Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận sơ nét về trang phục áo dài truyền thống việt nam từ xưa đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.29 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
I .Lý do chọn đề tài

1

-

-

Trang phục là một phần quan trọng trong cuộc sống hằng
ngày cũng là một nét văn hóa riền của từng quốc gia. Theo thời
gian, trang phục cũng thay đổi theo quá trình phát triển của lịch
sử. Đối với mỗi một quốc gia, trang phục cũng trở thành một yếu
tố quan trọng tạo nên nét đẹp văn hóa riêng biệt qua từng thời kỳ,
mang tính đậm đà và vẻ đẹp của mỗi dân tộc. Đối với Việt nam bộ
trang phục truyền thống từ xưa là chiếc áo dài Việt Nam - một nét
đẹp về trang phục truyền thống của người Việt từ thời xa xưa. Bộ
trang phục này thường được mặc trong các dịp trọng đại vị nó
mang vẻ đẹp thướt tha trang nghiêm thùy mị...và hơn nữa trang
phục áo dài cả nam và nữ đều có thể mặc được, nó ngày càng trở
nên phổ biến và trở thành nét đẹp về thuần phong mỳ tục của dân
tộc Việt Nam.
Chính vì những lý do trên, em quyết định chọn đề tài: ”Sơ nét
về trang phục áo dài truyền thống Việt Nam từ xưa đến nay ”
II. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này nhằm góp phần làm rõ hơn những lí luận về sự phản ánh văn hoá
qua trang phục của đất nước, tiêu biểu cho nét đẹp đó là chiếc Áo dài Việt giúp hiểu
rõ hơn về nguồn gốc, sự phát triển với những nét mới của chiếc Áo dài- bản sắc của
dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Áo dài truyền thống Việt Nam từ xưa đến nay


Phạm vi về đối tượng nghiên cứu : Phân tích để làm rõ nguồn gốc sự tích của
chiếc áo dài thời xưa và sự đổi mới của nó qua các thời kỳ.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã sử dụng một số các phương pháp nghiên cứu sau đây :
Nghiên cứu dựa vào tổng hợp các những tài liệu, thông tin, tạp chí, internet
sưu tập được cùng với ý kiến chủ quan của bản thân.
Phương pháp nghiên cứu lý luận.
1


Phương pháp thực tiễn.

NỘI DUNG
2

-

-

CHƯƠNG I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
1.1 Nguồn gốc lịch sử của Áo dài:
Nguồn gốc của áo dài:
Mọi người dân Việt Nam đều biết áo dài là trang phục truyền
thống của quốc gia mình. Nhưng nếu hỏi về nguồn gốc của áo dài
thì có lẽ không phải ai cũng biết và hiểu sâu sắc. Đối với người dân
Việt Nam cái tên “Áo dài” đã trở nên thân thuộc từ lâu.
Thật ra cho đến nay vẫn chưa ai biết rõ chiếc áo dài nguyên
thuỷ ra đời từ lúc nào và hình dáng ra sao vì không có nhiều tài
liệu ghi nhận. Y phục xa xưa nhất của người Việt, theo những hình
khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách đây khoảng vài

nghìn năm cho thấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ.
Sử gia Đào Duy Anh đã viết: “ Theo sách sử ký chép thì người Văn
Lang xưa, tức là tổ tiên của chúng ta, mặc áo dài về bên tả ( hình
thức tả nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy
cho dân quận Cửu Chân dung kiểu quần áo theo người Tàu. Theo
những lời sách đỏ chép thì ta có thể suy luận rằng trước hồi Bắc
thuộc thì người Việt gài áo về tay trái, mà sau bắt chước người
Trung Quốc mới mặc gài về tay phải. Vì thế có thể coi kiểu sơ khai
của áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng
khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại, áo mặc
phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng màu buông thả.
Không thể xác định niên đại chính xác của áo dài, bởi ngay tà
áo được coi là quốc phục của người Việt cũng phải trải qua nhiều
thăng trầm của lịch sử, thời gian, du nhập nhiều nền văn hóa qua
nhiều giai đoạn mới có ngày hôm nay. Tuy nhiên, ngay trên những
tranh khắc của Trống đồng Ngọc Lũ cách đây vàỉ nghìn năm đã
thấy thấp thoáng bóng dáng của tà áo dài.

2


Tại sao nói trang phục với hai tà áo xẻ lại là bóng dáng của
áo dài, vì nét đặc trưng mạnh mẽ nhất của áo dài chính là hai tà
3

-

-

áo. Cho dù trải qua bao nhiêu ngàn năm với bao nhiêu biến thể,

nét duy nhất còn nhận ra được trang phục truyền thống của người
Việt không bị lai tạp với các nền văn hóa khác chính là hai tà áo
dài.Có nhiều người cho rằng áo dài Việt là một bản khác của sườn
xám của phụ nữ Trung Quốc, nhưng chiếc sườn xám chỉ xuất hiện
vào khoảng 1920, còn tà áo dài Việt đã có từ rất lâu trước đó. Điều
đó chứng tỏ áo dài là một nét văn hóa của riêng Việt Nam, chỉ
người Việt mới có. Và khi nói đến khía cạnh thẩm mỳ, văn hóa và
trang phục truyền thống của người Việt Nam, người ta thường nghĩ
ngay đến tà áo dài và chiếc nón lá, thật vậy, trải qua từng thời kỳ,
từng giai đoạn cùng với những diễn biến của quá trình phát triển
lịch sử, tà áo dài Việt Nam tồn tại cùng với thời gian, được xem là
trang phục truyền thống mang tính lịch sử lâu đời của người Việt.
Vua chúa ngày xưa vì quyền lợi giai cấp và huyết thống, họ
đã có những chủ trương phản truyền thống, phản dân tộc và đã bị
quần chúng đấu tranh loại bỏ. "Quần hai ống" và "áo dài" của phụ
nữ Việt Nam tuy xuất phát cùng ở trong mục đích ấy, nhưng may
thay, nó đã thừa kế được cái đẹp của phụ nữ phương Bắc cũng như
phương Nam, phù hợp với dáng người Việt Nam, nên nó đã được
chấp nhận và trở nên một tài sản văn hóa của người phụ nữ Việt
Nam.
1.2 Lịch sử hình thành
1.2.1 Lịch sử
Căn cứ theo những chứng liệu này, có thể khẳng định chiếc
áo dài với hình thức cố định đã ra đời và chính thức được công
nhận là quốc phục dưới triều chúa Nguyễn Vũ Vương (1739-1765).
Vào thời này, các văn bản tại Việt Nam dùng chữ Hán hoặc chữ
Nôm.
Một vài tài liệu quy kết việc ra đời của chiếc áo dài quốc phục
là do những tham vọng riêng tư của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Do
3



muốn xưng vương và tách rời Đàng Trong thành quốc gia riêng,
nên ban sắc dụ về ăn mặc như trên cho khác đi, không phải với
4

-

-

người khách trú mà với Bắc triều (trong quy định này đã có cả chỉ
thị phụ nữ phải mặc quần hai ống). Năm 1744 cũng là thời điểm
đánh dấu sự xuất hiện của quần chân áo chít, bộ trang phục ban
đầu áp dụng tại hai vùng Thuận Hóa, Quảng Nam, về sau được phổ
biến rộng rãi trong toàn quốc, từng bước trở thành quốc phục của
triều Nguyễn.

Giảng học đồ vẽ cách trang phục của người Việt vào thế kỷ
18 ởĐàng Ngoài mặc áo giao lĩnh gài bên phải
Không ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thủy ra đời từ lúc nào và
hình dáng ra sao vì không có tài liệu ghi nhận và chưa có nhiều
người nghiên cứu. Y phục xa xưa nhất của người Việt, theo những
hình khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách nay khoảng vài
nghìn năm cho thấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ.
Sử giả Đào Duy Anh viết, "Theo sách Sử ký chép thì người Văn
Lang xưa, tức là tổ tiên ta, mặc áo dài về bên tả (hình thức tả
nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho
dân quận Cửu Chân dùng kiểu quần áo theongười Tàu. Theo những
lời sách đó chép thì ta có thể suy luận rằng trước hồi Bắc thuộc thì
người Việt gài áo về tay trái, mà sau bắt chước người Trung Quốc

mới mặc áo gài về tay phải".
Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương
tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau
4


mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt
lưng màu buông thả. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc
5

-

-

quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để
đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân
đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc đồng áng
hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo
tứ thân (gồm bốn vạt nửa: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái,
vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái). Áo tứ thân được mặc ra ngoài
váy xắn quai cồng để tiện cho việc gồng gánh nhưng vẫn không
làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ.
Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm
cần cù bươn chải, gánh gồng tháo vát. Với những phụ nữ tỉnh
thành nhàn hạ hơn, muốn có một kiểu áo dài được cách tân thế
nào đó để giảm chế nét dân dã lao động và gia tăng dáng dấp
trang trọng khuê các. Thế là ra đời áo ngũ thân với biến cải ở chỗ
vạt nửa trước phải nay được thu bé lại trở thành vạt con; thêm một
vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Áo ngũ thân che kín thân
hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống (vị chi thành

bốn) tượng trưng cho tứ cha mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước
chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối
với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc
khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ thường theo quan
điểm Nho giáo và ngũ hành theo triết học Đông phương.

5


1.2.1 Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát
6

-

-

Áo dài ngũ thân, khoảng năm 1900
Chịu ảnh hưởng nặng của văn hóa Trung Hoa, cho đến thế kỷ
16 lối ăn mặc của người Việt Nam vẫn thường hay bắt chước lối
của

người

phương

Bắc,

đặc

biệt


dưới

thời

các chúa

Nguyễn xứ Đàng Trong do nhu cầu khai phá khẩn hoang, đón nhận
hàng vạn người Minh Hương(còn gọi là người Khách Trú hay đọc
trại thành "cắc chú") bất mãn với nhà Thanh sang định cư lập
nghiệp, mặc dù người Việt cũng có lối ăn mặc riêng.
Trước làn sóng xâm nhập mới này, để gìn giữ bản sắc văn
hóa riêng, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về ăn
mặc cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong phải theo đó thi hành.
Trong sắc dụ đó, người ta thấy lần đầu tiên sự định hình cơ bản của
chiếc áo dài Việt Nam, như sau: "Thường phục thì đàn ông, đàn bà
dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo
thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở.
Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp cho tiện khi
làm việc thì được phép..." (sách Đại Nam Thực lục từ Thái Tổ đến
nay vừa đúng con số ấy, bèn thay đổi y phục, đổi phong tục, cùng
dân đổi mới, bắt đầu hạ lệnh cho nam nữ sĩ thứ trong nước, đều
mặc áo nhu bào, mặc quần, vấn khăn, tục gọi quần chân áo chít
bắt đầu từ đây. Trang phục nhà cửa đồ dùng hơi giống thể chế
Minh Thanh, thay đổi hết thói cũ hủ lậu của Bắc Hà, thay đổi quan
6


phục tham khảo chế độ của các triều đại Trung Quốc, chế ra phẩm
phục Thường triều, Đại triều, lấy làm mô thức, ban hành trong

7

-

-

nước, văn chất đủ vẻ, trở thành nước áo mũ văn vật vậy!.
Tổng hợp các ghi chép vừa rồi có thể thấy, cải cách năm
1744 là một cuộc cải cách lớn về y phục cung đình chính để đặt
định y phục là các sách Hội điển ghi chép điển chương chế độ của
các triều đại Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh và đặc biệt là Tam tài
đồ hội của Vương kỳ thời Minh. Năm 1744 cũng là thời điểm đánh
dấu sự xuất hiện của quần chân áo chít, bộ trang phục ban đầu áp
dụng tại hai vùng Thuận Hóa, Quảng Nam, về sau được phổ biến
rộng rãi trong toàn quốc, từng bước trở thành quốc phục của triều
Nguyễn.
1.2.3 Thời vua Minh Mạng
Cho đến thế kỷ 17 truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt
Nam như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền
Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: "... áo đàn bà con
gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay vốn
đã có cổ tục như thế...". Vậy có thể nói rằng bộ áo ngũ thân xuất
hiện vào khoảng đời vuaGia Long (1802-1819). Sở dĩ có sự ước
đoán này, vì mặc áo ngũ thân thì phải mặc quần chứ không thể
mặc váy. Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ
cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc quần hai ống, nên hồi ấy
mới xuất hiện câu ca dao than vãn:
Tháng Tám có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng!
1.2.4 Áo dài Le Mur

"Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của Cát Tường,
một họa sĩ tên Le Mur vào thập kỷ 1930 đã thực hiện một cải cách
quan trọng trên chiếc áo tứ thân để biến nó chỉ còn lại hai vạt
trước và sau mà thôi. Vạt trước được họa sĩ nối dài chấm đất để
tăng thêm dáng vẻ uyển chuyển trong bước đi đồng thời thân trên
được may ôm sát theo những đường cong cơ thể người mặc tạo
7


nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng thêm vẻ nữ tính,
hàng nút phía trước được dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc
8

-

-

theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn. Tuy nhiên, áo dài Le
Mur có nhiều biến cải mà nhiều người thời đó cho là "lai căng" thái
quá, như áo may ráp vai, ráp tay phồng, cổ bồng hoặc cổ hở. Thêm
nữa áo Le Mur mặc cho đúng mốt phải với quần xa tanh trắng, đi
giày cao, một tay cắp ô và quàng vai thêm chiếc bóp đầm. Lối tân
thời này tuy được nhiều người yêu thích nhưng cũng đã bị một số
dư luận khi đó tẩy chay và cho là "đĩ thõa" (như được phản ảnh
không hề thiện cảm trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng).
1.2.5 Áo dài Lê Phổ
Năm 1934, một họa sĩ khác là Lê Phổ bỏ bớt những nét lai
căng, cứng cỏi của áo Le Mur, đồng thời đưa thêm các yếu tố dân
tộc từ áo tứ thân, ngũ thân vào, tạo ra một kiểu áo vạt dài cổ kính,
ôm sát thân người, trong khi hai vạt dưới được tự do bay lượn. Sự

dung hợp này quá hài hòa, vẹn vẻ giữa cái mới và cái cũ, được giới
nữ thời đó hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đây, áo dài Việt Nam đã tìm
được hình hài chuẩn mực của nó, và từ bấy giờ đến nay dù trải qua
bao thăng trầm, bao lần cách tân cách điệu, hình dạng chiếc áo
dài về cơ bản vẫn giữ nguyên.
1.2.6 "Đời sống mới”

Các bộ phận của một chiếc áo dài phổ biến
Năm 1947 trong bối cảnh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới
tuyên bố độc lập và các phong trào "diệt giặc đói, giặc dốt" đang
8


được phát động, nhằm phát động phong trào tiết kiệm, ngày 20
tháng 3 năm 1947, Hồ Chí Minh, với bút hiệu Tân Sinh, đã viết một
9

-

-

cách vắn tắt rõ ràng và dễ hiểu bài "Đời sống mới" trong đó vận
động người dân bỏ thói quen mặc áo dài để thay bằng áo vắn vì
mặc áo dài đi đứng, làm việc bất tiện, lượt thượt, luộm thuộm. Áo
dài tốn vải, khoảng hai cái áo dài may được ba cái áo vắn, nếu chỉ
mặc áo vắn có thể sẻn được 200 triệu đồng/năm. Áo dài không hợp
với phụ nữ Việt Nam đời sống mới. Cuộc vận động này dần đã được
người dân hưởng ứng và áo dài không còn là trang phục thông
dụng của phụ nữ Việt Nam trong một thời gian dài ở miền bắc vĩ
tuyến 17.

1.2.7 Áo dài Trần Lệ Xuân
Cuối năm 1958 khi bà Trần Lệ Xuân còn tại vị Đệ Nhất Phu
Nhân của nước Việt Nam Cộng Hòa, bà đã thiết kế ra kiểu áo dài
cách tân mới bỏ đi phần cổ áo gọi là áo dài cổ thuyền, cổ hở, cổ
khoét, dân gian gọi là áo dài Trần Lệ Xuân hay áo dài bà Nhu.
Không chỉ lạ về mẫu áo, chiếc áo dài hở cổ còn được ‘phá cách’ với
họa tiết trang trí trên áo: nhành trúc mọc ngược. Một số nhà phê
bình phương tây cho rằng nó hợp lý với thời tiết nhiệt đới của miền
nam Việt Nam. Nhưng kiểu áo này khiến những người theo cổ học
lúc đó tức giận và lên án nó không hợp với thuần phong mỹ tục.
Loại áo dài không có cổ này vẫn phổ biến đến ngày nay và phần cổ
được khoét sâu cho tròn chứ không ngắn như bản gốc.
1.2.8 Áo dài với tay giác lăng
Thập niên 1960 có nhà may Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa ra
kiểu may áo dài với cách ráp tay raglan (giác lăng). Cách ráp này
đã giải quyết được vấn đề khó khăn nhất khi may áo dài: những
nếp nhăn thường xuất hiện hai bên nách. Cách ráp này cải biến ở
chỗ hàng nút cài được bố trí chạy từ dưới cổ xéo xuống nách, rồi
kế đó chạy dọc một bên hông. Với cách ráp tay raglan làn vải được
bo sít sao theo thân hình người mặc từ dưới nách đến lườn eo,
khiến chiếc áo dài ôm khít từng đường cong của thân hình người
9


phụ nữ, tạo thêm tính thẩm mỹ theo đánh giá của một số nhà thiết
kế.
1.2.9 Áo dài mini ranglan

10


-

-

Phiên bản này được áp dụng rộng rãi cho nữ sinh. Theo phiên
bản gốc này, áo ngắn tay ranglan có tà chỉ ngắn tới bàn chân,
nhưng hai ống quần ôm lòa xòa phủ kín đôi chân. Hai đặc điểm
này làm cho tà áo nữ sinh đậm chất hồn nhiên, dễ thương.

10


CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ÁO DÀI
2.1- Quá trình phát triển của áo dài
11

-

-

Cũng không ngạc nhiên khi một người Việt Nam trả lời rằng
tà áo Dài là một trong những hình tượng tiêu biểu ở đất nước này.
Thật khó mà dịch từ "áo Dài" sang bất cứ ngôn ngữ nào vì không ở
đâu có một tà áo Dài như ở Việt Nam.
Áo Dài, trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam, ôm
sát cơ thể, có cổ cao và dài khoảng ngang gối. Nó được xẻ ra ở
hông. Áo Dài vừa quyến rũ lại vừa gợi cảm, vừa kín đáo nhưng vẫn
biểu lộ đường nét của một người thiếu nữ. Tuy nhiên, trải qua các
giai đoạn lịch sử khác nhau, những vùng địa lý khác nhau, trang
phục áo dài đều có những nét đặc sắc riêng.

Vào khoảng từ năm 1618 đến năm 1623, một vị giáo sư
người Italia có tên Cristoforo Borri, sống ở vùng Quảng Nam đã
nhận xét trong một cuốn sách của ông rằng: “Người Việt Nam xưa
nay thường có tính kín đáo. Tuy là một nước nhiệt đới, nhưng người
Việt ăn mặc rất kín đáo, có thể là kín đáo nhất so với các dân tộc
khác trong vùng”. Có lẽ người Việt xưa đã phải dành nhiều thời
gian để nghiên cứu, tìm cách phối hợp những nguyên tắc thẩm mỹ
với quy luật kín đáo cố hữu của dân tộc vào việc may mặc. Chẳng
hạn, do đặc thù về nhân chủng học, người Việt có cái cổ thường
không cao, người xưa đã biết may cổ áo thấp xuống và ôm sát cổ,
trong khi tóc được vấn cao lên, để lộ gáy... Và vì thế, cái cổ của
một phụ nữ Việt Nam có nhan sắc trung bình vẫn trở nên thanh tú
và cao sang hơn. Phải chăng đó là tiền đề cho phần cổ của chiếc
áo dài?
Áo dài của người Việt vẫn có tiếng là gợi cảm. Người Trung
Quốc gọi loại áo này là “bì bào”, có nghĩa là áo mặc sát vào da.
Đến nay, vẫn chưa có ai khẳng định được chiếc áo dài
ViệtNam xuất hiện từ bao giờ và như thế nào? Tuy nhiên, chuyện
được biết nhiều nhất là việc chúa Nguyễn Phúc Khoát ở Đàng
11


Trong, khi xưng vương (năm 1744) đã bắt quan, dân phải mặc lễ
phục lấy mẫu từ “Tam tài đồ hội” của nhà Minh, Trung Quốc. Vì thế
12

-

-


mà có giả thuyết cho rằng, áo dài Việt Nam xuất xứ từ phương
Bắc. Tuy nhiên, áo dài hay “bì bào” không phải là lễ phục. áo dài
chỉ là một loại thường phục trang trọng có thể mặc để tiếp khách
hay đi chơi. Loại “bì bào” độc nhất ở Trung Quốc thường được gọi
là “xường xám”, có nghĩa là áo dài, chỉ xuất hiện vào những năm
của thập niên 1930 tại Trùng Khánh và Thượng Hải.
Vào năm 1776, sau khi chúa Trịnh ở Đàng Ngoài chiếm được
kinh đô Phú Xuân của xứ Đàng Trong, quan Hiệp Chấn Thủ Lê Quý
Đôn đã ra lệnh cho dân ở đây phải ăn mặc theo lề lối của Đàng
Ngoài. Theo lệnh này, về thường phục thì: “Từ nay trở đi, đàn ông
và đàn bà chỉ được mặc loại áo ngắn tay có cổ đứng...”. Tức là tay
áo chỉ dài đến cổ tay, thay vì dài gấp đôi chiều dài của cánh tay
như trong áo lễ. Trong cuốn sách của giáo sỹ Borri (như đã nói ở
trên) có tên: “Tường thuật về sứ mệnh mới của các linh mục Dòng
Tên ở Nam Kỳ - năm 1631” đã miêu tả cách ăn mặc của người Việt
Nam đầu thế kỷ 17 như sau:“Người ta mặc năm, sáu cái áo dài, áo
nọ phủ lên kia, mỗi cái một màu. Cái thứ nhất dài đến mắt cá
chân, những cái áo khác ở ngoài ngắn dần...”. Đấy là vị giáo sỹ đã
nói đến chiếc áo mớ ba, mớ bảy của phụ nữ Việt Nam còn thấy ở
các làng Quan Họ ở Bắc Ninh hay còn lác đác ở Huế. “Đàn ông
cũng mặc năm, sáu lớp áo dài lụa... Phần dưới thắt lưng của mấy
lớp áo ngoài được cắt thành những dải dài. Khi đi lại, các dải này
quyện vào nhau trông rất đẹp mắt... khi có gió thổi, các dải áo bay
tung lên như cánh chim công thật ngoạn mục...”. Thực ra, mấy lớp
áo bên ngoài bị cắt thành các dải dài bên dưới thắt lưng mà giáo
sỹ Borri nhắc đến chỉ là cái xiêm cánh sen, hoặc có nơi gọi là quầy
bơi chèo, mà người xưa mặc trước ngực hay dưới thắt lưng bên
ngoài áo dài. Xiêm có ba hoặc bốn lớp dải lụa, gọi là cánh sen may
chồng lên nhau. Bức tượng Bà Ngọc Nữ được tạc từ thế kỷ XVII ở
chùa Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh là minh chứng rõ nhất cho cả áo

12


dài, các dải cánh sen, lẫn cách vấn khăn mà giáo sỹ Borri đã miêu
tả. Cái áo dài đó cũng như cách vấn khăn không có nhiều khác biệt
13

-

so với bây giờ.

-

Cho đến đầu thế kỷ XX, phần đông áo dài phụ nữ thành thị
đều may theo thể năm thân hay năm tà. Mỗi thân áo trước và sau
đều có hai tà, khâu lại với nhau dọc theo sống áo. Thêm vào đó là
tà thứ năm ở bên phải, trong thân trước. Tay áo may nối phía dưới
khuỷu tay. Sở dĩ áo phải nối thân và tay như thế là vì các loại vải
tốt như lụa, sa, gấm, đoạn... ngày xưa chỉ dệt được rộng nhất là 40
cm. Cổ, tay và thân trên áo thường ôm sát người, rồi tà áo may
rộng ra từ sườn đến gấu và không chiết eo. Gấu áo may võng, vạt
rất rộng, trung bình là 80 cm ở gấu, cổ áo chỉ cao khoảng 2-3 cm.
Trong thập niên từ 1930 đến 1940, cách may áo dài vẫn
không thay đổi nhiều, nhưng phụ nữ thành thị bắt đầu dùng các
loại vải màu tươi, sáng hơn, được nhập khẩu từ châu Âu. Thời kỳ
này, gấu áo dài thường được may trên mắt cá chân khoảng 20cm.
Từ đây và tiếp tục cho đến gần cuối thế kỷ XX thiếu nữ khắp nơi
mặc quần trắng với áo dài. Quần đen dành cho những phụ nữ đã
lập gia đình. Một vài nhà tạo mẫu áo dài đã bắt đầu xuất hiện,
nhưng họ mới chỉ bỏ đi phần nối giữa sống áo vì vải của phương

Tây dệt có khổ rộng hơn vải ta. Tay áo vẫn may nối. Thời đó, Hà
Nội đã có các nhà may nổi tiếng như Cát Tường ở phố Hàng Da và
một số ở khu vực Hàng Trống, Hàng Bông. Năm 1939, nhà tạo mẫu
Cát Tường đã tung ra một kiểu áo mới có tên gọi là Le Mur mang
mẫu dáng rất Âu hoá, áo Le Mur vẫn giữ nguyên phần áo dài may,
không nối sống bên dưới, nhưng cổ áo khoét hình trái tim; có khi
áo được gắn thêm cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ; vai áo may
bồng, tay nối ở vai; khuy áo may dọc trên vai và sườn bên phải.
Vậy là áo Le Mur được xem là táo bạo và chỉ có giới nghệ sỹ hay ăn
chơi “thời thượng” lúc đó mới dám mặc. Nhưng chỉ đến khoảng
năm

1943

thì

loại

áo

dài

này

bị

lãng

quên.


Đến khoảng những năm 1950, sườn áo dài bắt đầu được may chiết
13


eo. Các nhà may lúc đó đã cắt áo lượn theo thân người. Thân áo
sau rộng hơn thân trước, đặc biệt là phần mông để áo ôm theo
14

-

-

thân dáng mà không cần chiết eo; vạt áo cắt hẹp hơn, cổ áo cao
lên trong khi gấu được hạ thấp xuống.
Vào những năm 1960, áo dài được thay đổi nhiều nhất vì cái
nịt ngực được sử dụng ngày càng phổ biến hơn, nên áo dài phải
được may chiết eo, thậm chí người phụ nữ mặc rất chật để tôn
ngực. Eo áo cắt cao lên để hở cạp quần; gấu áo cắt ngang thẳng
và dài gần đến mắt cá chân. Năm 1960, vì muốn thấy có cảm giác
cổ phụ nữ dài thêm, bà Trần Lệ Xuân đặt ra loại áo dài cổ thuyền,
được gọi là áo bà Nhu và sau này còn có người may áo dài với cổ
khoét tròn. Vào cuối những năm 1960, đầu những năm 1970, để
thích ứng với thời trang váy ngắn, quần loe của thanh niên theo lối
hippy, áo dài mini đã xuất hiện và ngay lập tức trở thành mốt thời
thượng. Vạt áo may hẹp và ngắn, có khi đến đầu gối, áo may rộng
ra và không chiết eo, nhưng vẫn giữ đường lượn theo thân thể; cổ
áo may thấp xuống còn 3 cm; vai áo bắt đầu được cắt lối raglan để
ngực và tay áo ôm hơn; quần khi đó được may rất dài, gấu rộng
đến 60 cm. Sau thời kỳ này trở về đến năm 1990, áo dài không
thay đổi nhiều lắm so với truyền thống, thỉnh thoảng cũng có vài

mẫu đổi mới, chẳng hạn như quần áo đồng màu nhưng không phổ
biến.
Ngày nay, Việt Nam đã có một lực lượng đông đảo các nhà
tạo mẫu áo dài, với đủ các loại chất liệu vải, họ vẫn luôn nghiên
cứu, tìm tòi sáng tạo đưa ra những mẫu mốt mới...Chất liệu mới
cho áo Dài được kết hợp từ những tấm vải mẫu, thường được trang
trí bằng những đường nét thủ công hoặc thêu thùa. Song, cũng chỉ
dừng lại ở việc thay đổi chất vải và hoa văn trên áo dài còn về kiểu
dáng vẫn phải giữ theo “công thức” cũ, nghĩa là không khác gì
nhiều với cái áo dài của pho tượng Ngọc Nữ thế kỷ XVII.

14


2.2 Sức hấp dẫn của chiếc áo dài
Nói bao nhiêu cũng không thấy đủ, đong bao nhiêu cũng
15

-

-

không thấỵ vừa bởi sức mạnh trên từng tà áo là điều đã được kiểm
chứng theo suốt chiều dài lịch sử. Chiếc áo dài thời xa xưa còn khá
giản đơn trong thiết kế nhưng vẫn tôn vinh nét duyên dáng của
người mặc. Không bó sát vào những đường cong cơ thể, áo dài cổ
xưa được may hơi rộng, phủ bên trong một lóp áo yếm lót. Giai
đoạn tiền sử của áo dài cũng chỉ ra rằng có sự phân biệt đẳng cấp
ở chất liệu vải dệt, màu sắc thi chủ yếu là các gam trầm, một màu
không pha chế thể hiện sự kín đáo, đoan trang của người thiếu nữ.

Áo dài trải qua nhiều giai đoạn phát triển và cải biên để hiện
hữu chính thức hoàn hảo vào những năm của thập niên 2000. Nhìn
chung vẫn trên nền kiểu dáng cũ, tuy nhiên áo dài thời nay trông
chỉn chu đến từng đường may, kỹ lưỡng đến từng tiểu tiết trang trí
nhỏ làm sao để người mặc thấy hài lòng, ưng ý nhất, cổ áo cách
điệu theo nhiều dáng như cổ cao 3 phân, cổ tim, cổ thuyền tròn, cổ
yếm... Vạt và đuôi áo may ngắn hoặc dài, hàng khuy lượn trước
ngực cũng “lúc ẩn lúc hiện” tùy theo sở thích cũng như ý tưởng
sáng tạo của các nhà thiết kế.
Chất liệu để làm áo dài ngày càng trở nên phong phú, từ các
loại gấm, nhung, tơ lụa đến satin, voan... Thêu máy được phổ biến,
bên cạnh đó vẫn còn cách thêu tay truyền thống, công nghệ cắt
ráp tạo ra rất nhiều kiểu mẫu hoa văn độc đáo trên áo dài. Áo dài
thực chất chỉ gồm hai phần chính là phần thân áo và chiếc quần
dài phủ kín đôi chân. Tạo dáng áo và trang trí toàn thân áo là quan
trọng nhất nhưng chính chiếc quần lại là điểm chốt quan trọng,
làm cho áo dài khác biệt với bất cứ loại trang phục nào.
Không có một qui chuẩn cụ thể, áo dài phóng khoáng với
nhiều dáng người. Bất cứ ai cũng đều mặc được áo dài. Áo dài Việt
đẹp ở chính sự giản đơn và tinh tế. Áo dài Việt kín đáo mà đầy gợi
cảm. Những đường cong quyến rũ đủ sức níu kéo mọi ánh nhìn.
Khoác lên người chiếc áo dài là bạn khoác lên cả sự tinh hoa của
15


nền văn hóa đã được gìn giữ, truyền thụ lại.Theo chân nhiều người
đẹp ra nước ngoài, đến với bạn bè năm châu qua các cuộc thi hoặc
16

-


-

gửi gắm tĩnh cảm của những người con xa xứ, đâu đâu cũng thấp
thoáng tà áo dài bay bay.
Cùng là con cháu đất tổ, cùng uống chung dòng máu nhưng
suốt dọc dài đất nước, qua mỗi vùng quê áo dài lại phản ánh một
cá tính riêng. Người Hà Nội mặc áo dài với đầy nét đoan trang đến
yêu kiều. Hĩnh ảnh các cô gái Huế kín đáo trong tà áo tím mộng
mơ làm rung động biết bao con tim. Hay cái sự hơi phá cách nhưng
không kém phần dịu dàng, đằm thắm thêu dệt nên ký ức người
dân miền Nam. Áo dài chính là hiện thân của nhiều sự kết tinh để
làm nên một "cái đẹp mỹ miều".
Nói đến áo dài người ta hay có một cái liên tưởng đến nét
đẹp cổ kính, xa xưa còn đọng lại. Hình ảnh áo dài cũng gắn liền với
quạt giấy, đài hoa sen hay chiếc nón lá. Con gái Việt mặc áo dài
với vẻ đẹp trắng trong và thuần khiết. Giữa bộn bề cuộc sống lo
toan và gồng gánh tuy nhiên áo dài vẫn là lễ phục quan trọng
trong các đám cưới, các dịp hội hè, lễ tết. Trẻ con Việt cũng háo
hức với áo dài như bao thứ đồ đắt tiền khác. Sự chuyển giao giữa
các thế hệ, sự cộng hưởng ở nét đẹp ngàn đời làm cho tà áo dài
Việt sống mãi với thời gian.
2.3 Các kiểu áo dài:
2.3.1. Áo dài nữ giới:
Thuở xưa phụ nữ Việt Nam từ Bắc xuống Nam đều mặc
váy. Đến ngày nay chiếc váy đó chỉ còn rải rác ở một số vùng đồng
bằng sông Hồng và vùng Thanh Nghệ. Chiếc áo dài đã trở thành
biểu tượng của phụ nữ Việt Nam.
Như lịch sử còn ghi lại cuộc chiến Trịnh - Nguyễn phân
tranh kéo dài gần 200 năm. Ở miền Bắc vua Lê chúa Trịnh trị vì, ở

Miền Nam các chúa Nguyễn miệng nói thuần phục nhà Lê song
thực chất họ đã lấy Phú Xuân làm thủ phủ của đằng trong để củng
cố địa vị cho sự nghiệp: “ Vạn đại dung thân”. Năm 1744 trong dân
16


gian miền Nam bỗng lưu truyền một câu sấm “ Bát đại thời hoàn
trung đô” (tức là ở lại kinh đô Thăng Long ngay). Câu sấm này làm
17

-

-

cho chúa Nguyễn Phúc Khoát giật mình. Triều thần của Nguyễn
Phúc Khoát đã họp bàn để tìm ra hướng giải quyết “ hoàn” Trung
Đô. Một thời gian sau các đại quan đã trình bày với chúa Nguyễn
rằng “ Muốn thực sự có một vương quốc mới để đổi mạng trời thì
phải thay đổi lễ nhac, thay đổi văn hoá”. Văn hoá đó là trang phục.
Và kể từ đó phân biệt với phụ nữ hai miền thì phụ nữ miền
Bắc mặc váy phụ nữ miền Nam mặc quần có đáy ( hai ống) như
đàn ông. Với con mắt phong kiến, võ vương thấy phụ nữ mặc quần
hai ống trông khêu gơi quá nên ông bèn cho triều thần nghiên cứu
tham khảo áo dài của người Chăm

( Giống áo ài Việt Nam ngày

nay nhưng không xẻ nách) và chiếc áo dài thượng Hải ( xẻ đến đầu
gối) để từ đó chế ra áo dài Việt Nam. Vì thế có thể coi chiếc áo dài
của người phụ nữ đầu tiên giống như chiếc áo dài của ngừời Chàm

nhưng có xẻ nách. Chiếc áo dài ngày nay hội tụ cả hai yếu tố của
phương Bắc và phương Nam tạo nên sự cân đối hài hoà.
Cho đến đầu thế kỷ XX, phần đông áo dài phụ nữ thành thị
đều may theo thể năm thân hay năm tà. Mỗi thân áo trước và sau
đều có hai tà, khâu lại với nhau dọc theo sống áo. Thêm vào đó là
tà thứ năm ở bên phải, trong thân trước. Tay áo may nối phía dưới
khuỷu tay. Sở dĩ áo phải nối thân và tay như thế là vì các loại vải
tốt như lụa, sa, gấm, đoạn... ngày xưa chỉ dệt được rộng nhất là 40
cm. Cổ, tay và thân trên áo thường ôm sát người, rồi tà áo may
rộng ra từ sườn đến gấu và không chiết eo. Gấu áo may võng, vạt
rất rộng, trung bình là 80 cm ở gấu, cổ áo chỉ cao khoảng 2-3 cm.
Trong thập niên từ 1930 đến 1940, cách may áo dài vẫn
không thay đổi nhiều, nhưng phụ nữ thành thị bắt đầu dùng các
loại vải màu tươi, sáng hơn, được nhập khẩu từ châu Âu. Thời kỳ
này, gấu áo dài thường được may trên mắt cá chân khoảng 20cm.
Từ đây và tiếp tục cho đến gần cuối thế kỷ XX thiếu nữ khắp nơi
mặc quần trắng với áo dài. Quần đen dành cho những phụ nữ đã
17


lập gia đình. Một vài nhà tạo mẫu áo dài đã bắt đầu xuất hiện,
nhưng họ mới chỉ bỏ đi phần nối giữa sống áo vì vải của phương
18

-

-

Tây dệt có khổ rộng hơn vải ta. Tay áo vẫn may nối. Thời đó, Hà
Nội đã có các nhà may nổi tiếng như Cát Tường ở phố Hàng Da và

một số ở khu vực Hàng Trống, Hàng Bông. Năm 1939, nhà tạo mẫu
Cát Tường đã tung ra một kiểu áo mới có tên gọi là Le Mur mang
mẫu dáng rất Âu hoá, áo Le Mur vẫn giữ nguyên phần áo dài may,
không nối sống bên dưới, nhưng cổ áo khoét hình trái tim; có khi
áo được gắn thêm cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ; vai áo may
bồng, tay nối ở vai; khuy áo may dọc trên vai và sườn bên phải.
Vậy là áo Le Mur được xem là táo bạo và chỉ có giới nghệ sỹ hay ăn
chơi “thời thượng” lúc đó mới dám mặc. Nhưng chỉ đến khoảng
năm

1943

thì

loại

áo

này

đã

bị

lãng

quên.

Đến khoảng những năm 1950, sườn áo dài bắt đầu được may chiết
eo. Các nhà may lúc đó đã cắt áo lượn theo thân người. Thân áo

sau rộng hơn thân trước, đặc biệt là phần mông để áo ôm theo
thân dáng mà không cần chiết eo; vạt áo cắt hẹp hơn, cổ áo cao
lên trong khi gấu được hạ thấp xuống. Ngày nay, Việt Nam đã có
một lực lượng đông đảo các nhà tạo mẫu áo dài, với đủ các loại
chất liệu vải, họ vẫn luôn nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo đưa ra
những mẫu mốt mới...Chất liệu mới cho áo Dài được kết hợp từ
những tấm vải mẫu, thường được trang trí bằng những đường nét
thủ công hoặc thêu thùa. Song, cũng chỉ dừng lại ở việc thay đổi
chất vải và hoa văn trên áo dài còn về kiểu dáng vẫn phải giữ theo
“công thức” cũ, nghĩa là không khác gì nhiều với cái áo dài của
pho tượng Ngọc Nữ thế kỷ XVII.
2.3.2 Áo dài nam giới:
Có lẽ sẽ thật là thiếu sót nếu không đề cập tới trang phục áo
dài dành cho nam giới.
Theo nhà nghiên cứu Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi
với quần hai ống và khăn đội đầu cũng là một trang phục truyền
thống của phái nam. Tuy nhiên theo sắc dụ ban hành từ thời chúa
18


Nguyễn Vũ Vương thì sự quy định trang phục cho nam giới ít gò bó
và thông thoáng hơn. "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo
19

-

-

cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì
hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ mớ. Duy

đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc
thì cũng được" (trích sắc dụ này). Từ thập niên 1930 trở đi mới
xuất hiện áo dài nữ phục hai vạt, vậy về lý, áo dài nam phục hai
vạt cũng phải xuất hiện khoảng thời gian đó.
Một giả thuyết khác cho rằng từ khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát
ban hành sắc dụ về quốc phục đã xuất hiện lối ăn mặc theo cách
Việt Nam ở phái nam cho khác biệt với lối ăn mặc của người khách
trú. Cơ sở chính của cách tạo ra khác biệt là lối cài nút về bên trái
thay vì bên phải giống như người Hoa kiều (theo sách Việt Nam
Văn Hóa Sử, tác giả Đào Duy Anh ). Sự khác biệt thứ hai là trên
chất liệu vải (thường bằng the mỏng, và mặc ra ngoài áo bà ba
trắng, với phụ tùng lệ bộ kèm theo là khăn đóng (tức khăn vành
cho nam). Có thể ngay từ đầu, "quốc phục sơ khai" của nam giới
đã chỉ có hai vạt và được biến cách trên chiếc áo Tàu "nhà Thanh":
dài gần tới gối và có đường xẻ hai bên từ hông trở xuống. Đến thập
kỷ 1930 khi xuất hiện áo nữ với hai tà dài thì được thay đổi chút ít
cho gần gũi chiếc áo dài nữ phục.
Ngày nay, ta ít có dịp bắt gặp hình ảnh thanh niên mặc áo
dài, chỉ những người có tuổi trong trang phục áo dài truyền thống.
Ta có thể đưa ra lí do giải thích cho điều này: Phải chăng áo dài nữ
phục có quá trình hình thành và phát triển lâu hơn. Hơn nữa áo dài
nữ được quy định bởi văn bản pháp quy ( sắc dụ của chúa Nguyễn
Vũ Vương) và chuẩn mực ăn mặc rõ ràng hơn ( Chiếu quy định của
Minh Mạng về trang phục hoàn chỉnh của áo dài nữ phục). Do đó
khi nói tới áo dài người nước ngoài và người ngoài nước thường
nghĩ đến chiếc áo dài nữ giới.

19



2.3.3. Áo dài trẻ em
Trẻ em Việt Nam thường mặc áo dài trong dịp lễ tết, đám
20

-

-

cưới.Trang phục áo dài của các em thường có màu sáng như màu
đỏ,màu hồng,và thường đội khăn xếp tượng trưng cho sự trong
sáng,hồn nhiên.Qua đó muốn gửi gắm thông điệp về một cuộc
sống hạnh phục tươi đẹp.
2.3.4. Áo dài vào ngày lễ:
a, Áo dài trong ngày cưới:
Nhân dân ta mỗi khi nói đến ngày cưới vẫn thường cho rằng :
“Trăm năm mới có một lần” có lẽ do đó mà từ trước đến ngày nay
những bộ trang phục trong ngày cưới bao giờ cũng hết sức đặc
biệt.
Thời xưa bộ trang phục mà các co dâu mặc trong ngày cưới
cũng chính là trang phục các cô mặc trong ngày lễ hội cổ truyền
của dân tộc: Áo tứ thân, áo ngũ thân, áo dài.
Cho đến khi áo dài chính thức trở thành trang phục truyền
thống của Việt Nam thì trong ngày cưới cô dâu thường mặc áo dài
đỏ và trắng. Màu trắng biểu hiện sự tinh khiết cả về thể xác lẫn
tâm hồn, còn màu đỏ thể hiện ước mơ hai vợ chồng sẽ trăm năm
hạnh phúc, son sắc, thuỷ chung. Nhưng cho đến ngày nay áo dài
chỉ được thấy trong các đám hỏi, nạp tài, dạm ngõ. Còn trong các
ngày cưới chính thức các cô dâu thường chọn cho mình chiếc váy
âu cách tân sang trọng.
b, Áo dài trong tang lễ

Đối với người Việt Nam chọn trang phục để mặc trong tang lễ
là điều rất quan trọng.Vì không gian tang lễ khác hoàn toàn so với
các không gian khác. Đến tang lễ không chỉ là chia buồn với gia
đình người đã mất mà còn phải thể hiện sự tôn kính trân trọng đối
với người đã khuất. Từ xưa đến nay trang phục trong tang lễ là bộ
đồ xô gai. Tuy vậy áo dài vẫn được lựa chọn để mặc. Và một điểm
đáng chú ý ở đây nữa là áo dài phải là những người thân, hàng
xóm đến chia buồn cùng gia quyến.
20


2.4 Nét cách tân mới của áo dài ngày nay
Một vài nhà tạo mẫu áo dài bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn
21

-

-

này, nhưng gần như họ chỉ bỏ được phần nối giữa sống áo, vì vải
phương Tây dệt được khổ rộng hơn. Tay áo vẫn may nối. Nổi nhất
lúc ấy là nhà may Cát Tường ở phố Hàng Da, Hà Nội. Năm 1939
nhà tạo mẫu này tung ra một kiểu áo dài được ông Âu hóa. Áo Le
Mur vẫn giữ nguyên phần áo dài may không nối sống bên dưới.
Nhưng cổ áo khoét hình trái tim. Có khi áo được gắn thêm cổ bẻ và
một cái nơ ở trước cổ. Vai áo may bồng, tay nối ở vai. Khuy áo may
dọc trên vai và sườn bên phải. Nhưng kiểu áo này chỉ tồn tại đến
khoảng năm 1943.
Đến khoảng năm 1950, sườn áo dài bắt đầu được may có eo.
Các thợ may lúc đó đã khôn khéo cắt áo lượn theo thân người.

Thân áo sau rộng hơn thân áo trước, để áo ôm theo thân dáng mà
không cần chít eo. Vạt áo cắt hẹp hơn. Thân áo trong được cắt
ngắn dần từ giai đoạn này. cổ áo bắt đầu cao lên, trong khi gấu
được hạ thấp xuống.
Áo dài được thay đổi nhiều nhất trong thập kỷ 60, áo dài bắt
đầu được may chít eo, eo áo cắt cao lên. Gấu áo lúc này cắt thẳng
ngang và may dài gần đến mắt cá chân. Nhiều người sau đó còn
may áo dài với cổ khoét tròn. Đến gần cuối thập kỷ 60, áo dài mini
trở thành thời thượng.
Vạt áo may hẹp và ngắn, có khi đến đầu gối, áo may rộng
hơn, không chít eo nữa, nhưng vẫn giữ đường lượn theo thân thể.
cổ áo thấp xuống còn 3cm. Tay áo cũng được may rộng ra. Đặc
biệt trong khoảng thời gian này, vai áo dài bắt đầu được cắt
raglan để ngực và tay áo ôm hơn, nhãn ít, mà lại đỡ tốn vải. Tay áo
được nối với thân từ chéo vai. Quần may rất dài với gấu rộng đến
60cm và nhiều khi được lót hai ba lóp. Đến những năm 90, áo dài
đã trở lại, cầu kỳ hơn, thanh nhã hơn và bắt đầu được bạn bè Quốc
Tế nghĩ tới như là một biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam.
21


Từ đây tà áo dài hiện đại chính thức ra đời và vẫn giữ nguyên
nét đẹp ấy cho đến ngày nay, dù đã trải qua bao năm tháng chiến
22

-

-

tranh, áo dài vẫn là một biểu trưng của người phụ nữ Việt. Áo dài

còn trở nên đặc biệt khi một chiếc áo chỉ may riêng cho một người
và chỉ một người ấy mà thôi, không thể sản xuất đại trà, một khi
đã may thì may vừa khít với số đo riêng của từng người nên tuyệt
nhiên áo dài ôm sát cơ thể rất đẹp.Cho dù giờ đây người Việt
không còn mặc áo dài như một loại trang phục thường ngày như
trước đây, nhưng áo dài vẫn là một loại trang phục trang trọng để
mặc trong những dịp quan trọng, trong những bữa tiệc hay áo dài
đồng phục của một số công ty.
Đặc biệt nhất là vào dịp tết, khi mọi người tụ họp về gia đình
và trở về cội nguồn, thì tà áo dài lại trở nên một loại trang phục
mang nhiều nét dân tộc. Vì là trang phục đặc biệt in sâu dấu ấn
vào tâm trí người Việt, áo dài ngày càng được khuyến khích mặc
trong ngày tết.
Không cần quá cầu kỳ trong cách mặc áo dài, đối với phụ nữ
thì có thể may áo theo kiểu truyền thống, tà áo dài thướt tha mặc
với quần lụa. Ngày nay các nhà thiết kế áo dài nổi tiếng như Sĩ
Hoàng, Võ Việt Chung, Việt Hùng... vẫn sáng tạo ra những mẫu áo
dài cách điệu để phù hợp với giới ưẻ như áo dài tay ngắn, tà ngắn
và có thể mặc chung với quần jeans, quần ôm... Ngay cả nam giới
cũng khuyến khích mặc áo dài trong dịp này, điều này sẽ càng tôn
vinh lên nét đẹp truyền thống đáng ngưỡng mộ của người Việt.
Áo dài đang dần trở thành thời trang khi không chỉ người Việt
mới mặc áo dài, mà ngay cả các nhà thiết kế nồi tiếng thế giới
cũng đưa tà áo dài làm cảm hứng sáng tạo cho những bộ sưu tập
trên sàn diễn quốc tế của mình.
Trong bộ sưu tập mới nhất lấy cảm hứng từ Việt Nam, nhãn
hàng Emillio Pucci đã cho ra mắt những mẫu thiết kế hết sức hiện
đại và sang trọng, đặc biệt là in đậm hình ảnh của hai tà áo dài.
Đây là một bước tiến vô cùng quan trọng của áo dài Việt, khi được
22



thế giới đón nhận với một cách nhìn khác, dự báo áo dài sẽ trở
thành một biêu tượng của văn hóa và thời trang chứ không phải
chỉ là trang phục truyền thống

23

-

-

23


KẾT LUẬN
Là con người ai cũng biết nghiêng mình rung cảm trước cái
24

-

-

đẹp xuất phát từ thiên nhiên,cảnh vật,từ lòng người và trên hết có
lẽ là cái đẹp bắt nguồn từ chiều sâu văn hoá. Nói đến truyền thống
có rất nhiều điều cần phải bàn luận:lễ hội, ẩm thực,nghệ thuật dân
gian. Và không thể không kể đến trang phục truyền thống. Thật tự
hào khi được nói về chiếc áo dài Việt Nam, đại diện cho một nét
đẹp văn hóa, không chỉ đẹp về kiểu dáng và đường nét mà điều
quan trọng chiếc Áo dài ấy mang nhiều ý nghĩa kết tinh những nét

đẹp tinh hoa của dân tộc. Tất cả những tâm tư, suy nghĩ của con
người đều được cộng đồng hoá, biểu hiện rõ nét qua trang phục.
Đây chính là cốt lõi của truyền thống văn hoá.
Được tìm hiểu về trang phục truyền thống của dân tộc quả là
một điều thật thú vị, được biết về nguồn gốc lịch sử cùng với sự
phát triển từ xưa đến nay góp phần làm em có thêm nhiều sự hiểu
biết về trang phục truyền thống của Việt Nam. Từ đó luôn trân
trọng gìn giữ và phát huy nét đẹp của trang phục tryền thống ấy
để mang lại những nét đẹp tinh túy nhất trong con người Việt..

24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Việt Nam Văn Hóa Sử, tác giả Đào Duy Anh – Nhà xuất bản thế giới, 2014
25

-

-

2. Từ điển bách khoa phụ nữ Việt Nam (tác giả Huỳnh Thị Dung, Nguyễn Thu Hà,
Nhà xuất bản Phụ nữ, H. 2002)
3. Tân Sinh, "Đời sống mới", Ban vận động Đời sống mới 1947
4. Khái niệm Áo dài trên BKTT VN
5. Http://vannghethainguyen.vn/
6. Http://vnexpress.net/ao-dai-cach-tan

25



×