Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

khoa luan quản lý xã hội về môi trường ở làng nghề tỉnh bắc giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.84 KB, 74 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người, là
nơi cung cấp không gian sống, nguồn tài nguyên để sản xuất, nơi chứa đựng chất
thải của con người. Môi trường bị hủy hoại thì con người không thể tồn tại và
phát triển. Vì vậy, bảo vệ môi trường đã, đang và sẽ là vấn đề sống còn của mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc.
Bài học kinh nghiệm của các quốc gia trên Thế giới cho thấy rằng, việc
tạo dựng nên chất lượng môi trường tốt là điều kiện, cơ sở cho sự phát triển bền
vững của đất nước. Để có được điều đó thì việc quản lý xã hội đối với hoạt động
bảo vệ môi trường là một tất yếu khách quan. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước
luôn quan tâm đến việc bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi
trường và các sự cố môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, đặc biệt là ở những điểm
nóng về môi trường như những làng nghề, khu công nghiệp, khu đô thị… Vì
vậy, có thể khẳng định rằng, quản lý xã hội đối về môi trường là một việc làm vô
cùng cần thiết, cấp bách, cần phải được quan tâm hàng đầu, nhất là ở những
điểm nóng về môi trường.
Bắc Giang là một tỉnh với rất nhiều làng nghề truyền thống, tuy nhiên cơ
sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, hệ thống xử lý rác thải không đáp ứng được yêu
cầu của sự phát triển, tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề diễn ra
ngày càng nghiêm trọng, gây ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống và sức khỏe của
người dân. Xuất phát từ thực tế đó, có thể khẳng định rằng quản lý xã hội đối về
môi trường ở các làng nghề tỉnh Bắc Giang là vô cùng cần thiết. Nhận thấy được
tính cấp bách, thời sự của vấn đề trên, trong bài khóa luận của mình em xin chọn
đề tài “ Quản lý xã hội về môi trường ở làng nghề tỉnh Bắc Giang hiện nay” làm
đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.

1


2. Tình hình nghiên cứu


Quản lý xã hội về môi trường làng nghề có lẽ là một đề tài hấp dẫn bởi
trên thực tế đã có khá nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về môi trường ở các
làng nghề được thực hiện như:
Luận văn Thạc sĩ ngành: Sử dụng và bảo vệ tài nguyên môi trường của
sinh viên Nguyễn Thị Huế Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Khoa Môi
trường năm 2011: “Đánh giá hiện trạng môi trường làng nghề nấu rượu Vân Hà,
huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang và đề xuất giải pháp cải thiện”. Đề tài này chủ
yếu nghiên cứu về thực trạng môi trường làng nghề nấu rượu Vân Hà, tỉnh Bắc
Giang và xác định các nguồn thải gây ô nhiễm tại làng nghề, từ đó đề xuất
những giải pháp nhằm giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực từ hoạt động sản
xuất rượu và cải thiện chất lượng môi trường ở làng nghề Vân Hà.
Khóa luận của sinh viên Lê Kim Nguyệt, Khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội năm 2012: “Thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ môi trường tại các làng
nghề ở Việt Nam”. Đề tài này tập trung nghiên cứu về thực trạng môi trường ở
các làng nghề vấn đề ô nhiễm môi trường ở các làng nghề, việc thực thi pháp
luật bảo vệ môi trường tại các làng nghề ởViệt Nam từ đó đưa ra giải pháp nhằm
tăng cường việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường ở các làng nghề.
Luận văn Thạc sĩ ngành: Môi trường trong phát triển bền vững của sinh
viên Trần Duy Khánh năm 2012: “Đánh giá hiện trạng môi trường làng nghề và
thực hiện chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề tại một số tỉnh
Bắc Bộ”. Đề tài này quan tâm chủ yếu đến việc đánh giá hiện trạng môi trường
làng nghề tại một số tỉnh Bắc Bộ: Hà Nội, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hải Dương,
Nam Định. Tiến hành phân tích những ưu điểm, hạn chế trong việc ban hành, tổ
chức thực hiện các pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề để từ đó, đưa ra
các kiến nghị, giải pháp.
Trên đây là một số đề tài nghiên cứu cơ bản có liên quan đến quản lý xã
hội về môi trường làng nghề nói chung. Khóa luận sẽ kế thừa những nghiên cứu

2



của các tác giả trong quản lý xã hội về môi trường làng nghề để hoàn thiện việc
nghiên cứu của mình một cách tốt nhất.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khóa luận nhằm tìm hiểu về hoạt động bảo vệ
môi trường ở các làng nghề tỉnh Bắc Giang, nội dung quản lý xã hội về môi
trường làng nghề trên địa bàn tỉnh. Những thành tựu và hạn chế trong quản lý xã
hội về môi trường ở các làng nghề trên địa bàn tỉnh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài quản lý xã hội về môi trường ở các làng nghề tỉnh Bắc Giang hiện
nay có nhiệm vụ nghiên cứu:
Những vấn đề lý luận về bảo vệ môi trường ở các làng nghề, quản lý xã
hội về môi trường làng nghề.
Những vấn đề về thực trạng quản lý xã hội về môi trường ở các làng nghề.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn, tiến hành đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý xã hội về môi trường ở các làng nghề tỉnh Bắc Giang.
4. Đối tượng nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về môi trường làng
nghề và thực trạng quản lý xã hội về môi trường ở làng nghề tỉnh Bắc Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu hoạt động bảo vệ môi trường làng nghề
bao gồm việc xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện, kiểm tra đánh giá việc thực
hiện chính sách, pháp luật trong bảo vệ môi trường làng nghề.
Đề tài tiến hành nghiên cứu đối với các làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang. Thời gian nghiên cứu từ năm 2008- 2014.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên nền tảng của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
3



luật của Nhà nước về quản lý xã hội về môi trường nói chung và bảo vệ môi
trường làng nghề nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cơ bản gồm: Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu, phương pháp so sánh,
phương pháp thống kê,…
6. Điểm mới của đề tài
Có thể nói nghiên cứu đối với quản lý xã hội về môi trường ở làng nghề
đã có rất nhiều đề tài, công trình nghiên cứu do nhiều tác giả với trình độ, cấp độ
nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên chưa có một tác giả nào tiến hành nghiên cứu
về quản lý xã hội về môi trường làng nghề tỉnh Bắc Giang. Ở đây, đề tài tiến
hành nghiên cứu dưới góc độ quản lý xã hội, bảo vệ môi trường ở làng nghề
được xem xét theo đặc trưng của nó kết hợp với quản lý xã hội có tính linh hoạt,
khéo léo, đa dạng. Qua đó, nhằm hình thành nên mô hình quản lý phù hợp với
thực trạng môi trường ở các làng nghề trên địa bàn tỉnh, góp phần làm cho hoạt
động này thực sự phát huy được hiêu quả tích cực trong thực tế.
7. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của khóa luận bao gồm phần Mở đầu, phần Nội dung, phần Mục
lục, Danh mục tài liệu tham khảo. Phần Nội dung của bài khóa luận được chia
thành 3 chương với 9 tiết. Trong đó:
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý xã hội về môi trường ở làng nghề
Chương 2: Thực trạng quản lý xã hội về môi trường ở các làng nghề tỉnh
Bắc Giang hiện nay
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý xã
hội về môi trường ở các làng nghề tỉnh Bắc Giang

4



NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ MÔI TRƯỜNG
Ở LÀNG NGHỀ
1.1. Một số khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm môi trường
Môi trường là khái niệm có nội dung khá rộng, nhiều cách định nghĩa
khác nhau. Trong đó, có thể đề cập đến một số khái niệm sau:
Theo S.V. Kalesnik “ môi trường chỉ là một bộ phận của Trái đất bao
quanh con người, mà ở một thời điểm nhất định xã hội loài người có quan hệ
tương hỗ trực tiếp với nó, nghĩa là môi trường quan hệ một cách gần gũi nhất
với đời sống và hoạt động sản xuất của con người”.
Trong tuyên ngôn của UNESCO năm 1981, môi trường được hiểu là: “
Toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra xung
quanh mình, trong đó con người sinh sống và bằng lao động của mình đã
khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thỏa mãn nhu cầu của
con người”.
Một định nghĩa khác của Viện sĩ I.P. Gheraximov đã đưa ra định nghĩa
môi trường như sau: “ Môi trường là khung cảnh của lao động, của cuộc sống
riêng tư và nghỉ ngơi của con người, trong đó môi trường tự nhiên là cơ sở cần
thiết cho sự sinh tồn của nhân loại”.
Tuy nhiên, có thể đưa ra định nghĩa tương đối chính xác về môi trường
như sau:
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có
quan hệ mất thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống,
sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên (Theo Điều 1 Luật
Bảo vệ Môi trường Việt Nam năm 2014)

5



Như vậy, theo cách định nghĩa của Luật Bảo vệ môi trường 2014, thì môi
trường được tạo thành bởi vô số các yếu tố vật chất. Trong số đó, các yếu tố vật
chất như: Đất, nước, không khí, ánh sáng, âm thanh, các hệ thực vật, động vật có
ý nghĩa đặc biệt và quan trọng hơn cả. Những yếu tố này được coi là thành phần
cơ bản của môi trường. Chúng hình thành và phát triển theo những quy luật tự
nhiên vốn có và nằm ngoài khả năng quyết định của con người. Con người chỉ
có thể tác động tới chúng ở mức độ nhất định.
Bên cạnh những yếu tố vật chất tự nhiên, môi trường còn bao gồm cả
những yếu tố nhân tạo. Những yếu tố này do con người tạo ra nhằm tác động tới
các yếu tố tự nhiên để phục vụ cho nhu cầu của bản thân mình.
1.1.2. Làng nghề, môi trường làng nghề
Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn
hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, có các hoạt động ngành
nghề phi nông nghiệp, kinh doanh độc lập và đạt tới một tỷ lệ nhất định về lao
động làm nghề cũng như mức thu nhập từ nghề so với tổng số lao động và thu
nhập của làng.
Các tiêu chí để công nhận làng nghề: Theo Quyết định số 52/2013/QĐ-UBND
ngày 27 tháng 12 năm 2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang Ban hành quy định
về công nhận và quản lý nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang. Làng nghề được công nhận phải đạt 3 tiêu chí sau:
Thứ nhất, có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động
ngành nghề nông thôn.
Thứ hai, hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời
điểm đề nghị công nhận.
Thứ ba, chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Môi trường làng nghề là một mạng lưới những vật thể và vật chất có mối
liên quan chặt chẽ với nhau gồm: Đất, nước, không khí, các khu dân cư, khu sản
xuất và các cơ thể sống: Con người, hệ sinh vật( thực vật, động vật) trong phạm
6



vi làng nghề. Đối với con người, môi trường làng nghề là nơi cung cấp không
gian sống, sản xuất, nơi chứa đựng chất thải phát sinh từ các hoạt động của con
người ở khu vực làng nghề.
1.1.3. Khái niệm quản lý xã hội, quản lý xã hội về môi
trường ở làng nghề
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về quản lý xã hội tuy nhiên xét về bản
chất quản lý xã hội có thể được hiểu là sự tác động có ý thức, có tổ chức, có
hướng đích của chủ thể quản lý lên xã hội và các khách thể của nó nhằm phát
triển xã hội theo quy luật khách quan và đặc trưng. (Theo “Giáo trình lý thuyết
chung về quản lý xã hội”, Khoa Nhà nước- Pháp luật, Học viện Báo chí và tuyên
truyền 2010)
Quản lý xã hội về môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính
sách, kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường
sống và pháp triển bền vững kinh tế xã hội quốc gia. (Theo “Giáo trình quản lý
xã hội về khoa học công nghệ, tài nguyên và môi trường”, Khoa Nhà nướcPháp luật, Học viện Báo chí và tuyên truyền 2009)
Như vậy, có thể hiểu, quản lý xã hội về môi trường ở làng nghề là việc sử
dụng tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách, kinh tế, kỹ thuật, xã hội
nhằm giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đến môi trường làng nghề,
giữ cho môi trường làng nghề trong sạch; khắc phục tình trạng ô nhiễm, suy
thoái đồng thời phục hồi, cải thiện môi trường ở các làng nghề.
1.2. Nội dung quản lý xã hội về môi trường ở làng nghề
Có thể khẳng định, quản lý xã hội về môi trường làng nghề là một quá
trình bao gồm nhiều giai đoạn, bước đi với những nội dung khác nhau nhưng có
mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau. Trong đó bao gồm một số nội
dung cơ bản sau:

7



1.2.1. Xây dựng, ban hành các chính sách, văn bản pháp luật đối với
quản lý xã hội về môi trường ở làng nghề
Đây là nội dung quan trọng trong quản lý xã hội về môi trường nói chung và
môi trường ở làng nghề nói riêng. Hoạt động này bao gồm việc xây dựng và ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường, bảo vệ môi trường, hệ thống
tiêu chuẩn về môi trường, xây dựng chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường, kế
hoạch phòng chống, khắc phục suy thoái, ô nhiễm và các sự cố môi trường.
Ở nước ta, bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề được quan tâm
hàng đầu. Vì thế hệ thống văn bản, chính sách đối với quản lý xã hội về môi
trường sớm được các cơ quan có thẩm quyền xây dựng, ban hành. Theo đó, Luật
Bảo vệ môi trường đã được thông qua từ năm 2005 và mới đây, trong kỳ họp thứ
7, Quốc hội khóa 13, ngày 23/6/2014 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 cũng đã
được phê duyệt và ban hành với 20 chương và 170 điều, chính thức có hiệu lực
kể từ ngày 01/01/2015. Để Luật Bảo vệ môi trường được thực hiện trong thực
tế, các cơ quan khác có thẩm quyền cũng xây dựng và ban hành ra nhiều văn bản
hướng dẫn để cụ thể hóa Luật bảo vệ môi trường, trong đó có thể kể đến các chủ
thể như: Chính phủ, Bộ Tài nguyên Môi trường, Ủy ban nhân dân các cấp tỉnh,
huyện, xã và các cơ quan chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân. Trong đó,
các văn bản của Chính phủ như: Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 2
năm 2015 của Chính phủ quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá
môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi
trường; Nghị đinh số 19/2015/NĐ-CP ngày 01/4/2015 của Chính Phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của luật Bảo vệ môi trường;… Cùng với đó, Bộ Tài
nguyên và Môi trường cũng đã ban hành ra Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT ngày
17/5/2009 về việc quy định quản lý bảo vệ môi trường ở các khu kinh tế, khu công
nghệ cao, khu công nghiệp và cụm công nghiệp; Thông tư số 48/2011/TT-BTNMT
ngày 28/12/2011 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 08/2009/TTBTNMT; Thông tư số 46/ 2011/TT-BTNMT ngày 26/12/2011 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường quy định về bảo vệ môi trường làng nghề, ngoài ra, Bộ Tài nguyên
8



và Môi trường còn là cơ quan đưa ra tiêu chuẩn về môi trường theo từng vùng,
từng khu vực. Theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong hoạt động
quản lýaxax hội về môi trường làng nghề, Ủy ban nhân dân các cấp tỉnh, huyện xã,
cơ quan chuyên môn trực thuộc ủy ban nhân dân các cấp cũng thực hiện việc ban
hành ra các văn bản tổ chức thực hiện luật bảo vệ môi trường theo hướng dẫn của
các cơ quan cấp trên. Đối với tỉnh Bắc Giang, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành ra
một số các Quyết định có liên quan đến bảo vệ môi trường làng nghề như: Quyết
định số 495/QĐ-UBND ngày 29 tháng 12 năm 2011 về việc phê duyệt chiến lược
bảo vệ môi trường tỉnh Bắc Giang đến năm 2020; Quyết định số 130/2012/QĐUBND ngày 18 thánh 5 năm 2012 về việc ban hành Quy định một số trình tự, thủ
tục đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ
môi trường và đề an bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh Bắc Giang; Quyết định số
1565/QĐ-UBND ngày 11 tháng 10 năm 2013 về việc phê duyệt quy hoạch phát
triển làng nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030; Quyết định số 214/2014/QĐ-UBND ngày 15 tháng 6 năm 2014 về việc ban
hành quy chế bảo vệ môi trường làng nghề, khu dân cư tỉnh Bắc Giang;....
Việc xây dựng và ban hành hệ thống chính sách, văn bản pháp luật có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, nó vừa là cơ sở pháp lý, vừa là công cụ quản lý giúp
cho các chủ thể thực hiện quản lý xã hội về môi trường hoạt động hiệu quả.
Thông qua hệ thống chính sách đó, các chủ thể quản lý mới có thể xác định
được một cách chính xác nội dung, phương hướng trong quản lý môi trường,
xây dựng được kế hoạch quản lý cụ thể. Việc xây dựng, ban hành tiêu chuẩn môi
trường chính là căn cứ để chủ thể quản lý có thể thực hiện công tác thanh tra,
đánh giá môi trường. Chỉ trên cơ sở tiêu chuẩn môi trường, các cơ quan và
người có thẩm quyền mới có thể xác định một cách chính xác chất lượng môi
trường, đánh giá thực trạng môi trường và mức độ ô nhiễm so với giới hạn cho
phép đã được xác định trong các tiêu chuẩn môi trường đối với các khu vực ô
nhiễm trong đó có làng nghề. Đồng thời đây cũng là căn cứ để xác định hành vi
9



vi phạm của các tổ chức, cá nhân để từ đó các cơ quan Nhà nước có thể áp dụng
các biện pháp xử lý thích hợp.
1.2.2. Chỉ đạo, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với quản lý
xã hội về môi trường ở làng nghề
Chính sách, pháp luật đối với quản lý xã hội về môi trường làng nghề là
những mục tiêu lớn, nhiệm vụ lớn mang tính tổng thể được Nhà nước xây dựng
và chỉ đạo thực hiện trong thời gian dài nhằm bảo vệ, phòng chống và khắc phục
hậu quả do ô nhĩm môi trường làng nghề gây ra.
Đây là nội dung quan tâm nhiều đến việc thiết lập và sử dụng các công cụ
quản lý môi trường như: Công cụ pháp luật và chính sách; công cụ kinh tế và
công cụ kỹ thuật, để thực hiện các mục tiêu, triển khai thực hiện các chính sách,
chiến lược môi trường. Trong đó cần đặc biệt chú ý đến:
Phân công, phối hợp thực hiện nhiệm vụ giữa các cơ quan trong bộ máy
quản lý. Trong quản lý xã hội về môi trường làng nghề thì đó là việc phân công
cho các cơ quan, tổ chức chịu trách nhiệm quản lý môi trường làng nghề: Chính
phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân các cấp tỉnh, huyện, xã, cơ
quan chuyên môn cùng cấp và các tổ chức khác có liên quan trong việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này. Cùng với đó, cũng
cần phải chú ý đến sự phối hợp hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong quá
trình quá trình quản lý của mình.
Cụ thể hóa các chính sách, pháp luật thành những kế hoạch, quy định cụ
thể. Căn cứ vào tình hình thực tế của từng địa phương mà xác định những mục
tiêu, nhiệm vụ quan trọng. Thông qua việc phát huy vai trò của các cơ quan
trong bộ máy nhà nước thực hiện quản lý về môi trường để đảm bảo cho những
chính sách đó được đưa đến tận cá nhân, từng hộ gia đình, các cơ sở sản xuất
kinh doanh trong làng nghề để họ biết hiểu, tin tưởng và tuân thủ một cách
nghiêm túc.


10


Thực hiện đánh giá môi trường đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa kinh tế
xã hội với bảo vệ môi trường, tiến hành thẩm định các báo cáo đánh giá tác động
tới môi trường của các dự án, các cơ sở sản xuất kinh doanh, đơn vị kinh tế….
Để từ đó phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm của các cá nhân, tổ chức
trong làng nghề về đối với bảo vệ môi trường.
Tiến hành điều tra, xác định khu vực bị ô nhiễm không chỉ quan tâm đến
việc xác định phạm vi, giới hạn khu vực bị ô nhiễm mà còn bao gồm xác định
mức độ ô nhiễm, nguyên nhân, trách nhiệm của các bên liên quan, các công việc
cần thực hiện để khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường làng nghề; các thiệt
hại đối với môi trường làm căn cứ để yêu cầu bên gây ô nhiễm, suy thoái phải
bồi thường.
Chỉ đạo nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường nhằm giảm thiểu lượng chất thải nguy hại, chất thải chưa qua
xử lý được xả trực tiếp gây ô nhiễm môi trường.
1.2.3. Giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật đối với
quản lý xã hội về môi trường làng nghề
Là công việc cần phải được thực hiện thường xuyên có kế hoạch cụ thể và
khoa học. Tiến hành giám sát, thanh tra hoạt động của các cơ quan, đơn vị quản lý
về môi trường, các đơn vị, cơ sở tiến hành các hoạt động kinh tế xã hội ở các làng
nghề trên cả nước cũng như từng địa phương để phòng ngừa, phát hiện và xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách
pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nươc có thẩm quyền tìm ra các biện pháp
khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
công tác quản lý xã hội về môi trường làng nghề. Cùng với đó, thực hiện việc phát
hiện loại trừ những hoạt động trái phép hoặc những hoạt động thiếu quy trình, công
nghệ gây ra những tác động xấu đến môi trường. Giải quyết tranh chấp, khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị liên quan đến bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật về

khiếu nại, tố cáo và các quy định khác của pháp luật.

11


Giám sát, thanh tra về môi trường làng nghề quan tâm chủ yếu đến các vấn đề
sau: Thanh tra, kiểm tra các văn bản của lần thanh tra gần nhất tại các làng nghề
trong toàn tỉnh; thanh kiểm tra đối với hợp đồng xử lý chất thải sinh hoạt, chất thải
nguy hại của các cơ sở sản xuất tại làng nghề. Thông qua đó để nắm bắt hoạt động
thanh tra môi trường làng nghề của các cơ quan có thẩm quyền đồng thời kịp thời
nắm được thực trạng việc thực hiện pháp luật, các quy định có liên quan đến bảo vệ
môi trường làng nghề tìm ra ưu điểm, hạn chế của hoạt động thanh tra, từ đó xác
định hướng đi đúng đắn cho hoạt động thanh tra môi trường.
Thực hiện kiểm tra hiện trường gồm có: Kiểm tra chất thải phát sinh từ quá
trình sản xuất tại các làng nghề; quá trình thu gom, xử lý chất thải; công nghệ xử
lý chất thải; mức độ ô nhiễm tại các làng nghề thông qua việc xác định hàm
lượng khí thải gây ô nhiễm môi trường làng nghề nhằm xem xét mức độ ô nhiễm
môi trường, thực trạng bảo vệ môi trường làng nghề làm cơ sở cho việc hoạch
định các chính sách, quy định cụ thể về bảo vệ môi trường làng nghề.
Công tác thanh tra, kiểm tra cần được triển khai thực hiện một cách khoa
học, nghiêm túc, đảm bảo tính công khai, minh bạch thì công tác quản lý xã hội
về môi trường mới thực sự đạt được hiệu quả cao.
1.2.4. Tổng kết, đánh giá việc thực hiện các chính sách pháp luật đối
với quản lý xã hội về môi trường ở làng nghề
Tiến hành xem xét mức độ đạt được các mục tiêu đã đề ra làm căn cứ cho
việc lựa chọn và hoàn thiện chính sách. Thực hiện nhiệm vụ sơ kết, tổng kết;
đánh giá hiệu lực, hiệu quả của các kế hoạch, chính sách; tìm ra ưu điểm, hạn
chế trong toàn bộ quá trình thực hiện từ đó xem xét, sửa đổi, bổ sung, duy trì
hay hủy bỏ các chính sách đã đề ra và rút ra bài học kinh nghiệm cho các chính
sách tiếp theo. Việc đánh giá chính sách đối với hoạt động bảo vệ môi trường

thường do các cơ quan chuyên môn thực hiện theo quy trình cụ thể. Đánh giá
chính sách thực hiện tốt sẽ có tác dụng rất lớn trong việc tăng cường hiệu quả
của chính sách, đưa ra những nhận định chính xác về kết quả đạt được của chính
sách cũng như khắc phục thiếu sót còn tồn tại để cải tiến chính sách.
12


1.3. Sự cần thiết của quản lý xã hội về môi trường ở làng nghề
Làng nghề là một trong những đặc thù của nông thôn Việt Nam. Đa số
làng nghề đã trải qua lịch sử hình thành và phát triển hàng trăm năm gắn liền với
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Báo cáo Môi trường quốc gia năm
2008 cho thấy ở nước ta, làng nghề phân bố tập trung chủ yếu tại đồng bằng sông
Hồng (chiếm 60%), ở miền Trung 30% và miền Nam 10%. Dựa trên các yếu tố
tương đồng về ngành sản xuất, sản phẩm, thị trường nguyên vật liệu và tiêu thụ
sản phẩm, có thể chia hoạt động làng nghề nước ta ra thành 6 nhóm ngành chính
gồm: thủ công mỹ nghệ; chế biến lương thực, thực phẩm; chăn nuôi, giết mổ; dệt
nhuộm, ươm tơ, thuộc da; vật liệu xây dựng, khai thác đá; tái chế phế liệu và các
ngành nghề khác. Đặc biệt ở nước ta hiện nay, việc thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và định hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp nông thôn của Đảng và Nhà nước nói riêng đã tạo động lực
mạnh mẽ cho sự phát triển của các làng nghề trên phạm vi cả nước. Trong đó, có
nhiều làng nghề truyền thống được khôi phục lại, nhiều làng nghề mới được thành
lập và đi vào hoạt động. Góp phần quan trọng vào việc thay đổi bộ mặt nông thôn,
ổn định nâng cao đời sống cho người dân ở các làng nghề đó. Vì vậy, có thể nói
rằng làng nghề chính là một bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế và luôn
được chú trọng trong các định hướng phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Tuy
nhiên hiện nay, các làng nghề ở nước ta đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn
thách thức về công nghệ sản xuất, chất lượng sản phẩm… nhưng quan trọng hơn
cả là những thách thức về ô nhiễm môi trường đã và đang có những tác động rất
xấu đến đời sống, sinh hoạt của người dân.

Tính từ khi nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế làng nghề phát triển mạnh, nhưng
cơ bản vẫn mang tính tự phát, nhỏ lẻ; thiết bị thủ công, đơn giản; công nghệ lạc
hậu, mặt bằng sản xuất nhỏ hẹp cộng thêm ý thức người dân làng nghề trong
việc bảo vệ môi trường sinh thái và bảo vệ sức khoẻ con người còn hạn chế,...

13


Những yếu kém và hạn chế nói trên đã tạo sức ép không nhỏ đến chất lượng môi
trường sống của chính làng nghề và cộng đồng xung quanh.
Biểu hiện rõ nhất của vấn đề này là môi trường của không ít làng nghề
đang bị suy thoái trầm trọng. Các chất thải phát sinh tại nhiều làng nghề đã và
đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, tác động trực tiếp tới sức khỏe
người dân và ngày càng trở thành vấn đề bức xúc. Theo Báo cáo Môi trường
quốc gia năm 2008, ô nhiễm môi trường không khí tại các làng nghề có nguồn
gốc chủ yếu từ đốt nhiên liệu và sử dụng các nguyên vật liệu, hóa chất trong dây
chuyền sản xuất; ô nhiễm môi trường nước diễn ra đặc biệt nghiêm trọng do
khối lượng nước thải của các làng nghề là rất lớn, hầu hết lại chưa qua xử lý mà
được xả thẳng ra hệ thống sông ngòi, kênh rạch. Ngoài ra, chất thải rắn ở hầu hết
các làng nghề chưa được thu gom và xử lý triệt để gây tác động xấu tới cảnh
quan môi trường, gây ô nhiễm môi trường không khí, nước và đất. Theo dự báo,
ô nhiễm không khí, nước và đất ở các làng nghề sẽ còn diễn biến phức tạp nếu
không kịp thời và cương quyết áp dụng các giải pháp quản lý và kỹ thuật.
Ô nhiễm môi trường làng nghề là nguyên nhân gây ra các dịch bệnh cho
người dân đang lao động và sinh sống tại chính làng nghề. Tỷ lệ người mắc bệnh
tại các làng nghề đang có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây, tập trung
vào một số bệnh, như: các bệnh ngoài da, bệnh đường hô hấp, tiêu hóa, thần kinh,
bệnh phụ khoa và các bệnh về mắt… Đặc biệt, tỉ lệ người mắc bệnh ung thư
tương đối cao ở một số làng nghề. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, tuổi thọ trung

bình của người dân tại các làng nghề ngày càng giảm đi, thấp hơn 10 năm so với
tuổi thọ trung bình toàn quốc và thấp hơn từ 5 đến 10 năm so với làng không làm
nghề. Ô nhiễm môi trường làng nghề còn gây ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt
động phát triển kinh tế - xã hội của chính làng nghề đó, gây ra những tổn thất kinh
tế không nhỏ và dẫn đến những xung đột môi trường trong cộng đồng
Vì vậy thực hiện quản lý xã hội đối với bảo vệ môi trường làng nghề có
thể được coi như là một tất yếu khách quan đáp ứng được những đòi hỏi trong

14


thời kỳ mới, góp phần quan trọng vào việc giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi
trường tại các làng nghề trên cả nước.
Quản lý xã hội về môi trường ở các làng nghề chính là điều kiện căn bản
để các làng nghề trên cả nước có thể phát triển theo những hướng đi đúng đắn.
Thông qua hoạt động này, các làng nghề có thể tiến gần hơn với công nghệ sản
xuất hiện đại tạo ra sản phẩm với chất lượng cao, nâng cao năng suất, đời sống
cho người dân mà vẫn thân thiện với môi trường đáp ứng được mục tiêu phát
triển bền vững mà Đảng, Nhà nước đã đưa ra. Đây cũng là hoạt động chủ yếu để
đảm bảo việc thu hút các nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước phục vụ cho việc
bảo vệ môi trường ở các làng nghề. Trên thực tế, các dự án đầu tư có liên quan
đến bảo vệ môi trường ở các làng nghề đều phải qua việc nghiên cứu, xem xét,
phê duyệt của các cơ quan có thẩm quyền thực hiện quản lý trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường đồng thời trong quá trình tổ chức thực hiện thì các cơ quan này
cũng có trách nhiệm trong việc đảm bảo tính khả thi, hiệu quả của các dự án đó.
Chỉ có thông qua quản lý xã hội về môi trường ở các làng nghề mới có thể
khơi dậy được ý thức tự giác về bảo vệ môi trường của người dân từ đó đảm bảo
cho hoạt động này đi vào chiều sâu và ổn định. Quản lý về môi trường ở các
làng nghề được thực hiện bởi đội ngũ cán bộ có tinh thần trách nhiệm, có
chuyên môn và năng lực, được bố trí ở nhiều cấp khác nhau trong cả nước, đây

chính là nhân tố quan trọng thực hiện việc tuyên truyền các quan điểm, đường
lối của Đảng, Nhà nước về bảo vệ môi trường đến từng người dân, đảm bảo cho
mọi người dân đều được biết và tuân thủ thực hiện nghiêm túc các quy định đã
được đưa ra từ đó mới thực sự giảm thiểu được tình trạng ô nhiễm môi trường.
1.4. Một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quản lý xã hội về môi trường
ở làng nghề
1.4.1. Hệ thống thể chế quản lý
Trước tiên có thể khẳng định rằng, hệ thống thể chế quản lý xã hội về môi
trường ở các làng nghề chính là yếu tố quan trọng, mang tính định hướng cho
hoạt động này diễn ra và đạt được hiệu quả. Hệ thống thể chế quản lý xã hội về
15


môi trường bao gồm: Những quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước, các chính sách, quy định của các cơ quan quản lý có
thẩm quyền.
Ở nước ta, quản lý xã hội về môi trường ở làng nghề luôn là lĩnh vực được
Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân đặc biệt quan tâm. Thông qua việc ban
hành hệ thống văn bản, chính sách thể hiện quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà
nước như: Nghị quyết số 19/2011/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2011 của Quốc
hội về kết quả giám sát và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về môi
trường tại các khu công nghiệp, làng nghề; Nghị quyết số 24-NQ/TW Nghị quyết
Trung ương Đảng lần thứ 7, khóa XI ngày 6/6/2013 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng về việc chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý
tài nguyên và bảo vệ môi trường;… việc Quốc Hội thông qua Luật Bảo vệ môi
trường năm 2014 đã góp phần tạo cơ sở quan trọng cho việc xây dựng, ban hành
văn bản, quy định cụ thể đối với hoạt động bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó,
Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, cùng với Ủy ban nhân dân các cấp
tỉnh, huyện xã và các cơ quan chuyên môn trực thuộc theo chức năng, nhiệm vụ
của mình cũng thực hiện việc xây dựng, ban hành hệ thống văn bản, chính sách

cụ thể.
Để có thể thực hiện tốt công tác quản lý xã hội về môi trường ở làng nghề
thì việc xây dựng cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chính sách một cách khoa
học, đầy đủ là điều kiện cơ bản. Và để làm được điều đó thì các thể chế này phải
được ra đời dựa trên các hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; nó
phải là sản phẩm kết tinh của trí tuệ. Trong đó chứa đựng sự phân tích đánh giá
đúng đắn, dự đoán chính xác sự phát triển từ thực tiễn. Nếu hệ thống thể chế có
thể đáp ứng được các yêu cầu cơ bản trên thì hoạt động quản lý nói chung và
quản lý xã hội về môi trường làng nghề nói riêng mới có thể đạt được hiệu quả.
Tuy nhiên trên thực tế, hệ thống thể chế có liên quan đến quản lý xã hội về
môi trường, đặc biệt là quản lý xã hội về môi trường làng nghề ở nước ta lại chưa
thực sự đầy đủ. Các quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức bên ngoài
16


hệ thống chính trị chưa được đề cập, nhiều văn bản được xây dựng nhưng thiếu
tính khả thi, không bám sát và dựa trên tình hình thực tế. Điều này đã ảnh hưởng
rất lớn đến hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý về môi trường trong thực hiện
và hoàn thành nhiệm vụ của mình. Vì vậy trong thời gian tới để quản lý xã hội về
môi trường ở làng nghề có được nhiều kết quả khả quan thì việc hoàn thiện hệ
thống thể chế về môi trường làng nghề có thể coi là một yêu cầu cấp bách.
1.4.2. Bộ máy quản lý
Bộ máy quản lý xã hội về môi trường bao gồm rất nhiều cấp, nhiều bộ
phận có chức năng, quyền hạn, trách nhiệm khác nhau. Việc tổ chức và hoạt
động của bộ máy quản lý có tác động rất lớn đến hiệu quả trong quản lý nói
chung và quản lý xã hội về môi trường nói riêng.
Bộ máy quản lý xã hội về môi trường nói chung và môi trường làng nghề
nói riêng được quy định cụ thể tại chương XV: Trách nhiệm của cơ quan quản lý
nhà nước về bảo vệ môi trường của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 như sau:
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị: Chính phủ; Bộ

tài nguyên và Môi trường; các bộ ngành khác có liên quan; Ủy ban nhân dân các
cấp tỉnh, huyện, xã và các cơ quan chuyên môn khác. Riêng đối với hoạt động
bảo vệ môi trường làng nghề, tại điều 70 của luật này quy định cụ thể về trách
nhiệm quản lý của ủy ban nhân dân các cấp tỉnh, huyện, xã và các cơ quan
chuyên môn khác.
Ngoài ra, quản lý xã hội về môi trường làng nghề còn có sự tham gia của
các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội như: Mặt trận tổ quốc, hội phụ nữ,
doàn thanh niên, hội cựu chiến binh... được tổ chức ở các cấp từ Trung ương đến
địa phương cùng với các cơ quan chuyên môn thực hiện tuyên truyền, giáo dục
thành viên, hội viên tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
làng nghề nói riêng và bảo vệ môi trường nói chung.
Như vậy có thể thấy, bộ máy quản lý về môi trường ở nước ta đã được
quy định một cách khá đầy đủ. Dù còn nhiều hạn chế trong tổ chức, hoạt động
do nhiều nguyên nhân khác nhau như việc phân công, phân cấp trong quản lý
17


môi trường làng nghề chưa thật sự rõ ràng, nhiều cơ quan chuyên môn chưa thực
hiện đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn... Tuy nhiên, các cơ quan,
đơn vị chịu trách nhiệm quản lý về môi trường vân đang cố gắng thực hiện và
hoàn thành nhiệm vụ của mình điều đó được thể hiện thông qua những kết quả
đạt được về mức độ giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong báo cáo môi trường
hàng năm.
Bộ máy quản lý chính là nhân tố để đảm bảo cho kết quả của mọi hoạt động
quản lý nói chung và quản lý xã hội về môi trường nói riêng. Nếu bộ máy quản lý
cồng kềnh, nhiều đầu mối phức tạp sẽ gây ra khó khăn rất lớn cho hoạt động của
yếu tố con người trong bộ máy dẫn đến việc hiệu quả làm việc không cao. Hơn thế,
nếu xảy ra sự cố hay những hiện tượng tiêu cực trong quá trình quản lý sẽ rất khó
để xác định bộ phận chịu trách nhiệm từ đó không thể có biện pháp xử lý kịp thời.
Ngược lại, nếu xây dựng một bộ máy gọn nhẹ, khoa học, thông suốt sẽ đảm bảo

cho hoạt động quản lý thực sự đạt được hiệu quả. Vì thế, trong quản lý xã hội về
môi trường việc kiện toàn bộ máy quản lý là vô cùng cần thiết.
1.4.3. Năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất của đội
ngũ cán bộ, công chức quản lý xã hội về môi trường
Đội ngũ cán bộ, công chức quản lý xã hội về môi trường là những người
tham gia vào quá trình hoạch định đường lối, chiến lược, định hướng, chính sách
phát triển kinh tế; xây dựng nên cơ chế và thể chế quản lý kinh tế của đất nước.
Họ là những người cùng Nhà nước xây dựng đường lối, chính sách bảo vệ môi
trường trong từng giai đoạn, từng ngành, từng lĩnh vực và từng địa phương, họ
còn là những người quyết định tổ chức bộ máy quản lý xã hội về bảo vệ môi
trường và lựa chọn cán bộ để thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ quản lý.
Bên cạnh đó, các cán bộ, công chức quản lý xã hội về môi trường là những
người đưa chủ trương, đường lối, chiến lược, chính sách, kế hoạch và các dự án
phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước thành hiện thực. Đồng thời đây cũng là
cầu nối giữa Nhà nước với nhân dân. Vì vậy, năng lực, trình độ chuyên môn
18


nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý xã hội về
môi trường cao hay thấp sẽ quyết định rất lớn đến hiệu quả của công tác này.
Đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện quản lý về môi trường ở nước ta là
những người làm việc trong các cơ quan có chức năng quản lý về môi trường
như: Chính phủ; Bộ Tài nguyên và Môi trường; Ủy ban nhân dân các cấp tỉnh,
huyện, xã; các cơ quan chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân các cấp: Sở Tài
nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường; đội ngũ công chức
cấp xã hoạt động trong lĩnh vực môi trường;…..
Năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức hoạt động
trong lĩnh vực môi trường có ảnh hưởng rất lớn đối với việc thực hiện các chủ
trương, đường lối về môi trường mà Đảng, Nhà nước đã đề ra. Hiện nay, ở nước
ta đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện công tác quản lý xã hội về môi trường đã

được tổ chức ở các cấp từ Trung ương đến địa phương. Trong đó, có đến 83%
đội ngũ cán bộ, công chức trong lĩnh vực môi trường ở cấp Trung ương, cấp
tỉnh, huyện có trình độ Trung cấp, Cao đẳng, Đại học; đội ngũ công chức hoạt
động trong lĩnh vực môi trường ở cấp xã, phường cũng đang được tổ chức và
nâng cao về mặt số lượng và chất lượng.
Bên cạnh năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ thì đội ngũ cán bộ,
công chức quản lý xã hội về môi trường cần phải có phẩm chất đạo đức tốt.
Theo như Hồ Chí Minh: “ Người có đức mà không có tài là người vô dụng,
người có tài mà không có đức làm việc gì cũng khó.” Đặc biệt ở nước ta hiện
nay, một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ công chức nói chung và cán bộ
công chức thực hiện quản lý xã hội về môi trường nói riêng đang có biểu hiện
suy thoái về đạo đức lối sống, tỷ lệ cán bộ công chức tham nhũng biến động thất
thường qua các năm, kết quả bỏ phiếu tín nhiệm hàng năm của một số cơ quan,
đơn vị đối với đội ngũ cán bộ đầu ngành thấp.... Suy thoái về đạo đức là nguyên
nhân cơ bản dẫn đến việc mất niềm tin từ nhân dân, gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hiệu quả của công tác quản lý.
19


Trong thời gian tới, để đảm bảo cho quản lý xã hội về môi trường nói chung
và môi trường làng nghề nói riêng có những kết quả tích cực hơn thì việc nâng
cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của đội ngũ
cán bộ, công chức là hoạt động vô cùng cần thiết.
1.4.4. Ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường là do nhân tố
con người, sự nhận thức hạn chế của con người về ô nhiễm môi trường và những
tác hại của nó làm cho tình trạng này càng trở nên nghiêm trọng. Thực tế, mọi
hoạt động sinh hoạt, sản xuất của người dân đều sẽ tác động ít hay nhiều tới môi
trường theo hai hướng tích cưc và tiêu cực.
Khi so sánh với các nước có mức độ ô nhiễm môi trường thấp thì sẽ thấy

được rất rõ sự tác động của yếu tố này. Nếu như ở Singapo, có đến 95% người
dân có ý thức tự giác chấp hành việc thu gom, để rác thải đúng nơi quy định, thì
ở nước ta, tỷ lệ người dân thực hiện việc thu gom rác thải đúng nơi quy định là
rất thấp. Theo kết quả khảo sát của nhóm sinh viên trường Đại học Tài nguyên
và Môi trường Hà Nội xác định ý thức bảo vệ môi trường của người dân trên địa
bàn Quận Ba Đình, Hà Nội cho thấy, có đến 67% người dân không thực hiện
việc bỏ rác vào thùng rác theo quy định. Hơn thế, tình trạng người dân đổ rác
tràn lan ra khu vực ao, hồ,…vẫn diễn ra thường xuyên, việc thu gom, phân loại
rác thải không được làm đúng cách đặc biệt là ở vùng nông thôn. Tình trạng ô
nhiễm môi trường ở những làng nghề do chất thải trong sản xuất của các hộ gia
đình trong làng nghề, cụm công nghiệp làng nghề, rác thải từ sinh hoạt, chăn
nuôi của người dân được xả trực tiếp ra bên ngoài môi trường làm cho nguồn
nước, không khí ở khu vực này bị ô nhiễm nghiêm trọng. Điều đáng báo động là
một bộ phận không nhỏ người dân coi việc giữ gìn vệ sinh môi trường không
phải là việc của riêng cá nhân mà đó là việc của toàn xã hội. Hơn thế, thu nhập
của các hộ gia đình ở các làng nghề chưa cao nên người dân chỉ tập trung vào
việc sản xuất để tăng thu nhập đảm bảo cho đời sống mà bỏ qua vấn đề gây ô
20


nhiễm. Cũng chính vì vậy mà công tác xử phạt hành chính ở các địa phương còn
gặp nhiều khó khăn, công tác xử phạt chưa kịp thời và triệt để.
Như vậy có thể khẳng định rằng, để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi
trường, tình trạng mất vệ sinh trong thu gom, xử lý chất thải ở khu vực nông
thôn nói chung và môi trường làng nghề nói riêng, góp phần xây dựng môi
trường nông thôn mới thì việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm của người dân
trong bảo vệ môi trường là rất cần thiết. Vì vậy, trong quản lý xã hội về môi
trường ở làng nghề cần đặc biệt quan tâm đến sự tác động của nhân tố con người
mà cụ thể là ý thức của người dân trong bảo vệ môi trường. Khi mỗi người dân
có ý thức bảo vệ môi trường thì mục tiêu phát triển kinh tế gắn với tiến bộ công

bằng xã hội và bảo vệ môi trường mới có thể có được hiệu quả cao và bền vững.
1.4.5. Yếu tố về tài chính
Trong bất kỳ hoạt động quản lý nào, vấn đề tài chính cũng cần phải được
quan tâm một cách đúng đắn. Đặc biệt, với công tác quản lý xã hội về môi
trường ở làng nghề thì nó cần được đặt ra ngay từ khi xác định mục tiêu của
chiến lược, kế hoạch, chính sách và trong toàn bộ quá trình tổ chức thực hiện
các hoạt động có liên quan đến bảo vệ môi trường. Yếu tố tài chính vừa là động
lực, vừa là công cụ hữu hiệu để thực hiện công tác quản lý đối với môi trường.
Thực tế cho thấy, để có được trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ cao thân
thiện với môi trường phục vụ cho quá trình sản xuất và xử lý chất thải hay xây
dựng các công trình, cơ sở sản xuất bảo vệ môi trường thì cũng cần phải có
nguồn tài chính hỗ trợ. Đặc biệt, khi điều kiện kinh tế của nước ta còn nhiều khó
khăn, chi phí, giá thành của các thiết bị công nghệ này lại khá lớn, ở nước ta
việc chế tạo, sản xuất các thiết bị công nghệ này còn chưa thể được thực hiện thì
việc đầu tư các trang thiết bị này càng cần phải có sự xem xét về mặt tài chính
một cách cụ thể. Việc đầu tư tràn lan, không có sự tính toán sẽ dẫn đến tình trạng
thâm hụt nặng nề về mặt tài chính mà hiệu quả bảo vệ môi trường khó có thể
đảm bảo.
21


Không chỉ phục vụ cho việc đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ
cho bảo vệ môi trường mà yếu tố tài chính còn có thể được hiểu là yếu tố để
đảm bảo cho bộ máy quản lý hoạt động. Nguồn nhân sự hoạt động trong lĩnh
vực quản lý xã hội về môi trường hầu hết đều là đội ngũ cán bộ, công chức trong
các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương, vì vậy để đảm bảo cho
hoạt động của họ, thì việc đáp ứng nhu cầu về tài chính của đội ngũ cán bộ, công
chức là một điều kiện tất yếu.
Nguồn tài chính phục vụ cho quản lý xã hội về môi trường chủ yếu là từ
ngân sách nhà nước, ngoài ra còn có rất nhiều nguồn tài chính từ các chủ thể

khác nhau trong xã hội. Việc đảm bảo yếu tố tài chính sẽ là điều kiện cần thiết
đầu tiên để đảm bảo cho mọi hoạt động.

22


Chương 2:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ MÔI TRƯỜNG Ở CÁC
LÀNG NGHỀ TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY
2.1. Khái quát về tự nhiên, tình hình kinh tế- xã hội tỉnh Bắc Giang
2.1.1. Khái quát về tự nhiên
Về vị trí đại lý: Bắc Giang là một tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc.
Bắc Giang nằm cách Thủ đô Hà Nội 50 km về phía Bắc, cách cửa khẩu quốc tế
Hữu Nghị 110 km về phía Nam, cách cảng Hải Phòng hơn 100 km về phía
Đông. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Tây và Tây Bắc giáp Hà
Nội, Thái Nguyên, phía Nam và Đông Nam giáp tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và
Quảng Ninh.
Đặc điểm địa hình: Tỉnh có đặc điểm địa hình của cả miền núi lẫn trung du.
Đặc điểm chủ yếu của địa hình miền núi là chia cắt mạnh, phức tạp, chênh lệch
về độ cao lớn. Nhiều vùng đất đai còn tốt, đặc biệt ở khu vực còn rừng tự nhiên.
Vùng đồi núi thấp có thể trồng được nhiều cây ăn quả, cây công nghiệp như vải
thiều, cam, chanh, na, hồng, đậu tương, chè…; chăn nuôi các loại gia súc, gia
cầm, thuỷ sản. Đặc điểm này thể hiện chủ yếu ở các huyện Sơn Động, Lục
Ngạn, Lục Nam và Yên Thế, chiếm 72% diện tích toàn tỉnh. Đặc điểm chủ yếu
của địa hình miền trung du là đất gò, đồi xen lẫn đồng bằng rộng, hẹp tuỳ theo
từng khu vực. Vùng trung du có khả năng trồng nhiều loại cây lương thực, thực
phẩm, cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm, cá và
nhiều loại thuỷ sản khác. Vùng trung du thể hiện chủ yếu ở các huyện Tân Yên,
Hiệp Hoà, Việt Yên, Yên Dũng, Lạng Giang và thị xã Bắc Giang, chiếm 28%
diện tích toàn tỉnh.

Vị trí địa lý đó đã tạo điều kiện thuận lợi trong phát triển kinh tế liên vùng, giao
lưu kinh tế xã hội với các tỉnh vùng Đồng Bằng sông Hồng, các tỉnh Đông Bắc Việt
Nam và với các tỉnh thành khác trong cả nước và với các tỉnh của Trung Quốc.
Nhờ vị trí địa lý đó, Bắc Giang có thể phát huy lợi thế sẵn có của một tỉnh nhiều
23


tiềm năng về đất, về rừng và nguồn lực con người, đưa lãnh thổ này trở thành
một đầu mối kinh tế quan trọng nối khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Đồng Đăng,
Lạng Sơn với các tỉnh đồng bằng sông Hồng và các tỉnh ở Đông bắc nước ta.
2.1.2. Tình hình kinh tế- xã hội
Bắc Giang là một tỉnh miền núi với diện tích tự nhiên là 3.822 km 2, có 9
huyện và 1 thành phố (6 huyện miền núi, 1 huyện vùng cao), toàn tỉnh có 230
xã, phường, thị trấn; dân số trên 1,6 triệu người (đến hết năm 2012, có 89,8%
dân số khu vực nông thôn; 10,2% thành thị) và có 25 dân tộc.
Năm 2011, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã đạt 17,2%. Trong đó, nông nghiệp
và lâm nghiệp tăng 3,2% , công nghiệp xây dựng tăng 23%, dịch vụ tăng 9,55%.
GDP bình quân đầu người đạt 550 USD. Trong đó cơ cấu sản phẩm trong sản
xuất nông nghiệp chiếm 37%; công nghiệp- xây dựng chiếm 29%; dịch vụ
chiếm 34%. Tăng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn toàn tỉnh đạt 700 tỷ
đồng. Tăng chi ngân sách là 3.044 tỷ đồng. Nguồn cân đối từ Trung ương chiếm
tỷ trọng lớn trong đảm bảo nhu cầu chi của toàn tỉnh.
2.1.3. Khái quát về các làng nghề trên địa bàn tỉnh
Bắc giang là một tỉnh có rất nhiều làng nghề sự tồn tại và phát triển của nó
đã góp phần không nhỏ tạo việc làm, nâng cao đời sống nhân dân ở khu vực
nông thôn. Tại các làng nghề hiện nay, có khoảng trên 6.800 hộ tham gia làm
nghề (chiếm 65% tổng số hộ); thu hút khoảng hơn 20.800 nhân khẩu tham gia
nghề, trong đó lao động trong độ tuổi chiếm 68,4%. Thu nhập từ làm nghề tại
các làng nghề chiếm khoảng 80% tổng thu nhập của các hộ dân thuộc làng nghề
trong toàn tỉnh.

Các làng nghề phân bố rải rác trên đại bàn toàn tỉnh, tuy nhiên địa phương
có nhiều làng nghề nhất phải kể đến đó là huyện Việt Yên với nhiều làng nghề
thủ công truyền thống nổi tiếng như: Làng Vân- làng nghề nấu rượu, làng mây
tre đan Tăng Tiến, làng nghề Phúc Lâm các sản phẩm chính trong năm của các hộ
nghề là: Mây tre đan (sản lượng trung bình đạt trên 3,4 triệu sản phẩm/năm), rượu
(trung bình đạt 877nghìn lít/năm), bánh đa nem (trung bình đạt 26 tấn/năm), mỳ
24


(trung bình đạt 275 tấn/năm)… Ngoài ra Bắc Giang cũng được biết đến với các
làng nghề như: làng nghề Thủ Dương (xã Nam Dương huyện Lục Ngạn) với sản
phẩm mỳ Chũ (Bình quân mỗi ngày, làng nghề sản xuất và tiêu thụ gần 30 tấn mỳ
gạo, giá trị thu được đạt gần 8 tỷ đồng mỗi năm), làng nghề bánh đa Kế (thuộc xã
Dĩnh Kế, thành phố Bắc Giang)…. Ngày 30 tháng 9 năm 2014 Uỷ ban nhân dân
tỉnh Bắc Giang đã ban hành Quyết định số 1491/QĐ-UBND về việc công nhận
Làng nghề, tặng danh hiệu Nghệ nhân, Thợ giỏi tỉnh Bắc Giang năm 2010. Các
làng nghề được công nhận theo Quyết định, gồm: Làng nghề Sỏi sản xuất mây
tre đan thuộc xã Bố Hạ, huyện Yên Thế; Làng nghề Châu Sơn sản xuất Mỳ gạo
thuộc xã Ngọc Châu, Tân Yên; Làng nghề Nội Hạc sản xuất chổi chit thuộc xã
Việt Lập, Tân Yên; Làng nghề Khu phố làng Chũ sản xuất Mỳ gạo thuộc thị trấn
Chũ, Lục Ngạn; Làng nghề Bồng 1 sinh vật cảnh thuộc xã Thanh Hải, Lục Ngạn;
Làng nghề Tân Sơn Trong, sinh vật cảnh thuộc xã Bảo Sơn, huyện Lục Nam. Mặc
dù các làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Giang sản xuất các sản phẩm khác nhau,
tuy nhiên điểm chung ở các làng nghề trên địa bàn tỉnh là sản xuất thủ công, sản
xuất theo kinh nghiệm rút ra từ nhiều thế hệ khác nhau, công nghệ sản xuất thô
sơ, lạc hậu. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường ở
các làng nghề trên địa bàn tỉnh.
Tính đến cuối năm 2014, tỉnh Bắc Giang có 36 làng nghề được Uỷ ban
nhân dân tỉnh Bắc Giang công nhận. Mặc dù các làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang sản xuất các sản phẩm khác nhau, tuy nhiên điểm chung ở các làng nghề

trên địa bàn tỉnh là sản xuất thủ công, sản xuất theo kinh nghiệm rút ra từ nhiều
thế hệ, công nghệ sản xuất thô sơ, lạc hậu, chưa có công nghệ, máy móc, hệ
thống xử lý chất thải. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi
trường ở các làng nghề trên địa bàn tỉnh.
2.2. Thực trạng về môi trường ở các làng nghề tỉnh Bắc Giang
Tính đến năm 2014, tỉnh Bắc Giang đã có đến 36 làng nghề được công nhận
chính thức. Tuy nhiên một thực tế không thể phủ nhận là tình trạng ô nhiễm môi
25


×