Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

123doc sang kien kinh nghiem mot so bien phap ren tap doc cho hoc sinh lop 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.22 KB, 42 trang )

Phương pháp nghiên cứu khoa học

LỜI CẢM ƠN
Trong sự nghiệp giáo dục nói chung thì giáo dục ở trường Tiểu học nói riêng
giữ một vai trò hết sức quan trọng Giúp học sinh củng cố và phát triển tư duy cho
chính bản thân các em Người giáo viên phải là những chiến sĩ cách mạnh trên mặt
trận tư tưởng, văn hóa, có trách nhiệm truyền bá kinh nghiệm cho thế hệ trẻ những
lý tưởng đạo đức trân chính Hệ thống các giá trị tinh hoa văn hóa của dân tộc, bồi
dưỡng cho họ những phẩm chất cao quý và năng lực sáng tạo phù hợp với sự phát
triển và tiến bộ của XH
Người giáo viên nói chung là lực lượng chủ chốt trong việc truyền bá văn
hóa tư tưởng, đạo đức, tình cảm cho học sinh Người giữ vai trò quan trọng nhất
phải nói đến chính là người giáo viên chủ nhiệm Đây chính là người có tác động
trực tiếp có hiệu quả tới mọi mặt của mỗi người học sinh Giáo viên chủ nhiệm là
một nhân tố quyết định không thể không có, để đảm bảo cho ổn định của một lớp
học, cho sự phát triển tư duy và sự hình thành nhân cách của học sinh cũng như sự
nghiệp giáo dục thì phải có trách nhiệm, bổn phận của mình Không phải bất cứ một
giáo viên nào cũng có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình mà thực tế cũng không
ít giáo viên đã thất bại Điều đó yêu cầu người giáo viên ngoài tri thức, kỹ năng,
nghệ thuật trong công tác giảng dạy để học sinh có thể tiếp thu và nắng trắc bài Đặc
biệt tạo được hứng thú học tập cho các em
Qua đây em xin chân thành cảm ơn cô Mai Thị Liên Giang và các thầy cô
giáo trường Đại học Quảng Bình, trường Tiểu học Quảng Đông đã giúp em đỡ
nhiệt tình để em hoàn thành đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Quảng Bình, ngày 26 tháng 5 năm 2018
Người thực hiện đề tài
Trương Quang Bình

1



Phương pháp nghiên cứu khoa học

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1. Cơ sở lý luận
Xuất phát từ đặc điểm chung là dạy Tập đọc kết hợp giải nghĩa và rèn đọc để
cho các em hiểu tiếng mẹ đẻ. Thực tế hiện nay ngành giáo dục nói chung và bậc
Tiểu học nói riêng, đã và đang tiến hành đổi mới phương pháp dạy học đối với tất
cả các môn học trong đó có môn Tập đọc. Mặt khác, Tập đọc là một phân môn
mang tính tổng hợp, bởi bên cạnh việc dạy học chúng ta còn trau dồi kiến thức về
Tiếng Việt, kiến thức về văn học, về đời sống, giáo dục tình cảm, thẩm mĩ cho học
sinh. Phân môn Tập đọc góp phần hình thành và phát triển kĩ năng đọc cho học sinh
bằng một trong bốn kĩ năng cơ bản mà học sinh Tiểu học cần phải nắm vững.
Để người giáo viên thấy rõ và xác định được việc dạy học Tập đọc cho học
sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1, 2, 3 nói riêng là một việc làm hết sức
cần thiết. Chúng ta phải làm thế nào để thông qua môn Tập đọc giúp học sinh
không những đạt được năng lực đọc mà phải hiểu nội dung của văn bản và các thể
loại từ văn xuôi đến thơ ca. Hiểu được ý đồ của tác giả và bút pháp nghệ thuật mà
mỗi tác giả đã thể hiện trong tác phẩm. Hay nói một cách khác, giáo viên phải tìm
phương pháp tiếp cận làm cho học sinh có cảm tình với bài đó, thúc đẩy học sinh
biểu lộ tình cảm, thái độ tự nhiên thông qua giọng đọc.
Mặt khác, việc dạy học cho học sinh đã là từ lâu và cũng có nhiều tài liệu đề
cập đến. Tất cả đều khẳng định vai trò quan trọng của việc dạy đọc - đọc hiểu - đọc
diễn cảm cho học sinh. Vì vậy, trong quá trình dạy phân môn tập đọc giáo viên cần
quan tâm đến tất cả các yếu tố cấu thành chất lượng phân môn tập đọc đặc biệt là
việc dạy đọc cho học sinh phải được coi trọng. Thông qua việc dạy đọc giúp các

2



Phương pháp nghiên cứu khoa học

em hiểu văn bản, tiếp thu và chiếm lĩnh kiến thức. Biết đọc diễn cảm là thể hiện
những cảm xúc tình cảm theo từng nội dung của bài.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
Mặc dù lâu nay các thầy cô giáo đã và đang thực hiện việc rèn đọc đúng, đọc
diễn cảm cho học sinh, nhất là đối với học sinh Tiểu học nhưng điều đó vẫn còn bị
hạn chế.
Thực tế khảo sát chất lượng phân môn Tập đọc đầu năm của học sinh cho ta
thấy, học sinh phát âm sai rất nhiều, phổ biến là sai phụ âm đầu, vần và dấu thanh.
Học sinh thường phát âm sai phụ âm đầu: l/n, ch/tr, s/x và các thanh hỏi, ngã. Học
sinh đọc bài chưa biết ngắt nghỉ dấu chấm, dấu phẩy trong một bài văn, bài thơ.
Các em chưa biết đọc diễn cảm, gịong đọc còn đều đều, chưa biết thể hiện lên
giọng, hạ giọng hay kéo dài giọng ở câu thơ, câu văn nào để người nghe cảm thấy
cái hay của bài thơ hoặc bài văn đó.

Với đề tài này tôi mạnh dạn trình bày một số phương pháp rèn kỹ năng đọc cho
học sinh lớp 2C, nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy trong Tập đọc. Khi viết đề tài
này tôi đã phát huy tất cả những kiến thức được học, được bồi dưỡng qua các lớp
học chuyên môn và học hỏi, kế thừa kinh nghiệm thực tế qua các giờ dạy mà đối
tượng chính là học sinh của mình. Do đó tôi muốn đưa ra những phương pháp đặc
trưng mà tôi đã tiếp thu được trong bồi dưỡng hè.
Từ nhận thức trên bản thân tôi đã nghiên cứu đề tài : “Vận dụng biện pháp rèn
đọc đúng cho học sinh lớp 2 trường Tiểu học Quảng Đông thông qua phân môn tập
đọc”.
2. Mục đích nghiên cứu:

3



Phương pháp nghiên cứu khoa học

Bản thân tôi khi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích tìm ra phương pháp và
hướng đi giúp học sinh học tập tốt hơn. Qua đó từng bước nâng cao năng lực đọc
đúng, đọc hay, đọc diễn cảm của mỗi học sinh.
Thông qua dạy đọc giúp các em có điều kiện tiếp cận và nắm bắt các môn học,
hiểu các văn bản, tiếp thu và chiếm lĩnh tri thức, tự tin khi giao tiếp nhằm góp phần
hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại, phát triển toàn diện về mọi mặt
Đức - Trí – Thể - Mĩ cho học sinh.
3. Thời gian địa điểm giới hạn nghiên cứu
3.1 Thời gian: Tiến hành thực hiện tháng 8 năm 2017 đến tháng 5 năm 2018
3.2 Địa điểm: Lớp 2C trường Tiểu học Quảng Đông.
3.3 Phạm vi đề tài: Nghiên cứu ở môn tiếng việt phân môn tập đọc rèn đọc cho
học sinh lớp 2C trường Tiểu học Quảng Đông.
3.3.1 Giới hạn đối tượng nghiên cứu
Do điều kiện thời gian và năng lực của bản thân còn hạn chế, nên trong đề tài
này tôi chỉ đi sâu vào việc tìm hiểu một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2C
trường tiểu học Tiểu học Quảng Đông
3.3.2 Giới hạn địa bàn nghiên cứu:
Trường Tiểu học Quảng Đông – huyện Quảng Trạch – tỉnh Quảng Bình
3.3.3 : Giới hạn khách thể nghiên cứu: đối tượng học sinh lớp 2C
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu
sau:
- Tra cứu tài liệu
- Nghiên cứu thực tiễn thông qua các hình thức: khảo sát, dự giờ đồng nghiệp

4



Phương pháp nghiên cứu khoa học

- Phương pháp điều tra:
Phương pháp điều tra là phương pháp khảo sát một lượng lớn các đối tượng
nghiên cứu ở một hay nhiều thư mục vào một hay nhiều thời điểm. Nhằm thu thập
rộng rãi các số liệu hiện tượng để từ đó phát hiện ra vấn đề cần giải quyết, xác định
tính phổ biến nguyên nhân...chuẩn bị cho các bước tiếp theo. Điều tra trình độ khả
năng nắm bắt kiến thức của học sinh thông qua giáo viên chủ nhiệm lớp, thông qua
phu huynh và tiếp cận các em học sinh nhằm mục đích tìm hiểu các phương pháp
dạy học kĩ thuật của giáo viên để rèn kĩ năng đọc cho học sinh.
- Phương pháp trực quan: là phương pháp giáo viên dùng tranh ảnh vật thật
và giọng đọc mẫu để học sinh hứng thú trong học tập
- Phương pháp đàm thoại: Là phương pháp trao đổi những thông tin về vấn
đề cần nghiên cứu. Giáo viên trao đổi đàm thoại với học sinh, phụ huynh để tìm
hiểu vấn đề cách rèn đọc đúng cho học sinh
- Phương pháp luyện tập: là phương pháp cho học sinh thực hành luyện đọc
lại các bước trong bài đọc
- Dạy thực nghiệm: Thực nghiệm là phương pháp thu thập thông tin về sự
thay đổi về số lượng và chất lượng giáo dục do nhà nghiên cứu tác động đến chúng
bằng một số tác nhân điều khiển và được kiểm tra. Bằng một số bài tập cụ thể áp
dụng vào một số tiết dạy cụ thể để nắm bắt được thay đổi về chất lượng trong nhận
thức học sinh. Thông qua các tiết dạy thực nghiệm để chứng minh cho các biện
pháp là đúng đắn và hiệu quả

B. PHẦN NỘI DUNG ĐỀ TÀI

5



Phương pháp nghiên cứu khoa học

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Tập đọc là phân môn thực hành có nhiệm vụ quan trọng hình thành năng lực đọc
ho HS. Để góp phần nâng cao chất lương dạy và học đối với phân môn Tập đọc ở
Tiểu học nói chung, lớp 2 nói riêng đã có không ít các giáo sư,tiến sĩ,... đã dày công
nghiên cứu và đưa ra các biện pháp thích hợp. Điển hình là các công trình sau:
Công trình nghiên cứu Dạy học Tập đọc ở Tiểu học ( Lê Phương Nga,
Nhà xuất bản (Nxb) Giáo dục – 2003). Tác giả đã đưa ra những phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học rất phong phú nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy
học phân môn Tập đọc. Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học –
(tài liệu đào tạo GV – 2007) của Bộ Giáo dục và Đào tạo, dự án phát triển GV tiểu
học. Tác giả cập nhật những thông tin đổi mới về nội dung chương trình SGK mới,
về phương pháp dạy và học theo chương trình mới. Tác giả đã trình bày một cách
chi tiết, cụ thể về cấu trúc, nội dung và phương pháp dạy học cho từng môn. Đặc
biệt tác giả còn giới thiệu được một số phương pháp dạy học tích cực theo hướng
đổi mới như: sử dụng bộ đồ dùng trong học tập, trong dạy học, sử dung máy chiếu,
băng hình,...nhằm phục vụ cho quá trình dạy - học đạt kết quả cao nhất.
Công trình nghiên cứu “Đổi mới phương pháp dạy học tiểu học” Bộ GD ĐT,
dự án phát triển GV tiểu học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, (2005), tác giả đã chỉ ra
những đổi mới trong nội dung và phương pháp bài dạy phân môn Tập đọc theo
chương trình sách giáo khoa mới. Nắm được bản chất và phương pháp dạy học Tập
đọc theo hướng tích cực hóa hoạt động của HS.
Công trình nghiên cứu “Vui học tiếng Việt” - Trần Mạnh Hưởng, tập 1(2002),
NXB - GD, tác giả nhấn mạnh những kiến thức tiếng Việt cơ bản giúp HS luyện tập
thành thạo các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, các em sẽ suy nghĩ mạch lạc, diễn đạt
trong sáng, có khả năng làm chủ được tiếng nói và chữ viết của dân tộc.

6



Phương pháp nghiên cứu khoa học

Giáo trình “ Rèn kĩ năng sử dụng tiếng Việt ”( giáo trình đào tạo giáo viên học
hệ Cao đẳng sư phạm và sư phạm 12 + 2 ). Tác giả Đào Ngọc - Nguyễn Quang
Ninh đã tập trung nghiên cứu kĩ thuật đọc ở các hình thức đọc thành tiếng và đọc
thầm đây cũng là những gợi ý để chúng tôi đề xuất các biện pháp rèn luyện kĩ năng
đọc cho HS lớp 2.
Đề tài “ rèn đọc cho học sinh” đã có nhiều đồng nghiệp ở các khối lớp
nghiên cứu, thành tựu của các đồng nghiệp đi trước là cơ sở để tôi tiếp tục nghiên
cứu đề tài này. Tuy nhiên đề tài tôi nghiên cứu tập trung vào các biện pháp rèn đọc
cho học sinh lớp 2 sao cho phát huy được tất cả các đối tượng học sinh trong cùng
một lớp học. Góp phần giúp đỡ học sinh yếu kém, nâng cao chất lượng học tập cho
học sinh
2. Cơ sở lý luận
2.1.

Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học

Tiếng Việt ở Tiểu học là một môn học độc lập. Nhiệm vụ chủ yếu của bộ môn
Tiếng Việt ở Tiểu học là cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về Tiếng
Việt để trên cơ sở đó, các em có khả năng sử dụng một cách hiệu quả Tiếng Việt
trong hoạt động học tập và sinh hoạt, đồng thời giúp các em rèn luyện và phát triển
tư duy. Hay nói cách khác, qua việc học Tiếng Việt, các em học sinh Tiểu học một
mặt vừa lĩnh hội được kiến thức về ngôn ngữ ở mức độ sơ giản, hình thành được
năng lực và biết cách tổ chức giao tiếp bằng Tiếng Việt, mặt khác giúp các em hình
thành được năng lực tư duy, hình thành được nhân cách của mình. Các em biết tiếp
nhận lời người khác, biết tạo ra lời nói riêng của mình vừa đúng với quy tắc ngôn
ngữ, phù hợp với quy luật của tư duy, vừa phù hợp với hoàn cảnh, đáp ứng được

nhu cầu giao tiếp. Đó là cơ sở để các em không chỉ học tốt môn Tiếng Việt mà còn
học tốt tất cả các môn học khác trong nhà trường. Nhờ học Tiếng Việt mà tư duy
của các em phát triển, các em sẽ có được những nhận thức từ đơn giản đến phức
tạp, từ hình thức sang bản chất… và từ đó, những vấn đề về thế giới quan, nhân
sinh quan của các em cũng dần dần được hình thành.

7


Phương pháp nghiên cứu khoa học

Hiện nay, một trong những quan điểm mới của việc biên soạn chương trình và
Sách giáo khoa Tiếng Việt là quan điểm tích hợp. Vì vậy, bên cạnh những nhiệm vụ
chính nêu trên, môn Tiếng Việt còn giúp các em hiểu được đời sống xã hội, hiểu
được phong tục tập quán cũng như lối sống của người Việt Nam, hiểu được truyền
thống của cha ông, biết tôn sư trọng đạo, biết bảo vệ môi trường sống… qua những
bài tập đọc, qua những bài làm văn hoặc qua những câu chữ dẫn ra như một ngữ
liệu trong những bài tìm hiểu về Tiếng Việt. Tuy không phải là nhiệm vụ chính,
nhưng theo tinh thần tích hợp thì điều này là không thể không chú ý cả trong biên
soạn chương trình, Sách giáo khoa lẫn trong việc lựa chọn nội dung dạy học trên lớp.
2.2.
2.2.1.

Vị trí, tính chất, nhiệm vụ của phân môn Tập đọc
Vị trí của phân môn Tập đọc

Tập đọc là môn học có vị trí quan trọng ở Tiểu học. Tập đọc là môn học khởi
đầu (được học sớm nhất ở Tiểu học, nối tiếp với học âm, vần). Tập đọc giúp học
sinh có một công cụ, một phương tiện quan trọng để học tốt các môn học khác, để
chiếm lĩnh kho tàng tri thức văn hoá của nhân loại được tàng trữ trong sách vở.

2.2.2.

Tính chất của môn Tập đọc

Tập đọc có tính chất thực hành. Khi dạy Tập đọc, giáo viên phải coi trọng việc
luyện đọc cho học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau, thời gian giảng bài của
giáo viên chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tiết học.
2.2.3. Nhiệm vụ của phân môn Tập đọc
* Rèn kĩ năng đọc và rèn trí nhớ cho học sinh
- Thông qua hai hình thức: đọc thành tiếng và đọc thầm.
- Rèn đọc thành tiếng theo các mức độ từ thấp đến cao: đọc đúng; đọc rõ ràng,
rành mạch; đọc lưu loát, trôi chảy; đọc diễn cảm. Đọc diễn cảm là sự tổng hợp của
tất cả các mức độ đọc làm nổi bật ý nghĩa, tình cảm mà tác giả gửi gắm trong bài.
- Rèn đọc thầm cũng cần được chú ý bởi đọc thầm ít mệt, có thể đọc nhanh,
mau hiểu nội dung đọc. Rèn đọc thầm phải gắn với một yêu cầu nhất định để buộc
học sinh phải tập trung đọc.

8


Phương pháp nghiên cứu khoa học

- Nhiệm vụ rèn trí nhớ được thực hiện thông qua việc dạy học sinh đọc thuộc
lòng các văn bản thơ và một số văn bản văn xuôi.
* Trau dồi kiến thức văn học, kiến thức ngôn ngữ và kiến thức đời sống
- Dạy Tập đọc phải thông qua nhiều loại văn bản khác nhau. Các văn bản Tập
đọc chứa đựng nhiều mặt kiến thức văn hoá của nhân loại và dân tộc. Do vậy thông
qua Tập đọc có thể trau dồi kiến thức nhiều mặt cho học sinh như kiến thức văn
học, kiến thức ngôn ngữ và kiến thức về đời sống.
* Giáo dục thẩm mĩ, tình cảm tư tưởng và phát triển tư duy

- Học Tập đọc, học sinh được tiếp xúc với vẻ đẹp của văn chương thông qua
các văn bản nghệ thuật. Đó là cơ hội để học sinh được giáo dục về tình cảm thẩm
mĩ, tư tưởng và phát triển tư duy trừu tượng. Khi học các văn bản nghệ thuật, cần
làm cho học sinh xúc động với vẻ đẹp của văn chương, nhận thức được tình cảm
yêu thương con người và cuộc sống mà tác giả gửi gắm trong bài đọc…
2.3. Các cở sở của việc dạy Tập đọc
2.3.1. Cơ sở tâm lí, sinh lí của việc dạy đọc
Để tổ chức dạy đọc cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về quá trình dạy đọc,
nắm bản chất của kĩ năng đọc, đặc điểm tâm sinh lí của học sinh khi đọc hay cơ chế
của đọc là cơ sở của việc dạy đọc.
Đọc thuộc lĩnh vực hoạt động trí tuệ phức tạp, mà cơ sở là việc tiếp nhận
thông tin bằng chữ viết dựa vào hoạt động của cơ quan thị giác. Quá trình này bao
gồm những đặc điểm sau:
Đọc được xem là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với nhau, là
việc xác định bộ mã gồm hai phương tiện. Thứ nhất, đó là quá trình vận động của
mắt, sử dụng bộ mã chữ âm để phát ra một cách trung thành những dòng văn tự ghi
lại lời nói âm thanh. Thứ hai, đó là sự vận động của tư tưởng, tình cảm sử dụng bộ
mã chữ - nghĩa, tức là mối liên hệ giữa các con chữ và ý tưởng, các khái niệm chứa
đựng bên trong để nhớ và hiểu cho được nội dung những gì được đọc.
Như vậy đọc được xem là một hoạt động lời nói trong đó có:

9


Phương pháp nghiên cứu khoa học

Tiếp nhận dạng thức chữ viết của từ.
Chuyển dạng thức chữ viết thành âm thanh.
Thông hiểu những gì được đọc (từ, cụm từ, bài).
Kĩ năng đọc là một kĩ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình luyện tập lâu dài.

T.G.Egônôp chia việc hình thành kĩ năng đọc làm ba giai đoạn: Phân tích, tổng hợp
(còn gọi là giai đoạn phát sinh, hình thành một cấu trúc chưa chỉnh thể về hành
động) và giai đoạn tự động hóa.
Giai đoạn dạy Học vần là sự phân tích chữ cái và đọc từng tiếng theo các
âm. Giai đoạn tổng hợp là giai đoạn đọc thành cả từ trọn vẹn, trong đó sự tiếp nhận
“từ” bằng thị giác và phát âm hầu như trùng với nhận thức ý nghĩa. Tiếp nhận sự
thông hiểu của “từ” trong cụm từ hoặc câu đi trước sự phát âm. Điều này có nghĩa
là đọc được thực hiện trong sự đoán nghĩa. Bước sang lớp 2, 3 học sinh bắt đầu đọc
tổng hợp, dần đến cuối cấp thì việc đọc ngày càng được tự động hóa. Cụ thể hơn,
người đọc ngày càng ít quan tâm đến chính quá trình mà chú ý nhiều đến việc
chiếm lĩnh văn bản như: Nội dung các sự kiện, cấu trúc, chủ đề, các phương tiện
biểu đạt của nó. Thời gian gần đây, người ta đã chú trọng hơn đến những mối quan
hệ quy định lẫn nhau của việc hình thành kĩ năng làm việc với văn bản. Nghĩa là
đòi hỏi tổ chức giờ Tập đọc sao cho việc phân tích nội dung của bài đọc đồng thời
hướng đến việc hoàn thiện kĩ năng đọc, hướng đến đọc có ý thức bài đọc. Như vậy
việc đọc như thế nhằm vào nhận thức, chỉ có thể xem một đứa trẻ biết đọc khi nó
đọc mà hiểu được điều đang đọc. Đọc là hiểu nghĩa của chữ viết, nếu trẻ không
hiểu những từ mà ta đưa cho chúng đọc, chúng sẽ không có hứng thú học tập và
không có khả năng thành công. Do đó hiểu những gì được đọc sẽ tạo ra động cơ,
hứng thú cho việc đọc.
Quá trình hiểu được văn bản gồm các bước sau:
- Hiểu nghĩa các từ, các ngữ.
- Hiểu các câu.
- Hiểu các đoạn.

10


Phương pháp nghiên cứu khoa học


- Hiểu được cả bài.
Học sinh Tiểu học không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng hiểu được những
điều mình đọc. Hầu như toàn bộ sức chú ý đều dồn vào việc nhận ra mặt chữ, đánh
vần để phát ra thành âm, nghĩa của vấn đề đọc thì học sinh chưa đủ thời giờ và sức
lực để nhận biết. Mặt khác, do vốn từ còn ít, năng lực liên kết thành câu, thành ý
còn hạn chế nên việc hiểu và nhớ nội dung còn khó khăn. Điều này chính là cơ sở
để đề xuất các biện pháp hình thành năng lực đọc hiểu cho học sinh Tiểu học.
2.3.2. Cơ sở ngôn ngữ và văn học
Phương pháp dạy Tập đọc phải dựa trên cơ sở của ngôn ngữ học. Nó liên
quan mật thiết với một số vấn đề của chính âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu (thuộc
ngữ âm học). Phương pháp dạy Tập đọc sẽ dựa trên những kết quả nghiên cứu của
ngôn ngữ học, Việt ngữ học về những vấn đề nói trên để xây dựng, xác lập nội
dung và phương pháp học. Bốn phẩm chất của đọc không thể tách rời ngôn ngữ
học. Không coi trọng đúng mức cơ sở này, việc dạy học sẽ mang tính tùy tiện và
không đảm bảo hiệu quả dạy học.
Cũng cần phải thấy rằng hiện nay kết quả của Việt ngữ học còn hạn chế,
chưa đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi của phương pháp. Chẳng hạn như việc
chưa thống nhất được một chuẩn chính âm, những nghiên cứu ít ỏi về ngữ điệu
tiếng Việt… làm cho phương pháp dạy Tập đọc không tránh khỏi lúng túng khi giải
quyết vấn đề về đọc đúng, đọc diễn cảm. Và khi không giải quyết được vấn đề về
phát âm địa phương một cách có tính nguyên tắc, không có được những chỉ dẫn cụ
thể cho đọc diễn cảm có khi lại đành lòng với những cách đọc chung chung, hời
hợt. Ví dụ những quy tắc ít ỏi của ngữ pháp: Đọc kết thúc câu kể phải xuống giọng,
hết câu hỏi phải lên giọng chỉ đưa lại những chỉ dẫn chung chung về giọng đọc như
“Bài thơ được đọc với giọng tha thiết sôi nổi…” còn những chỉ dẫn có tính định
hướng về mối tương quan giữa cao độ, cường độ, ngắt nhịp… của đoạn, bài chưa
được xác định. Chính điều này làm việc dạy đọc diễn cảm còn mang tính chủ quan

11



Phương pháp nghiên cứu khoa học

cảm tính. Đây sẽ là một khó khăn không nhỏ trong việc xác lập nội dung của
phương pháp dạy đọc.
2.4.

Mục đích tác dụng của việc rèn kĩ năng đọc trong giờ dạy Tập đọc
Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ viết

sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng), là
quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có
âm thanh (ứng với hình thức đọc thầm). Đọc cũng không chỉ là công việc giải một
bộ mã gồm hai phần chữ viết và phát âm, nghĩa là nó không phải chỉ là sự đánh vần
lên thành tiếng theo đúng các kí hiệu chữ viết mà còn là một quá trình nhận thức để
có khả năng thông hiểu những gì được đọc. Trên thực tế, nhiều khi người ta đã
không hiểu khái niệm đọc một cách đầy đủ. Nhiều chỗ người ta chỉ nói đến đọc
như nói đến việc sử dụng bộ mã chữ - âm, còn việc chuyển từ âm sang nghĩa đã
không được chú ý đúng mức. Có thể khái quát yêu cầu của việc đọc như sau:
Năng lực đọc được cụ thể hóa thành hai hình thức là đọc thành tiếng và đọc
thầm. Chất lượng của hình thức đọc thành tiếng bao gồm đọc đúng, đọc nhanh, đọc
hiểu và đọc diễn cảm. Chất lượng của hình thức đọc thầm bao gồm đọc đúng, đọc
nhanh, đọc hiểu, (đọc diễn cảm không được bàn đến khi đọc thầm).
Đọc đúng: Đọc đúng là cách phát âm thể hiện đúng hệ thống ngữ âm chuẩn.
Nói cách khác là phải đọc đúng chính âm, không đọc theo cách phát âm địa phương
vì phát âm địa phương sẽ có chỗ sai với âm chuẩn.
Đọc đúng đòi hỏi thể hiện chính xác các âm vị của âm tiết: âm đầu, âm đệm,
âm chính, âm cuối, thanh điệu.
Ngoài ra đọc đúng còn có nghĩa là đúng ngữ điệu, bao gồm lên giọng, xuống
giọng, nhấn giọng, chuyển giọng, ngắt hơi, cường độ giọng… Đọc đúng quan trọng

nữa là phải đúng nội dung của từ, của câu, đúng phong cách chức năng vủa văn
bản.

12


Phương pháp nghiên cứu khoa học

Đọc nhanh: Đọc nhanh (còn gọi là đọc lưu loát, trôi chảy) là nói đến phẩm
chất đọc về mặt tốc độ, là việc đọc không ê a, ngắc ngứ. Vấn đề tốc độ đọc chỉ đặt
ra sau khi đã đọc đúng.
Mức độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn: đọc không ê a, ngắc ngứ, không
vừa đọc vừa đáng vần. Về sau tốc độ đọc phải song song với việc tiếp nhận có ý
thức bài đọc. Đọc nhanh chỉ thực sự có ích khi nó không tách rời việc hiểu rõ điều
được đọc. Khi đọc cho người khác nghe thì người đọc phải xác định tốc độ nhanh
nhưng để cho người nghe hiểu kịp được. Vì vậy, đọc nhanh không phải là đọc liến
thoắng. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ
của lời nói. Khi đọc thầm thì tốc độ đọc sẽ nhanh hơn nhiều.
Đọc hiểu: Hiệu quả của việc đọc (nhất là đối với hình thức đọc thầm) được
đo bằng khả năng thông hiểu nội dung văn bản đọc. Do đó, dạy đọc phải gắn với
đọc có ý thức, đọc hiểu: hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài, tức là toàn bộ
những gì được đọc. Giáo viên cần có biện pháp giúp học sinh hiểu bài đọc, bắt đầu
từ việc hiểu nghĩa từ. Do vậy, giáo viên phải có hiểu biết về từ địa phương cũng
như có vốn từ của tiếng mẹ đẻ vùng dân tộc mình dạy học để chọn từ giải thích cho
thích hợp, đồng thời phải chuẩn bị để sẵn sàng giải đáp cho học sinh về bất cứ từ
nào trong bài mà các em yêu cầu.
Đọc diễn cảm: Đọc diễn cảm là đọc có tác dụng diễn ý, diễn cảm. Đọc diễn ý
làm rõ nghĩa từ, câu, văn bản. Đọc diễn cảm làm rõ sắc thái biểu cảm của từ, câu,
văn bản. Tùy thuộc vào nội dung của văn bản mà người đọc sử dụng ngữ điệu phù
hợp nhằm diễn tả những điều tác giả muốn nói trong văn bản đọc. Đọc diễn cảm là

một yêu cầu được đặt ra khi đọc những văn bản văn chương hoặc có yếu tố của
ngôn ngữ nghệ thuật và chỉ có thể tiến hành khi đã hiểu thấu đáo bài đọc.
3. Cơ sở thực tiễn
3.1. Vài nét về Sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học
* Chương trình Sách giáo khoa môn Tiếng Việt bậc Tiểu học được biên soạn
dựa trên các nguyên tắc sau:

13


Phương pháp nghiên cứu khoa học

- Dạy học Tiếng Việt thông qua hoạt động giao tiếp.
- Tận dụng những kinh nghiệm sử dụng Tiếng Việt của học sinh.
- Vận dụng quan điểm tích hợp trong việc dạy học.
* Các tiêu chuẩn của Sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học:
- Trình bày các kiến thức lí thuyết cơ bản về Tiếng Việt, những quy tắc và
các định nghĩa đảm bảo tính khoa học, tính hệ thống, dễ hiểu đối với học sinh.
- Góp phần giáo dục tư tưởng, bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan duy vật
biện chứng, phát triển ở các em tư duy logic và lòng yêu mến sự giàu đẹp của Tiếng
Việt.
- Đưa vào số lượng vừa đủ bài tập sao cho chúng vừa phong phú, đa dạng,
vừa có hiệu quả thiết thực và sắp xếp một cách hợp lí.
- Sách hay về nội dung, hấp dẫn về hình thức, nhiều bài đọc mang tính
truyện để tăng tính hấp dẫn, làm cho học sinh ham học. Chú trọng vai trò của kênh
hình (tranh ảnh, màu sắc).
* Cấu trúc nội dung chương trình:
- Các bộ phận của chương trình:
Chương trình Tiếng Việt Tiểu học gồm những bộ phận sau:
+ Kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói).

+ Tri thức Tiếng Việt (một số hiểu biết cơ sở, tối thiểu về ngữ âm, chính tả,
ngữ nghĩa, ngữ pháp…).
+ Tri thức về văn học, về tự nhiên và xã hội (một số hiểu biết tối thiểu về văn
học và cách tiếp cận chúng; về con người; về đời sống tinh thần và vật chất; về đất
nước và dân tộc Việt Nam…).
- Cấu trúc hai giai đoạn của chương trình:
+ Giai đoạn 1 (các lớp 1, 2, 3):
Nội dung dạy học giai đoạn này có nhiệm vụ: Hình thành những cơ sở ban đầu
cho việc học đọc, học viết; định hướng cho việc học nghe, học nói trên cơ sở vốn
Tiếng Việt mà trẻ em đã có.

14


Phương pháp nghiên cứu khoa học

Yêu cầu cơ bản với học sinh ở giai đoạn này là: Đọc thông thạo và hiểu đúng
một văn bản ngắn; viết rõ ràng, đúng chính tả; nghe chủ động; nói chủ động, rành
mạch.
Những bài học ở giai đoạn này chủ yếu là bài học thực hành đọc, viết, nghe,
nói. Tri thức Tiếng Việt không được dạy thành bài riêng mà được rút ra từ những
bài thực hành, được thấm vào học sinh một cách tự nhiên qua hoạt động thực hành.
Ví dụ, học âm e, sau đó viết con chữ e. Những tri thức về âm - chữ cái, về tiếng
(âm tiết) - chữ, về thanh điệu - dấu ghi thanh đều được học qua những bài dạy chữ.
Những tri thức về câu trong hội thoại (câu hỏi, đáp và dấu câu) cũng không được
dạy qua bài lí thuyết mà học sinh được hình dung cụ thể trong một văn bản cụ thể.
Trình độ nắm tri thức của học sinh ở giai đoạn này cũng chỉ dừng ở mức: các em
nhận diện được và sử dụng được các đơn vị của Tiếng Việt, các quy tắc sử dụng
Tiếng Việt trong lúc đọc, viết, nghe, nói. Phần tri thức có trong nội dung chương
trình của các lớp 1, 2, 3 chỉ có ý nghĩa xác định những tri thức học sinh cần làm

quen.
+ Giai đoạn 2 (các lớp 4, 5):
Nội dung chương trình giai đoạn này nhằm phát triển các kĩ năng đọc, viết,
nghe, nói lên một mức độ cao hơn, hoàn thiện hơn, trong đó yêu cầu viết hoàn
chỉnh một số văn bản, yêu cầu đọc - hiểu được đặc biệt coi trọng.
Học sinh ở giai đoạn này đã được cung cấp những khái niệm cơ bản về một số
đơn vị ngôn ngữ và quy tắc sử dụng Tiếng Việt làm nền móng cho việc phát triển kĩ
năng. Bên cạnh những bài học thực hành (ở giai đoạn trước), các em được học các
bài về tri thức Tiếng Việt (từ vựng, ngữ pháp, văn bản, phong cách…). Những bài
học này cũng không phải là lí thuyết đơn thuần, được tiếp nhận hoàn toàn bằng con
đường tư duy trừu tượng, mà chủ yếu vẫn bằng con đường nhận diện, phát hiện trên
những ngữ liệu đã đọc, viết, nghe, nói; rồi sau đó mới khái quát thành những khái
niệm.
3.2. Chương trình, Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2 và phân môn Tập đọc

15


Phương pháp nghiên cứu khoa học

Chương trình Sách giáo khoa môn Tiếng Việt lớp 2 có hai tập, được học trong
35 tuần với tổng số 315 tiết (9 tiết/tuần) và bao gồm 6 phân môn: Tập đọc, Chính
tả, Tập viết, Luyện từ và câu, Kể chuyện và Tập làm văn.
Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 có 15 đơn vị học, mỗi đơn vị gắn vói một chủ
điểm, học trong 2 tuần (riêng chủ điểm Nhân dân học 3 tuần):
Tập một gồm 8 đơn vị học, với các chủ điểm sau:
+ Tuần 1, 2: Em là học sinh
+ Tuần 3, 4: Bạn bè
+ Tuần 5, 6: Trường học
+ Tuần 7, 8: Thầy cô

+ Tuần 9: Ôn tập giữa kì I
+ Tuần 10, 11: Ông bà
+ Tuần 12, 13: Cha mẹ
+ Tuần 14, 15: Anh em
+ Tuần 16, 17: Bạn trong nhà
+ Tuần 18: Ôn tập cuối kì I
Tập hai gồm 7 đơn vị học, với các chủ điểm sau:
+ Tuần 19, 20: Bốn mùa
+ Tuần 21, 22: chim chóc
+ Tuần 23, 24: Muông thú
+ Tuần 25, 26: Sông biển
+ Tuần 27: Ôn tập giữa kì II
+ Tuần 28, 29: Cây cối
+ Tuần 30, 31: Bác Hồ
+ Tuần 33, 34: Nhân dân
+ Tuần 35: Ôn tập cuối kì II
Cấu trúc của một đơn vị học: Học trong 2 tuần, mỗi tuần học 9 tiết, gồm:
+ Tập đọc (2 tiết): một chuyện kể

16


Phương pháp nghiên cứu khoa học

+ Kể chuyện (1 tiết)
+ Chính tả (1 tiết)
+ Tập đọc (01 tiết): văn bản thông thường hoặc một văn bản thơ hay một
văn bản miêu tả
+ Luyện từ và câu (01 tiết)
+ Tập viết (01 tiết)

+ Chính tả (01 tiết)
+ Tập làm văn (01 tiết)
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2 trình bày mỗi tuần 3 bài Tập đọc. Tuy
nhiên, theo Hướng dẫn thực hiện chương trình các môn học lớp 1, 2, 3, 4, 5 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo thì chỉ thực hiện dạy học 2 bài/tuần, các bài càn lại dùng làm
bài đọc thêm ở các vùng có điều kiện.
Chương trình Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 chú trọng cả bốn kĩ năng nghe,
nói, đọc, viết.
Nhìn từ góc độ giao tiếp, có thể thấy các bài đọc trong Sách giáo khoa Tiếng
Việt 2 đã được lựa chọn rất hay. Những chủ điểm đưa vào Sách giáo khoa không
chỉ gần gũi với sinh hoạt thường nhật của học sinh mà còn thể hiện khá đậm nét
tính hướng dẫn giao tiếp. Việc sắp xếp các chủ điểm cũng được sách hết sức chú ý
để sao cho phù hợp với hoạt động giao tiếp của lứa tuổi Tiểu học. Trong các chủ
điểm đó, các bài đọc hướng dẫn học sinh hiểu sâu hơn về những sự vật, sự việc,
con người gần gũi với cuộc sống hằng ngày của các em hay chính những hoạt động
các em đã từng trực tiếp tham gia.
Có thể nói, các ngữ liệu dạy học Tập đọc ở lớp 2 đã tạo điều kiện vô cùng
thuận lợi cho việc dạy học của giáo viên. Và, nhiệm vụ chính của giáo viên là sử
dụng những phương pháp phù hợp để rèn luyện cho học sinh những kĩ năng ngôn
ngữ cần thiết theo định hướng đổi mới - định hướng giao tiếp.

17


Phương pháp nghiên cứu khoa học

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP RÈN ĐỌC ĐÚNG
CHO HỌC SINH LỚP 2 TRONG GIỜ TẬP ĐỌC
1. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
1.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu

Trường Tiểu học Quảng Đông được thành lập từ 8/2000 (tách từ trường PTCS
Quảng Đông). Từ đó đến nay trường đã không ngừng lớn mạnh về mọi mặt. Năm
học 2000-2001 trường chỉ có 11 lớp, với hơn 340 học sinh, đến năm học 2017 2018 trường có 19 lớp với gần 409 học sinh, cơ sở vật chất được đầu tư theo hướng
chuẩn hoá, hiện đại hoá.
Trường đã có đầy đủ các phòng chức năng, phòng bộ môn, phòng vi tính…, đội
ngũ giáo viên được trẻ hoá., có năng lực chuyên môn tốt, nhiệt tình, yêu nghề, mến
trẻ, đội ngũ cán bộ quản lý năng động, sáng tạo.
Nhiều năm liền trường được công nhận là “Tập thể lao động tiên tiến”, “. Tháng
6/2005 trường đã được UBND tỉnh ra quyết định công nhận trường đạt chuẩn quốc
gia giai đoạn 2001-2010.và được công nhận đơn vị văn hóa năm 2008.
1.2. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
- Lớp 2C trường Tiểu học Quảng Đông sĩ số 25 em trong đó có 9 em nữ và 16 em
nam.
- Gia đình học sinh chủ yếu là nghề nông và nghề chài lưới
2. Đánh giá thực trạng:
2.1. Về giáo viên:
Phương thức điều tra giáo viên bằng phiếu thăm dò: Đánh dấu vào ô trống
theo đồng chí cho là đúng, là thường thực hiện dạy tập đọc hoặc nêu hình thức mà
giáo viên thường làm

18


Phương pháp nghiên cứu khoa học

Câu 1: Đồng chí cho biết trong một giờ tập đọc ở lớp 2 Đồng chí đã rèn đọc
cho HS như thế nào ? Hãy kể cách làm cụ thể ?
Câu 2: Trong một giờ tập đọc, đồng chí đã chú ý đối tượng học sinh nào?
Đồng chí hãy đánh dấu x vào ô trống mà đồng chí cho là đúng


Học sinh khá giỏi
x

Học sinh trung bình

x

Học sinh yếu kém

Câu 2: Trong số hình thức dạy học sau đây, đồng chí thường chọn những
hình thức nào ? Hãy đánh dấu x vào ô mà đồng chí cho là đúng

x

Dạy học cá nhân

x

Dạy học theo nhóm

x

Dạy học cả lớp

Hình thức dạy học nào là quan trọng nhất (Ghi cụ thể tên hình thức dạy học đó )
Câu 4: Đồng chí hãy kể tên những phương pháp mà đồng chí đã vận dụng để
dạy một giờ Tập đọc cho học sinh lớp 2?
a) Ưu điểm:
Thực tế dạy học ở trường Tiểu học Quảng Đông cho thấy: Giáo viên đã tìm
hiểu kỹ bài dạy và truyền đạt đầy đủ kiến thức cơ bản theo yêu cầu SGK với việc

phát huy tính tích cực của học sinh Họ dành thời gian cho học sinh làm việc với
SGK Kết hợp nhiều phương pháp trong một tiết dạy như giảng giải, trực quan, vấn
đáp, gợi mở để dẫn dắt học sinh tìm ra kiến thức Giáo viên luôn có sự chuẩn bị đồ
dùng trực quan

19


Phương pháp nghiên cứu khoa học

Ví dụ khi dạy bài: Rước đèn ông sao ở lớp 2, giáo viên chuẩn bị một chiếc
đèn ông sao dán bằng giấy bóng kính đỏ, trong suốt, bên trên có ba lá cờ, ở giữa
ngôi sao dán ảnh Bác Hồ
b) Một số tồn tại
Khi dạy một tiết Tập đọc, giáo viên chưa thật sự chú ý rèn đọc cho học sinh
khi học sinh đọc sai Số ít giáo viên chưa chú ý tới việc luyện cách đọc một câu văn
dài, học sinh đọc còn gặp nhiều khó khăn
Hầu hết các tiết dạy tập đọc, khi sử dụng các hình thức trực quan thì chỉ
dừng ở chỗ giáo viên làm động tác minh hoạ hoặc đưa ra vật thực Một số bài dạy
chay không phóng to được hình vẽ Nhiều khi các tranh đưa ra còn hạn hẹp, kém về
hình thức Điều này không gây được hứng thú học tập cho các em Do tập tục địa
phương nên các em rất hay đọc ngọng phụ âm l /n, s /x, ch /tr và ngọng về
dấu ?/∼
Mặt khác số ít giáo viên chưa chú ý cho học sinh cách đọc đúng nhịp điệu
thơ, đọc ngắc ngữ những câu văn dài Trong khi tìm hiểu nội dung bài, một số giáo
viên dành nhiều thời gian để giảng giải, đàm thoại ( thầy hỏi- trò suy nghĩ sau đó
gọi một hai em lên trả lời ) Vì vậy giáo viên chưa kiểm soát được số đông học sinh
trong lớp và dành nhiều thời gian hợp lý cho các em hoạt động tự tìm kiếm, chiếm
lĩnh, lĩnh hội kiến thức theo khả năng của mình
c) Nguyên nhân tồn tại

Nguyên nhân của một số tồn tại kể trên là: Do giáo viên chưa nghiên cứu kỹ
nội dung, ý của sách giáo khoa và sách hướng dẫn giảng dạy để từ đó chọn phương
pháp và nội dung dạy học một cách thích hợp nhất
Chưa kết hợp phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại nên vẫn
hạn chế khả năng tích cực hoạt động của học sinh

20


Phương pháp nghiên cứu khoa học

2.2. Về học sinh:
Tôi đã tiến hành điều tra học sinh lớp 2C, tổng số là 25 em
Phương thức điều tra : Bằng hình thức thăm dò điền vào dàn ý vào ô trống
mà các em cho là đúng hoặc hình thức lựa chọn từ thích hợp để điền vào ô trống
Câu 1 Em hãy điền tiếng có phụ âm S hoặc X vào ô trống:
… ngời, suy…, …hè
Câu 2 Điền vào ô trống L hoặc N :
Cây…úa, …ấu cơm, …ăn tròn
Câu 2 Điền vào ô trống:
Trao hay chao: ……ơi! ……giải thưởng
Câu 4 điền vào chỗ trống: n hay ng
Cây bà…, bà… ghế
*Kết quả điều tra
Câu 1: 75% học sinh trả lời đúng
Câu 2: 65,5% học sinh trả lời đúng
Câu 2: 87% học sinh trả lời đúng
Câu 4: 50% học sinh trả lời đúng
Từ kết quả điều tra phương thức trên tôi thấy học sinh đọc sai nhiều nhất là
phụ âm l- n, s - x Hai phụ âm này học sinh hay đọc sai trong đó lỗi một phần là do

học sinh chưa chú ý và giáo viên đọc chưa chuẩn
Phương thức điều tra 2:
Tôi tiến hành điều tra vào lớp giảng dạy và khảo sát cụ thể qua việc đọc của
từng học sinh

21


Phương pháp nghiên cứu khoa học

Qua điều tra thực tế việc học của học sinh tôi nhận thấy thực trạng của học
sinh lớp tôi có ưu nhược điểm như sau:
Ưu điểm:
Nói chung đa số học sinh đọc được nội dung bài, và bước đầu có kỹ năng
đọc đúng Cũng có em biết áp dụng vào giờ ngoại khoá Một số em đã biết đọc diễn
cảm và có ý thức học tập tốt, hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài
Hạn chế:
- Một số em chưa thật sự hiếu học, hay quên đồ dùng học tập, chưa chuẩn bị
bài đầy đủ trước khi đến lớp Một số học sinh yếu vừa đọc vừa đánh vần, số đông
học sinh khá đọc trôi chảy song chưa biết nhấn mạnh ở các từ ngữ cần chú ý, cũng
như cách ngắt nghỉ đúng dấu câu
- Nhiều học sinh chưa biết chỗ ngắt giọng giữa chủ ngữ và vị ngữ, giữa động
từ và bổ ngữ…

Đó là chưa kể trong thơ, hầu như người ta đã lược bỏ các dấu câu, nhiều bài
văn xuôi tác giả không dùng các dấu phẩy như yêu cầu của nhà trường Đây là
nguyên nhân dẫn đến học sinh không đọc đúng chỗ ngắt giọng ở những câu dài có
cấu trúc ngữ pháp phức tạp
VD: Bài (Bác sĩ sói” (Tiếng Việt2)
Tôi chép phần luyện đọc lên bảng phụ rồi cho học sinh trao đổi cách đọc sau

đó tôi mới hướng dẫn đọc cụ thể.
- Ngựa lễ phép://
Cám ơn bác sĩ.// Cháu đau chân quá.// Ngài làm ơn chữa giúp cho.// Hết bao
nhiêu tiền cháu xin chịu.//
Đến dấu hai chấm đọc ngừng, dấu chấm nghỉ lấy hơi, dấu phẩy ngắt. Khi đọc
cần thể hiện giọng điệu của Ngựa - giọng Ngựa ngoan ngoãn lễ phép.

22


Phương pháp nghiên cứu khoa học

- Sói đáp.
- Chà! / Chà! / Chữa làm phúc,/ tiền với nong gì,/ Đau thế nào?// Lại đây ta
xem.//
Dấu chấm than ngắt giọng, dấu chấm hỏi lên cao giọng ở cuối câu, giọng Sói
vênh vang ra vẻ ban ơn.
3. Biện pháp thực hiện đề tài:
Biện pháp 1: Giáo viên phải sử dụng tốt các phương pháp dạy học trong
quá trình luyện đọc cho học sinh:
* Phương pháp trực quan:
a) Phương pháp này phù hợp với tư duy, tâm lý lứa tuổi ở bậc Tiểu học
Ở phương pháp này giáo viên đưa ra những bức tranh minh họa bằng vật thật
cho từng bài ( gọi chung là đồ dùng học tập) để phục vụ cho quá trình rèn đọc cho
học sinh kết hợp đọc hiểu và bước vào đọc diễn cảm tốt
b) Các hình thức trực quan ( cách dạy)
- Giọng đọc mẫu của giáo viên Đây là hình thức trực quan sinh động và có
hiệu quả đáng kể có tác dụng là mẫu cho học sinh luyện đọc Do đó muốn rèn đọc
cho học sinh tôi luôn chuẩn bị trước các bài từ ở nhà để học sinh đọc đúng các thể
loại, đúng ngữ điệu, tránh đọc đều đều mà cần phải biết cách biểu hiện tình cảm

của mình qua cử chỉ, ánh mắt, nét mặt, nụ cười khi đọc
* Phương pháp đàm thoại:
a) Phương pháp này phù hợp với tâm lý trẻ nhỏ, các em thích được hoạt động
(Hoạt động lời nói)
Phương pháp đàm thoại được thực hiện trên cơ sở trao đổi câu hỏi phục vụ cho
nội dung bài Ở đây có thể thấy giáo viên nêu câu hỏi dẫn dắt, gợi mở > trò tìm tòi

23


Phương pháp nghiên cứu khoa học

khám phá, chiếm lĩnh kiến thức Ngược lại trò có thể nêu câu hỏi thắc mắc để giáo
viên hướng dẫn và giải đáp
b) Các hình thức đàm thoại:
Bước 1: Rèn đọc cho học sinh
Khi rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh tôi thường chuẩn bị trước câu hỏi sao cho
phù hợp với học sinh và bài đọc Muốn cho học sinh hiểu nội dung, trước hết học
sinh phải có kỹ năng đọc đó là: Đọc đúng lưu loát, trôi chảy bài đọc Có đọc thông
văn bản thì các em mới hiểu nội dung bài và hiểu giá trị nghệ thuật của bài - dẫn
đến sự cảm thụ tốt và đọc diễn cảm tốt hơn Để đạt được những yêu cầu đó, tôi
thường đưa ra những câu hỏi cần sử dụng đúng lúc, đúng chỗ phù hợp với từng bài
đọc
Bước 2: Rèn đọc hiểu cho học sinh
Kết hợp với việc rèn đọc đúng, cần rèn đọc hiểu cho học sinh Đọc hiểu ở
đây có thể là từ khoá, từ trung tâm, câu, đoạn, bài

Tóm lại, trong giai đoạn đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp đàm thoại chỉ
dùng để gợi mở, dẫn dắt để học sinh hiểu và chiếm lĩnh kiến thức chứ không sử
dụng trong suốt quá trình dạy đọc mà cần phải xen kẽ những phương pháp khác để

bài dạy đạt kết quả cao và học sinh không chán
c) Tác dụng của phương pháp đàm thoại
Phương pháp đàm thoại là tạo cho học sinh phát triển giao tiếp (giao tiếp
giữa thầy và trò) Khi sử dụng phương pháp này ngoài việc có tác dụng giúp cho
học sinh tiếp thu kiến thức còn có tác dụng kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của
học sinh Giáo viên kịp thời điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy học của mình
phù hợp với đối tượng học sinh

24


Phương pháp nghiên cứu khoa học

* Phương pháp luyện tập
Đây là phương pháp chủ yếu, thường xuyên sử dụng khi dạy - học phân môn
Tập đọc Với phương pháp này tôi hướng dẫn học sinh vận dụng thực hành tốt Dưới
sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh rèn kỹ năng, kỹ xảo khi luyện đọc Tôi luôn
hướng dẫn học sinh luyện tập có ý thức và kiểm tra ngay kết quả luyện tập tại lớp
cụ thể
a) Luyện đọc từ khó phù hợp với đối tượng học sinh:
- Khi hướng dẫn học sinh phát âm tôi thường phân tích cho các em thấy sự
khác biệt giữa cách phát âm đúng với cách phát âm sai mà học sinh thường mắc
phải như các tiếng có phụ âm l - n, ch - tr, s - x
Điều này cần hướng dẫn tỉ mỉ và có trực quan cho các em thấy được sự khác
nhau của nó để phân biệt rõ khi đọc phát âm cho đúng Đặc biệt đối với học sinh
yếu, tôi còn sử dụng các trực quan cụ thể để các em thấy được hệ thống cách phát
âm như môi, răng, lưỡi (bộ máy phát âm) khi phát âm nó như thế nào?
Cụ thể hơn tôi làm mẫu trực tiếp để học sinh quan sát và luyện cách phát
âmNgoài hình thức trên tôi còn ghi các từ khó luyện đọc bằng phấn màu lên bảng
(Bảng phụ) Tôi chỉ dùng phấn màu ghi các phụ âm, vần khó làm nổi bật các phụ

âm, vần khó trong các từ được đọc để các em được nhìn ( bằng mắt), được tập phát
âm
(bằng miệng), được nghe ( bằng tai) và có thể được viết (bằng tay) vào bảng con
Có như vậy các em sẽ nhớ lâu và đọc đúng
b) Giáo viên đọc mẫu
Học sinh thường đọc sai phụ âm, sai vần luyện đọc Học sinh yếu cần luyện
nhiều và tôi yêu cầu học sinh phân tích các từ có tiếng, vần mà các em hay đọc sai
để nắm bắt rõ hơn Đa số học sinh đọc tốt trừ một số trường hợp cá biệt

25


×