Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Sự vận độngcủa thi pháp tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945 trên phương diện quan niệm nghệ thuật về con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.76 KB, 31 trang )

Họ và tên học viên : NGUYỄN THỊ HƯƠNG LÀI
Lớp

: Cao học Văn học Việt Nam K17

GVHD

: TS. Lê Thị Hải Vân

Đề tài: Sự vận độngcủa thi pháp tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến
năm 1945 trên phương diện quan niệm nghệ thuật về con người
MỤC LỤC
Mở đầu...........................................................................................................2
Nội dung.........................................................................................................3
1. Những vấn đề lý thuyết chung..................................................................3
1.1. Giới thuyết quan niệm nghệ thuật về con người.................................3
1.2. Khái quát về tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945...5
2. Sự vận động của quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết
Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945...................................................11
2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Quốc ngữ
những năm đầu thế kỉ XX............................................................................11
2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết lãng mạn..15
2.2.1. Tố Tâm – cột mốc mở đầu của tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam15
2.2.2. Tự lực văn đoàn – đỉnh cao của tiểu thuyết lãng mạn 1932 –
1945...............................................................................................................18
2.3. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết hiện thực phê
phán..............................................................................................................23
Kết luận........................................................................................................30
Tài liệu tham khảo.......................................................................................31

1




Mở đầu
Đầu thế kỷ XX, trong văn học Việt nam đã diễn ra một “sự kiện” có
tính chất bước ngoặt: Công cuộc hiện đại hoá văn học. Dòng văn học bác
học, chính thống chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo và văn học Trung
Quốc đã mất vị trí độc tôn trên văn đàn dân tộc. Nền văn học mới chịu ảnh
hưởng của văn học Châu Âu, chủ yếu là văn học Pháp ngày càng phát triển.
Văn học Việt Nam đi vào quỹ đạo hiện đại. Tiểu thuyết Việt Nam cũng có
những bước phát triển đáng kể và dần được hiện đại hóa.
Từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945, tiểu thuyết đã có những bước đi
nhanh chóng và vững chắc. Từ những tiểu thuyết đầu tiên của các nhà văn
Nam Bộ, đến Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách rồi tới Tự lực văn đoàn, hiện
thực phê phán, nền tiểu thuyết của chúng ta từng bước trưởng thành và hiện
đại hóa. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết của từng giai
đoạn, từng nhà văn cũng có những sự đổi khác.
Tìm hiểu Sự vận độngcủa thi pháp tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỉ
XX đến năm 1945 trên phương diện quan niệm nghệ thuật về con người, là
một hướng đi cần thiết khi đánh giá quá trình hiện đại hóa của nền văn học
Việt Nam nói chung và thể loại tiểu thuyết nói riêng trong giai đoạn văn học
này.

2


Nội dung
1.
1.1.

Những vấn đề lý thuyết chung

Giới thuyết quan niệm nghệ thuật về con người
Có thể thấy, vấn đề con người giữ vị trí trung tâm của mọi khoa học, là
vấn đề cốt lõi của các lý luận xã hội và nhân văn, kinh tế,… Trong văn học
con người là điểm xuất phát, đồng thời cũng là đích cuối cùng của mọi sáng
tạo. Toàn bộ thế giới nghệ thuật trong văn học bộc lộ một quan niệm thẩm mỹ
về con người. Một tác phẩm văn học có thể không có nhân vật người nhưng
nó luôn phải là câu chuyện về cõi nhân sinh. Có như vậy, văn học mới làm
cho con người lương thiện hơn, nhân ái hơn và cũng làm cho con người đa
dạng, phong phú, từng trải và hiểu biết hơn.
Vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người là một trong những đối
tượng nghiên cứu của Thi pháp học hiện đại. Vấn đề này được nhiều nhà lí
luận đề cập, tuy nhiên quan niệm nghệ thuật về con người cơ bản là chưa
thống nhất về mặt định nghĩa của khái niệm.
Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: Quan niệm nghệ thuật về con người là
một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn,
tầm cảm của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình
[8; tr.25]. Tức, quan niệm nghệ thuật về con người sẽ đi vào phân tích, mổ xẻ
đối tượng con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện,
biện pháp thể hiện con người trong văn học của tác giả, từ đó, tạo nên giá trị
nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó. Vì vậy, chúng
ta sẽ thấy được giá trị của hình tượng nghệ thuật trong các tác phẩm.
Giáo sư Huỳnh Như Phương cũng góp tiếng nói của mình bằng một
cách nhìn khá bao quát: Quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện tầm
nhìn của nhà văn và chiều sâu triết lí của tác phẩm.
Cũng với vấn đề về quan niệm nghệ thuật về con người, Từ
điển Thuật ngữ văn học định nghĩa như sau: Quan niệm nghệ thuật về con
người là hình thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức tác

3



phẩm. Nó gắn với các phạm trù khác như phương pháp sáng tác, phong cách
của nhà văn, làm thành thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy
nghệ thuật.
Nhìn chung, tuy khác nhau về cách diễn đạt nhưng những khái niệm
trên đều nói lên được cái cốt lõi của vấn đề quan niệm nghệ thuật về con
người. Từ đó, chúng ta có thể đi đến khái quát cách hiểu quan niệm nghệ
thuật về con người như sau: Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu là
cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải về con người của nhà
văn. Đó là quan niệm mà nhà văn thể hiện trong từng tác phẩm. Quan niệm
ấy bao giờ cũng gắn liền với cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo
của chủ thể, ngay cả khi miêu tả con người giống hay không giống so với đối
tượng. Quan niệm này chính là những nguyên tắc chi phối, quy định việc
miêu tả, thể hiện con người trong tác phẩm văn học. Do đó khám phá ra quan
niệm nghệ thuật về con người của từng tác giả sẽ giúp chúng ta cắt nghĩa và lí
giải được chiều sâu của các biện pháp hình thức chiếm lĩnh, hình thức miêu
tả, tìm ra được cái lí của các hình thức nhân vật.
Quan niệm nghệ thuật về con người là yếu tố cơ bản nhất, then chốt
nhất của một chỉnh thể nghệ thuật chi phối toàn bộ tính độc đáo và hệ thống
nghệ thuật của chỉnh thể ấy. Quan niệm về con người giúp ta thâm nhập vào
cơ chế tư duy của văn học, khám phá quy luật vận động, phát triển của hình
thức (thể loại, phong cách) văn học. Đó chính là nội dung ẩn chứa bên trong
mỗi tác phẩm biểu hiện.
Quan niệm nghệ thuật về con người tất nhiên cũng mang dấu ấn sáng
tạo của dấu ấn nghệ sĩ, gắn với cái nhìn đầy tính phát hiện độc đáo của nghệ
sĩ. Ở mỗi thể loại văn học khác nhau, mỗi thời kì lịch sử khác nhau lại có
những quan niệm con người khác nhau. Quan niệm nghệ thuật về con người,
một phương diện quan trọng của thi pháp học, nó giúp chúng ta hình dung
đầy đủ về tư tưởng nghệ thuật của một nhà văn trong một giai đoạn, thời kỳ
nhất định. Quan niệm nghệ thuật về con người cung cấp một điểm xuất phát


4


để tìm hiểu nội dung tác phẩm văn học cụ thể, đồng thời cung cấp một cơ sở
để nghiên cứu sự phát triển, tiến hoá của văn học. Bởi lẽ, điều chủ yếu trong
sự tiến hóa của nghệ thuật và của văn học nói chung, là sự đổi mới cách tiếp
cận, chiếm lĩnh thế giới và con người.
Quan niệm nghệ thuật về con người là hình thức bên trong của sự
chiếm lĩnh đời sống, là quy chiếu ẩn chìm trong hình thức nghệ thuật, nó gắn
với phạm trù phương pháp sáng tác, phong cách nghệ thuật, là thước đo của
hình thức văn học và là cơ sở của tư duy nghệ thuật, tạo nên cá tính sáng tạo
của nhà văn. Chính những quan niệm nghệ thuật riêng sẽ chi phối quá trình
sáng tác và cũng là cơ sở để tạo nên tư duy nghệ thuật. Nó là khởi nguyên của
hoạt động sáng tạo, là nền tảng của một chỉnh thể nghệ thuật mà thiếu nó thì
nhà văn không thể xây dựng được một tác phẩm hoàn chỉnh. Lịch sử văn học
nhân loại là lịch sử luôn luôn thay đổi về quan niệm nghệ thuật về con người.
Khi quan niệm nghệ thuật về con người thay đổi thì nó sẽ kéo theo sự thay
đổi của toàn bộ chỉnh thể nghệ thuật. Cho nên khi nghiên cứu tác phâm chúng
ta phải nghiên cứu quan niệm nghệ thuật con người trong tác phẩm đó, để đi
sâu khám phá tác phẩm, khám phá phong cách của nhà văn.
1.2.

Khái quát về tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945
Trước thế kỉ XX văn học Việt Nam giống văn học một số nước Đông
Á, chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng nghệ thuật của văn học Trung Quốc. Văn
học chính thống do nhà Nho viết, sinh hoạt văn chương thu hẹp trong giới trí
thức nho sĩ. Lúc này chưa có nhà in, tác phẩm văn chương không phổ biến
rộng rãi mà mà chủ yếu là sáng tác cho nhu cầu cá nhân, tặng bằng hữu...
Chưa có nhà văn chuyên nghiệp, viết văn chưa trở thành một nghề trong xã

hội. Văn học thuật, văn giáo huấn được coi trọng hơn văn nghệ thuật. Văn
thơ chữ Hán được coi trọng hơn chữ Nôm. Thơ được tôn trọng hơn văn xuôi.
Văn chương có tính quy phạm, niêm luật chặt chẽ. Từ đề tài, nhân vật, cốt

5


truyện đến hình ảnh, ngôn ngữ và cách tả cảnh, tả người, tả không gian, thời
gian... đều nằm trong một hệ thống ước lệ.
Đầu thế kỉ XX, văn học Việt Nam dần thoát khỏi những ràng buộc,
những quy phạm của văn học Trung đại, đi vào hướng hiện đại hóa. Quá trình
hiện đại hóa văn học Việt Nam là một quá trình với những nét chấm phá ban
đầu, dần tạo nên những vùng, những mảng mờ trong tư tưởng, tư duy nghệ
thuật với những nỗ lực, cách tân to lớn cuối cùng làm hiện lên khuôn mặt
mới, hiện đại văn học. Trên cái nền chung ấy, tiểu thuyết Việt Nam cũng có
những thay đổi nhất định.
Trong những thời kì trước, ở nước ta, tiểu thuyết đã tồn tại, được viết
bằng chữ Hán với kết cấu theo lối chương hồi. Đến những năm cuối thế kỉ XĨ
đầu thế kỉ XX tiểu thuyết văn xuôi tiếng Việt bắt đầu hình thành.
Năm 1887, xuất hiện truyện văn xuôi quốc ngữ viết theo hình thức tiểu
thuyết hiện đại phương Tây: Truyện thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng
Quản. Đến đầu thế kỉ XX số lượng các truyện có tần số xuất hiện nhiều hơn.
Năm 1910 tác phẩm Hoàng Tố Anh hàm oan được xuất bản, tác phẩm phản
ánh đời sống trụy lạc của một gia đình giàu có. Năm này cũng xuất hiện
những tác phẩm văn xuôi của Trương Duy Toản (Tiết phụ gian truân, Phan
Yên ngoại sử), Trần Nhật Thăng (Kim Lam Liên). Và đến những năm 20 thì
tiểu thuyết của nước ta mới bắt đầu được định hình. Năm 1919 Nguyễn
Chánh Sắt viết Nghĩa hiệp kì duyên, sau đó nhiều tác phẩm khác được xuất
bản ở Nam Bộ, tạo thành phong trào viết tiểu thuyết khá mạnh mẽ. Các tác
giả tiêu biểu như: Hồ Biểu Chánh, Tân Dân Tử, Nguyễn Chánh Sắt,...và có

thể nói các nhà văn Nam Bộ đã đi tiên phong trong việc thử nghiệm thể loại
tiểu thuyết.
Tiểu thuyết Nam Bộ hướng về những vấn đề phong phú trong xã hội
như vấn đề phong tục, vấn đề tâm lý xã hội, hiện thực xã hội, vấn đề lịch sử,
vấn đề đời tư, ... Mặt khác, yêu cầu của công cuộc đổi mới nền văn học
không chỉ dừng ở mức đổi mới về nội dung mà còn là sự đổi mới về hình

6


thức thể hiện, tức là đòi hỏi sự đa dạng về chủng loại. Vì vậy tiểu thuyết Nam
Bộ giai đoạn này đã phát triển rầm rộ theo nhiều khuynh hướng, không
những vậy mà còn có nhiều chủng loại. Khuynh hướng tiểu thuyết thế sự với
những tác phẩm tiêu biểu của Hồ Biểu Chánh như: Con nhà giàu, Con nhà
nghèo, Tiền bạc bạc tiền, Ngọn cỏ gió đùa, Khóc thầm...Khuynh hướng tiểu
thuyết có tính chất trinh thám tiêu biểu là Phú Đức với: Châu về hiệp phố,
Lửa lòng, Tình trưòng huyết lệ ... Khuynh hướng tiểu thuyết nghĩa hiệp với
những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Chánh Sắt như: Nghĩa hiệp kỳ duyên,
Một đôi hiệp khách, Man hoa kiếm hiệp ... Khuynh hướng tiểu thuyết lịch
sử là một khuynh hướng nổi bật nhất cả về số lượng tác phẩm, tác giả, cũng
như thành tựu: có một số nhà văn Nam Bộ chuyên viết tiểu thuyết lịch sử,
ngay những người không chuyên về đề tài này cũng viết ít nhất một vài cuốn.
Ở Bắc, tiểu thuyết xuất hiện muộn hơn nhưng lại đạt được nhiều giá trị
hơn. Những tác phẩm tiêu biểu như: Kim Anh lệ sử (1924, Trọng Khiêm), Tố
Tâm (1925, Hoàng Ngọc Phách), Qủa dưa đỏ (1925, Nguyễn Trọng Thuật),
Nho phong (1926, Nguyễn Tường Tam). Những cây bút truyện ngắn có :
Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, ... Nguyễn Công Hoan và Nhất Linh giai
đoạn này cũng đã bắt đầu sáng tác.
Vào những năm 30, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn ra đời, “đánh dấu giai
đoạn toàn thắng” của nền văn học mới. Tự lực văn đoàn hoạt động chỉ trong

vòng trên dưới mười năm (1932 - 1942, tạm tính từ ngày tờ Phong hoá ra đời
cho đến lúc Thạch Lam mất - ngày 28/06/1942). Trong phạm trù ý thức hệ tư
sản, Tự lực văn đoàn đã nói lên những khát vọng dân tộc và dân chủ của đông
đảo quần chúng chủ yếu là của các tầng lớp tiểu tư sản trí thức và thanh niên
thành thị. Tự lực văn đoàn không đặt vấn đề giải phóng xã hội nhưng đã đấu
tranh đòi giải phóng con người, giải phóng bản ngã. Đặc biệt đấu tranh cho tự
do hôn nhân, cho cuộc sống của người phụ nữ chống lại sự ràng buộc khắt khe
của lễ giáo phong kiến.

7


Phẩm chất tư tưởng nổi bật trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là chống
lễ giáo phong kiến, khẳng định cái tôi cá nhân trong đời sống văn học xã hội.
Chủ đề sáng tác trong các tác phẩm tiêu biểu của Nhất Linh, Khái Hưng là
khẳng định cái tôi cá nhân của những con người được hấp thụ một nền văn
minh Âu hoá, đòi tự do yêu đương, tự do kết hôn, chống lại sự can thiệp thô
bạo, sự cấm đoán vô lý của lễ giáo phong kiến và đại gia gia đình phong kiến.
Lần đầu tiên, trong văn học Việt Nam xuất hiện một văn đoàn có tổ
chức chặt chẽ, có tôn chỉ, mục đích rõ ràng, có cơ quan ngôn luận riêng của
mình. Bằng vũ khí đắc lực là tiếng cười hài hước, châm biếm, hai tờ báo
Phong hóa và Ngày nay không những có đóng góp rất lớn cho sự phát triển
của báo chí và xã hội nói chung mà còn góp phần hiện đại văn học: cổ vũ và
đấu tranh cho phong trào thơ mới, góp phần quan trọng vào sự “thắng thế’
của phong trào này; phát hiện và bồi dưỡng các tài năng văn học; tổ chức thi
sáng tác và trao giải thưởng cho các tác phẩm có giá trị. Nhà xuất bản Đời
nay thường xuyên mang đến cho bạn đọc sáng tác của các thành viên trong
văn đoàn cũng như các tác phẩm đạt giải thưởng. Tất cả các hoạt động đó
của Tự lực văn đoàn đã có ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt Nam giai
đoạn 1932 - 1945.

Trong thực tiễn sáng tác, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là sự kết hợp hài
hoà giữa truyền thống và hiện đại, là một bước tổng hợp mới giữa những ảnh
hưởng của văn học châu Âu, văn học Trung Quốc và truyền thống văn học
dân tộc. Tinh hoa của nền văn học quá khứ, cổ truyền, phương Đông hòa
quyện nhuần nhụy với thành tựu của văn học hiện đại phương Tây, tạo nên
sắc màu thẩm mĩ mới trong tiểu thuyết, đáp ứng được thị hiếu của thời đại.
Kế thừa có chọn lọc và sáng tạo, đồng thời tiếp thu những tinh hoa của các
tiểu thuyết gia bậc thầy thế giới, các nhà văn Tự lực văn đoàn đã thể hiện rõ
bản lĩnh và tài năng của mình trong sáng tác.
Từ bỏ hệ thống thi pháp văn học cũ, đến với hệ thống thi pháp văn học
mới, hiện đại, Tự lực văn đoàn đã thực sự hiện đại nghệ thuật tiểu thuyết: từ

8


cách xây dựng nhân vật, xây dựng cốt truyện, cách kết cấu tác phẩm, cho đến
ngôn ngữ, giọng điệu. Nhân vật của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn không còn là
những biểu tượng của đạo đức phong kiến, là những con rối do tác giả giật
dây mà là những “nhân vật sống” có chân dung sinh động và đặc biệt, có đời
sống nội tâm, có diễn biến tâm lí phức tạp thể hiện qua hành động, qua đối
thoại và độc thoại… Đó là những điểm hầu như ít xuất hiện trong văn học
trung đại. Điểm cách tân nổi bật của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là xoá bỏ
hoàn toàn kết cấu chương hồi, tổ chức tác phẩm theo kết cấu hiện đại: kết cấu
theo quy luật tâm lí. Cánh cửa tư duy nghệ thuật được mở rộng cho những
sáng tạo nghệ thuật khám phá con người và cuộc sống.
Với tôn chỉ và ý nguyện muốn “làm giàu văn sản” dân tộc bằng chính
tiếng Việt, các nhà văn Tự lực văn đoàn rất có ý thức gìn giữ và xây dựng,
phát triển tiếng nói dân tộc trong sáng tạo nghệ thuật, làm cho ngôn ngữ văn
chương ngày càng trong sáng, giản dị, gần với ngôn ngữ đời thường. Các nhà
văn đã xây dựng giọng điệu riêng cho mình để tạo nên những nét phong cách

khác nhau. Tuy còn có những hạn chế nhất định nhưng chúng ta không thể
không khẳng định rằng: “Tự lực văn đoàn có hoài bão về một nền văn hoá
dân tộc và thực sự đã có những đóng góp lớn cho nền văn học dân tộc”.
Đồng thời và tiếp sau Tự Lực văn đoàn là những tiểu thuyết của dòng
văn học hiện thực phê phán. Có thể nói, cương lĩnh “nghệ thuật vị nhân sinh”
đã ăn sâu vào tư tưởng những nhà văn thuộc trào lưu văn học này. “Các ông
bảo tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết, còn tôi và những nhà văn như tôi chủ trương
nhà văn là cuộc đời” (Vũ Trọng Phụng). Họ kiên quyết chối bỏ sự hấp dẫn
của cái đẹp không tưởng để tìm đến với nỗi đau của con người. Họ quan tâm
đến việc diễn tả, lí giải một cách chân thật và chính xác quá trình phát triển
của hiện thực khách quan thông qua việc khắc họa những hình tượng điển
hình. Bằng bút pháp điển hình hóa những nhà văn của dòng văn học hiện
thực đã mang đến cho người đọc những số phận con người chân thực nhất, để
bất cứ ai ở thời điểm đó soi vào cũng thấy lấp ló bóng dáng mình. Các nhà

9


văn hiện thực đã đi một con đường khác, đã tìm ra bản chất sâu xa trong nỗi
đau con người, thể hiện được tinh thần nhân đạo trong các tác phẩm. Cùng
đau, cùng khóc với những con người khốn khổ. Cùng đồng cảm với họ và
trân trọng những giá trị tốt đẹp bên trong họ.
Văn học hiện thực như một lưỡi cày sâu, lật lên mặt trái của xã hội
đương thời. Hiện thực cuộc sống với những lầm than cơ cực đã được phơi
bày dưới những cây bút lực lưỡng như Ngô Tất Tố với tập phóng sự “Việc
làng” ở đó ta thấy được những hủ tục nặng nề của nông thôn Việt Nam. Với
“Tắt đèn”, người đọc thấy được một thứ tai họa khủng khiếp ỏ nông thôn, đó
là những người dân bần cố nông phái điêu đứng, quằn quại trong sự đè nén vì
sưu thuế. Đó còn là Vũ Trọng Phụng với tiếng cười châm biếm sắc sảo, sâu
cay trong các tác phẩm như Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê, Cạm bẫy người, Kĩ

nghệ lấy Tây... bộ mặt xã hội Việt Nam cả thành thị lẫn nông thôn đã hiện lên
một cách rõ nét.
Đau đớn trước nỗi đau con người, các nhà văn một thời theo khuynh
hướng lãng mạn đã rũ bỏ cái mộng mơ ảo não để đến với những số phận,
những cuộc đời bị chà đạp, vùi dập, bị “áo cơm ghì sát đất ”. Trong số đó,
Nam Cao là một đại diện tiêu biểu. Gương mặt ưu tú của trào lưu văn học này
đã từng thốt lên qua lời nhân vật của mình rằng: “nghệ thuật không cần là ánh
trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng
đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than...” (Giăng sáng), “một tác phẩm có
giá trị phải ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công bình...”,“ nó làm cho
người gần người hơn”, và “nhà văn phải luôn mở hồn ra để đón những vang
động của cuộc đời...” (Đời thừa)
Văn học hiện thực phê phán là tiếng nói mang tính phản kháng tức thời
trước những thực trạng tiêu cực trong xã hội, đối lập với quan điểm của
người cầm bút. Mỗi tác phẩm văn học hiện thực phê phán như những chiếc
gương không những chỉ phản chiếu mà còn cô đọng, bao chứa, dồn nén hiện
thực ngổn ngang của xã hội.

10


Nhìn lại chặng đường văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, chúng
ta thấy hàng loạt những tác phẩm văn học hiện thực phê phán của Ngô Tất Tố
(1894 - 1954), Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977), Vũ Trọng Phụng (1912 1939), Nam Cao (1915 - 1951)… đã đi qua thử thách của thời gian và thời
cuộc để vẫn đến với bạn đọc hôm nay.
2.
2.1.

Sự vận động của quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết
Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945

Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Quốc ngữ những
năm đầu thế kỉ XX
Từ đầu thế kỉ XX, tiểu thuyết được viết và trước hết nhiều nhất là ở
Nam Bộ. Có thể nói, Nam Bộ là mảnh đất xuất hiện những điều kiện cho quá
trình đổi mới văn học sớm hơn so với cả nước như chữ quốc ngữ, báo chí,
nhà in,... Đây cũng là nơi ra đời cuốn tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ đầu
tiên, Truyện thầy Lazarô Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản. Tuy vậy
phải đến thập kỷ thứ hai của thế kỷ XX trở đi thì nền văn học này mới phát
triển mạnh mẽ về số lượng tác phẩm và tác giả. Giai đoạn này phải kể đến
các nhà văn như: Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt, Bửu Đình, Trần Chánh
Chiếu, Phú Đức, Tân Dân Tử, Phạm Minh Kiên, Nguyễn Bửu Mọc, Nguyễn
Ý Bửu ..., đặc biệt là Hồ Biểu Chánh.
Quan niệm nghệ thuật về con người của Hồ Biểu Chánh và các nhà văn
Nam Bộ một mặt kế thừa quan niệm thời trung đại, một mặt có những đổi
mới rất tích cực. Tuy vẫn đề cao những con người theo đạo đức lễ giáo phong
kiến nhưng con người trong tiểu thuyết của ông không còn là những con
người chung chung mang tính đại diện mà là những cá nhân có hoàn cảnh, cá
tính, số phận rõ ràng. Hồ Biểu Chánh chia các nhân vật của mình ra làm hai
loại: “con nhà giàu” và “con nhà nghèo”, những kẻ tàn bạo độc ác và những
người coi trọng nhân nghĩa. Hồ Biểu Chánh tập trung mũi dùi đả kích vào
bọn địa chủ, quan lại phong kiến. Trong phần lớn tác phẩm, Hồ Biểu Chánh

11


tập trung phê phán giai cấp địa chủ và bọn quan lại phong kiến về mặt đạo
đức. Đứng ở góc độ này, tác giả tố cáo những hành động thương luân bại lý,
những thủ đoạn dâm ô tàn bạo của bọn chúng. Đối lập với bọn giàu sang
quyền thế tàn bạo và độc ác là những con người nghèo tiền bạc nhưng giàu
lòng nhân nghĩa (Lê Văn Đó, hương sư Cu).

Hồ Biểu Chánh quan niệm mỗi cá nhân là một thành viên của cộng
đồng, là nhân tố làm nên cái ta. Đồng thời giữa các cá nhân trong cộng đồng
đều phải có mối liên hệ mật thiết, có trách nhiệm với nhau và có bổn phận
nhất định. Hồ Biểu Chánh khẳng định con người chức năng phận vị nhưng
có sự thay đổi trong quan niệm về chức năng phận vị. Nhà Nho xưa nhấn
mạnh chức năng phận vị đặt trong quan hệ với vua, với nước. Hồ Biểu Chánh
lại chú ý chức năng phận vị trong quan hệ với gia đình, xã hội. Hồ Biểu
Chánh không đặt con người trước vấn đề to tát, lớn lao, mà đưa con người
vào cuộc sống đời thường để xem xét.
Nhân vật trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh sống theo đạo đức và
sống vì đạo đức. Họ có thể dẹp bỏ tất cả những ham muốn và quyền lợi cá
nhân để thực hiện tốt những chuẩn mực về đạo đức. Nhân vật chính diện
trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh đều là những nhân vật sống vì chữ hiếu,
chữ nghĩa, chữ tiết. Ngược lại, nhân vật phản diện, người xấu đều là những
kẻ bất nhân phi nghĩa. Đây là điểm rất giống nhà Nho của ông. Nhưng Hồ
Biểu Chánh đã có điểm khác so với nhà Nho. Hồ Biểu Chánh đã đặt ống kính
quan sát ở nhiều hướng, để nhận thấy tường tận, thấu đáo các vấn đề về con
người. Quan niệm người phụ nữ là phải sống với chữ tiết. Ai thất tiết là người
xấu, người hư hỏng nhưng nhà văn đã xem xét hoàn cảnh, tình huống “phạm
tội” để “luận tội” và “xử phạt”. Đều là những phụ nữ đã thất tiết nhưng cô
Tư Lựu (Con nhà nghèo) có cái kết cục khác hẳn Hồng Như Hoa (Thầy
thông ngôn), Thị Lựu (Cha con nghĩa nặng). Cách giải quyết đó cho thấy
môt quan niệm mang tính mềm dẻo, uyển chuyển, không bảo thủ, càng không
áp đặt. Người cố tình vi phạm đạo đức được đánh giá khác với người bị buộc

12


phải vi phạm, lại biết ăn năn hối lỗi. Nhìn chung, theo ông tiết hạnh đáng giá
nghìn vàng, người phụ nữ tốt phải là người tiết hạnh. Tuy nhiên, phải đặt vào

từng hoàn cảnh thích hợp thì tiết hạnh mới có ý nghĩa thật sự.
Con người chức năng phận vị trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh được
xây dựng theo mẫu hình con người chức năng phận vị của nhà Nho. Tuy
nhiên, đã có biểu hiện cho thấy những chuyển biến trong quan niệm về con
người chức năng phận vị. Con người như đang cựa quậy, muốn bứt phá tất cả,
để thoát ra ngoài chức năng phận vị, mà vươn tới chân trời tự do, được sống
cho riêng mình, thoả mãn khát vọng cá nhân.
Quan niệm về con người cá nhân đã được thể hiện trong văn học trung
đại. Đến tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, tiểu thuyết của giai đoạn giao thời trong
lịch sử văn học Việt Nam, quan niệm về con người cá nhân tất yếu sẽ có
những đổi thay, tạo nét riêng nhất định. Vào thời điểm Hồ Biểu Chánh viết
tiểu thuyết, khẳng định con người cá nhân dám ý thức và sống cho bản ngã
vẫn còn là vấn đề mới mẻ, chỉ mới bắt đầu phổ biến trong văn học. Đối với
thể loại tiểu thuyết nó hãy còn là chuyện ít thấy. Con người cá nhân trong tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh tuy chưa mạnh dạn sống cho bản ngã, chưa thể tồn tại
độc lập nhưng đã ý thức rõ về bản ngã và đang muốn khẳng định mình trước
cuộc đời. Trước tiên là khẳng định năng lực, năng lực phát triển kinh tế nước
nhà và năng lực chấn hưng phong hoá xã hội.
Vì muốn duy trì sự sống cho người thân và cho cả chính mình, anh
nông dân nghèo Lê Văn Đó với bản tính hiền lành đã phải bao phen làm đạo
tặc. Miếng ăn và sự sống bị trả giá bằng tù đày, đòn roi dã man. Sống trong
xã hội như thế, con người trở nên rẻ rúng đến tội nghiệp. Dường như đã nhận
ra chính sự thua sút về kinh tế dẫn con người đến chỗ thấp hèn, bị coi khinh,
bị ức hiếp chèn ép một cách bất công, anh Đó đã quyết tâm làm giàu, gây
dựng sự sống cho mình và cho những người cùng cảnh ngộ bằng chính đôi
bàn tay trắng và sự cần cù. Cuối cùng anh đã thành công, thành công lớn!
Anh đã khẳng định được năng lực của những con người nghèo. Con người cá

13



nhân như đã nhận thấy một thực tế trong cuôc sống: càng có tiềm lực kinh tế
thì càng có sức mạnh quyền thế. Thiên Hộ Chánh Tâm được quan trên kính
nể, kẻ dưới bái trọng. Còn Lê Văn Đó nghèo khổ luôn bị từ chối giúp đỡ, bị
rẻ khinh. Do đó, con người cá nhân ý thức phát triển cuộc sống để khẳng
định mình.
Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX có nhiều thay đổi lớn, phong hoá đang
bị huỷ hoại dần trước sự tấn công của lối sống phương Tây. Con người cá
nhân trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh khẳng định mình có đủ năng lực chấn
chỉnh xã hội, bảo vệ phong hoá. Các hoạt động mở báo quán, xây trường hoc,
dựng nhà bảo sanh, …của các nhân vật Tân Phong (Tân Phongnữ sĩ), cô Vân
(Đoạn tình) để giúp đỡ, bảo vệ quyền lợi phụ nữ, tạo cho phụ nữ có được
cuộc sống bình đẳng nhưng không bỏ quên thiên chức làm vợ, làm mẹ, đã
chứng minh năng lực hoạt động xã hội của những cá nhân là phụ nữ. Đây là
nét mới ở tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh cũng khá phổ biến loại nhân vật hám danh,
hám tiền. Vì tiền, vì danh lợi mà không từ bất cứ một thủ đoạn nào để đạt
được. Là một nhà văn có tấm lòng nhân hậu bao la, lại nhìn đời bằng lăng
kính màu hồng, Hồ Biểu Chánh luôn nhận thấy con người và cuộc sống có
những mặt trái đáng sợ nhưng không vì thế mà lánh xa hoặc cương quyết vứt
bỏ tất cả cái xấu một cách không suy xét. Với ông, chấn chỉnh, sửa đổi cái
xấu là công việc đáng được quan tâm. Ông nhận thấy bên trong những con
người xấu vẫn còn có một lương tâm trong sáng, luôn phán xét mọi hành vi
của họ, có khi còn kịp thời ngăn chặn để họ không lún vào hố sâu tội lỗi. Con
người cá nhân trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh tuy có những đam mê về tiền
tài vật chất, làm việc bất nghĩa nhưng vẫn còn có thể biết mang mặc cảm tội
lỗi. Nhân vật thầy thông Phong (Thầy thông ngôn) về cuối tác phẩm đã ăn
năn rất nhiều về những lầm lỗi của mình, khao khát được sửa sai, đã làm rõ
vấn đề nói trên.


14


Tóm lại, quan niệm về con người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh thể
hiện rõ những biến đổi nghệ thuật trong việc miêu tả con người và cuộc sống
ở giai đoạn văn học giao thời. Chịu ảnh hưởng của cả hai nền Hán học và tân
học, Hồ Biểu Chánh tỏ ra chưa hoàn toàn phủ nhận quan niệm của nhà Nho.
Ông vẫn nhìn con người và cuộc đời bằng cái nhìn của nhà Nho. Nhưng Hồ
Biểu Chánh là nhà văn không bảo thủ mà rất sáng suốt khi đi theo con đường
của nhà Nho. Tiếp thu tinh hoa văn hoá phương Tây, Hồ Biểu Chánh có được
cái nhìn mới mẻ, phóng khoáng về con người. Với cái nhìn đa chiều và tinh
tế, Hồ Biểu Chánh quan niệm con người trong giai đoạn hiện thời không thể
hoàn toàn là con người chức năng phận vị. Hoàn cảnh mới, những đổi thay
của xã hội đã dẫn đến sự khẳng định con người cá nhân sống theo bản ngã.
Tuy nhiên, Hồ Biểu Chánh vẫn thấy rằng con người biết sống theo bản ngã
trong chừng mực nhất định, nếu không quên chức năng phận vị là con người
lý tưởng nhất. Hạnh phúc sẽ đến với ai biết dung hoà cái ta và cái tôi. Chính
quan niệm trên đã tạo cho tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có những nét riêng và
có sức sống lâu bền trong lòng độc giả.
2.2.

Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết lãng mạn
2.2.1. Tố Tâm – cột mốc mở đầu của tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam
Trong văn học Việt Nam từ thế kỷ XVIII - XIX con người cá nhân với
nhu cầu hưởng hạnh phúc lứa đôi, đã có mặt qua nhiều tác phẩm. Đó là loại
nho sĩ quý trọng tài, tình, sắc đẹp hơn phúc ấm công danh; mong ước gặp lại
giai nhân hơn cả minh quân, lương tướng. Chính những “đứa con hư” của
giai cấp phong kiến đó đã sáng tác ra những khúc ngâm chứa chan tình cảm,
những chuyện nôm ca tụng tình yêu, những bài ca trù ngang tàng phóng túng.
Mối tình giữa Dao Tiên và Lương Sinh (Hoa Tiên), giữa Thuý Kiều và Kim

Trọng (Truyện Kiều) không hề gặp vật cản lễ giáo chắn ngang. Vào những
năm 20 đầu của thế kỷ XX, Tản Đà với cái tôi cá nhân “man mác vô định”

15


(Xuân Diệu) đã bước vào văn học với một cái tôi tha thiết yêu đương. Tuy
nhiên, con người với tình yêu nam nữ trong những tác giả, tác phẩm ấy chưa
được thể hiện rõ và trở thành trung tâm của nội dung tác phẩm. Phải đến Tố
Tâm của Hoàng Ngọc Phách, điều này mới được thể hiện rõ ràng.
Tố Tâm đã đặt ra vấn đề quyền sống trong lĩnh vực tình cảm của cá
nhân con nguời trong xã hội đương thời. Đó là quyền đuợc yêu, đuợc lựa
chọn nguời yêu, quyền bảo vệ tình yêu chân chính của mình. Tố Tâm thể
hiện tính chất hiện đại trong việc lựa chọn đề tài chuyện tình yêu trai gái. Tuy
là vấn đề muôn thuở nhưng tình yêu trong Tố Tâm thuần túy là chuyện yêu
đương, không pha tạp, không lồng vào bất cứ mâu thuẫn giai cấp, vấn đề xã
hội nào. Có thể xem nó là một bản tình ca ngoài lễ giáo, thật mới mẻ, hiện đại
của một lớp thanh niên trí thức rất trẻ, vào những thập niên đầu thế kỉ.
Tố Tâm xây dựng một cốt truyện khá mới mẻ, hiện đại. Ở Tố Tâm, các
biến cố trong truyện đều nhằm khắc họa tính cách hai kiểu nhân vật: một
thanh niên trí thức Tây học và một thiếu nữ, con nhà gia giáo, sống theo lối
mới. Cốt truyện hấp dẫn không nhờ tình tiết ly kỳ mà vì tâm lý nhân vật được
khai thác đến tận cùng những ngóc ngách sâu kín của nó. Tác phẩm không
theo trình tự truyền thống: gặp gỡ - lưu lạc - đoàn viên. Theo kiểu hiện đại,
nó kết thúc bằng bi kịch - bi kịch nhưng không đọng lại dư vị bi quan cho
người đọc. Trái lại, bi kịch ấy đã làm rung chuyển nếp cảm, nếp nghĩ mòn
xưa của người đọc thời bấy giờ. Sức mạnh ấy, các tiểu thuyết trước và cùng
thời với Tố Tâm chưa hề có được. Tác phẩm đặt ra một chủ đề có sức tác
động lớn đến người đọc: khẳng định vị trí của cá nhân, quyền sống của con
người, trước uy quyền còn khá kiên cố của lễ giáo phong kiến khắc nghiệt.

Đạm Thuỷ và Tố Tâm yêu nhau nồng nàn, say đắm tưởng rằng họ có
thể vượt qua lễ giáo phong kiến để đến đích cuối cùng của tình yêu. Nhưng
họ đã bị chặn đứng, ý thức cá nhân đầu thế kỷ XX chưa đủ mạnh để bắt lễ
giáo phong kiến khuất phục. Cuối cùng Đạm Thuỷ đã khuyên Tố Tâm đầu
hàng: “Em ơi, sinh ra gái mưa sa là phận, rủi may âu cũng sự giời, ai biết

16


hay đâu mà tìm, biết dở đâu mà tránh, trước sau cũng một lượt, chả sớm thì
chầy, một mình em ở đời như chiếc bách giữa dòng, chống sao cho nổi
những khi mưa sa, gió táp, chi bằng em theo cái lệnh “đặt đâu ngồi đấy” là
hơn”. Vì vậy, Tố Tâm phải miễn cưỡng xuất giá, lấy một người chồng mà
nàng không yêu, sau đó ốm tương tư và chết. Cái chết của Tố Tâm đã lên án
thứ lễ giáo phong kiến trái mùa phong tỏa chết tình cảm của tuổi trẻ.
Tuy nhiên, cái tôi cá nhân trong Tố Tâm còn nép mình trước những
thế lực rất mạnh của phong kiến và cuối cùng phải chịu đầu hàng theo lệnh
phải “đặt đâu ngồi đấy là hơn”. Chủ nghĩa cá nhân giai đoạn Tố Tâm trở về
trước chưa phải là “chủ nghĩa cá nhân lộ liễu và kiêu hãnh”.
Sự kết hợp hai yếu tố cũ và mới trong cả hai phương diện nội dung và
nghệ thuật là hiện tượng phổ biến nhất trong văn học giai đoạn đầu thế kỉ
XX. Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là một tác phẩm tiêu biểu mang nhiều
yếu tố pha tạp hai giá trị truyền thống và hiện đại. Hoàng Ngọc Phách đã để
cho hai nhân vật Tố Tâm và Đạm Thuỷ giằng co giữa hai con đường:
chạy theo tình yêu tự do hay chấp nhận lễ giáo phong kiến. Đạm Thuỷ
khuyên Tố Tâm đi lấy chồng để nàng được vẹn chữ hiếu và chàng được giữ
chữ tín nhưng lòng thì không muốn rời xa Tố Tâm. Còn Tố Tâm thường
khẳng định về tình yêu của mình: “Em đã yêu anh thì không thể yêu ai được
nữa, mà cũng không muốn yêu ai. Đã không yêu thì không lấy. Nhưng rồi
nàng cũng phải đem tình yêu mà đặt trước chữ hiếu để cân nhắc, lựa chọn. Cả

hai đều có những giấc mơ yêu đương, đầy chất lãng mạn. Họ từng nghĩ đến
chuyện đem nhau đi trốn ở một nơi “thâm sơn cùng cốc, hay góc bể chân trời
nào không ai biết để cùng nhau hưởng cuộc ái ân trăm năm”. Thế mà cuối
cùng cũng chính họ để cho “tình gia quyến” “đánh đổ được những ảnh hưởng
mới”, mà giữ họ lại. Tác phẩm Tố Tâm khép lại trong kết thúc bi thảm. Tố
Tâm chết, Đạm Thuỷ sống trong đau khổ, bị dằn vặt vì nỗi nhớ thương người
xưa, mặc dù tác giả đã cố tình tạo cho chàng một cơ hội mới (lập nghiệp),

17


nhằm giúp chàng thoát khỏi “bể sầu, núi thảm”. Nhưng hạnh phúc vẫn không
thể đến được.
Với Tố Tâm, người tuân thủ đạo đức truyền thống đã không có hạnh
phúc trong chế độ đại gia đình phong kiến, mà người muốn sống hết mình
cho tình yêu tự do cũng không thể đón nhận hạnh phúc trong tình yêu. Cả đôi
đường đều không thể trọn vẹn, con người bị lâm vào thế bế tắc. Nguyên nhân
bắt nguồn từ trạng thái lưỡng phân, giao thời của xã hội. Hoàng Ngọc Phách
đã đem cái tôi tư sản đặt bên cạnh lễ giáo phong kiến và ông chỉ nói đến cái
tôi trong thế cạnh tranh với đạo đức phong kiến. Trường hợp của Hoàng
Ngọc Phách là trường hợp tiêu biểu và phổ biến ở giai đoạn đầu thế kỉ XX.
2.2.2.

Tự lực văn đoàn – đỉnh cao của tiểu thuyết lãng mạn 1932 – 1945
Thừa kế truyền thống nhân văn của những nhà tiền bối, Tự lực văn

đoàn tiếp tục giương cao ngọn cờ đấu tranh nhằm chống lễ giáo, giải phóng
con người, nhất là người phụ nữ ra khỏi sự ràng buộc của lễ giáo và chế độ
đại gia đình phong kiến. Tác giả khuyên răn thanh niên không nên đắm say
vào ái tình nhưng thực ra đã ca ngợi mối tình tự do, đặt ra yêu cầu đòi hỏi

giải phóng cá nhân, chứng minh cho chủ nghĩa nhân đạo vốn đã trở thành
truyền thống trong văn học Việt Nam trước đó.
Đến với tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, người đọc dường như chìm trong
thế giới của những điều đẹp đẽ, lí tưởng của những chân trời tình yêu cao
đẹp. Con người tiểu thuyết Tự lực văn đoàn mang trong mình những nét đẹp
thời đại, những nét đẹp mà bấy lâu bị khuất ấp, nay có dịp lên tiếng và tỏa
sáng. Đó là vẻ đẹp của cá nhân, của bản thể không bị ràng buộc bởi những
giáo điều cổ hủ. Chính đặc điểm này đã hình thành nên một quan niệm nhân
sinh quan mới mẻ: con người cá nhân được quyền sống một cuộc sống tự do,
sống như chính con người họ và sống theo nhịp chảy của thời đại Tây hóa.
Trong chặng đầu phát triển, phẩm chất tư tưởng nổi bật trong tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn là chống lễ giáo phong kiến, khẳng định cái tôi cá

18


nhân trong đời sống văn học xã hội. Chủ đề sáng tác trong các tác phẩm tiêu
biểu là khẳng định cái tôi cá nhân của những con người được hấp thụ một nền
văn minh Âu hoá, đòi tự do yêu đương, tự do kết hôn, chống lại sự can thiệp
thô bạo, sự cấm đoán vô lý của lễ giáo phong kiến và đại gia gia đình phong
kiến.
Sự khẳng định ý thức cá nhân bằng việc phủ định những ràng buộc
phong kiến trong cuộc xung đột cá nhân với xã hội là một đề tài phổ biến
trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Hồn bướm mơ tiên là một câu chuyện tình
lãng mạn của đôi trai gái. Lan là một thiếu nữ xinh đẹp, mồ côi cha mẹ từ bé,
phải ở với người chú, ông này ép nàng phải lấy con của một nhà giàu trong
làng, nàng không chịu nên đã trốn nhà đi tu tại chùa Long Giáng (Bắc Ninh).
Tại đây, Lan gặp Ngọc là cháu của Sư cụ trụ trì ngôi chùa này. Hai người yêu
nhau và chỉ nguyện yêu nhau trong tâm hồn, trong lý tưởng, một tình yêu
thoát tục dưới bóng từ bi Phật tổ.

Việc Lan không phục tùng mệnh lệnh của người chú là một sự chống
đối lễ giáo phong kiến - Đó là quyết định hoàn toàn có ý thức bản ngã, là sự
thức tỉnh, giác ngộ về quyền tự do cá nhân. Là một thanh niên trong xã hội,
Lan có quyền tự tổ chức lấy sống cuộc riêng không ai có thể can thiệp, thay
thế, đã tự nguyện quy y, ăn chay, niệm Phật thế mà lại ngang nhiên bất chấp
nguyên tắc của nhà chùa, yêu Ngọc ngay trước Phật đài. Điều này hoàn toàn
xa lạ với giáo lý Khổng Mạnh, cũng là điều cấm kị đối với Phật giáo. Đó là
một nét mới trong phẩm chất tư tưởng làm cho Hồn bướm mơ tiên vượt qua
Tố Tâm và trở thành một tác phẩm nghệ thuật hiện đại có giá trị tư tưởng
nhất định.
Hồn bướm mơ tiên chỉ là khúc dạo đầu của bản trường ca chiến đấu
chống lễ giáo phong kiến. Phải đến Nửa chừng xuân Khái Hưng, Đoạn
tuyệt, Lạnh lùng của Nhất Linh thì xung đột giữa cái tôi cá nhân và lễ giáo
phong kiến mới diễn ra quyết liệt. Xung đột của con người cá nhân với truyền
thống, là sự khẳng định trực diện và tích cực nhất của con người cá nhân Tự

19


lực văn đoàn…Những xung đột được miêu tả trong tác phẩm là xung đột giữa
hai thế hệ, giữa cái mới và cái cũ trong gia đình, nhưng thực chất là xung đột
giữa cá nhân với xã hội truyền thống.
Nửa chừng xuân là câu chuyện tình dang dở giữa Mai và Lộc. Họ đã
vượt qua hàng rào ngăn cách của lễ giáo phong kiến để yêu nhau nhưng bà
Án, mẹ Lộc kịch liệt phản đối cuộc hôn nhân tự do này vì không “môn đăng
hộ đối”. Bà bắt Lộc phải lấy con cụ Tuần để con nhờ cậy bố vợ trên con
đường thăng quan tiến chức, Bà lập mưu ly gián hai người làm cho Lộc nghi
ngờ lòng đoan trinh của Mai. Vì lòng tự trọng, Mai bỏ nhà ra đi, lâm vào
cảnh vô cùng khốn đốn: Mai mang thai, em trai ốm, trong tay không có một
đồng. Mai phải xoay xở vất vả lắm mới nuôi nổi con và em trai tiếp tục học

hành cho đến khi đỗ đạt kiếm được việc làm. Sáu năm sau, hiểu rõ sự thật,
Lộc oán trách mẹ và rất hối hận vì đã xử tệ với Mai. Chàng tìm đến Mai xin
tha thứ và mong được chắp lại duyên xưa. Mai từ chối vì Lộc đã có vợ, nàng
đành ở vậy trong cảnh nửa chừng xuân.
Trong Nửa chừng xuân, tác giả đã làm cho người đọc không chỉ căm
ghét một bà Án cụ thể mà còn căm ghét cả một nền luân lý cổ hủ của lễ giáo
phong kiến tồn tại từ hàng nghìn năm trong xã hội Việt Nam và muốn quét
sạch nó ra khỏi đời sống tinh thần của xã hội. Đối lập hoàn toàn với nền luân
lý cổ hủ đó là quan niệm sống của Mai. Mai tự do yêu đương và khẳng định
đó là quyền tự nhiên của tuổi trẻ. Mai là một thiếu nữ có tư tưởng mới nhưng
không phải là cô gái lố lăng, sống buông thả. Ở Mai có nhiều nét của phẩm
chất đạo đức truyền thống tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Mai được độc
giả mến mộ chính là do vẻ đẹp tâm hồn của cô.
Chống lễ giáo quyết liệt nhất phải kể đến Đoạn tuyệt của Nhất Linh.
Trước sự suy tàn của đạo đức Khổng Mạnh, Đoạn tuyệt được xem như là bản
tuyên ngôn của lớp thanh niên mới chống chế độ đại gia đình phong kiến
trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. So với Cô giáo Minh - tác phẩm cùng
thời và cùng chủ đề của nhà văn hiện thực phê phán Nguyễn Công Hoan,

20


cách giải quyết vấn đề xung đột “mới - cũ” của Đoạn tuyệt đã theo một
phương hướng mới, cái mới chống cái cũ không thoả hiệp và đã chiến thắng,
cái tôi đã được khẳng định. Trái lại, trong Cô giáo Minh cá tính bị xoá nhoà,
bị nuốt đi trong đại gia đình phong kiến. Đoạn tuyệt ra đời được công chúng
thành thị nhiệt tình đón nhận. Trương Tửu cho rằng: Nhất Linh đã mở cho
thanh niên một tương lai xán lạn và “Cuốn Đoạn tuyệt là một vòng hoa tráng
lệ đặt trên đầu chủ nghĩa cá nhân. Tác giả đường hoàng công nhận sự tiến bộ
và hăng hái tín ngưỡng tương lai. Ông giúp bạn trẻ vững lòng phấn đấu,

nghĩa là vui mà sống” (Loa - 8/8/1938).
Hầu hết các tác phẩm Tự lực văn đoàn đều viết về đề tài tình yêu, đó
cũng là đề tài phổ biến của văn học lãng mạn. Tình yêu ở những tác phẩm
này cũng lắm hình nhiều vẻ: Có tình đắm say, có tình gượng gạo, có tình
ngọt ngào, có tình đau khổ đắng cay, có tình vụng trộm, có tình thủy chung,
có tình lãng mạn mộng mơ, có tình chân thành mộc mạc, có tình thanh cao
thoát tục, có tình xác thịt tội lỗi, có tình phải trải qua biết bao gian lao khổ
sở mới đến được với nhau, có tình ngẫu nhiên gặp gỡ mà thành hôn nhân
bền chặt… Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam nói chung, văn xuôi Việt
Nam nói riêng đề tài - chủ đề tình yêu lại được biểu hiện tập trung và sâu
rộng đến như vậy.
Nhìn chung, những mối tình ấy đều toát lên một quan niệm mới mẻ về
hôn nhân và tình yêu. Điều nổi bật là tất cả các cuộc tình được miêu tả trong
tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn đều là những mối tình lãng mạn diễn ra theo
nhịp đập của trái tim, nhưng không đơn thuần chỉ là mối tình trai tài - gái sắc,
tài tử - giai nhân vốn là mô típ của văn học Cổ - Trung đại. Cái tiêu chí “môn
đăng hộ đối” đang dần dần bị xoá bỏ. Quan niệm cổ hủ phong kiến đã trở
thành xa lạ đối với họ. Họ chỉ biết yêu là yêu, không quan tâm đến giàu
nghèo, nghề nghiệp, tuổi tác, thậm chí không hề băn khoăn đến quá khứ của
nhau: Dũng con một nhà giàu có lại yêu một cô gái nghèo là Loan; Phong
con nhà gia thế, khoẻ mạnh lại yêu một cô gái câm; Chương một ông giáo

21


rất mô phạm lại yêu một cô gái giang hồ; Lan một cô gái ngây thơ xinh đẹp
lại yêu Nam một người bằng tuổi bố mình… Tất cả những mối tình trên
dường như đều xa lạ với lễ giáo phong kiến.
Tuy nhiên, càng về giai đoạn sau, con người cá nhân trong tiểu thuyết
Tự lực văn đoàn dần đi đến con được trụy lạc, cực đoan. Tuyết (Đời mưa

gió - Nhất Linh và Khái Hưng), Trương (Bướm trắng - Nhất Linh), Cảnh
(Thanh đức) rơi vào chủ nghĩa cá nhân này là có tính cực đoan và chủ nghĩa
vô luân. Những nhân vật trong những tác phẩm này không còn màu sắc lãng
mạn tích cực mà đã mang tính chất “tiêu cực”; “suy đồi”, “trụy lạc”, “trác
táng”.
Tuyết (Đời mưa gió) là một nhân vật lập dị với các quan niệm sống
suy đồi. Trên cõi đời này theo Tuyết chẳng có gì quan trọng và thiêng liêng
cả. Chỉ có cuộc sống hành lạc là đáng kể. Tuyết chủ trương sống “không tình,
không cảm, chỉ coi lạc thú ở đời như vị thuốc trường sinh”, và ái tình chẳng
qua chỉ là “sự gặp gỡ của hai xác thịt”. Tuyết là hình mẫu mới của sự tự do cá
nhân chỉ tôn thờ sự hưởng thụ và ảo tưởng về một cõi tự do tuyệt đối.
“Không bao giờ trở thành vật sở hữu của ai và muốn sở hữu tất cả”. Đó là sự
phát triển méo mó của ý thức cá nhân - cái vực thẳm mà Tuyết và một số
nhân vật Tự lực văn đoàn rơi vào sự thể nghiệm của chủ nghĩa cá nhân cực
đoan. Hiền (Trống mái - Khái Hưng) cũng vậy. Mọi hành động của Hiền
cũng chỉ nhằm thoả mãn ý thích lãng mạn nhất thời của mình. Nam (Đẹp Khái Hưng) cũng như Tuyết (Đời mưa gió) chỉ tôn thờ chủ nghĩa độc thân,
yêu là để thoả mãn nhu cầu bản năng của mình chứ không hẳn là đi tìm hạnh
phúc.
Có thể nói quan niệm nghệ thuật về con người của tiểu thuyết Tự lực
văn đoàn đã có một quá trình tự ý thức về mình. Từ con người cá nhân trong
xã hội mang đậm màu sắc chính trị qua con người cá nhân lãng mạn lập dị
đến con người cực đoan liều lĩnh. Xét cả trên hai cấp độ đó, ta thấy sự ra đời
của cái tôi cá nhân của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn có một ý nghĩa tích cực

22


trong cả cuộc sống và trong nghệ thuật. Nó mở ra một khả năng vô tận trong
sự khám phá thế giới bên trong của con người, đem đến những cảm hứng,
những rung động mới mẻ và rõ ràng có ý nghĩa làm phong phú tâm hồn con

người.
Nếu chúng ta xem tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là tiểu thuyết luận đề thì
dường như họ có một luận đề nhất quán - luận đề về con người cá nhân, mà
tập chung chủ yếu vào việc giải phóng người phụ nữ ra khỏi lễ giáo phong
kiến, đại gia đình phong kiến. Đây là một đóng góp quan trọng của tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn trong việc hiện đại hoá hệ đề tài, chủ đề cho văn học
Việt Nam. Khẳng định những đóng góp của Tự lực văn đoàn đối với công
cuộc hiện đại hoá văn học đó, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã viết: “Tuy Tự lực
văn đoàn không phải là nhóm duy nhất nhưng là nhóm quan trọng nhất và là
nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học Việt Nam hiện đại”.
2.3.

Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết hiện thực phê phán
Trong giai đoạn 1930 – 1945 đã xảy ra biết bao sự kiện của lịch sử, xã
hội dẫn đến sự biến đổi sâu sắc trong ý thức và tâm lí con người. Giai đoạn
này cuộc sống con người bị đẩy vào “bước đường cùng”, nén chịu bao nỗi
quằn quại dưới sự chà đạp của xã hội thực dân phong kiến. Xã hội đã dồn con
người vào bế tắc, cùng quẫn.
Với quan niệm tôn trọng sự thật và thiết tha nói lên sự thật về cuộc đời
các nhà văn hiện thực đã đứng trên lập trường “nghệ thuật vị nhân sinh” để
tập trung dồn tụ những tiếng kêu đau đớn của bao linh hồn, muôn cảnh đời,
nhiều số phận khác nhau trong thực cảnh khắc nghiệt của cuộc sống. Chính
họ đã làm nên một trào lưu hiện thực và góp phần không nhỏ vào việc tái
hiện lại một thời kì đen tối, lầm than của lịch sử dân tộc.
Con người trong dòng văn học này đã được nhìn với cái nhìn mới, đó
là những con người với mâu thuẫn giai cấp, với ý thức đấu tranh. Mâu thuẫn

23



chủ yếu không còn là mâu thuẫn giữa thiện và ác mà là giữa giàu và nghèo,
giữa thống trị và bị trị. Những người nhà quê, người bình dân (công nhân,
người lao động thành thị, những người cùng khổ ở dưới đáy xã hội) qua các
tác phẩm của các nhà văn hiện thực phê phán đã trở thành những hình tượng
sinh động về những còn người của một thời, giúp vào việc nhận thức, lên án
một chế độ xã hội tàn bạo, phi nhân tính, chà đạp quyền sống của con người,
chế độ ấy cần phải tiêu diệt.
Tuy nhiên, ở các tác giả khác nhau, quan niệm nghệ thuật về con người
của họ cũng không giống nhau. Ở Nguyễn Công Hoan, con người trong xã
hội đương thời được miêu tả như những diễn viên, những thằng hề trên sân
khấu đại hài kịch. Tuy nhiên, trong khi phản ánh những kiểu con người đó
ông vẫn còn rơi rớt cái nhìn đạo lí của nhà Nho. Đây cũng không phải ngẫu
nhiên, thực chất đó là do chính bản thân tác giả xuất thân trong gia đình
khoa bảng, ông thấm nhuần những đạo lí phong kiến nên các sáng tác của
ông vẫn không thoát li khỏi các tư tưởng ấy.
Đến sáng tác của Vũ Trọng Phụng, lúc này cách nhìn nhận về con người
đã thực sự là phát triển. Bằng tài năng của mình, Vũ Trọng Phụng tỏ ra điêu
luyện trong nghệ thuật viết tiểu thuyết, thể hiện một bước cách tân độc đáo
đối với thể loại, khiến tiểu thuyết của ông, đặc biệt là Giông tố, Số đỏ trở
thành những kiệt tác trong nền văn xuôi hiện đại nửa đầu thế kỉ.
Vũ Trọng Phụng là một trong những khuôn mặt độc đáo nhất của văn
học tiền chiến. Văn chương Vũ Trọng Phụng đối lập với văn chương Tự Lực
văn đoàn và cũng khác hẳn lối hiện thực phê phán của những người cùng thời
như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng...Trong cấu trúc tác
phẩm của Vũ Trọng Phụng có sự xâm nhập giữa các thể loại tiểu thuyết và
phóng sự, giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, giữa các yếu tố bi và hài. Vũ
Trọng Phụng đã xây dựng một kết cấu không gian rộng lớn, hoành tráng với
các mối quan hệ phức tạp, chồng chéo của đám đông nhân vật đủ mọi tầng
24



lớp, địa vị xã hội, trong đó nổi bật những nhân vật điển hình đặc sắc, đầy tính
tạo hình: Nghị Hách, Xuân Tóc Đỏ...
Khái Hưng nhìn đâu cũng thấy lãng mạn, Nguyễn Công Hoan nhìn
đâu cũng thấy hài kịch, nhưng Vũ Trọng Phụng nhìn đâu cũng thấy những
bất công. Ông nhìn thấy rất nhiều những cái lố lăng, diễn trò rất vô lí
(trong xã hội đó con người triệt tiêu tất cả những cái có giá trị), con người
chẳng ai còn chút giá trị nào, nó hiện lên như cái quái thai, nghịch dị của
đời sống. Vũ Trọng Phụng là nhà văn Việt Nam đầu tiên đã phanh phui
“thú tính” nơi con người, kể cả những người được coi là “hiền lành, chân
thật”.
Vũ Trọng Phụng tập trung miêu tả về sự tha hóa của con người trong
môi trường tiền bạc và tham nhũng. Với tiểu thuyết Giông tố là một thảm kịch
về sự thấp hèn bất tín của con người trên mọi lĩnh vực, không ai có thể tin ai
được và không ai có thể nhờ cậy ai được. Vũ Trọng Phụng không dùng ngòi
bút để chống lại một thành phần, một giai cấp nào đó, cũng không trực tiếp
phản ánh sự mục nát, thối rữa của xã hội Việt Nam dưới ách thống trị của thực
dân. Nhìn chung, ông mô tả sự tha hóa của con người trên toàn diện xã hội,
dưới chiều sâu, qua nhiều tầng lớp, nhiều hạng người, mỗi người có cách tha
hóa khác nhau trước thế lực của đồng tiền và sự tham nhũng.
Tác phẩm của ông lấy nguồn cảm hứng từ xã hội Việt Nam dưới thời
Pháp thuộc, những năm 1930 – 1940, với tất cả những tệ nạn của xã hội đương
thời, nhưng tác giả không quy kết hoàn toàn cho chính phủ bảo hộ hay vua An
Nam, mà ông đào sâu hơn vào các hành động của cá nhân con người, để xác
định rõ trách nhiệm mỗi cá nhân trước bổn phận và đạo đức sống của chính
mình. Trong những truyện đầu tay như Một cái chết (1931), Bà lão lòa (1931),
ông đã nêu đích danh thủ phạm của những cái chết bi thương, đói khát. Đó là
sự độc ác không cưu mang nhau giữa người với người. Vũ Trọng Phụng khác
những nhà văn cùng thời, tác phẩm của ông không bị giới hạn trong luận đề


25


×