Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Đề tài nghiên cứu khoa học về kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.33 KB, 65 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học của học viên cao học ở Học
viện chính trị hiện nay là một đòi hỏi khách quan nhằm xây dựng những phẩm
chất và năng lực tư duy và khă năng nghiên cứu khoa học của người cán bộ
chính trị, những nhà sư phạm trong quân đội có trình độ chuyên môn cao, khả
năng độc lập, sáng tạo, nhạy bén trong tư duy, tính chính xác trong hoạt động,
có kỹ năng sư phạm trong quản lý, chỉ huy, giáo dục bộ đội. Những phẩm chất
và năng lực đó trực tiếp quyết định sự hoàn thành nhiệm vụ học tập của
người học viên cao học, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với năng lực tự học
và năng lực nghiên cứu khoa học trong quá trình đào tạo. Quá trình đào tạo
thạc sĩ ở Học viện chính trị không chỉ trang bị những hệ thống kiến thức
chuyên nghành, kỹ năng về nghề nghiệp sư phạm quân sự, mà điều quan
trọng là phải tạo cho họ lòng ham muốn hiểu biết, rèn luyện cho họ những kỹ
năng tự hoàn thiện bản thân mình.
Học viện chính trị là trung đào tạo và nghiên cứu khoa học xã hội và
nhân văn quân sự của quân đội. Trong tiến trình đổi mới, nâng cao chất lượng
đào tạo, Học viện luôn thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp dạy và
học theo hướng của nền giáo dục hiện đại: phát huy cao độ tính tích cực, tính
chủ động sáng tạo của người học; tiếp thu có chọn lọc lý thuyết các phương
pháp dạy học mới… Phương hướng đó đòi hỏi rất cao năng lực tự học với
năng lực nghiên cứu của các đối tượng học viên trong Học viện nói chung và
đặc biệt là học viên cao học nói riêng. Chính vì vậy, việc kết hợp tự học với
nghiên cứu khoa học của học viên cao học vừa là yêu cầu khách quan, vừa là
điều kiện nâng cao chất lượng đào tạo thạc sĩ ở Học viện chính trị hiện nay.
Thực tế việc kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học của học viên cao
học ở Học viện chính trị những năm qua tuy đã đạt được những kết quả nhất


2


định, song còn những hạn chế, bất cập, chưa thật sự đáp ứng yêu cầu của quá
trình đào tạo sau đại học. Tình trạng thụ động, thiếu tự giác, chưa tích cực tự
học hỏi, tự nghiên cứu, tự tích luỹ và còn mang nặng tính tự phát theo những
kinh nghiệm tự học, tự nghiên cứu trong quá trình học tập của học viên cao
học. Điều đó đã làm hạn chế chất lượng đào tạo thạc sĩ trong Học viện. Mặt
khác trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục, đào
tạo, đòi hỏi giáo dục, đào tạo chuyển từ chủ yếu trang bị tri thức sang phát
triển toàn diện phẩm chất và năng lực cho người học. Trước thực trạng đó đã
thôi thúc nhóm tác giả chúng tôi lựa chọn vấn đề: Kết hợp tự học với nghiên
cứu khoa học của học viên cao học ở Học viện chính trị hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu .
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nhiệm vụ giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp cách mạng và xây dựng
CNXH luôn được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin, chủ tịch Hồ
Chí Minh quan tâm sâu sắc. Đảng ta khẳng định: Sự nghiệp giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu, là nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta,
điều đó đã được chỉ rõ trong các nghị quyết của đảng qua các kỳ đại hội. Đặc
biệt trong các kỳ đại hội gần đây càng được nhấn mạnh, những quan điểm lý
luận, nghị quyết, chỉ thị đó là cơ sở định hướng cho quá trình nghiên cứu
thực hiện đề tài.
Nhằm cụ thể hoá những quan điểm, nghị quyết của Đảng, Bộ giáo dục
và đào tạo đã ban hành nhiều chỉ thị như: Đổi mới phương pháp dạy- học theo
hướng hoạt động hoá người học, Chiến lược phát triển giáo dục 2010- 2020. ..
Về phía Cục Nhà trường quân đội, BQP có: Tài liệu Hội nghị khoa học
giáo dục và đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường quân đội.
Các công trình khoa học đã in thành sách và một số đề tài luận án tiến sĩ,
luận văn thạc sĩ, các bài viết đăng trên tạp chí khoa học trong và ngoài quân đội
như:; “ Xây dựng quy trình làm việc độc lập với sách và tài liệu học tập cho sinh



3

viên”, Luận án Tiến sĩ giáo dục của Trần Văn Hiếu, Trường đại học Sư phạm Hà
Nội, Hà Nội, 1999; “ Các biện pháp tăng cường quản lý hoạt động tự học của
học viên Trường sĩ quan Chính trị”, Luận văn thạc sĩ giáo dục của Nguyễn Hữu
Các, Trường đại học Sư phạm Hà Nội 1, Hà Nội, 2000; “ Những vấn đề cơ bản
của khoa học giáo dục”, Lê Văn Giang, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001;
“Những giải pháp cơ bản bồi dưỡng phương pháp tự học cho học viên đào tạo sĩ
quan ở các trường đại học quân sự”, Luận án Tiến sĩ Giáo dục học của Mai Văn
Hoá, Hà nội, 2004…
Những công trình khoa học và những bài viết trên đã nghiên cứu một cách
toàn diện về quá trình dạy học ở các trường đại học trong và ngoài quân đội, đề
cập đến bản chất, nội dung, quy trình, phương pháp đổi mới quá trình dạy và
học, phương pháp tự học và nghiên cứu khoa học… Tuy nhiên, về sự kết hợp
giữa tự học với nghiên cứu khoa học của học viên cao học ở học viện chính trị
hiện nay thì chưa có một công trình nào đề cập, nghiên cứu một cách hệ thống.
Cho nên đề tài nghiên cứu “ Kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học của học
viên cao học ở Học viện Chính trị hiện nay” mà chúng tôi lựa chọn không trùng
lặp với các công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về sự
kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học của học viên cao học Học viện chính
trị, đề tài đề xuất một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kết hợp
giữa tự học với nghiên cứu khoa học của học viên cao học, hệ sau đại học ở
Học viện Chính trị hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về sự kết hợp giữa tự học với nghiên
cứu khoa học của học viên đào tạo cao học hệ sau đại học ở Học viện Chính
trị.



4

- Khảo sát, đánh giá thực trạng về sự kết hợp giữa tự học với nghiên
cứu khoa học và chỉ ra nguyên nhân của thực trạng.
- Đề xuất một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kết hợp tự
học với nghiên cứu khoa học của học viên cao học ở Học viện Chính trị hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học của
học viên cao học ở Học viện Chính trị hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài không đi sâu nghiên cứu vấn đề tự học
và nghiên cứu khoa học nói chung, mà tập trung làm rõ ở phương diện lý
luận, thực tiễn của sự kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học ở đối tượng là
học viên cao học hệ sau đại tại Học viện Chính trị
5. Giả thuyết khoa học
Kết hợp giữa tự học và nghiên cứu khoa học là một trong những vấn đề
trọng yếu để nâng cao chất lượng đào tạo cao học ở học viện chính trị hiện nay.
Nếu hiểu được những vấn đề cơ bản về việc kết hợp giữa tự học với nghiên cứu
khoa học và đề xuất được một hệ thống biện pháp như : Phát huy vai trò của các
tổ chức ,chủ thể quản lý trong việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng kết hợp tự
học với nghiên cứu khoa học; Đổi mới được nội dung chương trình, phương
pháp dạy học; Phát huy được vai trò tính tích cự tự giác của các cá nhân đối với
việc kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học; Bảo đảm được môi trường, hệ
thống cơ sở vật chất thuận lợi cho việc kết hợp tự học với nghiên cứu khoa
học .... thì sẽ nâng cao chất lượng, hiệu quả chất lượng kết hợp tự học với
nghiên cứu khoa học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của Học
viện Chính trị trong giai đoạn hiện nay.
6 . Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu



5

- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận dạy học Mác- xít, các
quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về giáo dục- đào tạo và những
nghị quyết, chỉ thị của Học viện Chính trị về đào tạo tạo sau đại học.
- Đề tài dựa trên cơ sở thực tiễn đào tạo cao học ở Học viện những
năm qua và thực tiễn việc kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học của học
viên cao học tại Học viện Chính trị hiện nay.
- Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, đồng thời sử dụng tổng hợp các phương pháp: phân
tích- tổng hợp, lôgíc - lịch sử, so sánh và tổng kết thực tiễn, quan sát, khảo
sát, điều tra, toạ đàm, phỏng vấn, trao đổi và phương pháp chuyên gia để làm
rõ góc độ nghiên cứu của đề tài.
7. Những đóng góp mới của đề tài
- Làm rõ hơn cơ sở lý luận về sự kết hợp tự học với nghiên cứu khoa
học của học viên cao học ở Học viện Chính trị hiện nay.
- Đề xuất một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lựơng kết hợp
tự học với nghiên cứu khoa học của học viên cao học tại Học viện chính trị
hiện nay.
8. kết cấu của đề tài
Gồm: Phần mở đầu, 2 chương 4 tiết, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN KẾT HỢP TỰ HỌC VỚI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA HỌC VIÊN CAO HỌC

Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
1.1 Quan niệm về kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học của học
viên cao học ở Học viện Chính trị.
1.1.1. Tự học và nghiên cứu khoa học của học viên cao học ở Học
viện Chính trị quân sự.
* Tự học và tự học của học viên cao học ở học viện chính trị:
- Tự học:
Trong GD – ĐT dạy và học có mối quan hệ biện chứng, tác động qua
lại với nhau, trong đó người dạy giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc
truyền thụ nội dung kiến thức và phương pháp học tập cho người học; đề xuất
yêu cầu nhiệm vụ học tập; chỉ đạo, tổ chức, điều khiển người học thực hiện
tốt các yêu cầu, nhiệm vụ học tập; nắm thông tin ngược một cách thường
xuyên thông qua các hình thức, phương pháp dạy học và các sản phẩm của
người học; tiếp tục đề xuất những yêu cầu, nhiệm vụ học tập mới trên cơ sở
xử lý các thông tin ngược; phân tích đánh giá kết quả học tập và giảng dạy.
Dưới tác động sư phạm của người dạy, người học là khách thể, tiếp thu một
cách có ý thức những tác động đó, để tiến hành hoạt động nhận thức của
mình. Song quá trình nhận thức là một quá trình phản ánh thế giới khách quan
vào trong đầu óc mỗi người một cách chủ động, sáng tạo, người học là chủ
thể nhận thức, tự giác, tích cực, độc lập, tiến hành các hoạt động nhận thức
của mình, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. Người học phải: tự ý thức
các yêu cầu, nhiệm vụ học tập một cách đầy đủ chính xác; phát hiện các mâu
thuẫn nhận thức và tự lực giải quyết nó, dưới sự chỉ đạo của người dạy; tự
phát hiện những điểm mạnh, điểm yếu trong quá trình học tập của bản thân
thụng qua các sản phẩm học tập của mình; tự đề xuất những yêu cầu học tập


7

mới đối với bản thân trên cơ sở xử lý các thông tin ngược bên trong; tự phân

tích, tự đánh giá kết quả học tập. Từ sự phân tích vai trò và những hành động
cơ bản của người dạy và người học như trên, chúng ta càng thấy sự gắn bó
tương hỗ giữa hai mặt hoạt động này, trong đó người học có vai trò hết sức
quan trọng trong việc tự học, tự nghiên cứu của mình.
Học là quá trình tự biến đổi mình và làm phong phú mình bằng cách
chọn nhập và xử lý thụng tin lấy từ môi trường xung quanh. Dạy là việc giúp
cho người học tự mình chiếm lĩnh những kiến thức, kỹ năng và hỡnh thành
hoặc biến đổi những tình cảm, thái độ. Đó là quan niệm tổng quát về dạy và
học theo cách tiếp cận thông tin, từ đó người dạy có vai trò giúp cho người
học chọn, nhập và xử lý thông tin để biến thành tri thức chứ không phải là
nguồn truyền thông tin cho người học. Việc học phụ thuộc vào mối quan hệ
giảng viên – học viên, vai trò của giảng viên và học viên biến động qua mối
quan hệ này. Một mặt, giảng viên có thể đơn thuần là người truyền đạt kiến
thức; sinh viên hoàn toàn phụ thuộc vào điều mà người giảng bài nói hoặc
làm, họ là “người tiếp nhận” hơn là “người học”. Mặt khác, giảng viên có thể
đóng vai trò hướng dẫn, hoặc người tạo điều kiện thuận lợi, sinh viên được
giúp đỡ để chủ động lập kế họach học tập của mình.
Trong giai đoạn hiện nay với việc đổi mới nội dung, phương pháp GD
– ĐT, lấy người học làm trung tâm, người dạy chỉ đóng vai trò là người hướng
dẫn và tổ chức cho học viên tự mình chủ động tiếp cận với giáo trình tài liệu,
vì vậy việc tự học, tự tìm kiếm tri thức của người học lại càng có vai trò quyết
định trong nâng cao chất lượng GD – ĐT.
Xuất phát từ lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác – Lênin, dưới ánh
sáng lý luận đó, việc lĩnh hội các kiến thức, kỹ xảo được xem là một quá trình
phản ánh thế giới khách quan vào trong ý thức của người học. Đó là quá trình
vận động của tư duy, là sự giải quyết mâu thuẫn nội tại, từ chỗ chưa hiểu biết
đến chỗ hiểu biết, từ chỗ hiểu biết chưa đầy đủ chưa chính xác đến đầy đủ và


8


chính xác hơn, từ chỗ chưa có kỹ năng đến có kỹ năng giải quyết những vấn
đề thực tiễn đặt ra. Sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong ý thức của
con người không phải là một hành động tức thời, giản đơn, thụ động, máy
móc mà là một quá trình phức tạp của sự hoạt động tích cực sáng tạo. Về cơ
bản, hoạt động học tập diễn ra theo quy luật nhận thức chung, mà tự học nằm
trong quá trình học tập. Quá trình nhận thức của người học về cơ bản được
quy định bởi quy luật nhận thức chung, quy luật đó được Lênin khái quát “Từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn
…” Điều đó có nghĩa là quá trình đi từ nhận thức cảm tính đến lý tính và
quay trở về thực tiễn. Người học thu thập các tài liệu cảm tính từ những tác
động của người dạy và phương tiện trực quan dạy học. Trên cơ sở các tài liệu
cảm tính đó, người học sử dụng các thao tác tư duy để xử lý chế biến, nghiền
ngẫm thông tin học tập, gạt bỏ những cái vụn vặt, ngẫu nhiên bên ngoài, nắm
lấy cái bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng, nghĩa là nắm được cái khái
niệm, định nghĩa, quy luật. Và cuối cùng học tập là sự vận dụng các kiến
thức, kỹ xảo, kỹ năng đó tiếp thu được vào giải quyết các nhiệm vụ lý luận và
thực tiễn đặt ra. Trong quá trình học tập, người học không những chỉ lĩnh hội
các kiến thức đó được khoa học khám phá mà còn tìm ra những tri thức mới.
Vỡ vậy hoạt động nhận thức của người học được diễn ra trong điều kiện: có
người dạy chỉ đạo, có tài liệu, các phương tiện kỹ thuật dạy học, khả năng tự
học của cá nhân người học, trong đó khả năng tự học của người học là một
trong những yếu tố quan trọng trong quá trình nhận thức.
Trong các giáo trình, tài liệu, cú nhiều tác giả đó đưa ra các định nghĩa
khác nhau về tự học, sau đây là một số định nghĩa cơ bản:
Nhà tâm lý học N.ARubakin coi: Tự tìm lấy kiến thức – có nghĩa là tự
học. Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong
thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh
nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến



9

tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng , kỹ xảo của
chủ thể.
Trong cuốn “Học tập hợp lí” R.Retke chủ biên, coi “Tự học là việc
hoàn thành các nhiệm vụ khác không nằm trong các lần tổ chức giảng dạy” Theo tác giả Lê Khánh Bằng: thì tự học (self learning) là tự mình suy nghĩ, sử
dụng các năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực
khoa học nhất định
Theo Giáo sư Đặng Vũ Hoạt và Phó giáo sư Hà Thị Đức trong cuốn
“Lý luận dạy học đại học” thì “Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ
bản ở đại học. Đó là một hình thức nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ
thống tri thức và kỹ năng do chính người học tự tiến hành ở trên lớp hoặc ở
ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã được qui
định.
Theo tác giả Nguyễn Văn Đạo: “Tự học phải là công việc tự giác của
mỗi người do nhận thức được đúng vai trò quyết định của nó đến sự tích luỹ
kiến thức cho bản thân, cho chất lượng công việc mình đảm nhiệm, cho sự
tiến bộ của xã hội”
Theo Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học – là tự mình động
não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng
hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của
mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như tính
trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì,
nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận
lợi..vv...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh
vực đó thành sở hữu của mình”2.
Từ những quan điểm về tự học nêu trên, có thể đi đến định nghĩa về tự
học như sau: Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập



10

tự chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống bằng hành động
của chính mình nhằm đạt được mục đích nhất định.
Như vậy tự học là hình thức học tập độc lập của người học nhằm lĩnh
hội, củng cố và vận dụng các kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng. Tự học có những
đặc điểm nổi bật sau đây: Là một hình thức tổ chức dạy học mang tính chất cá
nhân; người học tự tổ chức quá trình nhận thức của mình, thể hiện tính tự
giác, tích cực độc lập, sáng tạo của bản thân; người dạy giữ vai trò chỉ đạo,
định hướng, song không trực tiếp can thiệp vào quá trình tự lĩnh hội của người
học; tự học giúp cho người học củng cố, mở rộng, đào sâu, hệ thống hóa, khái
quát hóa kiến thức, rèn luyện kỹ xảo, tư duy độc lập, sáng tạo, vận dụng vào
giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn.
- Tự học của học viên cao học ở HVCT:
Trong giáo dục đào tạo cán bộ nghiên cứu khoa học nói chung và cán
bộ nghiên cứu khoa học ở Học viện Chính trị nói riêng phần lớn thời gian và
khối lượng kiến thức học tập, nâng cao tay nghề của người cán bộ chính trị
tập trung vào các môn khoa học xã hội và nhân văn. Việc học tập, lĩnh hội
kiến thức các môn khoa học xã hội và nhân văn có vai trò ý nghĩa hết sức
quan trọng, là tiền đề để cho người cán bộ chính trị có thế giới quan, phương
pháp luận khoa học trong việc nhận thức, đánh giá thực tiễn. Các môn khoa
học xã hội và nhân văn rất đa dạng như: triết học, kinh tế - chính trị học, chủ
nghĩa xã hội khoa học, lịch sử, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật, tâm lý giáo dục học, lôgic học … có thể nói rằng các môn khoa học xã
hội và nhân văn là hệ thống những tri thức về xã hội và về con người. Nếu
tách bạch ra thì khoa học xã hội nghiên cứu về xã hội, còn khoa học nhân văn
nghiên cứu về con người. Có những khoa học nghiên cứu xã hội như một
chính thể phát triển qua thời gian: đó là sử học (cổ, trung, cận, hiện đại) và
những khoa liên quan như khảo cổ học, dân tộc học. Có những khoa học

nghiên cứu xã hội như một cấu trúc gồm nhiều yếu tố hợp thành (cơ sở hạ


11

tầng và kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội và ý thức xã hội) cũng như những
mặt khác nhau của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, luật pháp, đạo đức, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật tâm lí... đó là khoa học xã hội hiểu theo nghĩa hẹp.
Nếu lấy con người làm đối tượng nghiên cứu, coi con người, tính người là
trung tâm như hàm nghĩa của khái niệm khoa học nhân văn thì chưa đủ, bởi
con người là chủ thể của ý thức, của tư duy. Vì vậy khoa học nhân văn còn
gồm cả những khoa học triết học, trong đó có triết học (nghiên cứu về thế giới
quan, về lí luận nhận thức), lôgic học (nghiên cứu về tư duy trừu tượng) …
Từ vấn đề trên ta thấy việc tự học của học viên cao học ở học viện
chính trị chính là tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn. Là hoạt động
nhận thức, có mục đích của cá nhân, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng
các năng lực trí tuệ để chiếm lĩnh các tri thức về xã hội và con người, biến các
lĩnh vực đó trở thành sở hữu của mình. Tự học các môn khoa học xã hội và
nhân văn là việc tiếp thu một cách có tổ chức các tri thức về xã hội và con
người, dựa vào công tác tự học một cách có hệ thống.
Trong quá trình tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn thì chất
lượng giữ vai trò quyết định. Chất lượng là một khái niệm rất trừu tượng, đa
chiều, đa nghĩa, được xem từ nhiều bình diện khác nhau, đây là một thuật ngữ
được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội. Triết học Mác-Lênin chỉ rõ: mọi
sự vật, hiện tượng của hoạt động xã hội bao giờ cũng là sự thống nhất giữa
chất và lượng. Mọi quan hệ qua lại giữa chất và lượng của sự vật, hiện tượng
quy định sự tồn tại, phát triển của chính bản thân sự vật. Quan niệm chung
nhất theo từ điển Tiếng việt “Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của
một con người, một sự vật, sự việc”. Nghĩa là khi phân tích đánh giá bất kỳ
một sự vật, hiện tượng nào hay hoạt động của cá nhân hoặc tập thể đều phải

gắn với yếu tố, thuộc tính quy định sự tồn tại, phát triển tạo nên giá trị đích
thực của hiện tượng, hoạt động đó, không được tuyệt đối hoá hoặc tách rời
các yếu tố, thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng hoạt động cụ thể, đòi hỏi phải


12

có phương pháp xem xét, đánh giá cụ thể, không thể áp dụng một phương
pháp chung cho mọi sự vật, hiện tượng; đặc biệt là đối với con người và hoạt
động thực tiễn của con người trong lĩnh vực hoạt động xã hội. Vì vậy Đánh
giá chất lượng người ta căn cứ vào giá trị, giá trị xã hội và do xã hội quy định.
Biểu hiện tập trung chất lượng tự học là ở nhân cách của người học
viên; tức là mức độ chuyển biến nhận thức, sự tích luỹ thêm kinh nghiệm thực
tiễn của mỗi học viên trong học tập, rèn luyện phù hợp với chức trách, nhiệm
vụ được giao. Trên bình diện chung nhất có thể hiểu chất lượng tự học các
môn khoa học xã hội và nhân văn là hiệu quả chuyển biến nhận thức của cá
nhân người học trong quá trình tự giác, tự động não, suy nghĩ, sử dụng các
năng lực trí tuệ để chiếm lĩnh các tri thức về xã hội và con người.
* Nghiên cứu khoa học:
- Nghiên cứu khoa học nói chung.
Hiện nay trong các tài liệu nghiên cứu, có rất nhiều quan niệm về
nghiên cứu khoa học. Theo Nguyễn Trọng Hoàng: “NCKH là hoạt động nhận
thức có đặc trưng tạo ra giá trị nhận thức mới trước đó chưa ai biết... để giải
quyết những mâu thuẫn giữa một bên là những điều chưa ai biết mới nảy sinh
và một bên là những điều kiện hiểu biết đã có. Những giá trị nhận thức mới
đó sẽ giúp loài người đi sâu vào bản chất, quy luật của thế giới và do đó nâng
cao năng lực nhận thức, cải tạo thế giới của loài người và năng lực tập thể của
xã hội. Nghiên cứu khoa học có tác dụng bổ sung, hoàn chỉnh và phát triển
khoa học” [5].
Theo Vũ Cao Đàm: “Nghiên cứu khoa học là một hoạt động xã hội

hướng vào việc tìm kiếm những điều mà khoa học chưa biết hoặc chưa phát
hiện ra bản chất của sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới hoặc là
sáng tạo ra”[9]
Theo PGS.TS Phạm Viết Vượng “Nghiên cứu khoa học là một hoạt
động có mục đích, có kế hoạch, được tổ chức chặt chẽ của các nhà khoa học


13

nhằm khám phá ra bản chất và quy luật của thế giới khách quan và vận dụng
chúng vào việc cải tạo thế giới”...[17]
Nghiên cứu khoa học là hoạt động tạo ra sản phẩm mới dưới dạng tri
thức mới có giá trị mới về nhận thức hoặc phương pháp. Nghiên cứu khoa học
là quá trình nhận thức hướng vào. Đó là quá trình khám phá những thuộc tính
bản chất của sự vật, hiện tượng; phát hiện quy luật vận động vốn có của sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. Nhằm phát triển nhận thức khoa học
về thế giới. Nghiên cứu khoa học là hoạt động trí tuệ sáng tạo góp phần cải
tạo hiện thực. Đó là hoạt động vận dụng quy luật để sáng tạo các giải pháp tác
động tích cực vào sự vật, hiện tượng.
Có thể thấy tất cả các quan điểm trên đều thống nhất ở chỗ xem nghiên
cứu khoa học là quá trình hoạt động có mục đích tìm tòi phát hiện những điều
mà nhân loại chưa biết về bản chất, quy luật, cơ chế, phương pháp, quy trình,
phương thức tồn tại và phát triển....của các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư
duy.
Từ những quan niệm trên chúng tôi cho rằng: “Nghiên cứu khoa học là
quá trình áp dụng các ý tưởng, nguyên lý và phương pháp khoa học để tìm ra
các kiến thức mới nhằm mô tả, giải thích hay dự báo sự vật hiện tượng trong
thế giới khách quan”
- Nghiên cứu khoa học với các môn khoa học xã hội và nhân
Các môn khoa học xã hội và nhân văn bao gồm: triết học, kinh tế chính

trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, tâm lý học, giáo dục học, pháp luật, văn
học, nghệ thuật… nghiên cứu sự vận động, biến đổi và phát triển của tự
nhiên, xã hội và con người, vì vậy việc tự học các môn khoa học này có
những đặc điểm riêng, Hơn thế nữa khi học các môn khoa học này là nền tảng
cho các môn khoa học khác và tạo một thế giới quan, cách nhìn nhận vấn đề
của bản thân một cách khách quan hơn.


14

Về đặc điểm các môn khoa học xã hội và nhân văn xét một cách tổng
thể nó mang tính phổ biến, bởi lẽ khoa học xã hội và nhân văn là khoa học
nghiên cứu về xã hội, con người và cộng đồng người. Xưa nay, phàm làm bất
kỳ việc gì thì cũng phải động chạm đến những hiểu biết về xã hội, con người
và cộng đồng người, cho nên kiến thức khoa học xã hội và nhân văn hiện hữu
ở khắp mọi nơi và cần đến ở khắp mọi nơi. Trong phạm vi một quốc gia, một
công trình nghiên cứu khoa học tự nhiên và công nghệ thì giỏi lắm cũng chỉ
có vài trăm người đọc (in được vài trăm bản) còn một công trình nghiên cứu
khoa học xã hội và nhân văn thường có tới vài nghìn, thậm chí vài vạn người
đọc. Vì vậy việc tiếp cận những môn này không phải là chuyện khó khăn, việc
tự học và tự nghiên cứu các môn này có sự khó, dễ khác nhau tùy thuộc vào
sự tiếp cận và khả năng của từng người.
Nghiên cứu các môn khoa học xã hội và nhân văn liên quan mật thiết
đến lĩnh vực chính trị xã hội, đạo đức nhân cách, tư tưởng, văn hóa của dân
tộc cho nên đây là một lĩnh vực rất quan trọng. Chúng ta đều biết, những sai
lầm về kinh tế, kỹ thuật để lại hậu quả lớn, nhưng vẫn có thể khắc phục được
trong một thời gian nhất định. Thế nhưng những sai lầm thuộc về lĩnh vực
chính trị, tư tưởng, văn hóa, giáo dục… sẽ để lại hậu quả vô cùng nghiêm
trọng và lâu dài, có khi mất đến hàng chục, hàng trăm năm mới khắc phục
được.

Trong thực tiễn, bất cứ công việc nào, bất cứ ngành nghề nào cũng như
bất cứ môn học nào cũng đều có độ khó, dễ riêng của nó, tuỳ theo cách cảm
nhận, cách tiếp thu và lòng đam mê của mỗi người mà những cái đó trở nên
dễ đối với người này cũng như sẽ trở nên khó đối với người khác. Khi nghiên
cứu các môn khoa học xã hội và nhân văn cũng vậy, đều là những môn học
đòi hỏi người học phải chịu khó đọc nhiều tài liệu, nghiên cứu, tìm hiểu và
nắm vững bản chất vấn đề, bởi vì học các môn này khá trừu tượng, nhiều
thuật ngữ khó, có tính lý luận, tính khái quát cao; luôn quan hệ mật thiết với


15

thực tiễn xã hội; luôn có sự thống nhất cao giữa tính khoa học và tính tư
tưởng; luôn mang tính chiến đấu… khi nghiên cứu nếu người học không có
phương pháp tự học kết hợp với tự nghiên cứu tốt và không biết cách tiếp cận
thì sẽ khiến cho người học bị ngập vào trong các khái niệm, phạm trù, quy
luật… vì vậy người học phải tự tìm cho mình phương pháp nghiên cứu các
môn này một cách hiệu quả nhất.
Với những đặc điểm riêng như trên vì thế để học tốt các môn khoa học
xã hội và nhân văn nói riêng và các môn học khác nói chung thì trước hết
tinh thần tự học, tự nghiên cứu, miệt mài, chăm chỉ là rất quan trọng. Trước
khi lên lớp người học tự nghiên cứu, tham khảo tài liệu trước, ghi và đánh dấu
những nội dung khó hiểu hoặc vướng mắc để trên lớp cùng trao đổi với bạn
bè hoặc giảng viên. Trên lớp tập trung chú ý nghe giảng tranh thủ ghi tốc ký
những nội dung, các ví dụ, dẫn chứng của giảng viên để làm cơ sở cho việc
nghiên cứu, trao đổi, thảo luận. Sau mỗi buổi học, luôn chủ động trao đổi
những nội dung còn vướng mắc với giảng viên, hoặc bạn bè, tranh thủ tìm
hiểu, tham khảo những kiến thức trên thư viện, lên mạng Internet tìm thêm tài
liệu để đào sâu nghiên cứu, mở rộng các vấn đề mà bài giảng đề cập kết hợp
với tài liệu, sách giáo khoa trong giờ tự học... Đối với các môn khoa học xã

hội và nhân văn, nếu biết tự học tập kết hợp chặt chẽ với tự nghiên cứu thì ai
cũng có thể học giỏi.
Nghiên cứu khoa học của học viên cao học ở HVCT:
Hoạt động nghiên cứu khoa học ở môi trường Học viện Chính trị là một
môi trường đặc biệt được tổ chức một cách chặt chẽ, kỷ luật nghiêm. Cùng
với quá trình học tập nghiên cứu khoa học là quá trình rèn luyện chấp hành
các điều lệnh, điều lệ, kỷ luật của Quân đội. Tuy nhiên hoạt động học tập và
nghiên cứu khoa học luôn là nhiệm vụ trung tâm, được quan tâm đặc biệt. Với
một môi trường có đầy đủ các yếu tố cần thiết để nghiên cứu khoa học và
được sự quan tâm của Đảng ủy, Ban giám đốc học viện, cùng với các cơ quan


16

chức năng đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần tích cực, chủ động, nhu cầu tìm tòi,
sáng tạo, phát huy năng lực trách nhiệm của từng các nhân, tập thể khoa học.
Tạo bầu không khí lành mạnh, tinh thần hỗ trợ, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau
trong nghiên cứu khoa học. Học viện Chính trị nói chung và Hệ sau Đại học
nói riêng đã xây dựng những thiết chế, cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý
thuận lợi và điều kiện vật chất, tinh thần phong phú để bảo đảm, khích lệ học
viên trong nghiên cứu khoa họcvà của các đối tượng học viên khác trong Học
viện.
1.1.2 Quan niệm sự kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học của học
viên cao học ở Học viện Chính trị .
Từ những vấn đề nghiên cứu ở trên, chúng ta có thể quan niệm:
Kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học của học viên cao học ở Học viện
Chính trị là hoạt động khoa học trong đó người học tích cực, chủ động, sáng
tạo gắn các nội dung, chương trình tự học của mình với hoạt động nghiên cứu
khoa học nhằm lĩnh hội, củng cố, chiếm lĩnh tri thức khoa học và vận dụng
những tri thức, kinh nghiệm đã tích luỹ vào giải quyết những vấn đề mà thực

tiễn đất nước, quân đội đặt ra; phát triển phẩm chất, năng lực nghiên cứu khoa
học, năng lực tư duy lý luận của mình, góp phần nâng cao chất lượng học tập,
đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo thạc sỹ của Học viện và quân đội trong giai
đoạn cách mạng hiện nay.
* Cơ sở của sự kết hợp:
+ Xuất phát từ mối quan hệ giữa tự học với nghiên cứu khoa học.
Tự học và nghiên cứu khoa học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
chúng làm tiền đề và bổ sung cho nhau, cùng hướng tới việc nâng cao chất
lượng giáo dục đào tạo và khả năng vận dụng lý luận vào giải quyết những
vấn đề mà thực tiễn đang đòi hỏi. Tự học sẽ giúp cho người học củng cố, tích
luỹ kiến thức và biến kiến thức đã học ở trên lớp, ở trong sách vở, ở ngoài
cuộc sống trở thành kiến thức của chính mình. Đây là những tài liệu cảm tính,


17

là cơ sở để người học nghiên cứu khoa học. Mặt khác, bản thân quá trình học
sau đại học đã mang tính chất nghiên cứu, vì vậy quá trình tự học của học
viên cao học vừa là quá trình nghiên cứu, vừa là quá trình trực tiếp phục vụ
cho quá trình nghiên cứu khoa học. Với sự tác động trở lại, nghiên cứu khoa
học sẽ giúp cho người học rà soát, kiểm tra và ôn lại những kiến thức đã được
tiếp nhận trước đó, bằng các thao tác của tư duy để sâu chuỗi, khái quát hoá
và nâng lên thành những luận điểm chân thực để soi sáng, đúc rút chân lý. Vì
vậy, đối với học viên cao học, xét ở góc độ nhận thức biện chứng thì tự học và
nghiên cứu khoa học vừa nằm trong một quá trình nhận thức vừa là sự vận
dụng những tri thức đã tiếp thu được vào trong hoạt động thực tiễn. Hai quá
trình này đan xen, hoà quyện vào nhau, hỗ trợ cho nhau cùng hướng tới nâng
cao chất lượng học tập của người học.
+ Xuất phát từ tính chất, nội dung, chương trình đào tạo cao học.
Tính chất của đào tạo cao học: là học mang tính chất nghiên cứu.

Nội dung đào tạo của đối tượng học viên cao học: Học viên cao học
phải học theo từng chuyên đề, giáo viên lên lớp không mang tính tái hiện lại
kiến thức đã được trang bị ở các cấp học trước đó mà đi sâu vào những vấn đề
trọng tâm, đồng thời quá trình dạy cũng là quá trình trang bị cho người học
một phương pháp nghiên cứu.Trong nội dung các môn học, nhất là với các
môn học chuyên ngành, học viên cao học phải tiếp cận và nghiên cứu các tác
phẩm kinh điển nên với nội dung học tập như vậy buộc người học phải làm
quen và thích ứng với quá trình kết hợp giữa tự học với nghiên cứu khoa học.
Chương trình đào tạo cao học:
Về thời gian: Được xây dựng chặt chẽ phân phối hợp lý với chương
trình đào tạo
Về khối lượng kiến thức: khối kiến thức cơ sở, khối kiến thức chuyên
ngành, khố kiến thức mở rộng, làm luận văn tốt nghiệp, ra trường.


18

Với tính chất, nội dung, chương trình như trên đã đặt ra cho học viên
cao học phải kết hợp giữa tự học với nghiên cứu khoa học.
+ Xuất phát từ mục tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trường.
Mục tiêu đào tạo của nhà trường: Đào tạo từ cử nhân thành những thạc
sỹ phù hợp với những chuyên ngành học, những cán bộ chính trị có kiến thức
chuyên sâu về từng lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, sau khi ra trường
về các nhà trường và đơn vị làm nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học,
khi có điều kiện có thể trở về Học viện tiếp tục học tập và nghiên cứu ở bậc
học cao hơn ( nghiên cứu sinh), đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội và đất
nước.
Yêu cầu đào tạo của nhà trường: Phải có bản lĩnh chính trị vững vàng,
phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức chuyên sâu về chuyên ngành, có khả năng
nghiên cứu độc lập, có khả năng phân tích, đánh giá vấn đề…

* Đặc điểm sự kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học của học viên
cao học ở Học viện Chính trị:
+ Được diễn ra trong môi trường đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Môi trường đào tạo :
Học viện Chính trị là trung tâm đào tạo cán bộ chính trị và giáo viên
giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn của quân đội; nơi tập trung
một khối lượng học viên đông với phong trào học tập sôi nổi, rộng khắp ở các
Hệ, lớp quản lý học viên. Điều này tạo ta không khí và phong trào học tập cho
các đối tượng học viên các khoá, trong đó có đối tượng học viên cao học ở Hệ
sau đại học. Để có kết quả học tập tốt, ngoài thời gian lên lớp, đòi hỏi học
viên phải chủ động, tự giác tổ chức và thực hiện kế hoạch tự học của mình đạt
kết quả tốt. Mặt khác, trong quy trình đào tạo của nhà trường, quỹ thời gian
dành cho tự học tương đối nhiều, lại được tổ chức tương đối chặt chẽ nên
cũng tạo ra không khí và ý thức tự học tốt cho học viên cao học ở Hệ sau đại
học.


19

Môi trường nghiên cứu khoa học: Học viện Chính trị là trung tâm
nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn lớn của quân đội và của đất nước;
nơi tập trung nhiều nhà sư phạm, nhà khoa học có kiến thức sâu rộng và bề
dày kinh nghiệm trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học; nơi có phong trào
nghiên cứu khoa học được duy trì thường xuyên, có chất lượng và chiều sâu.
Học viện Chính trị vừa có chức năng đào tạo vừa có chức năng nghiên cứu
khoa học, đây cũng là hai nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng và quân đội giao cho
nhà trường. Vì thế, môi trường đào tạo và môi trường nghiên cứu khoa học ở
HVCT gắn bó chặt chẽ, thống nhất với nhau, đan xen, hoà vào nhau trong quá
trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Học viện.
Hệ sau đại học là nơi quản lý đối tượng học viên cao học và nghiên cứu

sinh. Vì vậy, đây là môi trường gần, trực tiếp, tạo điều kiện rất tốt cho học
viên cao học kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học.
+ Có điều kiện vật chất, trang bị, phương tiện phục vụ, đảm bảo cho
quá trình tự học và nghiên cứu khoa học.
Trong những năm gần đây, Học viện chính trị đã đầu tư xây dựng,
nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị, cùng các phương tiện bảo đảm cho
hoạt động giáo dục và đào tạo nói chung trong đó có bảo đảm cho đào tạo sau
đại học nói riêng. Hiện nay học viện đã bảo đảm cho học viên sau đại học có
điều kiện ăn ở sinh hoạt thuận tiện, tạo điều kiện cho học viên học tập và
nghiên cứu khoa học được tốt. Đặc biệt học viện đã có hệ thống giảng đường,
thư viện, tài liệu tư liệu đáp ứng nhu cầu tài liệu sách tham khảo cho hoạt
động tự học và nghiên cứu của các đối tượng học viên trong đó có học viên
cao học. Hệ thống thư viện nhà trường ngoài thư viện trung tâm dành cho các
đối tượng thì Hệ sau Đại học cũng được bố trí một phòng thư viện riêng có
các bộ sách kinh điển, các loại tạp chí, sách tham khảo, các luận văn,luận án
của các khóa cùng các công trình sản phẩm nghiên cứu khoa học của học viên
được trưng bày và phục vụ học viên tới đọc và nghiên cứu.


20

Cùng với việc thu thập khai thác thông tin từ hệ thống thư viện của nhà
trường, học viên cao học còn sử dụng tương đối thành thạo các phương tiện
thông tin hiện đại như khai thác trên mạng thông tin nội bộ của học viện, sử
dụng máy vi tinh của cá nhân để thực hiện đề tài, lưu trữ thông tin tài liệu
phục vụ cho quá trình học tập nghiên cứu.
Có thể nói, tuy về mặt cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện bảo
đảm cho đào tạo cao học, cũng như phục vụ quá trình thực hiện kết hợp tự
học với nghiên cứu khoa học của học viên cao học còn có những hạn chế nhất
định song đã đáp ứng được yêu cầu dạy học sau đại học hiện nay của học

viện, bảo đảm phục vụ tốt quá trình tự học tập và nghiên cứu khoa học của
học viên cao học. Đây vừa là đặc điểm vừa là điều kiện thuận lợi để học viên
cao học thực hiện kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học, nâng cao chất
lượng đào tạo cao học của học viện trong điều kiện hiện nay.
+ Đối tượng học viên cao học tại Học viện vừa có những đặc điểm
chung của xu hướng nghề nghiệp, nhưng cũng mang những đặc điểm riêng đa
dạng, nhiều vẻ khác nhau.
Mặt bằng trình độ: đã qua cử nhân với chuyên ngành đào tạo phù
hợp, có kiến thức tương đối sâu sắc về chuyên ngành đào tạo, có khả năng
đáp ứng yêu cầu đào tạo ở bậc học sau đại học, có khả năng nhất định để thực
hiện kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học ở bậc học sau đại học. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau nên mặt bằng
trình độ ở các học viên cũng khác nhau.
Xu hướng nghề nghiệp: phần lớn học viên cao học ở Học viện Chính trị
là những người đã và sẽ là giáo viên ở các nhà trường trong toàn quân được
tuyển chọn về học. Quá trình giảng dạy, công tác ở các nhà trường đã giúp họ
tích luỹ được lượng kiến thức nhất định. Vì vậy, bản thân họ đã có khả năng
và xu hướng rõ rệt trong quá trình đào tạo cao học tại trường. Đây là điều kiện


21

thuận lợi và khả năng để họ thực hiện sự kết hợp giữa tự học với nghiên cứu
khoa học trong thời gian được đào tạo cao học.
Sự tác động của ngoại cảnh: sự kết hợp tự học với nghiên cứu khoa
học là đòi hỏi khách quan với bậc học sau đại học. Song, đây là một đòi hỏi
cao và hoàn toàn không dễ với tất cả học viên cao học. Không phải người nào
cứ trở thành học viên cao học là có thể thực hiện được một cách hiệu quả sự
kết hợp này. Ngay cả những người đã qua bậc học cao học, có bằng thạc sỹ thì
vấn đề nghiên cứu khoa học của họ cũng không phải đã đơn giản và có hiệu

quả cao. Bên cạnh đó, hầu hết học viên cao học tại Học viện đều đã có gia
đình riêng, điều kiện cuộc sống còn nhiều khó khăn, một số người đi học cốt
giải quyết vấn đề quân hàm, hoặc muốn có chút học vị để thuận lợi cho việc
cất nhắc, bổ nhiệm sau này. Những đặc điểm trên đã chi phối, ảnh hưởng
không nhỏ tới chất lượng đào tạo nói chung, trong đó có chất lượng sự kết
hợp tự học với nghiên cứu khoa học trong thời gian học tập.
+ Vừa mang tính độc lập, chủ động, sáng tạo của người học vừa có sự
hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức của các cơ quan, đơn vị có liên quan.
Mang tính độc lập, chủ động, sáng tạo của người học: Trong quá trình
học tập, mỗi học viên tự mình chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng, phải
nắm vững những cơ sở của nghề nghiệp tương lai và có tiềm năng vươn lên
thích ứng với những yêu cầu trước mắt và lâu dài do thực tiễn xã hội đặt ra.
Muốn vậy, khi tiến hành hoạt động học tập, sinh viên không chỉ phải có năng
lực nhận thức thông thường mà cần tiến hành hoạt động nhận thức mang tính
chất nghiên cứu trên cơ sở khả năng tư duy độc lập, sáng tạo phát triển ở mức
độ cao. Điều đó có nghĩa là, dưới vai trò chủ đạo của thầy, học viên không
nhận thức một cách máy móc chân lý có sẵn mà còn đào sâu hoặc mở rộng
kiến thức... Mặt khác, trong quá trình học tập, học viên đã bắt đầu thực sự
tham gia hoạt động tìm kiếm chân lý mới. Đó là hoạt động tập dượt nghiên
cứu khoa học được tiến hành ở các mức độ từ thấp đến cao tuỳ theo yêu cầu


22

của chương trình. Hoạt động nghiên cứu khoa học này giúp học viên từng
bước tập vận dụng những tri thức khoa học, phương pháp luận khoa học,
những phẩm chất, tác phong của nhà nghiên cứu nhằm góp phần giải quyết
một cách khoa học những vấn đề do thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp
đặt ra.
Sự hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức của các cơ quan, đơn vị: Vấn đề tự học

và nghiên cứu khoa học luôn được các cấp ủy Đảng, nhất là tổ chức Đảng ở
cơ quan , đơn vị quản lý quan tâm lãnh đạo. Các hoạt động này được lãnh đạo
định hướng nội dung, lĩnh vực hoạt động nghiên cứu và được các cấp ủy
Đảng cụ thể hóa bằng các chị thị mệnh lệnh, kế hoạch phân công giao nhiệm
vụ cụ thể cho từng tổ chức từng cá nhân. Lấy kết quả tự học, với tự nghiên
cứu khoa học là một nội dung đánh giá kết mức độ hoàn thành nhiệm vụ của
từng cá nhân, từng tổ chức Đảng.
* Nội dung kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học của học viên cao
học ở Học viện Chính trị.
+ Kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học trong giai đoạn bổ túc kiến
thức
Đây là giai đoạn có ý nghĩa hết sức quan trong nó bổ sung các kiến
tổng thể và kiến thức chuyên ngành nghiên cứu. Và nó cũng chính là bước tập
duyệt nghiên cứu khoa học cho học viên. Giai đoạn này giúp học viên từng
bước tập vận dụng những tri thức khoa học, phương pháp luận khoa học,
những phẩm chất, tác phong của nhà nghiên cứu nhằm góp phần giải quyết
một cách khoa học những vấn đề do thực tiễn xã hội, thực tiễn chuyên ngành
nghiên cứu đặt ra. Làm cơ sở cho nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp ra
trường. Do vậy việc kết hợp giữa tự học và nghiên cứu khoa học trong giai
đoạn này có ý nghĩa hết sức qua trọng. Sự kết hợp này phải được diễn ra tư dễ
đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Thông thường trong mỗi môn học được
cấu tạo bởi nhiều đơn vị học trình khác nhau và bao giờ cũng kèm theo thu


23

hoạch tác phẩm, làm bài tập hay viết tiểu luận theo một chủ đề nhất định có
định hướng. Chính trong quá trình viết thu hoạch, tiểu luận đã đòi hỏi một sự
kết hợp giữa tự học với nghiên cứu khoa học. Quá trình thu hoạch, tiểu luận
học viên đã phát triển được tư duy khoa học. Từ các tiếp cận theo từng đặc

điểm từng môn học, đến các kỹ năng nghiên cứu khoa học cần thiết, các
phương pháp để giải quyết vấn đề có cơ sở khoa học và thực tiễn. Trong giai
đoạn này học viên phải phát huy được tính tích cực tự giác trong độc lập
nhận thức vận dụng lý luận và một số kinh nghiệm tự học vào viết thu hoạch
tiểu luận để nâng cao trình độ nghiên cứu khoa học
+ Kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học trong giai đoạn làm luận
văn tốt nghiệp
Đây là giai đoạn mà người học viên đã tích lũy cho mình được một
khối lượng kiến thức nhất định. Và là giai đoạn hướng việc vận dụng các tri
thức đã được tiếp thu để mở rộng phạm vi tiếp cận thông tin mới. Vì vậy tự
học kết hợp với nghiên cứu khoa học của học viên trong giai đoạn này ở mức
cao hơn. Trong giai đoạn này học viên phải xác định được tên đề tài, xây
dựng đề cương nghiên cứu, chuẩn bị các loại tài liệu. Giai đoạn này là sự độc
lập nghiên cứu của học viên vì vậy khả năng kết hợp giữa tự học với nghiên
cứu khoa học càng tốt bao nhiêu thì chất lượng nghiên cứu luận văn càng tốt
bấy nhiêu. Và trong giai đoạn này việc kêt hợp giữa tự học với nghiên cứu
khoa học thể hiện ở quá trình vừa làm luận văn vừa viết báo khoa học liên
quan đến đề tài nghiên cứu.
Trong các giai đoạn trên, việc kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học
được diễn ra trong suốt cả quá trình, trong từng môn học, từng bài học, từng giai
đoạn làm luận văn tốt nghiệp. Tuy nhiên, tuỳ theo tính chất công việc mà sự kết
hợp đó được biểu hiện một cách khác nhau.
* Hình thức kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học của học viên cao học
ở Học viện Chính trị: Học tập trên lớp, viết thu hoạch, tiểu luận, tham gia hội


24

thảo, viết bài đăng báo, tham gia các đề tài, các công trình khoa học, biên
soạn giáo trình, tài liệu, làm luận văn tốt nghiệp ra trường

* Tiêu chí đánh giá sự kết hợp:
Tiêu chí là điều được quy định dùng làm chuẩn để phân loại đánh giá.
Theo đó, tiêu chí được thể hiện ở các chỉ số, thông số, chỉ tiêu dùng làm thước
đo để dựa vào đó so sánh, đánh giá kết quả tự học kết hợp với nghiên cứu
khoa học của học viên Đào tạo sau đại học, học viện chính trị. Các chỉ số,
thông số, chỉ tiêu càng chính xác, cụ thể bao nhiêu thì việc đánh giá chất
lượng tự học kết hợp với nghiên cứu khoa học của học viên Đào tạo sau đại
học, học viện chính trị bấy nhiêu. Với cách tiếp cận đó, khi đánh giá chất
lượng tự học kết hợp với nghiên cứu khoa học của học viên Đào tạo sau đại
học, học viện chính trị cần dựa vào trên các nhóm tiêu chí sau:
Một là, kết quả nhận thức về việc kết hợp giữa tự học và nghiên cứu
khoa học nội dung các môn khoa học xã hội và nhân văn, đây là tiêu chí rất
quan trọng bởi vì trong quá trình tự học kết hợp với nghiên cứu khoa học các
môn khoa học xã hội và nhân văn biểu hiện của kết quả nhận thức nội dung
các môn khoa học xã hội và nhân văn thông qua việc người học đó xác định
được tầm quan trọng của các môn khoa học xã hội và nhân văn hay chưa, đó
nắm vững bản chất, nội dung vấn đề, nội dung bài học đến đâu, biết liên hệ,
vận dụng, lý luận vào thực tiễn như thế nào, thực hành nghiên cứu khoa hoc
ra làm sao… thông qua những kết quả đó mà đánh giá được chất lượng tự học
kết hợp với nghiên cứu khoa học các môn khoa học xã hội và nhân văn của
người học
Hai là, Nhận thức, trách nhiệm của người học về kết hợp tự hợp với
nghiên cứu khoa học. Người học cần xác định rõ nghiệm vụ của mình trong quá
trình học tập từ đó đối với từng môn học cụ thể phải có cách thức tiếp cận và
phân bố thời gian hợp lý. Việc nhận thức và trách nhiệm của người học về kết
hợp tự hợp với nghiên cứu khoa học sẽ được đánh giá bằng kết quả học tập


25


thông qua kiểm tra, thi kết thúc môn và quá trình bảo vệ luận văn cũng như
tham gia nghiên cứu các đề tài khoa học. Trong quá trình tự học kết hợp với
nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo sau đại học ở Học viện Chính trị,
để biết được khả năng tiếp thu kiến thức của bản thân đến đâu, thì kết quả
kiểm tra đánh giá của giảng viên phản ánh thực chất chất lượng học tập và
nghiên cứu khoa học của người học
Ba là, phương pháp, tác phong tự học, nghiên cứu khoa học và tác phong
kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học. Sự tập trong mọi thời gian có thể với
một kế hoạch tự học cụ thể kết hợp vào đó là sự nghiêm túc, cẩn thận chịu khó
tìm tòi trong nghiên cứu khoa học sẽ là cơ sở là động lực để người học nâng cao
khả năng logic nhận thức của mình. Từ đó hiệu quả của quá trình học tập nghiên
cứu tại môi trường Học viện Chính trị sẽ được nâng cao.
Bốn là, Chất lượng, Hiệu quả mang lại tự việc kết hợp tự học với nghiên
cứu khoa học của người học trong thực tiễn.
Thông qua hoạt động thực tiễn học tập và nghiên cứu khoa học ở đơn
vị. Chúng ta biết rằng chất lượng tự học và nghiên cứu khoa học của học viên
đào tạo sau Đại học ở Học viện Chính trị có tốt hay không được đánh giá
bằng rất nhiều tiêu chí trong đó có hoạt động thực tiễn ở đơn vị, đặc biệt là
hoạt động nghiên cứu khoa học là một tiêu chí quan trọng, thông qua hoạt
động này có thể đánh giá được việc vận dụng những kiến thức khoa học xã
hội và nhân văn vào trong thực tiễn hoạt động nghiên cứu của người học đến
đâu, từ đó đánh giá được chất lượng tự học và nghiên cứu khoa học các môn
khoa học xã hội và nhân văn của học viên đào tạo sau Đại học ở Học viện
Chính trị
1.2. Thực trạng kết hợp tự học với nghiên cứu khoa học của học
viên cao học ở Học viện Chính trị và nguyên nhân của thực trạng đó.
1.2.1 Những kết quả đạt được của việc kết hợp tự học với nghiên cứu
khoa học của học viên cao học ở Học viện Chính trị.



×