Tải bản đầy đủ (.doc) (192 trang)

Nghiên cứu tỷ lệ mắc hội chứng bệnh Parkinson, tai nạn thương tích và giải pháp phòng ngừa ở người cao tuổi tại một số quận của thành phố Hà Nội (FULL TEXT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 192 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y

TRẦN VĂN CHUNG

NGHIÊN CỨU TỶ LỆ MẮC
HỘI CHỨNG/BỆNH PARKINSON, TAI NẠN THƯƠNG TÍCH
VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA Ở NGƯỜI CAO TUỔI
TẠI MỘT SỐ QUẬN CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC

HÀ NỘI - 2018


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục chữ viết tắt
Mục lục
Danh mục bảng
Danh mục biểu đồ
Danh mục hình
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chương 1. TỔNG QUAN

1.1. Một số khái niệm, đặc điểm lâm sàng và phân loại hội

1


3
3

chứng/bệnh Parkinson
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.2. Đặc điểm lâm sàng hội chứng/bệnh Parkinson
1.1.3. Phân loại hội chứng/bệnh Parkinson
1.2. Tình hình lưu hành, một số yếu tố liên quan đến hội chứng/bệnh

3
3
7
8

Parkinson
1.2.1. Tình hình lưu hành hội chứng/bệnh Parkinson
1.2.2. Một số yếu tố liên quan đến hội chứng/bệnh Parkinson
1.3. Tình hình tai nạn thương tích và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ở

8
13
19

người cao tuổi mắc hội chứng/bệnh Parkinson
1.3.1. Tình hình tai nạn thương tích ở NCT mắc hội chứng/bệnh

19

Parkinson
1.3.2. Nhu cầu CSSK của NCT mắc hội chứng/bệnh Parkinson

1.4. Các biện pháp phòng tránh tai nạn thương tích và phục hồi chức

24
30

năng cho người cao tuổi mắc hội chứng/bệnh Parkinson
1.4.1. Các biện pháp phòng tránh tai nạn thương tích cho người cao tuổi

30

mắc hội chứng/bệnh Parkinson
1.4.2. Các phương pháp phục hồi chức năng cho người cao tuổi mắc hội

35

chứng/bệnh Parkinson
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, chất liệu, địa điểm, thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu

40
40
40


2.1.2. Chất liệu nghiên cứu
2.1.3. Địa điểm nghiên cứu
2.1.4. Thời gian nghiên cứu
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu

2.2.2. Nghiên cứu mô tả ngang
2.2.3. Nghiên cứu can thiệp cộng đồng
2.3. Xử lý số liệu
2.4. Biện khống chế sai số
2.5. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
2.6. Tổ chức nghiên cứu
2.7. Một số hạn chế của nghiên cứu
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Tỷ lệ mắc hội chứng/bệnh Parkinson ở người cao tuổi tại một số

40
41
41
42
42
43
53
59
59
60
60
61
63
63

quận của Hà Nội, năm 2010
3.1.1. Tỷ lệ mắc hội chứng/bệnh Parkinson ở người cao tuổi tại 7 quận

63


của Hà Nội, năm 2010
3.1.2. Một số đặc điểm lâm sàng của NCT mắc hội chứng/bệnh Parkinson
3.2. Xác định tỷ lệ tai nạn thương tích do ngã ở người cao tuổi mắc

66
73

hội chứng/bệnh Parkinson và một số yếu tố liên quan, năm 2010
3.2.1. Đặc điểm tai nạn thương tích và tai nạn thương tích do ngã liên

73

quan tới hội chứng/bệnh Parkinson ở người cao tuổi tại 7 quận nghiên
cứu
3.2.2. Một số yếu tố liên quan đến chăm sóc sức khỏe, dự phòng tai nạn

82

thương tích cho người cao tuổi mắc hội chứng/bệnh Parkinson tại 14
phường của quận Hoàng Mai
3.3. Đánh giá hiệu quả bước đầu một số giải pháp chăm sóc sức khoẻ,
dự phòng tai nạn thương tích cho người cao tuổi mắc hội chứng/bệnh
Parkinson tại một số phường của quận Hoàng Mai, Hà Nội (2011 2013)

86


3.3.1. Hiệu quả giải pháp quản lý, chăm sóc, theo dõi sức khỏe cho người

86


cao tuổi mắc hội chứng/bệnh parkinson tại hai phường, quận
Hoàng Mai (2011 - 2013)
3.3.2. Hiệu quả giải pháp về truyền thông – giáo dục sức khỏe ở người

89

cao tuổi mắc hội chứng/bệnh parkinson tại hai phường, quận
Hoàng Mai (2011 - 2013)
3.3.3. Hiệu quả giải pháp về hướng dẫn các biện pháp dự phòng tai nạn

90

thương tích do ngã ở NCT mắc hội chứng/bệnh parkinson tại hai phường
của quận Hoàng Mai (2011 - 2013)
Chương 4. BÀN LUẬN
4.1. Về tỷ lệ mắc hội chứng/bệnh Parkinson ở người cao tuổi tại một

98
98

số quận của Hà Nội, năm 2010
4.1.1. Tỷ lệ lưu hành hội chứng/bệnh Parkinson ở người cao tuổi tại 7

98

quận của Hà Nội, năm 2010.
4.1.2. Về đặc điểm các triệu chứng lâm sàng của người mắc hội

101


chứng/bệnh Parkinson
4.2. Về tỷ lệ tai nạn thương tích do ngã ở người cao tuổi mắc hội

107

chứng/bệnh Parkinson và một số yếu tố liên quan, năm 2010
4.2.1. Đặc điểm tai nạn thương tích và tai nạn thương tích do ngã liên

107

quan tới hội chứng/bệnh Parkinson ở người cao tuổi tại 7 quận nghiên
cứu
4.2.2. Về một số yếu tố liên quan đến chăm sóc sức khỏe, dự phòng tai

111

nạn thương tích cho người cao tuổi mắc hội chứng/bệnh Parkinson tại 14
phường của quận Hoang Mai
4.3. Về đánh giá hiệu quả bước đầu một số giải pháp chăm sóc sức

114

khoẻ, dự phòng tai nạn thương tích cho người cao tuổi mắc hội
chứng/bệnh Parkinson tại một số phường của quận Hoàng
Mai, Hà Nội (2011 - 2013)
4.3.1. Về hiệu quả giải pháp quản lý, chăm sóc, theo dõi sức khỏe cho

114


người cao tuổi mắc hội chứng/bệnh parkinson tại hai phường, quận
Hoàng Mai (2011-2013)
4.3.2. Về hiệu quả giải pháp về truyền thông – giáo dục sức khỏe ở người

116


cao tuổi mắc hội chứng/bệnh parkinson tại hai phường của quận Hoàng
Mai (2011-2013)
4.3.3. Về hiệu quả giải pháp về hướng dẫn các biện pháp dự phòng tai

117

nạn thương tích do ngã ở người cao tuổi mắc hội chứng/bệnh parkinson
tại cộng đồng hai phường của quận Hoàng Mai (2011 - 2013)
4.3.4. Một số kết quả khác đạt được của các giải pháp, hoạt động can

120

thiệp
4.4. Những khó khăn và hạn chế trong quá trình nghiên cứu

121

KẾT LUẬN
KIẾN NGHỊ
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


124
126


DANH MỤC BẢNG

Bảng
Tên bảng
Trang
1.1
Tỷ lệ mắc hội chứng và bệnh Parkinson theo nhóm tuổi ở
14
3.1

châu Âu, năm 2000.
Phân bố nhóm tuổi và giới tính của người cao tuổi được điều

63

3.2

tra sàng lọc mắc hội chứng/bệnh Parkinson
Tỷ lệ người cao tuổi mắc hội chứng/bệnh Parkinson theo giới

64

3.3

tính và theo nhóm tuổi

Phân bố người cao tuổi mắc hội chứng/bệnh Parkinson theo

65

3.4
3.5

giới tính và theo nhóm tuổi
Mối liên quan giữa giới tính với hội chứng/bệnh Parkinson
Mối liên quan giữa độ tuổi của người cao tuổi với hội

65
66

3.6

chứng/bệnh Parkinson
Phân bố người cao tuổi mắc hội chứng/bệnh Parkinson theo

66

3.7

thời gian mắc bệnh và giai đoạn bệnh
Phân bố người mắc hội chứng/bệnh Parkinson theo số triệu

67

3.8


chứng ban đầu
Đặc điểm rối loạn vận động của người cao tuổi mắc hội

68

3.9

chứng/bệnh Parkinson
Mức độ rối loạn tâm thần, rối loạn hành vi khí sắc ở người

70

3.10

cao tuổi mắc hội chứng/bệnh Parkinson
Mức độ trầm cảm ở người cao tuổi mắc hội chứng/bệnh

71

Parkinson dài.


3.11

Mức độ suy giảm nhận thức (MMSE) ở người cao tuổi mắc

71

hội chứng/bệnh Parkinson
Bảng

Tên bảng
Trang
3.12
Mức độ rối loạn sinh hoạt hàng ngày ở người cao tuổi mắc
72
3.13

hội chứng/bệnh Parkinson
Mức độ rối loạn vận động ở người cao tuổi mắc hội

72

3.14
3.15

chứng/bệnh Parkinson
Tỷ lệ tai nạn thương tích ở nhóm bệnh và nhóm chứng
Mối liên quan giữa giới tính với tai nạn ở nhóm mắc hội

73
74

3.16

chứng/bệnh Parkinson
Mối liên quan giữa giới tính với tai nạn ở nhóm chứng

74

3.17


(không mắc hội chứng/bệnh Parkinson)
Mối liên quan giữa độ tuổi với tai nạn ở nhóm mắc hội

75

3.18
3.19

chứng/bệnh Parkinson
Mối liên quan giữa độ tuổi với tai nạn ở nhóm chứng
Phân bố theo giới ở đối tượng có tai nạn của hai nhóm (bệnh

75
76

3.20

và chứng)
Mối liên quan giữa trình độ học vấn với tai nạn ở nhóm mắc

76

3.21

hội chứng/bệnh Parkinson
Mối liên quan giữa trình độ học vấn với tai nạn ở nhóm

77


3.22

chứng
Mối liên quan giữa mức độ bệnh lý kèm theo với tai nạn ở

77

3.23

nhóm bệnh
Phân bố đối tượng theo tình huống xảy ra TNTT ở người

78

3.24
3.25

mắc hội chứng/bệnh Parkinson
Tần suất xảy ra TNTT ở nhóm bệnh và nhóm chứng
Vùng/bộ phận cơ thể bị chấn thương do tai nạn thương tích

79
80

ở nhóm bệnh và nhóm chứng
Bảng
Tên bảng
Trang
3.26
Mức độ chấn thương, vết thương do tai nạn ở nhóm bệnh và

81
3.27

nhóm chứng
Nơi xử trí sơ cấp cứu, điều trị cho NCT mắc hội chứng/bệnh

81


3.28
3.29

Parkinson bị TNTT
Mức độ di chứng do TNTT ở nhóm bệnh
Ý kiến của NVYT phường về theo dõi, quản lý và nhu cầu

82
82

3.30

của người cao tuổi mắc hội chứng/bệnh Parkinson
Ý kiến của NVYT phường về biện pháp nâng cao hiệu quả

83

3.31

chăm sóc NCT mắc hội chứng/bệnh Parkinson
Ý kiến của NVYT phường về khám sức khỏe định kỳ và


84

3.32

khám chấn thương cho NCT tại y tế phường
Ý kiến của nhân viên y tế phường về đặc điểm chấn thương ở

84

3.33

NCT đến khám, điều trị tại y tế phường
Ý kiến của NVYT phường về hoàn cảnh xảy ra chấn thương,

85

bộ phận bị chấn thương ở NCT mắc hội chứng/bệnh
3.34

Parkinson đến khám, điều trị tại TYT phường
Hiệu quả của các biện pháp quản lý, chăm sóc, theo dõi sức

86

3.35

khỏe cho người bệnh trước và sau can thiệp
Hiệu quả của các biện pháp khám, chữa bệnh và hướng dẫn


87

3.36

biện pháp phòng ngừa TNTT, PHCN cho người bệnh tại nhà
Hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ khi người bệnh cần phải

88

3.37

chuyển lên tuyến trên để điều trị
Hiệu quả của các biện pháp truyền thông - Giáo dục sức khỏe

89

3.38

cho người bệnh
Hiệu quả của các biện pháp sắp xếp các đồ đạc ngăn nắp,

90

hợp lý đối với người bệnh
Bảng
Tên bảng
3.39
Hiệu quả của biện pháp sử dụng tủ cạnh giường và xếp đặt

91


3.40

thuốc uống của người bệnh ngăn nắp, thuận tiện sử dụng
Hiệu quả của biện pháp sử dụng các dụng cụ hỗ trợ cần thiết

92

3.41

đối với người bệnh
Hiệu quả của biện pháp đảm bảo nơi ở của người bệnh đi lại

93

3.42

dễ dàng
Hiệu quả của các biện pháp lắp các tay vịn trong nhà tắm,

94

3.43

đảm bảo những nơi sinh hoạt luôn khô ráo, không mấp mô
Hiệu quả của các biện pháp bảo đảm an toàn khu vực lan

95



3.44

can, cầu thang đối với người bệnh
Hiệu quả của các biện pháp thực hành phòng ngừa TNTT do

96

3.45

ngã đối với người bệnh
So sánh tỷ lệ người bệnh Parkinson bị TNTT do ngã,

97

4.1

trước và sau can thiệp
Tỷ lệ bệnh nhân mắc hội chứng/bệnh Parkinson theo tuổi

99

4.2

so với các kết quả nghiên cứu khác
Tình hình lưu hành hội chứng/bệnh Parkinson ở 7 quận nội

100

thành Hà Nội so với các nước trên thế giới


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ

Tên biểu đồ

Trang

3.1

Phân bố số người mắc hội chứng/bệnh Parkinson theo giới

64

3.2

tính
Các triệu chứng ban đầu của hội chứng/bệnh Parkinson của

67

3.3

người bệnh
Đặc điểm rối loạn tâm thần ở người cao tuổi mắc hội

69

3.4


chứng/bệnh Parkinson
Đặc điểm rối loạn thần kinh thực vật ở người cao tuổi mắc

70

3.5

hội chứng/bệnh Parkinson
Nguyên nhân bị tai nạn thương tích ở hai nhóm đối tượng

78


mắc và không mắc hội chứng/bệnh Parkinson theo giới

DANH MỤC HÌNH

Hình
1.1
2.1
2.2

Tên hình
Phân loại hội chứng Parkinson theo Hauser R. và cs
Sơ đồ tổng quát các nội dung nghiên cứu
Sơ đồ thiết kế nghiên cứu can thiệp

Trang
7
42

53


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh Parkinson là một trong những bệnh hay gặp nhất trong các bệnh
do rối loạn thoái hóa mạn tính hệ thần kinh trung ương. Người đầu tiên mô tả
căn bệnh này là James Parkinson từ năm 1817, lúc đó tác giả gọi là bệnh liệt
rung và sau này bệnh được mang tên ông. Bệnh Parkinson thường gặp ở
người cao tuổi và có thể gặp ở tất cả các nước, các dân tộc, các thành phần xã
hội. Tỷ lệ mắc bệnh Parkinson trong cộng đồng tại Châu Âu là 100/100.000
dân, Hoa Kỳ là 120/100.000 dân và có khoảng 1,0% số người trên 65 tuổi
mắc bệnh [14], [18], [23]. Ở Việt Nam, rất hiếm công trình nghiên cứu về
dịch tễ học về hội chứng/bệnh Parkinson; năm 2006, một nghiên cứu tại 2
quận của Hà Nội cho thấy tỷ lệ mắc hội chứng/bệnh Parkinson là 57/100.000
dân [9]. Dự báo tuổi thọ con người ngày càng tăng, tỷ lệ mắc bệnh Parkinson
cũng tăng theo [2].
Triệu chứng lâm sàng đặc trưng của Parkinson là các rối loạn vận động
như run khi nghỉ, cứng đờ, giảm vận động và tư thế không ổn định. Bên cạnh
các rối loạn vận động còn có một số các triệu chứng phối hợp hay gặp khác
như trầm cảm, suy giảm chức năng nhận thức, rối loạn thần kinh thực vật…
Một số yếu tố được cho là liên quan đến bệnh Parkinson như tuổi, giới tính,
nhiễm độc môi trường, di truyền… [46], [56], [57], [80].
Người mắc hội chứng/bệnh Parkinson đều bị ảnh hưởng rất lớn đến lao
động và sinh hoạt hàng ngày; đồng thời hay bị tai nạn thương tích, như té ngã
gây chấn thương sọ não, gãy tay, gãy chân... Cho đến nay, việc điều trị bệnh
Parkinson vẫn gặp nhiều khó khăn. Sử dụng các thuốc thay thế dopamin thực
sự là phương pháp hữu hiệu nhất để nâng cao chất lượng sống, kéo dài tuổi
thọ cho người bệnh Parkinson. Tuy nhiên, đáp ứng với điều trị bằng thay thế

dopamin sau 3 năm chỉ có tác dụng không tới 50% tổng số bệnh nhân [34].
Sau 5 - 10 năm đầu mắc bệnh là khoảng thời gian dao động và xuất hiện nhiều


2
tác dụng không mong muốn. Dần dần người bệnh trở nên tàn phế, không còn
khả năng tự phục vụ.
Hàng năm trên toàn thế giới có khoảng 5 triệu người chết do tai nạn
thương tích. Trong đó, ngã gây thương tích chiếm từ 27- 35%. Đối với những
người trên 65 tuổi, tần suất ngã cao hơn so với những người trẻ tuổi và
thường gây hậu quả gãy xương đùi (có từ 50 - 60% số người cao tuổi ngã có
gẫy xương đùi) [115], [45].
Ở Việt Nam, tai nạn thương tích đang dần trở thành một trong những
nguyên nhân hàng đầu gây tử vong tại các bệnh viện. Bình quân mỗi ngày có
khoảng 30 người chết và 70 người bị thương gây tàn tật suốt đời. Hàng năm
có hơn 1/3 số người trên 65 tuổi bị tai nạn thương tích do ngã và là nguyên
nhân dẫn đến tử vong do chấn thương, có tới trên 60% người trên 75 tuổi tử
vong do ngã. Các tai nạn thương tích ở người cao tuổi có nhiều nguyên nhân,
nhưng chủ yếu là do giảm trí nhớ, mắc hội chứng/bệnh Parkinsơn và các tổn
thương thần kinh sau tai biến mạch máu não [18]. Xuất phát từ những lý do
trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu tỷ lệ mắc hội
chứng/bệnh Parkinson, tai nạn thương tích và giải pháp phòng ngừa ở
người cao tuổi tại một số quận của thành phố Hà Nội”, nhằm các mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ mắc hội chứng/bệnh Parkinson ở người cao tuổi tại
một số quận của Hà Nội, năm 2010.
2. Xác định tỷ lệ tai nạn thương tích do ngã ở người cao tuổi mắc hội
chứng/bệnh Parkinson và một số yếu tố liên quan, năm 2010.
3. Đánh giá hiệu quả bước đầu một số giải pháp chăm sóc sức khoẻ, dự
phòng tai nạn thương tích cho người cao tuổi mắc hội chứng/bệnh Parkinson
tại hai phường của quận Hoàng Mai, Hà Nội (2011-2013).



3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ PHÂN LOẠI
HỘI CHỨNG/BỆNH PARKINSON
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
- Bệnh Parkinson là bệnh lý thoái hóa, nguồn gốc chưa rõ, đặc trưng bởi
quá trình thoái hóa tuần tiến nơron dopaminergic thể nhạt - liềm đen gây mất
cân bằng về sinh hóa và chức năng hệ thống ngoại tháp.
- Hội chứng Parkinson là hội chứng gồm các triệu chứng run, giảm vận
động và cứng cơ do các nguyên nhân khác nhau. Bệnh Parkinson là hội chứng
Parkinson do thoái hóa não [14]
- Tai nạn thương tích (TNTT) là những tai nạn xảy ra mà nó để lại cho
cơ thể chúng ta những vết thương có thể tạm thời hoặc vĩnh viễn.
- Tai nạ thương tích do ngã là những trường hợp tai nạn gây thương tích
mà nguyên nhân do bị ngã, rơi từ trên cao xuống hoặc ngã trên cùng mặt
bằng.
1.1.2. Đặc điểm lâm sàng hội chứng/bệnh Parkinson
Lê Đức Hinh [12], mô tả hội chứng, triệu chứng bệnh Parkinson thành hai
nhóm gồm:
- Các triệu chứng cơ bản: (1) Triệu chứng run khi nghỉ: là run không
hữu ý, thấy rõ ở ngọn chi, môi, lưỡi. Run thường khu trú ở một bên cơ thể
trong nhiều năm đầu, run xuất hiện khá sớm khi lặng lẽ. Run là loại run nhỏ,
tần số 4 - 8 chu kỳ/giây, thường là run ở tư thế nửa nghỉ, khi làm động tác hữu
ý không run, run có thể tạm mất nhưng sau đó lại tái diễn. Khi ngủ hết run,
run tăng khi xúc động. Run là triệu chứng thường gặp, tuy nhiên có trường
hợp hoàn toàn không run.; (2) Triệu chứng tăng trương lực: là một trong



4
những triệu chứng quan trọng nhất. Tăng trương lực cơ quá mức thường thấy
ở các cơ chống đối với trọng lực, do đó, bệnh nhân (BN) thường có tư thế nửa
gấp, tăng phản xạ tư thế, giai đoạn sau có dấu hiệu bánh xe răng cưa do tăng
trương lực cơ lan tràn. Triệu chứng căng cứng thường là triệu chứng sớm
nhất. Căng cứng làm cho triệu chứng giảm động trở nên nặng hơn; (3) Triệu
chứng giảm động: mất các động tác tự nhiên của nét mặt, của chân, tay nhất là
khi cử động. Mất vẻ biểu lộ tình cảm, nét mặt như người mang mặt nạ, ít chớp
mắt. Tuy nhiên, đôi mắt vẫn còn linh hoạt. Trong lâm sàng có khi chỉ có triệu
chứng này mà không có run và tăng trương lực cơ.
- Các triệu chứng khác: Rối loạn cảm giác (thường có loạn cảm giác
đau, nóng bức). Rối loạn phản xạ (tăng phản xạ gân xương, không có phản xạ
bệnh lý bó tháp). Rối loạn thần kinh thực vật (tăng tiết, phù, tím tái ngọn chi,
hạ huyết áp tư thế). Rối loạn tâm thần (có thể trầm cảm). Song, trí tuệ còn tốt
và mắt không có rung giật nhãn cầu [33].
Giáo trình Thần kinh học - Học viện Quân y (2011) [14], Nhữ Đình
Sơn mô tả triệu chứng lâm sàng điển hình bệnh Parkinson biểu hiện bằng ba
triệu chứng cơ bản: (1) Run khi nghỉ: thấy rõ ở ngọn chi, môi, lưỡi... Run là
triệu chứng thường gặp; (2) Cứng đơ: là một trong các triệu chứng quan trọng
nhất... Triệu chứng căng cứng thường là triệu chứng sớm nhất; (3) Giảm vận
động: mất các động tác tự nhiên của nét mặt, chân, tay nhất là khi cử động...
Có khi chỉ có triệu chứng này mà không có triệu chứng run và cững đơ. Do
vậy, giảm vận động là triệu chứng có ý nghĩa nhất trong việc theo dõi tác
động của điều trị, sự tiến triển của tổn thương liềm đen. Từ ba triệu chứng này
gây nên các triệu chứng thứ phát như rối loạn tư thế (đi lao đầu về trước, nét
mặt tượng…), rối loạn giọng nói, chữ viết. Các triệu chứng kèm theo có thể
có: Trầm cảm, ảo giác; Rối loạn thần kinh thực vật: tăng tiết, giãn mạch ngoại
vi, táo bón… Tuy nhiên, không phải tất cả các BN và các giai đoạn của bệnh

đều có đủ các triệu chứng trên.


5
Về chẩn đoán bệnh Parkinson:
Trong số các tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh Parkinson trước đây, tiêu
chuẩn chẩn đoán lâm sàng bệnh Parkinson của UK Parkinson’s Disease
Society Brain Bank Clinical Diagnostic Criteria [58], hay còn được gọi là
Queen Square Brain Bank criteria, được sử dụng nhiều nhất. Theo tiêu chuẩn
này, chẩn đoán bệnh Parkinson gồm ba bước:
- Bước thứ nhất: xác định có sự hiện diện của hội chứng Parkinson với
giảm hay chậm cử động (bradykinesia) phối hợp với một trong hay ba triệu
chứng run lúc nghỉ 4-6 Hz (rest tremor), đơ cứng (rigidity) và mất cân bằng tư
thế (postural instability).
- Bước thứ hai: xác định bất kỳ tiêu chuẩn loại trừ diện diện trong bệnh
sử hoặc thăm khám.
- Bước thứ ba: có ít nhất ba tiêu chuẩn hỗ trợ để chẩn đoán xác định
bệnh Parkinson. Tuy nhiên, sự hiểu biết của chúng ta về lâm sàng và sinh lý
bệnh học của bệnh Parkinson ngày càng tăng, do đó các tiêu chuẩn chẩn đoán
lâm sàng này không đủ để làm tăng độ chính xác của chẩn đoán bệnh [10].
Vào tháng 6 năm 2015, International Parkinson and Movement
Disorder Society đã đưa ra Tiêu chuẩn chẩn đoán Lâm sàng bệnh Parkinson
của MDS (Movement Disorder Society Clinical Diagnostic Criteria for PD)
[93]. Khác với tiêu chuẩn của Hội bệnh Parkinson Anh Quốc, tiêu chuẩn chẩn
đoán lâm sàng bệnh Parkinson của MDS bao gồm ba bước chính gồm có:
- Bước thứ nhất: xác định chẩn đoán hội chứng Parkinson.
- Bước thứ hai: xác định bệnh Parkinson là nguyên nhân của hội chứng
Parkinson đó.
- Bước thứ ba: xếp loại chẩn đoán lâm sàng bệnh Parkinson đó ở một
trong hai mức độ tin cậy gồm có được chẩn đoán chắc chắn là bệnh Parkinson

hay được chẩn đoán rất có thể là bệnh Parkinson.
Đối với bước thứ hai, vốn rất quyết định vì nó xác định là có hay không


6
có bệnh Parkinson, tiêu chuẩn chẩn đoán của MDS đưa ra ba nhóm các điểm
đặc trưng về chẩn đoán mà dựa theo đó có thể xác định chẩn đoán bệnh
Parkinson: tiêu chuẩn loại trừ tuyệt đối bệnh Parkinson; dấu hiệu cảnh báo
vốn khi hiện diện thì đòi hỏi phải được cân bằng bởi các tiêu chuẩn hỗ trợ thì
mới có thể chẩn đoán là bệnh Parkinson; tiêu chuẩn hỗ trợ bao gồm những
điểm đặc trưng làm tăng độ tin cậy của chẩn đoán bệnh Parkinson.
Về tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng Parkinson: so với tiêu chuẩn chẩn
đoán trước kia của Hội bệnh Parkinson Anh Quốc, tiêu chuẩn chẩn đoán lâm
sàng hội chứng Parkinson của MDS chỉ cần triệu chứng chậm cử động có
kèm theo ít nhất là một trong hai tiêu chuẩn sau gồm có run lúc nghỉ và đơ
cứng. Tiêu chuẩn mất cân bằng tư thế bị loại bỏ do bởi triệu chứng này chỉ
xuất hiện khi bệnh đã tiến triển khá lâu nên không giúp ích cho việc chẩn
đoán sớm bệnh Parkinson [94].
Triệu chứng cử động chậm bào gồm cả hai phương diện gồm có tốc độ
chậm và biên độ giảm của cử động.
Về tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh Parkinson: sau khi đã xác định có hội
chứng Parkinson, bước thứ hai là áp dụng các tiêu chuẩn của MDS để xem
bệnh Parkinson có phải là nguyên nhân của hội chứng Parkinson hay không?
Theo MDS, chẩn đoán lâm sàng bệnh Parkinson có thể thuộc một trong hai
mức độ tin cậy:
+ Chẩn đoán lâm sàng chắc chắn là bệnh Parkinson đòi hỏi phải có 3
điều kiện: (1) không có sự hiện diện của tiêu chuẩn loại trừ tuyệt đối bệnh
Parkinson; (2) Có ít nhất hai tiêu chuẩn hỗ trợ chẩn đoán; (3) Không có tiêu
chuẩn cảnh báo.
+ Chẩn đoán lâm sàng rất có thể là bệnh Parkinson cần có 2 điều kiện :

(1) Không có sự hiện diện của tiêu chuẩn loại trừ tuyệt đối bệnh Parkinson;
(2) Có sự hiện diện của tiêu chuẩn cảnh báo được đối trọng bởi tiêu chuẩn hỗ
trợ, nghĩa là nếu có một tiêu chuẩn cảnh báo thì phải có một tiêu chuẩn hỗ trợ,


7
có hai tiêu chuẩn cảnh báo thì phải có hai tiêu chuẩn hỗ trợ làm đối trọng.
1.1.3. Phân loại hội chứng/bệnh Parkinson
Fahn S. phân chia hội chứng Parkinson thành 4 nhóm: (1) Hội chứng
Parkinson nguyên phát; (2) Hội chứng Parkinson thoái hóa đa hệ; (3) Hội
chứng Parkinson di truyền; (4) Hội chứng Parkinson thứ phát (mắc phải, triệu
chứng) [51]. Hauser R. và cs. phân loại hội chứng Parkinson (hình 1) [63].
Hội chứng Parkinson

Nguyên nhân thứ phát

Các rối loạn thoái hóa
Bệnh
Parkinson

Hội chứng
Parkinson
thoái hóa

Thuốc

Viêm
não

Thoái hóa thể

vân- liềm đen

Thoái hóa
nhân nền não

Ứ nước
trong não

Hội chứng
Shy- Drager

Thoái hóa
đa hệ

Nhiễm
độc

Liệt trên nhân
tiến triển

Hội chứng
Shy- Drager

Chấn thương
sọ não
Đột
quỵ

Thoái hóa
nhân trám

cầu- tiểu não

Hình 1.1. Phân loại hội chứng Parkinson theo Hauser R. và cs. [63]


8
1.2. TÌNH HÌNH LƯU HÀNH, MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN
HỘI CHỨNG/BỆNH PARKINSON.
1.2.1. Tình hình lưu hành hội chứng/bệnh Parkinson
1.2.1.1. Tình hình lưu hành hội chứng/bệnh Parkinson trên Thế giới
Bệnh Parkinson đã được người ta nói đến từ 4500 - 1000 năm trước
công nguyên qua chứng bệnh “Kampavata” với các biểu hiện run và bất động.
Tuy nhiên, y văn thế giới chỉ đề cập đến bệnh Parkinson từ sau tác phẩm nổi
tiếng của James Parkinson xuất bản tại Anh năm 1817. Các nghiên cứu đều
cho thấy bệnh Parkinson xảy ra ở khắp thế giới, gặp ở nhiều nhóm chủng tộc
khác nhau và ở cả hai giới [37].
* Các nghiên cứu ở châu Âu:
Brewis và cs. (1966) ở Carlisle (Anh) cho thấy tỷ lệ bệnh mới phát hiện
trung bình hàng năm là 12,5/100.000 người trong giai đoạn 1955 - 1961. Năm
1993, Gilles Fenelon (Pháp) cho thấy tỷ lệ mắc bệnh Parkinson toàn bộ là từ
84 - 187/100.000 người và tỷ lệ mới phát hiện dao động từ 15 - 24/100.000
người/năm. Ở Pháp có khoảng 70.000 - 100.000 người mắc bệnh Parkinson.
Tại Đan Mạch (2004), Wermuth L. và cs điều tra tình hình lưu hành bệnh
Parkinson cho thấy tỷ lệ bệnh ở đảo Faroe là 209/100.000 dân; đảo Greenland
là 187,5/100.000 dân và đảo Als là 98,3/100.000 dân [116].
Năm 2004, Bergareche A. và cs. [37] đánh giá sự lưu hành bệnh
Parkinson tại hai cộng đồng (Irun và Hondarribia, vùng Bidasoa) người Tây
Ban Nha ở những người trên 65 tuổi cho thấy, tỷ lệ lưu hành bệnh Parkinson là
1,5 % (CI 95%: 0,9 - 2,3) và các thể khác nhau của hội chứng Parkinson là
1,1% (CI 95%: 0,6 - 1,9). Tỷ lệ lưu hành bệnh Parkinson là 0,4% (65-74 tuổi;

4,7% (75-84 tuổi) và 2,9% (≥ 85 tuổi); đối với hội chứng Parkinson tỷ lệ lưu
hành tương ứng là 0,7%; 2,0% và 3,9%. Năm 2003, Benito-Leon J. và cs. [36]
điều tra tỷ lệ mắc bệnh Parkinson và hội chứng Parkinson ở người cao tuổi
(trên 60 tuổi) tại 3 địa điểm: vùng đô thị ở Greater Madrid (Margaritas,


9
Getafe), vùng nông thôn (Arevalo County, Avila) và quận ở Madrid (Lista) (n
= 5.278) cho thấy: có 118 BN có hội chứng Parkinson: 81 BN Parkinson
nguyên phát (68,6%), 26 BN mắc hội chứng Parkinson do thuốc (22,0%), 6
BN mắc hội chứng Parkinson do sa sút trí tuệ (5,1%), 3 BN có hội chứng
Parkinson do rối loạn tuần hoàn não (2,5%) và 2 BN mắc hội chứng
Parkinson không đặc hiệu (1.7%). Kết quả còn cho thấy: tỷ lệ lưu hành cho tất
cả các loại hội chứng Parkinson là 2,2% (khoảng tin cậy 95% 1,8-2,6) và cho
bệnh Parkinson là 1,5% (khoảng tin cậy 95% là 1,2-1,8). Tỷ lệ lưu hành hội
chứng/bệnh Parkinson tăng lên theo tuổi, nhưng giảm xuống từ lứa tuổi >85
tuổi, có 23 BN (28,4%) mắc bệnh Parkinson không được chẩn đoán trước đó.
Tại Italia, năm 2002, Kis B. và cs. [73] nghiên cứu tỷ lệ lưu hành hội
chứng/bệnh Parkinson ở 87,6% dân số có độ tuổi từ 60 – 85 (n=750 người) tại
South Tyrol (miền Bắc Italia) cho thấy: tỷ lệ hành bệnh Parkinson ở là 1,5/100
người (CI95%: 0,6 - 2,3) và hội chứng Parkinson là 2,2/100 người (CI95%:
1,2- 3,3). Nhìn chung, 78% số BN (CI95% là 59 - 96%) được phát hiện mới
qua cuộc điều tra. Các tác giả cho rằng tỷ lệ lưu hành hội chứng/bệnh
Parkinson ở lứa tuổi 60 - 85 tại vùng này tương tự như các vùng khác ở châu
Âu. Năm 2004, Tan L. và cs. [109] điều tra sự lưu hành bệnh Parkinson
nguyên phát ở Quận Tartu, miền Nam Estonia với số lượng dân cư là 153,240
người. Kết quả cho thấy tỷ lệ bệnh Parkinson là 152/100.000 người
(159/100.000 người đối với vùng thành thị và 139/100.000 người đối với
vùng nông thôn); 154/100.000 nam và 153/100.000 nữ. Tỷ lệ lưu hành bệnh
Parkinson tăng lên theo tuổi: 22/100.000 người (40 – 49 tuổi), tăng lên đến

1232/100.000 người (70 – 79 tuổi). Tuổi trung bình của các BN Parkinson là
71,4 tuổi và tuổi khởi phát bệnh là 66,9 tuổi.
* Các nghiên cứu ở châu Mỹ:
Tại Mỹ, năm 1958, Kurland ở Minnesota tại Rochester thấy tỷ lệ lưu
hành hội chứng/bệnh Parkinson trong giai đoạn 1945 - 1954 là 22,8/100.000


10
người [117]. Năm 1967, Nobrega và cs. [119] điều 331 BN cũng tại Rochester
thấy tỷ lệ lưu hành bệnh là 12,1/100.000 người: trong giai đoạn 1935 - 1944
là 8,7/100.000 người; từ 1945 - 1954 là 16,6/100.000 người và từ 1955 - 1966
là 10,5/100.000 người.
- Năm 1984, Rajput A. H. [117] thấy 66% trường hợp BN lứa tuổi từ 50
- 69 và mỗi năm phát hiện được khoảng 20/100.000 người mới mắc bệnh
Parkinson. Tính ra ở Mỹ có khoảng nửa triệu người mắc bệnh Parkinson.
- Năm 1989, Berkelund và cs. [118] thấy tỷ lệ mắc hội chứng/bệnh
Parkinson là 133/100.000 người, tuổi trung bình khởi phát bệnh là 63 tuổi.
- Năm 2000, Tổ chức WEMOVE [117] cho thấy, tỷ lệ mắc bệnh
Parkinson ở Mỹ là 57 - 371/100.000 người. Trong đó có 35 - 42% trường hợp
chưa được chẩn đoán. Tỷ lệ mới phát hiện hàng năm là 5 - 24/100.000
người/năm; có khoảng 4 - 10% trường hợp khởi phát trước 40 tuổi.
- Năm 2004, Strickland D. và cs. [108] nghiên cứu dịch tễ bệnh
Parkinson thông qua các số liệu đăng ký tại Trung tâm Y học Nebraska
Omaha, Mỹ từ 01/01/1997 - 01/2000 thấy: số lượng BN là 5.062 người, trong
đó có 117 người không được đăng ký hồ sơ. Kết quả phân tích cho thấy, tỷ lệ
lưu hành bệnh Parkinson là 329,3/100.000 cư dân.
Tại Canada, năm 2000, Tổ chức WEMOVE [117] cho biết tỷ lệ mắc
toàn bộ bệnh Parkinson là 300/100.000 người. Tỷ lệ mới phát hiện hàng năm
là 24/100.000 người/năm. Năm 2003, Lai B. C. và cs. [75] đánh giá sự lưu
hành hội chứng/bệnh Parkinson ở British Columbia (Canada) thông qua các

trường hợp đã được điều trị bệnh Parkinson giai đoạn 1996- 1998. Kết quả
cho thấy: tỷ lệ bệnh Parkinson dựa trên các trường hợp được điều trị thuốc
chống bệnh Parkinson lần lượt là 109, 121, và 125/100.000 người trong các
năm 1996, 1997 và 1998. Tỷ lệ lưu hành bệnh Parkinson dựa trên những
trường hợp sử dụng levodopa tương ứng là 126, 134 và 144. Tỷ lệ lưu hành
bệnh Parkinson tăng lên theo tuổi.


11
Năm 2003, Nicoletti A. và cs. [84] điều tra dịch tễ bệnh Parkinson ở
vùng nông thôn tỉnh Cordillera (Bolivia) với số đối tượng là 9.955 người. Kết
quả cho thấy tỷ: lệ bệnh Parkinson là 50,2/100.000 người (CI95%: 18,5124,5) và 286/100.000 người (CI95%: 28-543) ở các đối tượng trên 40 tuổi.
Tại Colombia, năm 2004, Sanchez J. L. và cs. [98] đánh giá sự lưu
hành tỷ lệ hội chứng/bệnh Parkinson ở Antioquia từ 01/01/1996 đến
31/12/2000 thấy tỷ lệ bệnh Parkinson là 30,7/100.000 (CI95%: 29,2 - 322) và
tỷ lệ hội chứng Parkinson là 42,1/100.000 (CI95%: 40,3 - 43,8). Tỷ lệ bệnh
Parkinson ở người trên 50 tuổi là 176,4/100.000 (CI95%: 166,6 - 186,3) và
hội chứng Parkinson là 339,6/100.000 (CI95%: 326,0 - 353,2). Tỷ lệ lưu hành
bệnh Parkinson ở Antioquia là thấp hơn so với thông báo dịch tễ học bệnh
thần kinh của quốc gia (470/100.000) và tương đương với các báo cáo dịch tễ
bệnh này ở cộng đồng người Caucasian (80 - 270/100.000).
* Các nghiên cứu ở Trung Đông: Năm 2002, Anca M. và cs, nghiên cứu
sự lưu hành bệnh Parkinson tại vùng Kibbutz Movement (Israel) trên 73.767
người. Kết quả: tỷ lệ bệnh Parkinson là 0,24% (nhóm >60 tuổi là 0,94%; và
nhóm 40 - 60 tuổi là 0,33%). Tuổi khởi phát bệnh trung bình của các BN
Parkinson là 66,7± 11 tuổi [31].
* Các nghiên cứu ở Châu Á: Năm 2003, Zhang Z. X. và cs, điều tra tình
hình lưu hành bệnh Parkinson ở Bắc Kinh (Trung Quốc) với cỡ mẫu là 5.743
người ở độ tuổi trên 55 tuổi. Kết quả cho thấy: có 110 BN (1,91%) mắc hội
chứng Parkinson, trong đó có 64/110 BN được xác định mắc bệnh Parkinson

(58%). Tỷ lệ lưu hành bệnh Parkinson tăng theo tuổi và khoảng 1% đối với mỗi
giới. Ở vùng nông thôn, có 22 người bị mắc bệnh Parkinson, nhưng có tới 20
người (91%) được chẩn đoán lần đầu [123].
Tại Nhật Bản (2002), Kimura H. và cs. [72] điều tra tình hình lưu hành
bệnh Parkinson ở vùng Yamagata Prefecture (dân số: 1.244.040 người). Kết
quả cho thấy: tỷ lệ lưu hành bệnh Parkinson là 61,3/100.000 người đối với


12
nam và 91,0/100.000 người đối với nữ (p<0,001). Như vậy, trái ngược với
châu Âu, ở Nhật Bản nữ có tỷ lệ mắc bệnh Parkinson nhiều hơn so với nam.
Năm 2004, Tan L. C. và cs, nghiên cứu tại Singapore ở 3 cộng đồng
người có xuất xứ từ Trung Quốc (9000 người), Malyasia (3000 người) và Ấn
Độ (3000 người), độ tuổi trên 50 tuổi. Kết quả cho thấy: tỷ lệ lưu hành bệnh
Parkinson chung của 3 cộng đồng người trên là 0,30% (CI95%: 0,22 - 0,41).
Tỷ lệ lưu hành bệnh Parkinson ở cộng đồng người Trung Quốc là 0,33%
(CI95%: 0,22 - 0,48), người Malaysia là 0,29% (CI95%: 0,13 - 0,67) và người
Ấn Độ là 0,28% (CI95%: 0,12 - 0,67) [110]. Như vậy, tỷ lệ lưu hành bệnh
Parkinson ở Singapore là tương đương với các nước phương Tây.
Năm 2003, Kim J. S. và cs. [71] nghiên cứu thống kê y tế ở Hàn Quốc
thấy thấy, số người có triệu chứng của bệnh Parkinson trong cả nước tăng từ
44.619 người (1995) lên 96.229 người (2000). Theo ước tính, tỷ lệ lưu hành
bệnh/hội chứng Parkinson là 19/100000 người, thấp hơn so với Nhật Bản.
Năm 2004, Woo J. và cs, nghiên cứu tỷ lệ lưu hành bệnh Parkinson ở
cộng đồng người Trung Quốc và người Australia ở Sydney với cỡ mẫu là
1.080 người trên 55 tuổi. Kết quả cho thấy: tỷ lệ lưu hành bệnh Parkinson ở
cộng đồng người Trung Quốc là 0,5% (số đối tượng từ 55 tuổi trở lên) và
0,186% (đối tượng <55 tuổi). Ở cộng đồng Australia, tỷ lệ lưu hành hội
chứng/bệnh Parkinson ở nhóm người từ 55 tuổi trở lên là 3,6% [121].
1.2.1.2. Tình hình lưu hành hội chứng/bệnh Parkinson ở Việt Nam

Ở Việt Nam, qua kết quả của các cuộc tổng điều tra dân số cho thấy số
NCT tăng dần, chiếm tỷ lệ so với tổng dân số là 7,1% (năm 1979); 7,2%
(1989); 8,2% (1999); 9,2% (2009) và 10,94% (2016). Dự báo NCT cả nước sẽ
tăng từ 9,2% dân số năm 2009 (7,92 triệu), lên 17% dân số năm 2029 (16,14
triệu) [7]; đến năm 2039 tỷ lệ này sẽ là 20,49%.
Tỷ lệ NCT tăng cũng đồng nghĩa là tăng tỷ lệ người mắc hội
chứng/bệnh Parkinson trong cộng đồng. Do vậy, việc điều tra dịch tễ học, tìm


13
hiểu biện pháp điều trị dự phòng cho người bệnh Parkinson là một nhiệm vụ
của ngành y tế. Điều này cũng đã được nhấn mạnh trong nhiều chương trình
hành động của Liên hợp quốc và ngành y tế Việt Nam. Liên Hợp quốc đã có
Chương trình hành động quốc tế về chăm sóc sức NCT tại thủ đô Viên nước
Áo (1982) và tại thủ đô Madrid, Tây Ban Nha (2002) bao gồm 7 vấn đề: sức
khỏe và dinh dưỡng, bảo vệ người tiêu dùng cao tuổi, môi trường và nhà ở,
gia đình, phúc lợi xã hội, an sinh thu nhập và việc làm.
Tuy nhiên, tại Việt Nam cho đến thời điểm chúng tôi nghiên cứu đề tài,
chưa có một nghiên cứu dịch tễ nào đề cập đến hội chứng/bệnh Parkinson ở
NCT. Theo y văn, tỷ lệ mắc toàn bộ của bệnh Parkinson là 1,0% đối với
những người trên 65 tuổi và tỷ lệ mới phát hiện hàng năm ở những người trên
75 tuổi có thể từ 120 - 140/100.000 người. Theo cuộc tổng điều tra dân số
01/4/2009 thì dân số Việt Nam là 86 triệu người (trong đó Hà Nội là trên 6
triệu người). Tỷ lệ NCT ở Việt Nam ước tính khoảng 8,6 triệu người (Hà Nội
khoảng 600.000 người). Theo thống kê này, ở Việt Nam có khoảng 86.000
người mắc bệnh Parkinson (trong đó Hà Nội là khoảng 6.000 người mắc hội
chứng/bệnh Parkinson) [7]. Năm 2016, thành phố Hà Nội có trên 1 triệu NCT,
chiếm tỷ lệ trên 13,0% dân số.
1.2.2. Một số yếu tố liên quan đến hội chứng/bệnh Parkinson
Cho đến nay bệnh Parkinson nguyên phát vẫn được coi là chưa rõ nguyên

nhân, Lê Đức Hinh đã nêu các giả thiết về bệnh Parkinson như: Phần lớn các
trường hợp không rõ, thường hướng tới nguyên nhân do virus, tự miễn, sự lão
hóa; di truyền; môi trường [12]
Hiện nay, người ta coi những nguyên nhân này như là những yếu tố nguy
cơ gây bệnh. Nhóm của Noyce A. J. và cs. [85] nghiên cứu mối tương quan giữa
những tác nhân dẫn đến Parkinson; cùng với Collier T. J. và cs. [44] với nghiên
cứu về Parkinson trên động vật (trên khỉ) đã chỉ ra những điểm mấu chốt của căn
bệnh tuổi già này. Yếu tố môi trường và di truyền là hai yếu tố quan trọng ảnh


14
hưởng đến suy giảm hệ thống dopamin. Thêm vào đó, không chỉ ở người, động
vật (khỉ) cũng có những dấu hiệu của bệnh Parkinson. Những yếu tố này bao
gồm tuổi, giới tính, môi trường, di truyền…
1.2.2.1. Tuổi
Bệnh Parkinson được coi như là bệnh của NCT. Tại Mỹ, tỷ lệ mắc hội
chứng/bệnh Parkinson trong cộng đồng là 120/100.000 người da trắng, song ở
lứa tuổi trên 65, tỷ lệ này lại chiếm từ 1,0 - 1,5%. Bệnh thường khởi phát ở
tuổi 60 và tăng dần đến tuổi 80, ít khi xảy ra ở người dưới 40 tuổi [14], nhưng
nếu xảy ra trước 40 tuổi thì tỉ lệ tử vong của nhóm này cao hơn nhóm dân cư
bình thường khác [100].
De Rijic M. C. và cs. [48] thấy rằng, những người >65 tuổi ở châu Âu
có 2,3% người mắc hội chứng Parkinson và 1,8 % mắc bệnh Parkinson và tỷ
lệ mắc tăng dần theo tuổi. Các tác giả thấy từ tuổi 65 trở lên, tỷ lệ mắc bệnh
Parkinson tăng dần theo nhóm tuổi (bảng 1.1).
Bảng 1.1. Tỷ lệ mắc hội chứng và bệnh Parkinson
theo nhóm tuổi ở châu Âu, năm 2000
Đơn vị tính: %
Nhóm tuổi
70- 74

75- 79
80- 84

65- 69
≥85
Hội chứng và bệnh
Hội chứng Parkinson
0,9
1,5
3,7
5,0
5,1
Bệnh Parkinson
0,6
1,0
2,7
3,6
3,5
Nghiên cứu của Hauser và cs, cho thấy tuổi mắc bệnh trung bình là 60
tuổi, ở lứa tuổi trên 40 thì tỷ lệ mắc là 1/250 người, nhưng ở những người trên
65 tuổi, tỷ lệ mắc là 1/100. Tuy nhiên, những bệnh nhân có yếu tố gia đình, có
đột biến gen, tuổi mắc bệnh thường sớm hơn [63].
Theo Lê Đức Hinh, tuổi mắc bệnh là từ 40 - 70, đỉnh cao là 60 tuổi và
hiếm khi mắc bệnh ở lứa tuổi trước 30 tuổi [12]. Nguyễn Văn Chương và Nhữ
Đình Sơn (1999), nghiên cứu 60 BN mắc bệnh Parkinson điều trị tại Khoa
Thần kinh - Viện Quân y 103, từ 10987 - 1097 cho thấy tuổi phát bệnh từ


15
dưới 40 đến trên 70 tuổi, trong đó nhóm từ 40 - 49 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất

(40,70%) [8].
Một số nghiên cứu khác lại cho thấy ở những NCT, tỷ lệ suy giảm tế
bào tiết dopamin là 10% trong 10 năm, phần lớn NCT tuổi không bị mắc bệnh
Parkinson. Triệu chứng giảm động ở NCT không giảm khi điều trị bằng liệu
pháp dopamin [14], [38].
Frey K. A. và cs. [54] chụp cắt lớp vi tính với điện tử dương (PET) để
đánh giá sự toàn vẹn của các neuron chứa dopamin ở thể vân và liềm đen thấy
các chất này giảm dần theo tuổi khoảng 0,77% mỗi năm, còn Owen A. nhận
thấy bất thường hạch nền ở BN Parkinson [89]. Tuy nhiên, trong số này
không phải ai cũng mắc bệnh Parkinson.
Điều này chứng tỏ, tuổi chỉ là một yếu tố nguy cơ chứ không phải là
nguyên nhân của bệnh Parkinson.
1.2.2.2. Giới tính
Các điều tra dịch tễ học cho thấy nam và nữ đều có thể mắc bệnh
Parkinson, tuy nhiên, tỷ lệ mắc bệnh ở nam thường cao hơn nữ. Mazia B. và
cs. (2000) cho biết tỷ lệ nam/nữ là 1,66 với hội chứng Parkinson và 2,13 ở
bệnh Parkinson.
Theo Nguyễn Văn Chương và cs thì tỷ lệ nam/nữ là 1,73 [8]. Nguyễn
Hòa Bình lại cho thấy, thấy tỉ lệ nam nữ không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc
hội chứng/bệnh Parkinson (p>0,05) [9].
1.2.2.3. Nghề nghiệp
Một số nghiên cứu dịch tễ học cho rằng có một số nghề có nguy cơ mắc
bệnh Parkinson hơn các nghề nghiệp khác. Tsui J. K. và cs. [111] nghiên cứu
trên 414 BN Parkinson và 6.659 người làm nhóm chứng thấy bệnh Parkinson
có liên quan tới nghề giáo viên (OR = 2,5), chăm sóc sức khỏe (OR = 2,07).
Nghiên cứu của Racette B. A. và cs. [95] lại cho rằng nghề hàn có thể là yếu
tố nguy cơ mắc bệnh Parkinson. Ngoài ra, các nghiên cứu còn cho thấy những



×