Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

BÀI THẢO LUẬN môn tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH con người và chiến lược trồng người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.07 KB, 27 trang )

BÀI THẢO LUẬN MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề Tài: Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người và chiến lược trồng người. Vận
dụng quan điểm đó trong việc phát triển giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay,
liên hệ với việc học tập vủa sinh viên

Giáo viên hướng dẫn:
Lớp HP:
Nhóm thực hành:


STT

1

2
3
4
5
6
7
8
9
10

Họ tên

Mã sinh viên


LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, được


vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với
giải quyết xã hội và giải phóng con người.Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được
đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của
Người. Tin ở dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi
dưỡng, đào tạo và phát huy mọi nănglực của dân, đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận
dụng và phát triển trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc.
Cùng với đó, sự nghiệp trồng người và việc phát triển giáo dục, đào tạo cũng chiếm một
vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp gây dựng và phát triển đất nước ở thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, nền kinh té hội nhập như hiện nay.
Để hiểu rõ hơn, bài thảo luận của nhóm 6 với đề tài "Quan điểm của Hồ Chí Minh về
con người và chiến lược trồng người. Vận dụng quan điểm đó trong việc phát triển giáo
dục và đào tạo ở nước ta hiện nay, liên hệ với việc học tập vủa sinh viên" sẽ giúp làm
sáng tỏ hơn về quan điểm của Người về vấn đề này. Kết cấu bài thảo luận gồm 2 chương:
Chương 1: Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người và chiến lược trồng người
Chương 2: Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh vào việc phát triển giáo dục và
đào tạo ở nước ta hiện nay.
Trong quá trình làm bài còn có nhiều sơ suất, mong cô giáo và các bạn bỏ qua.


CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1. Khái niệm
a) Cách mạng giải phóng dân tộc
 Mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuôc địa phương đông là mâu thuẫn giữa dân
tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân.Do mâu thuẫn chủ yếu khác nhau nên tính
chất và nhiệm vụ cuộc đấu tranh ở các nước tư bản và chủ nghĩa cũng khác
nhau
 Đối tượng của cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư sản cũng không
phải giai cấp địa chủ mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động
b) Cách mạng vô sản

 Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa,
trong cuộc cách mạngđó, giai cấp công nhân là giai cấp lãnhđạo và cùng với
quần chúng nhân dân lao động xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
 Mâu thuẫn chủ yếu là quyền lợi giữagiai cấp vô sản là giai cấp tư sản hay nói
cách khác là công nhân với tư bản
 Đối tượng của cách mạng là giai cấp tư sản
2. Bối cảnh lịch sử
a) Hoàn cảnh thế giới, hoàn cảnh trong nước
- Hoàn cảnh thế giới
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) đã kết thúc và gây ra sự thay đổi
rất lớn trong bản đồ chính trị châu Âu. Cuộc chiến dẫn đến sự sụp đổ của
bốn đế quốc Nga (1917), Đức (1918), Áo - Hung (1918), Ottoman (1923)
với các triều đình quân chủ hàng trăm năm bị suy đổ trong đó hai cường
quốc Áo - Hung và Ottoman bị phân rã và mất hẳn vai trò cường quốc. Hai
đế quốc Đức, Nga bị cắt xén lãnh thổ và bị kiềm chế với tình cảm dân tộc
nước lớn bị tổn thương sâu sắc và đó là đất đai rất tốt cho tư tưởng phục thù
để dẫn đến một thế chiến mới. Rất nhiều các nước nhỏ xuất hiện từ sự phân
rã của các đế quốc và từ sự phân chia mang tính chủ quan, quan liêu của
các cường quốc thắng trận dẫn đến các mâu thuẫn lộn xộn gây mất ổn định
thế giới sau này.


Cách mang tháng Mười Nga năm 1917 thành công. Đại hội Xô Viết toàn
Nga lần thứ hai tuyên bố khai mạc tại điện Smoniyl và tuyên bố thành lập
chính quyền Xô Viết do Lenin đứng đầuTháng 12 năm 1917, Hội đồng kinh
tế quốc dân tối cao được thành lập nhằm xây dựng nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Ngày 3 tháng 3 năm 1918, nước Nga Xô Viết kí Hòa ước BrestLitovsk với các nước phe Liên minh Trung tâm chính thức rút khỏi Chiến
tranh thế giới thứ nhất.
Trong giai đoạn 1920-1945, phong trào cách mạng vô sản trên thế giới

bùng nổ và đạt được nhiều thắng lợi to lớn, đồng thời phong trào giải
phóng dân tộc cũng diễn ra mạnh mẽ.
Vào những năm 60 của thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh
chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền hay chủ nghĩa đế quốc. Vì vậy họ
muốn mở rộng thị trường nên nhu cầu về thuộc địa ngày càng tăng cao. Sự
bành trướng lãnh thổ của các nước đế quốc đã dẫn đến một mâu thuẫn giữa
các nước thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Mâu
thuẫn này trở nên là một mâu thuẫn cơ bản, hết sức sâu sắc và gay gắt của
thời đại đế quốc chủ nghĩa. Cho đến năm 1848, chủ nghĩa Mác-ăng ghen
hình thành về cơ bản và đã nói lên quy luật tất yếu diệt vong của chủ nghĩa
tư bản kèm theo đó là sự ra đời của chủ nghĩa xã hội , chủ nghĩa cộng sản.
Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về vấn đề thuộc địa đã dẫn tới chiến
tranh thế giới thứ nhất(1914-1918) và khiến cho chủ nghĩa tư bản thời kỳ
này có phần suy yếu. Trong bối cảnh đó, sự thắng lợi của cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga (7/11/1917) mở ra thời đại mới- thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đồng thời làm nảy sinh
mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Tháng 3/1919, quốc tế cộng sản do Lênin sáng lập trở thành cơ sở tham
mưu cho phong trào cộng sản, phong trào công nhân quốc tế và phong trào
giải phóng dân tộc. Cùng với chủ nghxa Mác dần dần được các nước thuộc
địa bết đến, làm thức tỉnh ý thức dân tộc của người dân khắp nơi và làm cho
phong trào giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi.
-

Hoàn cảnh trong nước.
Năm 1885, các quan lại Việt Nam tổ chức phong trào kháng chiến Cần
Vương chống Pháp nhưng thất bại. Các vua Nguyễn là Hàm Nghi, Duy Tân
và Thành Thái có ý phản kháng đều bị Pháp truất ngôi và đưa đi đày.



Năm 1887, Pháp đã xâm lược toàn Việt Nam tổ chức ra một bộ máy cai trị
khá hoàn chỉnh từ trung ương cho đến địa phương.
Sau thất bại của phong trào Cần vương cuối thế kỷ 19, người Pháp đã cũng
cố hoàn toàn việc tổ chức cai trị tại Việt Nam. Cuộc cải cách trong giáo dục
trong thập niên 1910 đã xóa bỏ hoàn toàn nền nho học với chữ Hán cả
nghìn năm trong chế độ phong kiến Việt Nam để thay thế bằng phong trào
tân học theo chữ quốc ngữ đã tạo ra một tầng lớp trí thức mới, đó là những
người xuất thân từ truyền thống nho giáo nhưng được tiếp cận với văn hóa
phương Tây Đại diện tiêu biểu cho giới này là Phan Châu Trinh và Phan
Bội Châu đã mở đầu cho phong trào Duy Tân và phong trào Đông Du vận
động tăng cường dân trí, dân chủ, nhân quyền và cải cách xã hội cho người
Việt trước tầng lớp người Pháp cai trị. Tuy nhiên sự phát triển các phong
trào này sau đó bị chính quyền thực dân dẹp bỏ vì nhận thấy nguy cơ đối
với chế độ thuộc địa của họ.
Cuối thập niên 1920, những người Việt cấp tiến dưới ảnh hưởng của chủ
nghĩa Tam dân đã thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng. Tuy nhiên, đến
năm 1930, sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Việt Nam Quốc dân
Đảng bị suy yếu nghiêm trọng. Cùng năm đó, một số thanh niên Việt Nam
theo chủ nghĩa Mác- Lênin thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng
cũng mau chóng trở thành mục tiêu tiêu diệt của Pháp mặc dù tổ chức của
họ thân thiện với Mặt trận Bình dân trong chính quyền Pháp.
Nhật Bản tấn công Đông Dương vào năm 1940 và nhanh chóng thỏa thuận
được với chính quyền Vichy ở Pháp để cho Nhật toàn quyền cai trị Đông
Dương. Chính quyền thực dân Pháp chỉ tồn tại đến tháng 3 năm 1945 khi
Nhật tấn công toàn bộ Đông Dương. Ngay sau đó, Nhật thiết lập một chính
quyền thân Nhật với quốc vương Bảo Đại và thủ tướng Trần Trọng Kim,
đặt quốc hiệu mới đế quốc Việt Nam và quốc kỳ là cờ quẻ ly..
Đầu năm 1945, Việt Nam rơi vào một tình trạng hỗn loạn. Chiến tranh đã
làm kiệt quệ nền kinh tế, người Nhật chiếm lấy lúa gạo và các sản phẩm
khác, bắt dân phá lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai,

nạn đói (Nạn đói Ất Dậu ) đã xảy ra tại Bắc kỳ và Trung kỳ. Người ta ước
tính rằng đã có khoảng hai triệu người chết vì nạn đói này.
Tóm lại, xã hội tồn tại nhiều mâu thuẫn vì vậy nhân dân ta đã không ngừng
đứng lên đấu tranh nhưng tất cả đều bị dìm trong biển máu do nhiều nguyên


nhân khác nhau đã khiến nhân dân nhận thức sai mâu thuẫn và khủng
hoảng đường lối, phương pháp, giai cấp lãnh đạo
-

Những mâu thuẫn
Xã hội tồn tại nhiều mâu thuẫn
 Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản
 Mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân
 Mâu thuẫn dân tôc : giữa toàn dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp
Công nhân, nông dân, tiểu tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp phong
kiến địa chủ mâu thuẫn gay gắt với bọn cướp nước và bán nước, từ đó đặt
ra yêu cầu cấp bách cần giải quyết trước hết là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam với thực dân đế quốc cùng bè lũ tay sai của chúng. Nhưng trước khi
Đảng Cộng sản ra đời thì các tổ chức yêu nước và cách mạng chưa nhận
thức được mâu thuẫn chủ yếu này.

3. Mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản
Cách mạng giải phóng dân tôc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng
vô sản . Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị, ông cha ta đã sử dụng nhiều con
đường gắn với những huynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng những vũ khí tư
tưởng khác nhau nhưng tất cả đều thất bại. Từ đó Hồ Chí Minh đã nhận thấy :”Chỉ
có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc , cả hai cuộc giải
phóng này chỉ có thể là sư nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế
giới. Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con

đường cách mạng vô sản”. Chỉ có chủ nghĩ xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ.

Chương l : Quan điểm của Hồ Chí Minh về
con người và chiến lược trồng người
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người


Đối với Hồ Chí Minh, Con người vừa tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa là thành
viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài
hòa, phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người: "chữ người, nghĩa
hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. nghĩa rộng là đồng bào cả nước. rộng
nữa là cả loài người". khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc,
trong mọi hoàn cảnh, người luôn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với
tư cách nhu cầu chính đáng. đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực
vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi
cá nhân không được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không thể phát
huy được. Theo người, thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có nghĩa là
phải xây dựng một nền dân chủ chân chính, không hình thức, không cực đoan,
trong đó mỗi con người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ
của mình theo hiến pháp và pháp luật. con người, với tư cách là những cá nhân,
không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân
tộc và với các loài người trên toàn thế giới.

 Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách
mạng.
Theo Hồ Chí Minh, "trong bầu trời không quý bằng nhân dân. trong thế giới
không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". vì vậy, 'vô luận việc gì,
đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả". người cho rằng

"việc dễ mấy không có nhân dân cũng chịu, việc khó mẩy có dân liệu cũng xong",
nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần.
Hồ Chí Minh tổng kết ngắn gọn: dân ta tốt lắm. người phân tích phẩm chất tốt
đẹp của dân từ lòng trung thành và tin tưởng vào cách mạng, vào Đảng, không sợ
gian khổ, tù đày, hy sinh đến việc dân nhường cơm sẻ áo, chở che, đùm bọc, bảo
vệ, nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng. Dân ta là tài năng, trí tuệ và sáng tạo,
họ biết “giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những
người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. đặc biệt là lòng sốt
sắng, hăng hái của dân để thực hiện con đường cách mạng. Hồ Chí Minh có niềm
tin vững chắc rằng với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với
lòng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng
ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi. Nhân dân là yếu tố quyết định
thành công của cách mạng. "lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực
lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”.


 Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng
Vì sống gần dân, với dân, giữa lòng dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý, Hồ
Chí Minh thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng lao
động xã hội. Chính vì vậy, năm 1911, giữa lúc đất nước đang bị xâm lược, nhân
dân phải chịu cảnh lầm than, Người ra đi tìm đường cứu nước với ý chí quyết giải
phóng dân tộc khỏi gông cùm của giặc, để “dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào
ai cũng có cơm ăn, áo mặc”.
Ở Hồ Chí Minh có sự cảm nhận, thông cảm sâu sắc với thân phận những người
cùng khổ và nô lệ lầm than, có niềm tin vững chắc vào trí tuệ, bản lĩnh của con
người, ở khả năng tự giải phóng của chính bản thân con người. Người làm hết sức
để xây dựng, rèn luyện con người và quyết tâm đấu tranh để đem lại độc lập, tự
do, hạnh phúc cho con người. Hồ Chí Minh xác định con người là mục tiêu trong
điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng: khi đất nước còn nô lệ, lầm than
thì mục tiêu trước hết trên hết là giải phóng dân tộc. giành độc lập dân tộc, sau khi

chính quyền đã về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa
bệnh lại được ưu tiên hơn, bởi vì, "nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". vì vậy chúng ta phải thực hiện
ngay: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân
có học hành.
Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. có thể là lợi ích
lâu dài, lợi ích trước mắt: lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng
lớp và cá nhân. với hoạt động thực tiễn thì việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy - ta
phải hết sức làm. việc gì hại cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết sức tránh.
Tuy nhiên, không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những
con người được giác ngộ và tổ chức. họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo
đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của
dân tộc Việt Nam
Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh
đạo, vì vậy cần có sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Phải kiên quyết khắc phục kịp
thời các phản động lực trong con người và tổ chức. đó là chủ nghĩa cá nhân. thứ vi
trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói quen truyền thống lạc hậu, tàn


tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè không dám nói, không dám làm, không dám đề
ra ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo.

2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược"trồng người”

 Trồng người" là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng.
Xuất phát từ quan niệm coi con người là vốn quý nhất, là yếu tố quyết
định đối với sự thành bại của cách mạng, là mục tiêu và động lực của cách
mạng, Hồ Chí Minh hết sức coi trọng chiến lược trồng người.
 Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, nhằm phát huy cao

nhất mọi tiềm năng của con người.
 Chiến lược “trồng người” vừa mang tính thường xuyên, cấp bách, vừa mang tính
cơ bản lâu dài, phải làm công phu, tỉ mĩ như người làm vườn vậy.
 Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa
Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, những con
người xã hội chủ nghĩa lại là chủ thể của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Nhưng không phải chờ cho kinh tế, văn hoá phát triển cao rồi
mới xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, cũng không phải xây dựng xong
con người xã hội chủ nghĩa rồi mới xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Việc
xây dựng con người phải đặt ra từ đầu và quan tâm suốt quá trình.
 “Trước hết, cần có những con người xã hội chủ nghĩa”, có nghĩa là không phải tất
cả mọi người phải và có thể trở thành người xã hội chủ nghĩa thật đầy đủ, thật
hoàn chỉnh ngay một lúc, mà chỉ có nghĩa là, trước hết cần có những con người
tiên tiến, có được những nét tiêu biểu của người xã hội chủ nghĩa để có thể làm
gương và lôi cuốn người khác cũng như toàn xã hội xây dựng con người mới;
đồng thời, họ cũng không ngừng được hoàn thiện, được nâng cao.
 Tiêu chuẩn của con người xã hội chủ nghĩa, theo Hồ Chí Minh:
Có tư tưởng xã hội chủ nghĩa: có ý thức làm chủ, có tinh thần tập thể, có tư
tưởng mình vì mọi người, mọi người vì mình, có tinh thần dám nghĩ, dám


làm, dám chịu trách nhiệm, quyết chí vươn lên, có tinh thần tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Có đạo đức và lối sống xã hội chủ nghĩa: trung với nước, hiếu với dân, yêu
thương con người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, có tinh thần quốc tế
trong sáng, lối sống lành mạnh.
Có tác phong xã hội chủ nghĩa: làm việc có kế hoạch, biện pháp, có quyết
tâm, tổ chức, kỷ luật, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, lao động hăng
say, không sợ khó, sợ khổ, làm việc vì lưọi ích của xã hội, tập thể và của

bản thân.
Có năng lực làm chủ: làm chủ bản than, gia đình và công việc mình đảm
nhiệm, đủ sức khoẻ và tư cách tham gia làm chủ nhà nước và xã hội, thực
hiện tốt quyền công dân; không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hoá,
khoa học công nghệ, chuyên môn nghiệp vụ để làm chủ.
Ngoài những tiêu chuẩn chung trên, Hồ Chí Minh còn nêu những tiêu
chuẩn cụ thể cho từng giới, từng ngành.
 Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến
lược phát triển kinh tế-xã hội.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây. Vì lợi ích
trăm năm phải trồng người”.
+ Việc xây dựng con người mới phải được thường xuyên đẩy mạnh trong
suốt tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội và phải đạt được kết quả cụ thể qua
từng chặng đường của thời kỳ quá độ. Bởi vì, nếu sao nhãng việc trồng
người, nhất định sẽ dẫn đến những bất cập, hơn nữa còn là những suy thoái
về con người có thể gây những hậu quả khôn lường. R.Tagore nói: “một
ngày mà quên giáo hoá, ta lùi gần về thú tính hơn”.
+ Xây dựng con người mới phải được đặt ra trong suốt cuộc đời mỗi người.
Đây là quyền lợi, cũng là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người với sự
nghiệp xây dựng đất nước. Đồng thời nó cũng thể hiện sự trưởng thành,
vươn lên của mỗi cá nhân.


+ Những người có trách nhiệm trồng người cũng phải được vun trồng bởi
quần chúng nhân dân, bởi tập thể những người đi trồng và được trồng, bởi
cuộc sống thực tiễn và sự tự vun trồng trong suốt cuộc đời của chính họ.

Chương 2: Vận dụng quan điểm của Hồ
Chí Minh vào việc phát triển giáo dục và
đào tạo ở nước ta hiện nay.

Lịch sử cách mạng của nước ta hơn 80 năm qua gắn liền với tên tuổi, sự nghiệp, tư
tưởng và đạo đức Nuyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh , người anh hùng dân tộc vĩ đại,
nhà tư tưởng lỗi lạc của cách mạng Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ
nước, dân tộc ta đã sản sinh ra biết bao tên tuổi vĩ đại những không ai có sự nghiệp
lẫy lừng như Chủ tịch Hồ Chí Minh, không ai có được tầm vóc thời đại,được thế
giới ca ngợi và thừa nhận như Hồ Chí Minh. Địa vị có một không hai trong lịch sử
dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được xác lập và củng cố vững chắc nhờ công
lao to lớn và sự nghiệp vĩ đại mà Người đã cống hiến cho cách mạng Việt Nam.
Công lao to lớn, sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa Người lên địa
vị người anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng, nhà lí luận sáng tạo của
Chủ nghĩa Mác Lênin được các dân tộc đang đấu tranh giải phóng và nhân loại tiến
bộ hết lòng ca ngợi và khâm phục. Thực tế lịch sử 80 năm qua đã chứng tỏ rằng:
thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của Chủ nghĩa Mác Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Một thực tế khác cũng cho thấy: khi nào chúng ta rời hoặc
quán triệt không đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh thì sẽ không tránh khỏi vấp váp và
sai lầm. Cùng với Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh quyết định sự
thành bại của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của Người không chỉ có ý nghĩa dân
tộc mà còn có ý nghĩa với toàn nhân loại. Nhiều nhà nghiên cứu và chính khách
trên thế giới đã đánh giá tầm vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh, nhãn quan sáng
suốt nhìn xa thấy rộng của Người bắt nguồn từ nhận thức sâu sắc về những lực
lượng thúc đẩy sự biến đổi có tính chất bùng nổ nhất của lịch sử ở những bước


ngoặt có tính chất cách mạng nhất. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong
hệ thống quan điểm đó có nhiều luận điểm hết sức sáng tạo, thể hiện sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở nước ta. Những
luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh rất phong phú, đa dạng, bao quát nhiều mặt,
nhiều lĩnh vực, đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh tính đúng đắn
và giá trị to lớn. Trong bài viết này, tôi xin đề cập đến một trong những luận điểm

sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, đó là luận điểm: Cách
mạng giải phóng dân tộc cần phải chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng
lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc

1. Quan điểm quốc tế III:
Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của
cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính
quốc.. Đầu thập kỷ thứ hai , nhiều người cộng sản Châu Âu cho rằng, chủ
nghĩa cộng sản không thể áp dụng ở các nước phương Đông, nơi kinh tế chưa
phát triển. Họ coi phong trào giải phóng dân tộc chỉ là đồng minh căn cứ vào
đặc điểm châu á . Nhưng phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới đã khẳng
định: "Chủ nghĩa Cộng sản thích nghi dễ dàng với châu á hơn là với châu Âu"
và theo Người: "Vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng
khít của vấn đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản".Đề cương
về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa được thông
qua tại Đại hội VI Quốc tế cộng sản (ngày 1-9-1928) cho rằng: Chỉ có thể thực
hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành
được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này, vô hình chung đã
làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
2.Quan điểm Hồ Chí Minh
2.1 Nội dung:
a) Cách mạng giải phóng dân tộc cần tiến hành chủ động, sáng tạo
- Hồ Chí Minh khẳng định sức sống và nộc độc của chủ nghĩa đế quốc tập
trung ở các nước thuộc địa. Chính sự áp bức, bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa


thực dân đế quốc đã tạo nên mâu thuẫn gay gắt giữa các dân tộc thuộc địa
với CNTB.
Người viết: “tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ
thuộc địa. Đó là nơi CNTB lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi nó

đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ công nhân rẻ mạt cho đạo quân lao động của nó, và
nhất là tuyển những binh lính bản xứ cho các đạo quân phản cách mạng của
nó”. “... nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập
trung ở các nước thuộc địa”.
- Trong cuộc đấu tranh chống CNĐQ, CNTD, cách mạng thuộc địa có tầm
quan trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng
to lớn. Chủ nghĩa dân tộc chân chính, chủ nghĩa yêu nước truyền thống là
một động lực to lớn của cách mạng giải phóng dân tộc.
Cho nên, phải “làm cho các dân tộc hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau, đoàn
kết với nhau để tạo cơ sở cho một liên minh phương Đông tương lai, làm
một trong nhưng cái cánh của cách mạng vô sản”, phải phát động chủ nghĩa
dân tộc bản xứ nhân danh quốc tế Cộng sản.
- Trong khi yêu cầu QT III và các đảng cộng sản quan tâm đến cách mạng
thuộc địa, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân
thuộc địa chỉ có thể thực hiện được bằng sự nổ lực tự giải phóng.
Vận dụng công thức của C.Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải
là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Người đi đến luận điểm:
“Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa), chỉ có thể thực hiện
được bằng sự nổ lực của bản thân anh em”.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao sức mạnh của một dân tộc vùng dậy chống đế
quốc thực dân; chủ trương phát huy nổ lực chủ quan của dân tộc, tránh tư
tưởng bị động, trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài. Người nói: “Kháng
chiến trường kỳ gian khổ đồng thời phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức
mình… Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng nhưng không
được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự
lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng
được độc lập”


b) Quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc

- Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi
của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc.
Quan điểm này vô hình dung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các
phog trào cách mạng ở thuộc địa. Hồ Chí Minh đã phê phán và chỉ ra sai lầm
của quan điểm đó.
- Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc hay quan
hệ chính - phụ.
Năm 1925 Người viết, “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám
vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vời khác bám vào giai cấp vô
sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng
thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi thì cái vòi kia vẫn tiếp
tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt
đứt lại sẽ mọc ra”
- Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức
mạnh dân tộc, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa có thể giành thắng lợi trước và giúp đỡ cách mạng vô sản ở chính
quốc.
Bởi vì “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của
giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của
giai cấp bị áp bức ở thuộc địa” và “Ngày mà hàng trăm nhân dân châu Á bị
tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực dân lòng
tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ
tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế
quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong
nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận thực tiễn và lý luận to lớn;
một cống hiến quan trọng vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đã



được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế
giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
2.2 Căn cứ:
- Hồ Chí Minh dựa trên quan điểm của Mac về khả năng tự giải phóng của
giai cấp công nhân: " Sự giải phóng của giai cấp công nhân chỉ có thể thực
hiện được bởi giai cấp công nhân" .Thực tiễn năm 1919, cách mạng Nga đã
diễn ra thành công rực rỡ.
- Hồ Chí Minh nhận thấy sự tồn tại và phát triển của CNTB là dựa trên sự
bóc lột giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân các dân tộc thuộc địa vì
vậy cuộc đấu tranh giai cấp vô sản ở chính quốc phải kết hợp chặt chẽ với
cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa thì mới tiêu diệt hoàn toàn CNTB.
Hơn nữa theo đánh giá của HCM trong giai đoạn ĐQCN sự tồn tại, phát
triển của CNTB chủ yếu dựa vào việc bóc lột nhân dân các nước thuộc địa vì
vậy cuộc cách mạng vô sản ở chính quốc trước chẳng khác nào đánh rắn
đằng đuôi.
3. sự vận dụng thành công
3.1 Cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh - Người đầu tiên vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận cách
mạng vô sản vào Việt Nam, xây dựng học thuyết giải phóng và phát triển
dân tộc theo khuynh hướng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội.
Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản. Với việc xác định con đường đó, Nguyễn Ái Quốc
mở đường để giải quyết tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước Việt
Nam đầu thế kỷ XX, đồng thời khởi động tiến trình đưa cách mạng Việt
Nam hội nhập vào trào lưu cách mạng thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
Lý luận cách mạng vô sản không phải là một tín điều.Vì thế, C. Mác và V.I.

Lê-nin đòi hỏi phải tiếp tục phát triển lý luận trong những điều kiện lịch sử


mới. Hồ Chí Minh tiếp thu bản chất cách mạng, khoa học và tính nhân văn
cao cả của học thuyết cách mạng vô sản nhằm giải phóng triệt để con người
khỏi mọi sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về mặt giai cấp và sự nô dịch
về mặt tinh thần.
Hồ Chí Minh trăn trở rất nhiều về sự khác nhau giữa xã hội châu Âu và xã
hội phương Đông. Vận dụng phương pháp biện chứng của C. Mác để phân
tích xã hội thuộc địa, Người chỉ ra rằng, do nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu,
nên sự phân hóa giai cấp ở đây khác với xã hội tư bản phương Tây, vì thế
cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không diễn ra giống như ở phương Tây. Giữa
những giai cấp khác nhau vẫn có sự tương đồng lớn: đều chung một số phận
của người dân mất nước. Nếu như mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội tư bản
chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, thì mâu
thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa lại là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức
với đế quốc xâm lược. Giai cấp tư sản dân tộc và một bộ phận địa chủ vừa
và nhỏ mặc dù vẫn có mặt hạn chế trong quan hệ với quần chúng lao động,
nhưng trong quan hệ với đế quốc Pháp, họ đều là người Việt Nam mất nước.
Đó không phải là những giai cấp thống trị, mà là giai cấp bị trị và có khả
năng tham gia phong trào giải phóng dân tộc.
Nếu như C. Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V.I.
Lê-nin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí
Minh dành sự quan tâm đặc biệt đến cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực
dân. Trong điều kiện xã hội thuộc địa, Người không nhấn mạnh một chiều
đấu tranh giai cấp, mà tập trung vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Độc
lập, tự do là khát vọng cháy bỏng của mọi người Việt Nam mất nước. Trong
tư duy chính trị Hồ Chí Minh, thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa chính
là vấn đề độc lập dân tộc.
Hồ Chí Minh khẳng định, chiến lược cách mạng ở thuộc địa chưa phải là đấu

tranh giai cấp, mà trước hết là giải phóng dân tộc; xác định tính chất và
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc. Lực
lượng của cuộc cách mạng đó bao gồm toàn dân tộc, trong đó công nhân và
nông dân là “chủ cách mệnh”, “gốc cách mệnh”, còn học trò, nhà buôn nhỏ,
điền chủ nhỏ là “bầu bạn cách mệnh của công nông”. Giải phóng dân tộc là


một sự nghiệp to lớn, của cả dân tộc bị áp bức vùng dậy giành quyền sống,
chứ không phải là sự nghiệp của một số ít người. Vì thế phải thành lập một
“Đảng cách mệnh” để tổ chức và giác ngộ quần chúng, dùng bạo lực cách
mạng của quần chúng lật đổ ách thống trị của thực dân, đế quốc và tay sai,
thiết lập chính quyền cách mạng của nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng, nhân
dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn và cần phải “làm
cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết
nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông
tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng
vô sản”. Người cũng khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa
có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Trong quá trình vận dụng lý luận cách mạng vô sản vào Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã kiên trì khắc phục những trở ngại của khuynh hướng giáo điều,
nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp trong nửa sau những năm 20 và nửa
đầu những năm 30 của thế kỷ XX, làm cho lý luận cách mạng giải phóng
dân tộc theo khuynh hướng vô sản, mà tư tưởng cốt lõi là “không có gì quý
hơn độc lập, tự do”, có sức sống mạnh mẽ, thâm nhập trong đông đảo quần
chúng nhân dân và trở thành thực tiễn sinh động ở Việt Nam bằng những
thắng lợi chiến lược trong những cuộc khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh
nhân dân giành và giữ nền độc lập dân tộc. Những thắng lợi đó là đóng góp
của dân tộc Việt Nam, cùng nhân loại biến thế kỷ XX trở thành một thế kỷ
giải trừ chủ nghĩa thực dân trên thế giới.
Đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh sớm xác định phương

hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách
mạng (tức cách mạng giải phóng dân tộc) và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản”. Sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Người dành nhiều tâm trí vào sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, hình thành nên những quan điểm hết
sức cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ một
nước thuộc địa với những tàn tích phong kiến nặng nề; xác định những đặc
trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội, mục tiêu và bước đi để đạt tới chủ
nghĩa xã hội. Đó là một quá trình cải biến cách mạng lâu dài, gian khổ, phải
trải qua nhiều chặng đường khác nhau, tất cả vì sự nghiệp giải phóng con


người, làm cho con người phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc.
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh kết
hợp nhuần nhuyễn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, xây dựng lý luận cách
mạng giải phóng và phát triển dân tộc theo khuynh hướng vô sản, giải quyết
thành công mối quan hệ giữa đất nước và thời đại, giữa dân tộc và quốc tế.
Đó là cống hiến xuất sắc nhất và cũng là cống hiến đầu tiên của Hồ Chí
Minh trong việc vận dụng và phát triển lý luận cách mạng vô sản vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
Vận dụng và phát triển lý luận về Đảng Cộng sản, sáng lập Đảng Cộng sản
Việt Nam - nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp giải phóng
dân tộc và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo C. Mác, giai cấp vô sản chỉ có thể thực hiện vai trò lãnh đạo cách
mạng khi có một chính đảng của riêng mình, nhằm “tổ chức những người vô
sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản
giành lấy chính quyền”. Giai cấp vô sản có sứ mệnh lịch sử thế giới, nhưng
lại tồn tại trong từng quốc gia dân tộc, vì thế trước khi hoàn thành sứ mệnh
lịch sử thế giới, giai cấp vô sản phải hoàn thành sứ mệnh với dân tộc mình.

Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen nêu rõ: “Cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung,
không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức
đấu tranh dân tộc”. Vì thế, “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành
lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở
thành dân tộc…”.Điều đó có nghĩa là phải thành lập Đảng Cộng sản trong
từng quốc gia dân tộc, chứ không phải trong từng khu vực của thế giới.
Chính vì thế, Hồ Chí Minh chủ trương thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt
Nam, mà không phải một đảng chung cho cả 3 nước Đông Dương, đồng thời
tăng cường đoàn kết, ra sức ủng hộ, giúp đỡ cách mạng Lào và Cam-pu-chia
với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, đấu tranh cho nền độc lập của dân
tộc Việt Nam, đồng thời tôn trọng và ủng hộ cho nền độc lập của các dân tộc
khác.


Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân là quy luật
chung cho sự ra đời của các Đảng Cộng sản trên thế giới. Nhưng sự kết hợp
đó không theo một khuôn mẫu giáo điều, cứng nhắc. Điều đó đòi hỏi sự vận
dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lê-nin về Đảng Cộng sản trong
điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa.
Sự phát triển của phong trào công nhân là cơ sở xã hội cho việc truyền bá lý
luận cách mạng vô sản vào Việt Nam, nhưng đó không phải là cơ sở duy
nhất.Phong trào yêu nước Việt Nam kết hợp với phong trào công nhân thành
một làn sóng cách mạng dân tộc dân chủ ngày càng mạnh mẽ, đòi hỏi phải
có một tổ chức lãnh đạo thống nhất và một đường lối chính trị đúng đắn.Đó
là cơ sở thực tiễn để Hồ Chí Minh chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng
chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vận dụng lý luận Mác - Lê-nin về Đảng Cộng sản vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam, Hồ Chí Minh không chỉ truyền bá lý luận cách mạng trong phong
trào công nhân mà cả trong phong trào yêu nước, giải quyết vấn đề đường

lối cứu nước, đồng thời tạo điều kiện chín muồi để thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm trực tiếp của sự kết
hợp lý luận giải phóng và phát triển dân tộc theo khuynh hướng vô sản với
phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam, trong đó có phong
trào công nhân nói riêng và phong trào yêu nước nói chung.
Phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lê-nin về Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh
cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp vô sản, đồng thời là
đảng của dân tộc Việt Nam. Các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo khẳng định: “Đảng là Đội tiên phong của vô sản
giai cấp”. Song, Đảng không chỉ là của riêng giai cấp công nhân, mà của
toàn dân tộc. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951), Hồ Chí Minh
phân tích: “Trong giai đoạn hiện nay, quyền lợi của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam
là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên phải là Đảng
của dân tộc Việt Nam”.Năm 1953, Hồ Chí Minh nhắc lại, Đảng Lao động
Việt Nam là “Đảng của giai cấp lao động, mà cũng là Đảng của toàn dân”.
Năm 1961, khi nhân dân miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ


nhất nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí
Minh khẳng định thêm một lần nữa: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng
thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”.
Luận điểm trên đây của Hồ Chí Minh là sự phát triển và bổ sung thêm cho lý
luận Mác - Lê-nin về Đảng Cộng sản, định hướng cho việc xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam thành một đảng có sự gắn kết chặt chẽ với giai cấp công
nhân, với nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi thời kỳ của cách mạng
Việt Nam. Đảng có trách nhiệm to lớn không chỉ đối với giai cấp công nhân,
mà còn đối với nhân dân lao động và cả dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là
một chính đảng cách mạng tiên phong, gắn bó với nhân dân, với dân tộc,

một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, được nhân dân thừa
nhận là đội tiên phong của mình. Vì thế, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã
quy tụ được lực lượng và sức mạnh toàn dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc
điểm, đồng thời là một ưu điểm của Đảng. Nhờ đó, Đảng đã nắm ngọn cờ
lãnh đạo duy nhất và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam
Về thực tiễn, tư tưởng chiến lược nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã được Đảng ta khẳng định trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên khi Đảng thành lập và được khẳng định tiếp tục trong các
cương lĩnh tiếp theo, đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Trước năm 1930, các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân
ta, do chưa có định hướng xã hội chủ nghĩa, mà đi theo khuynh hướng
phong kiến, tư sản, tiểu tư sản, nên dù rất anh dũng, cuối cùng đều đã bị thất
bại.
Trong những năm 1930-1945, nắm vững và đitheocon đường cách mạng vô
sản và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó
khăn, tổn thất, từng bước giành được những thắng lợi to lớn, đỉnh cao là
cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa.


Từ năm 1945 đến năm 1954, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội được Đảng thể hiện qua đường lối kết hợp kháng chiến với kiến
quốc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa ba nhiệm vụ chiến lược chống
đế quốc, chống phong kiến và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân gây mầm
mống cho chủ nghĩa xã hội, tạo nên sức mạnh to lớn cho dân tộc ta, đưa
kháng chiến đến thắng lợi. Từ năm 1954 đến năm 1975, bài học đó được thể
hiện trong đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược
cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc

và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục
tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc. Nhờ có đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo này Đảng đã
huy động được tối đa sức mạnh của hai miền, sức mạnh cả nước, sức mạnh
của thời đại, đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Từ năm 1975 đến nay, khi cả nước đã giành được độc lập, thống nhất, cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã đề ra đường lối kết hợp chặt chẽ hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc thống
nhất. Đường lối đó đã củng cố, giữ vững độc lập tạo điều kiện để xây chủ
nghĩa xã hội, và xây dựng chủ nghĩa xã hội lại tạo ra cơ sở vật chất, tinh thần
để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Khi tình hình quốc tế có những chuyển biến
mới, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng và sụp đổ, bài học
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được Đảng thể hiện
trong đường lối đổi mới, chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phát huy nội lực, tranh thủ tối
đa các nguồn lực bên ngoài, mở rộng giao lưu văn hóa, giữ vững bản sắc dân
tộc... Nhờ vậy, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thành tựu
mới trong công cuộc bảo vệ đất nước Việt Nam thống nhất, vượt qua khủng
hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa định hướng xã hội chủ nghĩa
3.2 Cách mạng thế giới
Tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với lịch sử thế giới ,
đặc biệt là sau sự thành công của cách mạng tháng 8.Tư tưởng Hồ Chí Minh


đã giải quyết đúng đắn vấn đề “làm thế nào để giải phóng các dân tộc thuộc
địa”; xác định chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù lớn nhất của các dân tộc bị áp
bức, Người kêu gọi lao động toàn thế giới, nhất là các nước thuộc địa cần

phải đại đoàn kết, đại hòa hợp.
Tư tưởng Hồ Chí Minh mở đường cho thắng lợi của các cuộc cách mạng
dân chủ nhân dân ở các nước Đông Âu, chủ nghĩa xã hội đã vượt ra khỏi
phạm vi một nước, trở thành một hệ thống thế giới. ,Như cách mạng Trung
Quốc (1949) và cách mạng Cuba (1959) đã mở rộng không gian địa lí của
các nước xã hội chủ nghĩa-một dải đất rộng lớn trải dài từ phía đông châu Á
qua Liên bang Xô viết tới phần phía đông châu Âu và lan rộng sang vùng
biển Caribê thuộc khu vực Mĩ-Latinh. Trong nhiều thập niên, hệ thống xã
hội chủ nghĩa đã trở thành một lực lượng hùng hậu về chính trị-quân sự và
kinh tế, chiếm lĩnh nhiều đỉnh cao của khoa học-kĩ thuật thế giới.
Do những sai phạm nghiêm trọng trong đường lối, chính sách và sự chống
phá của các thế lực đế quốc, phản động quốc tế, chế độ xã hội chủ nghĩa đã
tan rã ở các nước Đông Âu (vào cuối những năm 80) và Liên bang Xô viết
(1991).Đây là một tổn thất nặng nề của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, để lại những hậu quả nghiêm trọng cho cuộc đấu tranh của các dân
tộc vì hòa bình, chủ quyền và tiến bộ xã hội.
Ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một cao trào giải phóng dân
tộc đã đẩy lên mạnh mẽ ở các nước châu Á, Phi và Mĩ Latinh.Hệ thống
thuộc địa và chế độ phân biệt chủng tộc (Apácthai) kéo dài từ nhiều thế kỉ đã
bị sụp đổ hoàn toàn.Thắng lợi có ý nghĩa lịch sử đó đã đưa tới sự ra đời của
hơn 100 quốc gia độ lập trẻ tuổi.Bản đồ chính trị thế giới có những thay đổi
to lớn và sâu sắc.Các quốc gia độc lập ngày càng tích cực tham gia và có vai
trò quan trọng trong đời sống chính trị thế giới với ý chí chống chủ nghĩa
thực dân, vì hòa bình thế giới, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Sauk hi
giành được độc lập, nhiều nước Á, Phai, Mĩ LAtinh đã đạt được những
thành tựu to lớn về kinh tế- xã hội trong công cuộc xây dựng đất nước.

4.Sự vận dụng sáng tạo



4.1 Thực trạng giáo dục đào tạo hiện nay

Những thành tựu
Từ sau cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, đât nước ta đã mở ra kỷ nguyên
giải phóng và phát triển tinh thần, trí tuệ Việt Nam. Từ đó đến nay, sự nghiệp giáo
dục - đào tạo đã đạt được những thành tựu vượt bậc. Đặc biệt, bước vào thế kỷ 21,
giáo dục Việt Nam đã trải qua hơn 20 năm đổi mới và thu được những thành quả
quan trọng về quy mô, đa dạng hóa các hình độ dân trí được nâng cao. Chất lượng
giáo dục có những bước chuyển biến rõ rệt.

 Một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất và đa
dạng, đã được hình thành với đầy đủ các cấp học bậc học, trình độ đào tạo từ
mầm non đến đại học.
 Hệ thống giáo dục đa dạng hóa cả về loại hình, phương thức và nguồn lực…
từng bước hòa nhập với xu thế chung của thế giới. Từ hệ thống chỉ có trường
công lập và chủ yếu là loại hình chính quy đến nay đã có các trường ngoài
công lập, loại hình không chính quy, có trường mở, có phương thức đào tạo
đại học từ xa, phương thức đào tạo liên kết với nước ngoài.
 Lực lượng lao động đã qua đào tạo theo các loại hình và trình độ khác nhau
chiếm 20% trong tổng số lao động cả nước, đạt chỉ tiêu định hướng Nghị
quyết Trung ương 2 khóa VIII đề ra.
 Cả nước hoàn thành công tác xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đang
thực hiện phổ cập trung học cơ sở. Gần 95% dân cư 15 tuổi trở lên biết chữ:
số năm đi học trung bình 7,3, nước ta cũng đã đạt bình đẳng nam nữ trong
giáo dục cơ sở.
 Số học sinh đạt giải quốc gia và quốc tế ở một số môn học tăng. số đông
sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại học có hoài bão lập thân, lập nghiệp và có
tinh thần tự lập năng động
 Giáo dục đại học đã từng bước vươn lên, đào tạo được một số đội ngũ đông
đảo cán bộ khoa học kỹ thuật từ cử nhân, thạc sĩ cho đến tiến sĩ, đã và đang

công tác và có những cống hiến quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực kinh
tế - xã hội.


 Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm và có những chủ trương đúng đắn cho
phát triển giáo dục.
4.2 Những hạn chế
Mặc dù đã đạt được những thành tựu, nhưng nhìn chung giáo dục nước ta còn yếu
kém về chất lượng, mất cân đối về cơ cấu, hiệu quả giáo dục :
 Chất lượng giáo dục nói chung còn thấp, do chưa tiếp cận được với trình
độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, ngoài ra còn chưa đáp ứng với
các ngành nghề trong xã hội.
 Học sinh, sinh viên tốt nghiệp còn hạn chế về năng lực tư duy sáng tạo, kỹ
năng thực hành, khả năng thích ứng với nghề nghiệp; kỷ luật lao động,
tinh thần hợp tác và cạnh tranh lành mạnh chưa cao; khả năng tự lập còn
hạn chế. Hiệu quả hoạt động giáo dục chưa cao. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp
cuối cấp so với số nhập học đầu cấp còn thấp, nhất là ở vùng núi, vùng
sâu, vùng xa
 Cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền đã được khắc phục
một nước song vẫn còn mất cân đối.
 Công tác chỉ đạo cũng như tâm lý xã hội vấn còn nặng về đào tạo đại học,
chưa chú trọng đúng mức đến đào tạo nghề, đặc biệt là nghề trình độ cao.
 Đội ngũ nhà giáo thiếu về số lượng và thấp về chất lượng, chưa đáp ứng
được yêu cầu vừa phải tăng nhanh về quy mô vừa phải đảm bảo và nâng
cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Đặc biệt là đội ngũ giảng viên các
trường đại học ít có điều kiện thường xuyên tiếp cận, cập nhật tri thức và
những thành tựu khoa học công nghệ mới của thế giới.
 Cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu thốn. Chương trình, giáo trình,
phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa
4.3.Một số giải pháp khắc phục nhưng hạn chế trong việc phát triển giáo dục

và đào tạo ở nước ta

 Một số giải pháp


×