pháp thống kê số liệu bằng thống kê toán học.
4.3. Giả thuyết khoa học
4.3.1. Nhu cầu tự khẳng định của SV được biểu hiện ở nhiều chiều
cạnh khác nhau, trong đó nổi bật lên là biểu hiện về nhu cầu được công nhận
6


mình và nhu cầu được thể hiện mình. Các biểu hiện này có mối quan hệ và
thể hiện ở các mức độ khác nhau, trong đó mức độ biểu hiện về nhu cầu được
thể hiện mình đạt ở mức cao hơn so với nhu cầu được công nhận mình.

4.3.2. Nhu cầu tự khẳng định của SV chịu ảnh hưởng bởi yếu tố chủ
quan (Năng lực học tập; niềm tin; quyết tâm) và các yếu tố khách quan (Gia
đình; nhà trường – nhóm bạn). Các yếu tố này có mối tương quan thuận với
các mặt biểu hiện nhu cầu tự khẳng định của SV. Trong đó, niềm tin là yếu tố
có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến nhu cầu tự khẳng định của SV.
4.3.3. Có thể kích thích nhu cầu tự khẳng định của SV bằng tham vấn
tâm lí thông qua nghiên cứu 2 trường hợp điển hình.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Xây dựng được bộ công cụ để đo mức độ và các mặt biểu hiện nhu cầu
tự khẳng định của SV.
Xác định được các yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu tự khẳng định của SV
và mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố tới nhu cầu tự khẳng định của SV.
Khẳng định tính khả thi khi sử dụng tham vấn tâm lí, nhằm kích thích
nhu cầu tự khẳng định của SV thông qua 2 trường hợp điển hình.
Tóm lại, luận án đã có những đóng góp đáng kể về mặt khoa học cho
nhu cầu tự khẳng định nói chung và tâm lí học nước nhà nói riêng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về lý luận
Ở Việt Nam những nghiên cứu về nhu cầu tự khẳng định của SV còn
rất ít ỏi. Việc xác định khái niệm, biểu hiện, yếu tố ảnh hưởng nhu cầu tự
khẳng định của SV là vấn đề khá mới của nước ta hiện nay. Trong giới hạn
phạm vi của luận án, chúng tôi đã có những đóng góp về mặt lý luận như sau:
Xác định được khái niệm nhu cầu tự khẳng định của SV. Chỉ ra 2 biểu
hiện cơ bản cấu thành nhu cầu tự khẳng định của SV: (1) Nhu cầu được công
nhận mình; (2) Nhu cầu được thể hiện mình.
7


Xác định được tiêu chí, mức độ và các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tự
khẳng định của SV.

6.2. Về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra thực trạng chung, thực trạng mức độ
từng biểu hiện nhu cầu tự khẳng định của SV đều đạt ở mức trung bình.
Phát hiện các yếu tố ảnh hưởng nhu cầu tự khẳng định của SV. Gia
đình, nhà trường – nhóm bạn là yếu tố có ảnh hưởng mạnh nhất đến nhu cầu
tự khẳng định của SV. Như vậy, kết quả nghiên cứu thực tiễn nhấn mạnh vai
trò của giáo dục gia đình, sự quan tâm, khích lệ của cha mẹ, sự phối kết hợp
giữa gia đình, nhà trường – nhóm bạn để kích thích nhu cầu tự khẳng định của
SV.
SV nam có nhu cầu tự khẳng định trong các hoạt động lành mạnh và
thiếu lành mạnh cao hơn SV nữ. Từ kết quả này, chúng tôi cho rằng các cấp
quản lí cần quan tâm đến SV nam và hướng SV nam tham gia các hoạt động
mang tính chất lành mạnh hơn.
SV nữ, SV ngành nhân văn, kĩ thuật, SV năm thứ nhất, thứ hai là đối
tượng SV có nhu cầu tự khẳng định thấp hơn so với nhóm SV nam, SV ngành
kinh tế, kế toán, SV năm thứ ba và thứ tư. Do đó, các cấp quản lí cần hướng
SV nữ, SV ngành nhân văn, kĩ thuật, SV năm thứ nhất và thứ hai tích cực hơn
nữa trong việc tham gia câu lạc bộ, các hoạt động nhóm.
Luận án khẳng định tính hiệu quả của biện pháp tham vấn tâm lí khi
nghiên cứu 02 trường hợp điển hình. Thông qua đó, luận án đã tìm hiểu sâu
hơn về mức độ nhu cầu tự khẳng định, các biểu hiện, nguyên nhân và giải
pháp giúp kích thích nhu cầu tự khẳng định ở các trường hợp xem xét.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục công trình của tác
giả, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương:

8


- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu nhu cầu tự khẳng định của

sinh viên
- Chương 2: Cơ sở lý luận nghiên cứu nhu cầu tự khẳng định của sinh
viên
- Chương 3: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
- Chương 4: Kết quả nghiên cứu thực tiễn nhu cầu tự khẳng định của
sinh viên.

9


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NHU CẦU
TỰ KHẲNG ĐỊNH CỦA SINH VIÊN
1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1. Những nghiên cứu về nhu cầu
1.1.1.1. Hướng phân tích bản chất tâm lý của nhu cầu
Tác giả Uznatze (1978) phân loại hành vi của con người: cần xuất phát
từ cái gì trong khi phân loại các hình thái hành vi người. Vấn đề động cơ hay
nguồn gốc tính tích cực có ý nghĩa cơ bản và ở đây khái niệm nhu cầu phải
giữ vai trò quyết định [20]. Như vậy, Uznatze cho rằng nhu cầu là yếu tố
quyết định tạo nên tính tích cực, nó xác định xu hướng, tính chất hành vi. Từ
quan niệm này, ông và cộng sự đưa ra thuyết tâm thế: nhu cầu thống nhất với
hoàn cảnh thì tạo ra tâm thế. Tâm thế là trạng thái tích cực tâm lý của hành vi.
Tác giả Leonchiev (1989) cho rằng: Nhu cầu thực sự bao giờ cũng phải
là nhu cầu về một cái gì đó, và một trạng thái có tính nhu cầu nhưng lại chứa
đựng nội dung đối tượng thì không thể là một nhu cầu ở cấp độ tâm lý, đó là
trạng thái nhu cầu “trần trụi” của chủ thể, là cái trừu tượng. Ông viết: Sở dĩ
những cái trừu tượng này xuất hiện trên sân khấu là do việc tách rời nhu cầu
khỏi hoạt động có đối tượng của chủ thể [25].
Ngoài ra, A.N.Lêônchiev (1989) còn cho rằng: “Nhu cầu gặp đối tượng

là hiện tượng kỳ thú nhất trong tâm lý học! Nó tác động làm chủ thể “bị đối
tượng hóa”. Như vậy nhu cầu muốn hướng được hoạt động thì phải đối tượng
hóa trong một khách thể nhất định. Muốn được như vậy thì đương nhiên chủ
thể phải thực hiện một hoạt động tương ứng với khách thể, mà trong khách
thể này có nhu cầu đối tượng hóa trong đó. A.N.Lêônchiev phê phán việc
nghiên cứu nhu cầu tách rời khỏi hoạt động [25]. Mối liên hệ giữa nhu cầu và
hoạt động được A.N.Lêônchiev mô tả bằng sơ đồ: Hoạt động – Nhu cầu –

10


Hoạt động. Ông cho rằng luận điểm này đáp ứng quan niệm macxit về nhu
cầu, rằng nhu cầu của con người thì được sản xuất ra.
Tác giả A.N.Lêônchiev còn viết: “Sự biến hóa của nhu cầu, nội dung
đối tượng của nhu cầu chính là sự phát triển của động cơ. Do vậy, có thể nói
sự phân tích các nhu cầu về mặt tâm lý học không thể tránh khỏi việc chuyển
thành sự phân tích các động cơ hoạt động” [25; tr.228]. Như vậy, nội dung đối
tượng của nhu cầu chính là động cơ của hoạt động.
Theo tác giả Miaxisep (2007), mọi nhu cầu, mọi chức năng tâm lí cấp
cao của con người, từ đơn giản đến phức tạp đều có liên quan đến hệ thống
thái độ dưới một hình thức nào đó. Ông cho rằng, hệ thống thái độ được hình
thành theo cơ chế “chuyển từ ngoài vào trong”, thông qua hoạt động có ý thức
của cá nhân trong các mối quan hệ xã hội mà nó gia nhập vào. Miaxisep đặc
biệt nhấn mạnh “thái độ đánh giá” như một phạm trù rất quan trọng, có tính
chất nền tảng khi bàn tới nhu cầu, động cơ, nhân cách [40, tr. 39]. Dựa trên
quan điểm của Miaxisep, chúng tôi cho rằng, chỉ trên cơ sở đánh giá đúng
đắn, chính xác bản thân trong mối quan hệ với người khác, với nhóm và cộng
đồng mà mình là thành viên, cá nhân mới có điều kiện xác định chính xác giá
trị xã hội của bản thân là tích cực hay tiêu cực. Trên cơ sở ấy, cá nhân điều
khiển, điều chỉnh những phẩm chất nhân cách của mình sao cho phù hợp với

các chuẩn mực xã hội. Thông qua đó, cá nhân khẳng định nhu cầu, năng lực
và giá trị xã hội của bản thân. Như vậy, theo tác giả Miaxisep, nghiên cứu nhu
cầu phải gắn liền với hệ thống thái độ, với hoạt động có ý thức của con người
trong mối quan hệ mà cá nhân đó gia nhập vào.
Do không chấp nhận các yếu tố bên trong (nhu cầu, động cơ, ý thức…)
là đối tượng nghiên cứu của mình nên thực chất, Watson và Skinner đều
không chuyên tâm nghiên cứu nhu cầu, động cơ, nhân cách. Theo tác giả
Watson, Skinner, nhân cách chỉ là một cấu trúc của những hành vi vận hành
(Skinner) hoặc chỉ là sự tích lũy các phản ứng tập nhiễm được củng cố, đã trở
11


thành hệ thống thói quen [40, tr.119]. Như vậy, dựa theo quan điểm của
Watson, Skinner, chúng tôi cho rằng, nhu cầu, động cơ, nhân cách của con
người là cái có thể quan sát được, hành vi chỉ được giải thích bởi những
nguyên nhân bên ngoài. Bandura và Rotter đều nhận thấy khiếm khuyết cơ
bản trong hệ thống lý luận của Skinner, Watson là phủ nhận hoàn toàn vai trò
của các yếu tố nhu cầu, động cơ. Do vậy, cả hai tác giả Bandura và Rotter
hiểu nhân cách như là một “hệ thống bản thân nội tại”, “là tập hợp các cơ cấu
nhận thức” dẫn đến quá trình đánh giá những kích thích đến từ môi trường, tự
đánh giá bản thân, tự phản ứng… [40]. Nổi bật trong quan điểm của Rotter về
nhu cầu, động cơ, về nhân cách của con người là: Con người không phải là
nạn nhân thụ động của những sự kiện bên ngoài (môi trường), sự thừa kế (di
truyền) hoặc bị cầm tù bởi những kinh nghiệm thời thơ ấu mà tự do trong việc
tạo ra hiện tại và tương lai của mình.
Như vậy, có khá nhiều quan điểm khác nhau khi phân tích bản chất tâm
lí của nhu cầu. Tác giả Miaxisep cho rằng nghiên cứu nhu cầu phải gắn liền
với thái độ, với hoạt động có ý thức của con người. Leonchiev thì đặc biệt chú
trọng mối quan hệ giữa nhu cầu và hoạt động. Uznatze lại nhấn mạnh nhu cầu
là yếu tố quyết định tạo nên tính tích cực của con người. Bên cạnh đó,

Watson, Skinner chưa thực sự coi trọng nhu cầu – các yếu tố tâm lí bên trong
và cả hai đều cho rằng, nhu cầu là cái có thể quan sát được. Với quan điểm
của Bandura, Rotter khi nghiên cứu nhu cầu, cả hai nhà nghiên cứu đều nhấn
mạnh tầm quan trọng của năng lực con người trong việc tự tạo ra tương lai
cho mình. Chúng tôi đồng tình với quan điểm của tâm lý học hoạt động khi
cho rằng, nhu cầu là yếu tố quyết định tạo nên tính tích cực, nó quyết định xu
hướng, tính chất hành vi của con người. Bên cạnh đó, cách tiếp cận này còn
cho rằng, nghiên cứu nhu cầu phải gắn liền với hoạt động và nhu cầu là những
đòi hỏi khách quan của mỗi người trong những điều kiện cụ thể đảm bảo cho
sự tồn tại và phát triển.
12


1.1.1.2. Hướng chú trọng nhu cầu tự do cá nhân
Tác giả S.Freud coi nhu cầu tự do của cá nhân như các nhu cầu tự
nhiên của con người, coi nhu cầu của con người thuần túy mang tính chất sinh
học, chủ yếu được điều khiển bởi bản năng tính dục. Việc thỏa mãn nhu cầu
tự do sẽ giải phóng năng lượng tự nhiên và như thế tự do cá nhân thực sự
được tôn trọng. Kìm hãm nhu cầu này dẫn đến mất định hướng của con người
[40]. Như vậy, theo chúng tôi hiểu Freud cho rằng, nguồn gốc hành vi của con
người bắt nguồn từ bản năng sinh học tức lực vận động hành vi con người
nằm trong bản năng. Ông khẳng định rằng, tất cả hành vi của con người đều
hướng tới việc mong muốn thỏa mãn nhu cầu khoái lạc của cơ thể.
Trong lịch sử tâm lý học nói riêng và lịch sử khoa học nói chung, có lẽ
không có hệ thống lý thuyết nào lại gây ra nhiều tranh cãi mạnh mẽ như hệ
thống lý luận phân tâm của S. Freud. Những người ca ngợi ông thì đặt ông
ngang hàng với các vĩ nhân vì đã có những sáng tạo vĩ đại có tác dụng chi
phối lịch sử tư duy của thế giới. Ngược lại, những người phản đối ông thì
dành cho ông mọi sự xúc phạm nặng nề nhất, gán cho ông đủ loại tính từ xấu
xa nhất mà trong ngôn ngữ của họ có thể có [40]. Như vậy, vượt lên trên mọi

sự tranh cãi, lý thuyết phân tâm của Freud đã chứng tỏ sức sống của nó không
chỉ trong lĩnh vực tâm lý học, mà còn trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau của
cuộc sống. Cho đến ngày nay lý thuyết phân tâm của Freud vẫn đang được
thừa nhận là tri thức phổ biến của nhân loại.
Ngược lại với quan điểm của Phân tâm học, những nghiên cứu của
Allport nhấn mạnh tới sự quyết định của ý thức, của động cơ và của sự quan
tâm tích cực. Ông cho rằng, ở những năm đầu đời của trẻ, nếu như mẹ mang
lại cho nó đầy đủ sự yêu thương và cảm giác an toàn, thì cái tôi của nó sẽ phát
triển từng bước một cách thuận lợi và ổn định, đứa trẻ sẽ đạt đến sự phát triển
tích cực về mặt tâm lí. Những động cơ thời thơ ấu sẽ tự do chuyển sang
những động cơ mang tính tự chủ chức năng ở tuổi trưởng thành [40, tr. 124].
13


Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, ý tưởng của ông về tính tự trị chức năng của
động cơ còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Chẳng hạn, bằng cách nào
một động cơ gốc có thể chuyển hóa thành một động lực tự chủ? Làm thế nào
để có thể dự đoán được động cơ nào thời thơ ấu sẽ tự do trở thành tự chủ ở
tuổi trưởng thành… Mặc dù còn nhiều tồn tại chưa được giải quyết, nhưng
quan điểm của Allport vẫn được cộng đồng khoa học thừa nhận là có đóng
góp quan trọng và thú vị.
Tư tưởng của các nhà tâm lý học nhân văn là tôn trọng con người, tôn
trọng giá trị sáng tạo và trách nhiệm con người, tôn trọng các phẩm giá cá
nhân của con người, coi hiện tượng là cơ bản duy nhất trong đời sống con
người. Trong quan điểm của Rogers, nổi lên khái niệm “khuynh hướng hiện
thực hóa”. Khuynh hướng hiện thực hóa được Rogers hiểu là động cơ bản
năng của con người nhằm hiện thực hóa, duy trì và củng cố cái tôi. Theo
Rogers, việc cha mẹ và người chăm sóc đáp ứng như thế nào nhu cầu về sự
quan tâm tích cực của trẻ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự phát triển
“cái tôi” của nó. Nhu cầu về sự quan tâm tích cực được hiểu là nhu cầu được

thừa nhận, được yêu thương và được ủng hộ từ những người khác. Rogers đặc
biệt nhấn mạnh vai trò của nhận thức, đặc biệt là tự nhận thức, tự chịu trách
nhiệm về sự biến đổi và cải thiện nhân cách của mình ở mỗi người để trở
thành người có đầy đủ chức năng mà ông cho là mục đích quan trọng nhất của
cả một đời người [40, tr. 135]. Như vậy, dựa trên quan điểm của Rogers,
chúng tôi cho rằng, Rogers đặc biệt chú trọng phát triển nhân cách con người
như nó vốn có, tôn trọng các phẩm giá của con người và sự tự do phát triển
nhân cách con người theo cái mà họ hướng đến. Những quan điểm của Carl
Rogers về vấn đề nhân cách trong ngành tâm lí học còn nhiều ý kiến trái chiều
nhưng nhìn chung, những đóng góp của ông cho tâm lí học thế giới là không
thể phủ nhận.

14


Như vậy, các quan điểm được nêu ở trên đều ít nhiều nhấn mạnh và
khẳng định tầm quan trọng của nhu cầu tự do của cá nhân, coi nhu cầu tự do
của cá nhân là nhu cầu tự nhiên của con người. Trong các quan điểm đó,
chúng tôi đồng tình với quan điểm của Rogers hơn cả, bởi lẽ việc nhận thức,
đặc biệt là tự nhận thức, tự chịu trách nhiệm có vai trò rất to lớn nhằm hiện
thực hóa, duy trì và củng cố cái tôi của mỗi người.
1.1.1.3. Hướng nhìn nhận nhu cầu của con người theo hình thái phân
cấp
Tác giả Maslow đã chia nhu cầu thành 5 mức. Cụ thể như sau [40, tr.
125]:
- Mức thứ nhất: Các nhu cầu sinh lý, là nhu cầu cơ bản để duy trì cuộc
sống của con người, như: nhu cầu ăn, nước uống, nhà ở, tình dục… Maslow
cho rằng khi các nhu cầu sinh lý này chưa được thỏa mãn tới mức độ cần thiết
thì những nhu cầu khác sẽ không có tác dụng thúc đẩy hoạt động của con
người.

- Mức thứ hai: Các nhu cầu an ninh, an toàn là nhu cầu tránh sự nguy
hiểm về thân thể, sự đe dọa mất việc làm, tài sản.
- Mức thứ ba: Các nhu cầu xã hội, là nhu cầu về giao lưu, giao tiếp với
người khác và được người khác thừa nhận.
- Mức thứ tư: Các nhu cầu được tôn trọng, là xu thế muốn được độc
lập, muốn được người khác tôn trọng khi được chấp nhận là thành viên của xã
hội. Đó là nhu cầu về quyền lực, uy tín, địa vị và lòng tự tin.
- Mức thứ năm: Các nhu cầu hiện thực hóa bản thân, là các mong muốn
thể hiện khả năng, năng lực, bộc lộ hết tiềm năng của mình ở mức tối đa
nhằm thực hiện mục tiêu nào đó. Nhu cầu này được Maslow xếp ở vị trí cao
nhất trong bậc thang các nhu cầu. Các mức độ trên được sắp xếp thành tháp
nhu cầu.

15


Trong nghiên cứu của mình, Maslow khẳng định: những nhu cầu càng
ở bậc thấp thì sức mạnh của nó càng lớn, càng ở những bậc thang cao thì sức
mạnh của nó càng yếu hơn. Ông gọi những nhu cầu ở bậc thang thấp là những
nhu cầu bị thiếu hụt. Trái lại, những nhu cầu ở bậc thang cao do ít cần thiết
cho sự tồn tại nên việc thỏa mãn những nhu cầu này có thể được trì hoãn
(không nhất thiết phải thỏa mãn ngay). Tuy nhiên, việc thỏa mãn những nhu
cầu ở bậc cao lại quan trọng cho sự phát triển của cá nhân. Do vậy, ông gọi
những nhu cầu này là nhu cầu phát triển. Từ ý tưởng này, Maslow đưa ra
những khái niệm như “siêu nhu cầu”, “siêu động cơ”, “người tự chủ bản thân”
[40, tr. 127].
Bên cạnh đó, Maslow cho rằng tâm lý tự bằng lòng mỗi khi những nhu
cầu ở bậc thang thấp được thỏa mãn cũng làm cho con người dừng lại, cảm
thấy mãn nguyện không muốn lao vào những thử thách mới nhằm tự khẳng
định bản thân. Do đó, ông cho rằng, sự khẳng định bản thân đòi hỏi sự dũng

cảm, cần sự nỗ lực, rèn luyện và tự chủ. Sự tự khẳng định bản thân sẽ không
thể có ở những người thích an phận, mà nó chỉ có ở những cá nhân tự tin và
thích lao vào các thử thách mới [40; tr. 128].
Với tác giả Murray (1996), ông đã chia nhu cầu con người thành 20
loại khác nhau: nhu cầu về quyền lực, nhu cầu làm tổn thương người khác,
nhu cầu tìm kiếm các mối quan hệ bạn bè, nhu cầu bỏ rơi người khác, nhu cầu
muốn vượt qua mọi quy định, quy tắc ràng buộc bản thân, lấy mình làm trung
tâm, nhu cầu phục tùng một cách thụ động, nhu cầu tôn trọng ủng hộ, nhu cầu
tự khẳng định (muốn chiến thắng, đánh bại, vượt trội hơn người khác, muốn
làm một cái gì đó nhanh chóng và tốt đẹp, muốn đạt trình độ cao trong công
việc), nhu cầu trở thành trung tâm của sự chú ý, nhu cầu được chơi bời giải
trí, nhu cầu đặt quyền lợi của mình lên trên tất cả, nhu cầu hướng ngoại, nhu
cầu tìm kiếm sự giúp đỡ, nhu cầu muốn giúp đỡ, nhu cầu tránh bị trách phạt,
nhu cầu phòng vệ, nhu cầu tránh thất bại, nhu cầu an toàn, nhu cầu ngăn nắp,
16


nhu cầu phán đoán. Ông cho rằng, nhu cầu tự khẳng định nằm trong nhu cầu
thứ phát, đồng thời cũng là nhu cầu tiềm tàng của con người – đặc trưng riêng
của con người như một tồn tại xã hội [69].
Tóm lại, các nhà tâm lý học Freud, Maslow, Murray… đã có những
quan điểm khác nhau khi nghiên cứu về nhu cầu. Tuy không dễ dàng bác bỏ
quan điểm của họ nhưng cũng có một số vấn đề cần bàn như: Có phải việc
thỏa mãn nhu cầu tự do cá nhân (nhu cầu tình dục) là động lực thúc đẩy duy
nhất con người hoạt động theo quan niệm của Freud, hay các nhu cầu bậc cao
của con người có nhất thiết phải tuân theo tầng bậc như theo quan niệm của
Maslow hay không?… Vấn đề nhu cầu theo quan niệm của các nhà tâm lý
học phương Tây còn nhiều bàn cãi, tuy nhiên tựu chung lại, họ có chung một
quan điểm, đó là: Nhu cầu của con người là những đòi hỏi tất yếu khách quan
được con người phản ánh trong những điều kiện cụ thể, cần được thỏa mãn để

đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của họ.
1.1.2. Những nghiên cứu về nhu cầu tự khẳng định của sinh viên
1.1.2.1. Hướng nghiên cứu nhu cầu cái tôi
Theo tác giả Ellsworth Faris (2000), “cái tôi là những cảm nhận về bản
thân”. Nó là một trong những yếu tố nền tảng mà không ai có thể phân tích
thỏa đáng. Không thể định nghĩa được cái tôi cũng như không thể định nghĩa
được màu đỏ. Song chúng ta lại nhận biết được cả hai thứ đó [8, tr.327]. Đây
là một quan niệm chưa rõ ràng trong sự lí giải về quan niệm cái tôi. Quan
điểm này đã rơi vào chủ nghĩa “không thể biết”, đi ngược lại với quan điểm
của chủ nghĩa duy vật biện chứng (con người có thể nhận thức và cải tạo thế
giới).
Theo quan điểm của chủ nghĩa hành vi, cái tôi chính là sự tự đo lường
bản thân. Chủ nghĩa hành vi quan tâm đến việc xem xét cái tôi được đo lường
như thế nào. Quá trình tự trau dồi bản thân và những hành vi tự trừng phạt
được coi là vấn đề nổi bật trong quan niệm về cái tôi [8, tr.327].
17


Các nhà tâm lí học W. James, J. H. Mead, C. H Colley (2000) đưa ra
lập luận, ở trong mỗi cá nhân có rất nhiều cái tôi khác nhau bởi vì mỗi cá
nhân tham gia ở nhiều nhóm xã hội khác nhau. Họ phải chấp hành những luật
lệ của nhóm, trong đó họ là thành viên. Tuy nhiên, hành vi của mỗi cá nhân
có thể thay đổi sao cho phù hợp với hoàn cảnh đặt ra. Chẳng hạn, một đứa trẻ
có thể có cách xử sự hoàn toàn khác so với bố mẹ. Hoặc một thầy giáo luôn
được học sinh quý mến tôn trọng lại bị bạn gái né tránh hoặc không thừa
nhận. Từ hai thái độ này người thầy giáo có hai xu hướng đánh giá về bản
thân hoàn toàn khác nhau: Thẳng thắn quyết đoán trước học sinh và tự ti yếu
đuối trước bạn gái. Nhưng theo W. James, ở mỗi người đều có “cái tôi cốt
lõi”. “Cái tôi cốt lõi” này điều khiển hành động của mỗi cá nhân trở nên có
mục đích và ý nghĩa hơn [8, tr.340].

Trong hệ thống lý thuyết của mình, tác giả Freud (2007) đưa ra giả
thuyết rằng, đời sống tinh thần của mỗi người được điều khiển bằng một bộ
máy bao gồm ba thành tố: “Cái ấy”; “cái Tôi”; “cái Siêu tôi”. Tự đánh giá để
vươn tới sự hoàn thiện về đạo lý của “cái Siêu tôi” dẫn đến tình cảm tự hào
mỗi khi cá nhân thấy mình làm được những việc phù hợp với chuẩn mực mà
mình tuân theo. Ngược lại, cá nhân sẽ cảm thấy tội lỗi, khổ đau, hổ thẹn với
chính mình, thậm chí tự lên án, trừng phạt mình khi làm những việc trái với
đạo lý. Nhu cầu hiểu bản thân chính là việc chủ thể tự mình tách chính mình
ra thành một phần khác để xem xét, đánh giá, trên cơ sở đó dẫn đến trải
nghiệm tự hào hoặc băn khoăn, đau khổ [40].
Nhà tâm lí học Rogers (2007) cho rằng, trong quá trình phát triển, thế
giới kinh nghiệm của mỗi người ngày càng được tích lũy nhiều hơn, phong
phú hơn, đa dạng và nhạy bén hơn. Theo Rogers, ở đây điều quan trọng là,
trong quá trình đó, “cái tôi” được hình thành và phát triển. Rogers nhấn mạnh,
khi đứa trẻ dần dần phát triển thì một phần kinh nghiệm của chúng trở thành
khác biệt so với phần còn lại. Đó là phần kinh nghiệm do nó tự đánh giá về nó
18


trong mối quan hệ với sự vật, hiện tượng bên ngoài, với công việc, với những
người khác và với chính bản thân nó. Phần kinh nghiệm tách biệt này của cá
nhân được Rogers gọi là “cái tôi” hay sự “tự ý thức” của mỗi người. Tự ý
thức, theo Rogers chính là sự tưởng tượng của mỗi người về bản thân mình
xem ta là ai, ta nên làm như thế nào và muốn ta trở thành cái gì [40, tr. 132].
Khi nghiên cứu nhu cầu của cái tôi, tác giả Bandura tập trung nhấn
mạnh những biến số bên trong, chấp nhận sự vận hành của biến số ý thức.
Ông cho rằng, cái tôi không phải là một yếu tố tinh thần xác định hay tạo ra
hành vi, mà cái tôi là một nhóm quá trình và cấu trúc ý thức gắn liền với suy
nghĩ và nhận thức. Hai khía cạnh quan trọng của cái tôi là sự tự thưởng và tự
thực hiện hiệu quả. Ông cho rằng, tự đánh giá bản thân có tác động mạnh mẽ

đến hành vi của con người. Quá trình cá nhân tự đánh giá, tự khẳng định bản
thân giúp con người hướng tới những mục tiêu xa hơn, những kỳ vọng. Một
trong những kỳ vọng quan trọng nhất là cá nhân kỳ vọng về tính hiệu quả
trong hành động của mình, thể hiện ở niềm tin của cá nhân vào chính mình có
thể đạt được hay không đạt được điều mình mong muốn [40, tr.111, 112]. Với
quan điểm này, tự đánh giá, tự khẳng định bản thân có vai trò quan trọng, tác
động mạnh mẽ đến nhu cầu của cái tôi, đến sự lựa chọn hành vi và mức độ
kiên trì vượt qua khó khăn trong thực hiện hành vi ở những tình huống nhất
định.
Vậy, khi tiếp cận vấn đề về cái tôi, các quan điểm nêu trên đều nhấn
mạnh vai trò của cái tôi, của tự ý thức và nó có tác động không nhỏ đến hành
vi của con người. Chúng tôi đồng tình với quan điểm của Roger khi cho rằng,
nhu cầu khẳng định bản thân của cái tôi chính là nhu cầu hiểu bản thân – Tôi
là ai - Tôi là người như thế nào - Tôi có thể làm được việc gì cho mình và xã
hội. Thực tế, xã hội ngày càng phát triển, các rối nhiễu tâm lí ngày càng nhiều
và con người luôn muốn hoàn thiện bản thân. Vậy, con người cần được xã hội

19


×