Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận Phong cách lãnh đạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.46 KB, 25 trang )

MỤC LỤC

MỤC LỤC..................................................................................................................... 1
PHẦN MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO..........................3
1. Khái niệm lãnh đạo............................................................................................3
2. Khái niệm phong cách lãnh đạo.........................................................................4
3. Phân loại phong cách lãnh đạo...........................................................................4
4. Vai trò của PCLĐ ở doanh nghiệp đối với xã hội...............................................7
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO CỦA MỘT SỐ NƯỚC. .9
1. Kinh nghiệm về phát huy yếu tố PCLĐ riêng trong DN ở một số nước.............9
2. PCLĐ của Lý Quang Diệu – Singapore...........................................................10
3. Đặc điểm phong cách lãnh đạo chung của các doanh nghiệp Việt Nam...........13
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO VIỆT NAM
..................................................................................................................................... 16
1. Giải pháp chung:..............................................................................................16
2. Đối với nhà lãnh đao:.......................................................................................17
KẾT LUẬN.................................................................................................................20

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, sau khi gia nhập
WTO. Như chúng ta đã thấy, doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều
thay đổi về kỹ thuật, công nghệ, đào tạo để theo kịp nền kinh tế hiện
đại. Tuy nhiên cũng cần phải có những tư duy mới trong công tác
lãnh đao - quản lý. Điều đó có nghĩa là người lãnh đạo - quản lý phải
là người có những suy nghĩ và tư tưởng mới khác với những quy định
cứng nhắc của cơ chế cũ dưới thời bao cấp.


Những nhà lãnh đạo - quản lý giỏi hiện nay phải là người có
những cái nhìn thực tế hơn về giá trị của họ đối với tổ chức mà họ
quản lý. Họ phải có một phong cách quản lý mới, hợp lý. Phong cách
lãnh đao hợp lý là phong cách mà ở đó người lãnh đạo vừa đáp ùng
được các nhu cầu khác nhau của người lao động, vừa phát huy được
sức mạnh cá nhân và tập thể người lao động trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh. Nhà quản trị thực hiện những mục tiêu nhân sự
này trong quá trình thực hiện vai trò lãnh đạo của mình trong tổ
chức. Vì vậy, lãnh đạo thành công hơn lúc nào hết trở thành vấn đề
mang tính sống còn. Đặc biệt trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay,
sau 20 năm đổi mới, những yếu tố mới về vấn đề động viên, về
phong cách lãnh đạo đã dần dần đi vào đời sống kinh tế xã hội.
Người lao động có nhiều lựa chọn hơn và trở nên nhạy cảm hơn đối
với phong cách lãnh đạo của tổ chức. Có thể khẳng định rằng, phong
cách lãnh đạo sẽ là một yếu tố quan trọng trong những yếu tố làm
nên sự thành công trong làm ăn của một doanh nghiệp.

2


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHONG CÁCH
LÃNH ĐẠO
1. Khái niệm lãnh đạo
Khái niệm truyền thống
Theo George R. Terry (1972), “Lãnh đạo là một hoạt động gây
ảnh hưởng đến con người nhằm phấn đấu một cách tự nguyện cho
mục tiêu của nhóm”. Robert Tannenbaum, Irving R. Weschler và Fred
Massarik (1961) định nghĩa lãnh đạo là “ảnh hưởng liên nhân cách
được thực hiện trong tình huống và được định hướng thông qua quá
trình giao tiếp nhằm đạt được những mục đích chuyên biệt”. Harold

Koontz và Cyril O’Donnell (1964) cho rằng “Lãnh đạo là sự gây ảnh
hưởng đến con người nhằm theo đuổi việc đạt được một mục đích
chung”.
Như vậy, phần lớn các tác giả đều thừa nhận “Lãnh đạo là một
quá trình gây ảnh hưởng đến các hoạt động của một cá nhân hay
một nhóm nhằm đạt được mục đích trong tình huống nhất định”.
Cần lưu ý rằng định nghĩa này không đề cập đến bất kỳ loại
hình tổ chức cá biệt nào. ở một tình huống bất kỳ trong đó một người
đang tìm cách gây ảnh hưởng đến hành vi của cá nhân khác hoặc
của một nhóm, thì đó là lãnh đạo. Cũng như vậy, khi định nghĩa trên
đề cập đến lãnh đạo và nhân viên thì không nêu hiểu rằng chúng ta
chỉ nói về thứ bậc như cấp trên (ông chủ) và cấp dưới. Bất cứ cá
nhân nào tìm cách gây ảnh hưởng đến hành vi của người khác, cá
nhân đó là người lãnh đạo tiềm ẩn, và người phụ thuộc vào sự cố
gắng gây ảnh hưởng đó là người tùy thuộc tiềm ẩn, dù cá nhân đó là
ông chủ, đồng sự, cấp dưới, một người bạn, một người bà con hay
một nhóm.
Khái niệm hiện đại

3


Theo Kevin Freiberge và Jackie Freiberge (1996), “lãnh đạo là
một mối quan hệ năng động dựa trên sự ảnh hưởng lẫn nhau và mục
đích chung giữa nhà lãnh đạo và các cộng sự, theo đó, họ đang đạt
tới một mức độ cao hơn về tính động viên và tinh thần làm việc trong
khi đang cùng thực thi sự thay đổi theo dự tính”.
Theo Joseph Rost (1991), “Lãnh đạo là mối quan hệ ảnh hưởng lẫn
nhau giữa nhà lãnh đạo và cộng sự - nhằm đạt tới những thay đổi
phản ánh mục đích chung của cả hai bên”.

Như vậy, định nghĩa này nhấn mạnh hơn đến khía cạnh “quan
hệ ” và “cộng sự”. Theo định nghĩa này, nhà lãnh đạo cũng chịu ảnh
hưởng của các cộng sự trong khi cùng làm việc để đạt mục tiêu
chung
2. Khái niệm phong cách lãnh đạo
Phong cách lãnh đạo là cách thức làm việc của nhà lãnh đạo, là
kết quả của mối quan hệ giữa cá nhân và sự kiện và biểu hiện bằng
công thức:
PCLĐ = Cá tính X môi trường
PCLĐ là kiểu hoạt động đặc thù của nhà lãnh đạo được hình
thành trên cơ sở kết hợp chặt chẽ và tác động qua lại biện chứng
giữa yếu tố tâm lý chủ quan của người lãnh đạo với yêu tố môi
trường xã hội trong hệ thống quản lý. Phong cách lãnh đạo phụ thuộc
nhiều nghề nghiệp, lĩnh vực cũng như môi trường hoạt động. Điều
quan trọng trong phong cách của người lãnh đạo là phải xây dựng
dựa trên bản chất, sự nhận thức và đạo đức của từng người, phù hợp
chung với những chuẩn mực của xã hội, tạo động lực tốt cho xã hội.
Phong cách lãnh đạo không tự nhiên có, mà phải được đào tạo một
cách bài bản. Một người lãnh đạo giỏi phải là một người có phong
cách lãnh đạo hợp lý, ở đó họ vừa đáp ứng được các nhu cầu khác
nhau của người lao động, vừa phát huy được sức mạnh cá nhân cũng

4


như sức mạnh của tập thể người lao động trong tổ chức của mình, để
đạt được mục tiêu cao nhất mà tổ chức đề ra
3. Phân loại phong cách lãnh đạo
PCLĐ độc đoán:



Tập trung mọi quyền lực vào tay một mình người lãnh đạo,
bằng ý chí của mình, trấn áp ý chí và sáng kiến của mọi thành
viên trong tập thể. Nhà lãnh đạo nói với các nhân viên chính
xác những gì họ muốn các nhân viên làm và làm ra sao mà




không kèm theo bất kỳ lời khuyên hay hướng dẫn nào cả
Nhân viên ít thích lãnh đạo.
Hiệu quả làm việc cao khi có mặt lãnh đạo, thấp khi không có



mặt lãnh đạo.
Không khí trong tổ chức: gây hấn, phụ thuộc vào định hướng
cá nhân
PCLĐ dân chủ:



Người lãnh đạo biết phân chia quyền lực quản lý của mình,
tranh thủ ý kiến cấp dưới, đưa họ tham gia vào việc khởi thảo



các quyết định.
Kiểu lãnh đạo này còn tạo ra những điều kiện thuận lợi để cho
những người cấp dưới được phát huy sáng kiến, tham gia vào

việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch, đồng thời tạo ra bầu





không khí tâm lý tích cực trong quá trình lãnh đạo.
Nhân viên thích lãnh đạo hơn
Không khí thân thiện, định hướng nhóm, định hướng nhiệm vụ
Năng suất cao, kể cả không có mặt của lãnh đạo.
PCLĐ ủy thác:



Với phong cách lãnh đạo này, nhà lãnh đạo sẽ cho phép các
nhân viên được quyền ra quyết định, nhưng nhà lãnh đạo vẫn



chịu trách nhiệm đối với những quyết định được đưa ra.
Phong cách lãnh đạo ủy thác được sử dụng khi các nhân viên
có khả năng phân tích tình huống và xác định những gì cần
làm và làm như thế nào. Bạn không thể ôm đồm tất cả mọi
5


công việc! Bạn phải đặt ra các thứ tự ưu tiên trong công việc




và uỷ thác một số nhiệm vụ nào đó.
Nhân Viên ít thích lãnh đạo.
Không khí trong tổ chức thân thiện, định hướng nhóm, định



hướng vui chơi.
Năng suất thấp, người lãnh đạo vắng mặt thường xuyên.
Phong cách lãnh đạo theo tình huống:
PCLĐ hướng dẫn:



Nhà lãnh đạo sẽ hướng dẫn nhân viên làm thế nào để hoàn
thành công việc, kiểm tra chặt chẽ hoạt động của nhân viên



và tự mình đưa ra hầu hết quyết định.
Đây là phong cách thích hợp nhất để quản lý nhân viên mới
vào nghề hoặc đối với những người thực hiện công việc không



tốt.
Tuy nhiên, nếu nhà quản lý chỉ sử dụng một phong cách này
thì sẽ trở thành tiểu tiết, độc đoán.
PCLĐ tư vấn




Nhà quản lý liên tục đưa ra các định hướng và buộc nhân viên
cùng tham gia giải quyết vấn đề và tham gia vào quá trình ra



quyết định.
Để thực hiện được điều này, cần lôi kéo ý kiến của nhân viên,
trả lời các câu hỏi được nêu ra và thể hiện sự hứng thú bàn
bạc công việc với từng cá nhân.
PCLĐ hỗ trợ



Phong cách này thích hợp khi nhân viên không còn là người
mới đối với công việc nhưng cũng chưa đủ khả năng hoặc sự




tự tin về khả năng thực hiện công việc của mình.
Di tìm phone cách lãnh đao riêns cho doanh nshiêp VỉêtNam
Anh ta đã có khả năng thực hiện một công việc được giao
nhưng còn thiếu tự tin.
PCLĐ Phân cấp hay ủy quyền

6





Theo phong cách này, nhà lãnh đạo là nơi để nhân viên nêu ra



những lo ngại và để bàn bạc về những khó khăn.
Tuy nhiên, thay vì giải quyết hộ, nhà lãnh đạo chỉ hỗ trợ họ.
Làm như vậy sẽ tăng cường tính độc lập và sự tự tin của nhân



viên.
Sử dụng đối với nhân viên có cả kỹ năng và sự tự tin trong việc



xử lý công việc.
Tuy nhiên, nếu bạn sử dụng phong cách này trước khi nhân
viên của bạn sẵn sàng cho công việc thì họ có thể sẽ cảm thấy



rằng, bạn đã bỏ rơi họ.
Vai trò của PCLĐ đối với doanh nghiệp Vai trò của PCLĐ trong
hoạt động quản lý
Lãnh đạo là một khía cạnh quan trọng trong quản lý, lãnh đạo

có hiệu quả là một trong những chìa khoá để trở thành một nhà quản
lý giỏi. Cũng như việc thực hiện những nhiệm vụ cốt yếu khác của
quản lý tức là việc thực hiện trọn vẹn việc quản lý - có một ý nghĩa

quan trọng để đảm bảo rằng một nhà quản lý có thể trở thành một
nhà lãnh đạo có hiệu quả. Các nhà quản lý phải thực hành tất cả các
yếu tố trong vai trò của họ để kết hợp nguồn nhân lực và vật lực
nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
Một cách khái quát, lãnh đạo được xác định như là sự tác động,
như một nghệ thuật, hay là một quá trình tác động đến con người
sao cho họ sẽ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu để đạt được các mục
tiêu của tổ chức. Một cách lý tưởng, mọi người cần được khuyến
khích để phát triển không chỉ sự tự nguyện làm việc còn làm việc với
sự sốt sắng và tin tưởng. Sự sốt sắng là sự nhiệt tình, nghiêm chỉnh
và chăm chú trong thực hiện công việc, sự tin tưởng thể hiện kinh
nghiệm và khả năng kỹ thuật.
Lãnh đạo là chỉ dẫn, điều khiển, ra lệnh và đi trước. Các nhà
lãnh đạo hành động để giúp một nhóm đạt được các mục tiêu với sự
vận dụng tối đa các khả năng của nhóm. Họ không đứng đằng sau
7


một nhóm để đẩy và thúc giục; họ đặt mình trước nhóm để tạo sự
tiến bộ và động viên nhóm hoàn thành các mục tiêu của tổ chức sản
xuất (doanh nghiệp).
PCLĐ góp phần tạo nên văn hoá của DN
Mỗi một doanh nghiệp ở một ngành nghề khác nhau thì thường
có những phong cách lãnh đạo khác nhau ở các cấp quản lý khác
nhau. Phong cách lãnh đạo này thường phụ thuộc vào môi trường
hay nét văn hóa được xây dựng bởi công công ty.
Nếu một doanh nghiệp nào đó mà cách quản lý của những
người đứng đầu tạo được ấn tượng tốt nơi người nhân viên thì dù sau
này người đó có trở thành người quản lý hay la người đó đi làm ở
doanh nghiệp khác thì họ vẫn bị ảnh hưởng ít nhiều hay ấn tượng về

phong cách lãnh đạo ở doanh nghiệp đó.
Khi nói đến văn hóa của doanh nghiệp thì không thể bỏ qua
cách quản lý ỏ doanh nghiệp đó bởi hai yếu tố này thường song hành
với nhau gắi bó và bổ sung lẫn nhau. Phong cách lãnh đạo tốt thì
cũnh giồng như văn hóa nó góp phần quảng bá cho thương hiệu của
doanh nghiệp . Ví dụ như : văn hóa FPT, văn hóa Mai Linh ....
4. Vai trò của PCLĐ ở doanh nghiệp đối với xã hội.
Mỗi một nền văn hóa thì thường chỉ thích hợp với một phong
cách lãnh đạo nhất định, bởi vậy khi mà một doanh nghiệp nào
muốn tới kinh doanh ở một nước khác thì họ phải nghiên cứu đặc
điểm văn hóa, con người, vùng miền mà họ định đến để có thể sử
dụng phong cách nào là thích hợp giúp cho quá trình kinh doanh đạt
hiệu quả tốt.
Chính vì phong cách lãnh ở mỗi chế độ xã hội là khác nhau nên
ta thường thấy người ta chia ta là phong cách lãnh đạo ở phương
Đông và phong cách lành đạo ở phương Tây để làm nổi bật vai trò
của phong cách lãnh đạo đối với xã hội.

8


Một phong cách lành đạo tốt thì nên được xã hội hóa để nhân
rộng, tuy nhiên để việc xã hội hóa này đạt hiệu quả cao thì chỉ nên
áp dụng phong cách lãnh đạo đó ở một số ngành nghề, tình huống
môi trường nhất định mà thôi.

9


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO

CỦA MỘT SỐ NƯỚC
1. Kinh nghiệm về phát huy yếu tố PCLĐ riêng trong DN ở
một số nước
Nhật Bản
Phong cách lãnh đạo được thừa nhận là độc đáo ở chỗ: Người
lãnh đạo luôn ý thức rằng, họ phải thiết lập các quan hệ không chính
thức với những người dưới quyền bằng thái độ ứng xử chân tình, gần
gũi, chan hòa, sự thiện cảm và đồng cảm ở người dưới quyền. Đối với
các nhà quản lý Nhật Bản, quan hệ gần gũi, thân mật với người dưới
quyền không phải là mục đích tự thân mà là một nhiệm vụ để qua đó
tạo được bầu không khí cởi mở, chân tình, tin cậy lẫn nhau trong tập
thể. Hơn thế nữa, nó là động lực khuyến khích mọi người đóng góp trí
tuệ, tài năng, sức lực vào công việc chung. Phong cách quản lý Nhật
Bản còn độc đáo ở cách thức khen thưởng và kỷ luật. Khen thưởng
không chỉ dành cho những ai có sáng kiến, đạt năng suất lao động
cao, mà cả những người làm việc chăm chỉ, cần mẫn, dù năng lực
của họ như thế nào. Khen thưởng phải có tác dụng khích lệ những
người dưới quyền dám làm những gì họ cho là đúng và hợp lý, không
ngồi chờ thụ động chỉ thị cấp trên. Nếu có điều gì không tốt xảy ra
thì ban quản trị cũng không mất công truy tìm, điều tra người phạm
lỗi (điều này khác hẳn so với phương pháp quản lý theo phương Tây).
Điều quan trọng của việc thực hiện các biện pháp kỷ luật của người
lãnh đạo với người dưới quyền không phải là tìm cho ra thủ phạm rồi
thi hành kỷ luật bằng phạt tiền, đuổi việc mà là tìm ra và làm rõ cho
mọi người hiểu rõ nguyên nhân sai lầm để rút ra kinh nghiệm. Khi
phê bình, người lãnh đạo Nhật Bản không bao giờ làm cho người mắc
khuyết điểm bị mất thể diện, phải lúng túng trước tập thể, trước :tổ
đội sản xuất... Họ thường trao đổi riêng với người phạm sai lầm theo
10



tình thần hai bên cùng chịu trách nhiệm, cùng nhau tìm cách tháo gỡ
những vướng mắc, những hậu quả nào đó. Vì vậy mà người mắc lỗi
sẽ không phải mặc cảm về mình như là "đồ bỏ đi", "vô dụng" chừng
nào người đó còn cố gắng vươn lên.
Qua phân tích ở trên, chúng ta có thể thay rằng việc áp dụng
một kiểu phong cách lãnh đạo nào đó trong hoạt động quản trị kinh
doanh không đơn giản là áp dụng nguyên bản một kiểu phong cách
nào đó trong thực tiễn sản xuất, kinh doanh mà đòi hỏi người quản
trì phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo để tìm ra kiểu phong
cách lãnh đạo thích hợp, tuỳ vào những điều kiện, tình huống cụ thể
của doanh nghiệp. Như vậy, áp dụng phong cách quản lý của những
nhà lãnh đạo các doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động quản trị
kinh doanh cũng phải tuân theo cách làm trên.
Mỹ: George Washington: Một doanh nhân có đạo đức
Ông không chỉ là một vị tướng quả cảm trên chiến trường. Sự
lãnh đạo, tầm nhìn và lòng dũng cảm của ông đã thống nhất được
một đất nước bị chia rẽ mạnh mẽ bởi chiến tranh và đưa Hoa Kỳ
bước vào con đường tiến tới sự vĩ đại. Trước những gian khó, ông vẫn
giữ được bản chất chân thật, kiên định, có nhân cách, ông còn là một
doanh nhân, một chủ trang trại mang tư tưởng đổi mới. Chẳng hạn
ông đã khởi xướng việc gây giống và sử dụng con la - một lọai thú lại
giữa 2 con khác lọai.
Nhà lãnh đạo muốn nuôi dưỡng và phát triển những ý tưởng
mới trong khi vẫn gìn giữ cốt cách kiên định cần phải dành nhiều thời
gian và tâm trí để học hỏi các ứng xử của George.
Abraham Lincoln: Nhà khuyến khích tài ba.
Thành công của Lincoln tạo dựng từ một tính cách đạ được tôi
luyện qua những trãi nghiệm, ông đã tự đặt mình vào vị trí của nguời
khác để hiểu được cảm nhận của họ. Khả năng đồng cảm này giúp


11


ông tập hợp các đối thủ của ông lại, tạo ra một nội các bất thường
nhất trong lịch sử và sắp xếp trọng trách theo tài năng của họ.
Lincoln là nhà lãnh đạo thông minh, có nhiều ý tưởng xuất
chúng và có đủ tư tin để đón nhận các đối thủ.
2. PCLĐ của Lý Quang Diệu – Singapore
Ông Lý Quang Diệu nổi tiếng khắp thế giới nhờ công đưa đất
nước nhỏ bé trở thành một trong các quốc gia giàu có trên thế giới
nhờ quan điểm kiên quyết không khoan nhượng.
Xuất phát từ một đầm lầy nghèo nàn, Singapore ngày ấy trong
mắt ông Lý Quang Diệu là "không có các yếu tố cơ bản làm nên một
quốc gia". "Chúng tôi không có dân tộc đồng nhất, ngôn ngữ, văn
hóa và vận mệnh chung" - ông nói trong cuộc phỏng vấn với
tờ International Herald Tribune năm 2006. Đã vậy, Singapore còn
thiếu thốn tài nguyên và nguồn cấp nước, khả năng phòng thủ rất
hạn chế.
Trong hơn ba thập kỷ cầm quyền, ông Lý Quang Diệu đã thể
hiện mình là nhà lãnh đạo xuất chúng với những quyết sách đầy tính
chiến lược nhằm tạo nên một quốc gia Singapore hùng mạnh về kinh
tế, một trung tâm tài chính và công nghệ cao lớn nhất khu vực, một
xã hội hiện đại-văn minh, một địa điểm an toàn và hấp dẫn các nhà
đầu tư đồng thời là nơi “đáng sống” của rất nhiều những cá nhân tài
năng từ khắp nơi trên thế giới.
Việc chọn tiếng Anh làm một trong bốn loại ngôn ngữ chính đã
giúp Singapore theo kịp đà phát triển của thế giới. Mặt khác, ông Lý
Quang Diệu còn tận dụng ngay bộ máy hành chính mà người Anh đã
xây dựng ở Singapore trong hơn 100 năm đô hộ nhằm tiếp thu mọi

“di sản” của một nền hành chính hiện đại.
Ảnh hưởng của ông Lý vượt ra ngoài biên giới của Singapore,
nước này là hình mẫu về phát triển kinh tế cho nhiều nước khác. Ông

12


Lý Quang Diệu nhận được sự tôn trọng của nhiều nhà lãnh đạo trên
thế giới, trong đó có cố lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình.
Trọng nhân tài và chống tham nhũng
Ông Lý Quang Diệu đưa ra các biện pháp nhằm loại trừ triệt để
tình trạng tham nhũng, đưa ra chương trình nhà ở giá thấp và kế
hoạch công nghiệp hóa nhằm tạo công ăn việc làm. Ngoài ra, ông
cũng nỗ lực phát triển đồng đều các nhóm sắc tộc đa dạng nhằm tạo
bản sắc Singapore độc đáo dựa trên nền tảng đa văn hóa.
Ông Lý Quang Diệu nói: “Sự sống còn của Singapore hoàn toàn
dựa vào sự liêm khiết và hiệu suất của các bộ trưởng và quan chức
cao cấp của Chính phủ”. Theo ông, muốn chống tham nhũng tốt và
muốn thu hút được nhân tài, quan chức chính phủ phải được trả
lương xứng đáng.
Có thể nói, chính sách xuyên suốt và quan trọng hàng đầu mà
ông Lý Quang Diệu áp dụng - và được các thế hệ lãnh đạo Singapore
kiên trì theo đuổi - chính là trọng dụng nhân tài.
Hiện nay, tiền lương của các bộ trưởng và thủ tướng Singapore
thuộc hàng cao nhất trên thế giới. Lương của Thủ tướng Singapore
khoảng 2,2 triệu USD một năm, cao hơn nhiều lần so với thủ tướng
Nhật và tổng thống Mỹ.
Thủ tướng vì dân
ông Lý Quang Diệu là hình mẫu của thủ tướng phục vụ nhân
dân.

Đó là nhà lãnh đạo đặt lợi ích của đất nước và nhân dân trước
lợi ích của bản thân. Ông luôn thể hiện sự quan tâm đến đời sống
của người dân, các tiêu chuẩn kinh tế, xã hội và giáo dục của đất
nước.
Khi ông Lý Quang Diệu lên nắm quyền vào năm 1959, đất nước
Singapore phải đối mặt với hàng loạt khó khăn lớn. Đó là tỉ lệ thất

13


nghiệp cao, người dân thiếu nhà trầm trọng, nạn tham nhũng hoành
hành. Ông Lý Quang Diệu và các quan chức chính phủ cùng lúc thực
hiện chương trình công nghiệp hóa, xây nhà giá rẻ và chống tham
nhũng.
Đến thập niên 1980, GNP bình quân đầu người Singapore tăng
hơn 10 lần lên 6.634 USD, tỉ lệ thất nghiệp xuống cực thấp và tỉ lệ
người dân có nhà ở tăng lên tới 81%.
Đến đầu những năm 2000, khoảng 90% người dân Singapore
đã có nhà. Nạn tham nhũng được xóa bỏ nhờ luật chống tham nhũng
và sự hiệu quả của Cục Điều tra tham nhũng (CPIB) mà giám đốc
trực tiếp dưới quyền điều hành của ông Lý Quang Diệu.
Đánh giá ông Lý Quang Diệu còn là nhà lãnh đạo luôn lắng
nghe người dân. Là thủ tướng, ông luôn tham khảo ý kiến của mọi
người dù bản thân ông là người ra quyết định cuối cùng.
Năm 1960, Chính phủ Singapore thành lập Hiệp hội nhân dân
(PA) để thúc đẩy sự hài hòa xã hội và sắc tộc. PA tạo không gian cho
mọi người dân Singapore gặp gỡ, trao đổi, đưa ra ý kiến. PA lập ra
nhiều ủy ban, trong đó có Ủy ban tham vấn công dân (CCC) để tạo
kênh kết nối giữa chính phủ và người dân.
Tiêu chuẩn đạo đức cao

Để trở thành một nhà lãnh đạo tài ba, một cá nhân cần phải có
tiêu chuẩn đạo đức cao để người dân noi theo. Và ông Lý Quang Diệu
là người có tiêu chuẩn đạo đức rất cao. Giá trị cốt lõi của ông Lý
Quang Diệu là “đặt lợi ích của xã hội lên trên lợi ích cá nhân”.
Điều ông Lý Quang Diệu tin tưởng là tầm quan trọng của tự do,
cuộc sống ấm no và hòa bình. Đó là nền tảng của đất nước
Singapore hiện nay.

14


Ông cũng là một người có kỷ luật sắt, xuất phát từ kinh nghiệm
tuổi thơ. Do đó ông đề ra các quy định pháp luật chặt chẽ và nghiêm
khắc. Nhờ đó, tỉ lệ tội phạm ở đất nước Singapore rất thấp.
Thành tích của ông Lý Quang Diệu ai cũng biết, tính cách của
ông thể hiện rõ ở việc Singapore là quốc gia rất trong sạch, không có
tham nhũng.
Ông cũng là người vô cùng kiên định với sự lựa chọn của chính
mình. Điều đó thể hiện ở 40 năm cầm quyền tại Singapore với các
nguyên tắc ít khi thay đổi. Và ông cũng có khả năng thích nghi cao,
thể hiện ở quãng thời gian khó khăn khi Nhật chiếm Singapore. Ông
chỉ có một điểm yếu là thiếu sự linh hoạt.
Ông Lý Quang Diệu thể hiện được rất nhiều đặc điểm của một
nhà lãnh đạo phi thường. Những thành công của ông cho thấy sự
chăm chỉ, tính bền bỉ và kỷ luật cao có thể giúp người ta đạt được
những gì. Lý Quang Diệu đã làm được những điều mà rất nhiều nhà
lãnh đạo thế giới chỉ dám mơ tới.
3. Đặc điểm phong cách lãnh đạo chung của các doanh
nghiệp Việt Nam
Đất nước ta hiện mới đang phát triển về kinh tế, các doanh

nghiệp đa phần còn nhỏ lẻ và yếu về mọi mặt so với nước ngoài.
Trong quá khứ nước ta lại phải chịu sự đè nén, ngu dân của thực dân
Pháp, rồi trải qua hai cuộc chiến tranh tàn phá. Nên có một điều
khẳng định là chưa bao giờ nước ta có một giới doanh nhân đủ mạnh
để tạo nên một nền văn hoá kinh doanh của riêng mình. Từ khi đất
nước được giải phóng (Cách mạng 8/1945),Các doanh nghiệp trong
nước đa số là doanh nghiệp nhà nước làm việc theo kế hoạch của
nhà nước đưa xuống. Đến nay, những doanh nghiệp này làm ăn
không nâng cao được hiệu quả kinh doanh của DN nhà nước; không
trở thành “thế lực” nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, mà trái

15


lại, tạo nên những nhóm độc quyền và lợi ích cục bộ trong nền kinh
tế. Do đó, Đảng và nhà nước ta tiến hành cổ phần hóa cho phép tư
nhân được tham gia sâu rộng hơn trong nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước.Bên cạnh đó các loại hình doanh nghiệp tư
nhân cũng phát triển mạnh mẽ cũng đóng góp một phần không nhỏ
vào sự phát triển của đất nước.Vì vậy, đặc điểm của doanh nghiệp
Việt Nam bao gồm những đặc điểm sau :
Những người được cử nắm giữ các vị trí quan trọng là người
thân tín của chủ nhân và họ thường được giao kiêm nhiều chức vụ
Khi khởi nghiệp, doanh nghiệp trong nước thường thuê người
quen biết trong gia đình làm việc cho doanh nghiệp vì thấy thuận
tiện chứ không phải là vì năng lực của người đó, nhưng cũng thông
thường những người này không phù hợp với công việc, và đặc biệt
rất khó kỷ luật và đuổi việc họ khi không đáp ứng được yêu cầu công
việc. Việc sử dụng người như thế này thường ảnh hưởng tiêu cực đến
những nhân viên khác trong công ty. Đều này tạo ra tâm lý bất mãn

cho những nhân viên có tài năng thật sự mà không được các nhà
lãnh đạo trọng dụng. Với đặc điểm này, đa phần các nhà lãnh đạo
làm việc theo tình cảm,họ thường có tâm lý đa nghi, độc đoán chỉ tin
vào những người thân quen mà chưa chú trọng lắm vào những nhân
viên không thân quen mà có tài năng có thể đóng góp cho sự phát
triển công ty.Đây được xem là phong cách lãnh đạo theo kiểu “gia
đình trị” rất nổi bật ở Việt Nam.
Bạn có thể tưởng tượng xem chuyện gì sẽ xảy ra khi người chủ
doanh nghiệp thuê một người chú ruột của mình làm Trưởng phòng
Tổ chức Hành chính.
Đa phần các doanh nghiệp Việt Nam thành lập trên cơ sở quen
biết, cùng nhau góp vốn để thành lập doanh nghiệp

16


Nhiều doanh nghiệp Việt Nam được thành lập trên cơ sở góp
vốn của nhiều thành viên trong doanh nghiệp nên các nhà lãnh đạo
thường chịu ảnh hưởng của các thành viên khác khi ra quyết định.Do
đó, mối quan hệ của các thành viên này ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển của doanh nghiệp. Mối quan hệ này tốt không có mâu
thuẫn nội bộ sẽ tạo tiền đề cho doanh nghiệp phát triển và ngược lại.
Phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của mỗi cá nhân làm trong
doanh nghiệp chưa rõ ràng.
Doanh nghiệp trong nước thường bị hạn chế rất nhiều trong
việc phân quyền cho các quản lý. Có nhiều doanh nghiệp khi ông/bà
chủ doanh nghiệp đi vắng (không có mặt tại văn phòng công ty), thì
mọi hoạt động bị ngưng trệ. Nên khi xảy ra những vấn đề rắc rối, thì
họ không biết qui trách nhiệm cho ai, và ai có quyền được giải quyết.
Cách giải quyết tốt nhất là phải có ai đó bị kết án để làm gương cho

người khác. Nhiều người cho việc giải quyết này là một sự hy sinh
hay tổn thất cần thiết cho sự phát triển của công ty. Từ đó tạo ra tâm
lý hoang mang,nhút nhát của nhà lãnh đạo nhất là nhà lãnh đạo cấp
trung là mình giải quyết như vậy là đúng chưa? Có bị sếp khiển trách
không?.... Mà không tự tin vào năng lực của mình. Hãy thử nhìn vào
một doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động hiệu quả tại Việt Nam,
họ sẵn sàng giao phó quyền hạn cho người Việt Nam về cả tài chính,
hoạt động. Vì sao vậy? Vì doanh nghiệp đó đã tạo dựng nên một hệ
thống, qui trình làm việc rất hiệu quả, kiểm soát chặt chẽ và tôn
trọng cao.
Đa phần các doanh nghiệp Việt Nam là các Doanh nghiệp vừa
và nhỏ nên bộ máy tổ chức thường ít có sự phân quyền như ở một số
doanh nghiệp lớn khác.Quyền lực trong công ty đa phần được tập
trung vào nhà lãnh đạo.

17


Cơ Cấu tổ chức phát triển theo sự thuận tiện nên các bộ phận
khác nhau trong một doanh nghiệp thường đứng riêng rẽ,sự liên lạc
hàng ngang giữa các bộ phận hầu như không có,mọi người nhận lệnh
thẳng từ ông hay bà giám đốc. Điều này dần dần tạo nên sự ghen tỵ
giữa các bộ phận vì có người làm không hết việc trong khi có người
ngồi chơi không. Thành ra trong doanh nghiệp các trưởng bộ phận
phải lấy lòng bằng cách hiểu ý và làm theo lệnh của nhà lãnh đạo.
Do đó, nhân viên trong doanh nghiệp ít có sáng kiến và trao dồi kỹ
năng làm việc của mình.

18



CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO
VIỆT NAM
1. Giải pháp chung:
Ngày nay, trong hoạt động kinh doanh không còn đất cho sự
tồn tại của một ông giám đốc chỉ biết ngồi chờ đợi khách hàng tới
mua bán mà không cần tính đến nhu cầu, nguyện vọng của họ. Và
cũng không còn những ông giám đốc chỉ biết ngồi ra lệnh và chờ đợi
cấp dưới tuân thủ. Bối cảnh mới của sự phát triển đất nước, nền kinh
tế thị trường đã đặt ra những yêu cầu mới đối với các doanh nghiệp
muốn thành công trong kinh doanh.
cần phải có những tư duy mới trong công tác lãnh đạo - quản lý
bên cạnh việc thay đổi về kỹ thuật, công nghệ, đào tạo. Điều đó có
nghĩa là người lãnh đạo - quản lý phải là người hoàn toàn khác với
những ông chủ tư bản trước kia điều khiển xí nghiệp bằng roi vọt, ra
những quyết định từ chiếc ghế, hay những vị giám đốc không dám
nghĩ, dám làm chỉ thụ động làm theo những quy định cứng nhắc của
cơ chế cũ dưới thời bao cấp.
chọn nhũng nhà lãnh đạo phù hợp, những nhà lãnh đạo - quản
lý giỏi hiện nay phải là người có những cái nhìn thực tế hom về giá trị
của họ đối với tổ chức mà họ quản lý. Họ phải có một phong cách
quản lý mới, hợp lý. Phong cách lãnh đạo hợp lý là phong cách mà ở
đó người lãnh đạo vừa đáp ùng được các nhu cầu khác nhau của
người lao động, vừa phát huy được sức mạnh cá nhân và tập thể
người lao động trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Có thể khẳng
định rằng, phong cách lãnh đạo sẽ là một yếu tố quan trọng trong
những yếu tố làm nên sự thành công trong làm ăn của một doanh
nghiệp.
Áp dụng phong cách quản lý của những nhà lãnh đạo các
doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động quản trị kinh doanh cũng

phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo để tìm ra kiểu phong

19


cách lãnh đạo thích hợp , chúng ta có thể thay rằng việc áp dụng
một kiểu phong cách lãnh đạo nào đó trong hoạt động quản trị kinh
doanh không đơn giản là áp dụng nguyên bản một kiểu phong cách
nào đó trong thực tiễn sản xuất, kinh doanh mà đòi hỏi người quản
trì phải linh động, tuỳ vào những điều kiện, tình huống cụ thể của
doanh nghiệp. Như vậy, phong cách lãnh đạo phù hợp với các đặc
điểm đặc thù của Việt Nam sẽ là phong cách lãnh đạo mà ở đó người
lãnh đạo phải có tính quyết đoán thể hiện qua các phẩm chất dám
nghe dám làm, dám chịu trách nhiệm, tự tin, ra được những quyết
đính kịp thời trong những tình huống khó khăn. Bên cạnh đó, người
lãnh đạo tạo ra được nhiều điều kiện thuận lợi để cấp dưới phát huy
hết năng lực, trí lực, óc sáng tạo, lòng nhiệt tình vào công việc, có hệ
thống chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật kịp thời, thích đáng nhằm
động viên người lao động phát huy mọi tiềm năng, ổn định tinh thần
và đảm bảo được cuộc sống
Phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm của các thành viên
công ty nên có sẵn bảng liệt kê những ưu, khuyết điểm của nhân
viên và của chính bản thân. Ai cũng có thể phạm sai lầm, nên đừng
vội phê bình nhân viên khi họ mắc lỗi mà hãy hỏi họ đã học được gì
từ sai lầm vừa phạm phải. Khai thác điểm mạnh, hạn chế và khắc
phục dần sự non kém của đội ngũ nhân viên sẽ giúp con đường đi
đến thành công của doanh nghiệp ngắn hơn.
Các luồng thông tin trong quản lý phải luôn được đảm bảo theo
các kênh từ trên xuống dưới, từ cấp dưới lên trên. Và một đặc điểm
phong cách lãnh đạo riêng, điểm quan trọng trong phong cách quản

lý này đó là phải tính tới những đặc điểm dân tộc, đạo đức, văn hoá
của người Việt Nam.
Có cơ chế quản trị hợp lý cho những người có cống hiến cho sự
phát triển của doanh nghiệp đều được tôn trọng và được hưởng lợi
ích vật chất xứng đáng với công sức mà họ bỏ ra, chế độ thưởng,

20


phạt hợp lý. Có như vậy mới động viên, khuyến khích tinh thần làm
việc, nâng cao năng suất và hiệu quả của công việc.
2. Đối với nhà lãnh đao:
Lãnh đạo bằng tính nhân văn
Chọn lựa và đào tạo các thành viên một cách hợp lý là một
trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà quản trị. Điều này
đòi hỏi không những kinh nghiệm kinh doanh thực thế mà cả tình
thương, sự nhạy cảm, tính rộng lượng hay nói gọn lại là tính nhân
văn Người lãnh đạo thành công nhất là người có tầm nhìn rộng rãi
bao trùm không chỉ những vấn đề về tài chính mà cả những kiến
thức văn hoá. Người lãnh đạo này phải nhận biết được những tài
năng đặc biệt của nhiêù người khác nhau và luôn tôn trọng những
nhu cầu của họ. Lãnh đạo ngày nay không còn là việc ra lệnh và
hướng dẫn mà mấu chốt là có được và sử dụng được khả năng
thuyết phục người khác. Nhân cách, hay uy tín chính là yếu tố tiên
quyết để xây dựng kỹ năng này
Không ngừng khẳng định năng lực xã hội. Khó khăn lớn nhất
đối với khả năng liên kết và giao tiếp của một nhà lãnh đạo cấp cao
nhất chính là một doanh nghiệp có sự liên kết và quan hệ nội bộ
phức tạp. Một nhà lãnh đạo tài giỏi phải là một người thành công
trong việc hợp nhất các yếu tố. Và kiểu lãnh đạo đó đòi hỏi phải có

năng lực về mặt xã hội
Năng lực về mặt xã hội là khả năng động viên, thấu hiểu nhiều
quan điểm khác nhau (thậm chí đối lập) và điều khiển một số kiểu cá
tính (và tình cảm). Những tiêu chí này là nền tảng cho tinh thần đồng
đội, cho sự bình đẳng trong một tổ chức thành công việc có được
một kiến thức rộng lớn, điều cho phép một nhà quản trị có một cái
nhìn đầy đủ và toàn diện hơn
Nhà lãnh đạo biết vận dụng một cách mềm dẻo các ưu thế của
từng kiểu phong cách lãnh đạo trong từng hoàn cảnh cụ thể, phải
biết xây dựng và phát triển phong cách của mình phù hợp với tổ
21


chức và xã hội.
Không có một phong cách lãnh đạo nào có hiệu quả tuyệt đối,
nên khi lựa chọn một phong cách lãnh đạo, nhà lãnh đạo phải nhạy
cảm với những nhân tố ảnh hưởng tới hành động của mình trong một
thời điểm nào đó, phải hiều về khả năng của mình, về mỗi cá nhân
mà mình lãnh đạo, về môi trường tổ chức và xã hội trong thời điểm
đó. Phải biết dựa vào sự nhạy cảm trên, để đưa ra cách lãnh đạo phù
hợp. Khi lựa chọn phong cách lãnh đạo, cũng phải tính tới những đặc
điểm văn hoá, dân tộc, đạo đức của đất nước.
Luôn nắm rõ về những điểm mạnh và điểm yếu của mình. Nỗ
lực để tối đa hóa các điểm mạnh và bù lấp cho các điểm yếu. Hiểu rõ
và điều chỉnh được phong cách chiếm ưu thế của mỗi người là một
chìa khóa để lãnh đạo hiệu quả.
Tuy nhiên, quan trọng hơn là khả năng nhận biết và hài hòa với
các phong cách lãnh đạo của người khác mà chúng ta làm việc cùng.
Luôn giữ một thái độ chuyên nghiệp công tư rõ rang, Thực hiện
quản lý công khai, cởi mở. Tất cả những tiêu chuẩn của công việc

phải được minh bạch hóa. Khi công khai tất cả những tiêu chuẩn này,
một mặt tạo động lực thúc đẩy mỗi cá nhân tự do sáng tạo, đổi mới
bản thân nhằm đạt năng suất cao nhất, mặt khác sẽ thuận lợi trong
việc đánh, giá quản lý nhân viên.
Nhà lãnh đạo cần có những quyết định rõ ràng, hợp lý nhưng
phải linh hoạt trong tất cà các trường hợp. Có như vậy mới thực sự
thuyết phục được nhân viên, khiến họ chấp hành mà không gây e\ra
bất mãn, lủng củng trong nôi bộ:
Đừng bao giờ đưa ra những quyết định cải tổ đột ngột đến nỗi
những người cộng sự của bạn cũng phải ngỡ ngàng. Tất cả mọi việc
nên tiến hành tuần tự và có những mốc thời gian nhất định cho tất
cả những biến đổi ở các khâu.
Điều này cho thấy mỗi khi cần thay đổi, người lãnh đạo phải
đặt mình vào những vị trí khác nhau của nhân viên. Khi hiểu được
những khó khăn áp lực của mỗi vị trí sẽ bố trí thời gian hợp lý và
22


nhân sự tương ứng.
Phải có lý do chính đáng cho bất kỳ sự thay đổi nào. Điều này
nhắc nhở người lãnh đạo khi đưa ra chương trình hành động nào
cũng cần cân nhắc một cách toàn diện những mặt lợi, hại, triển vọng
phát triển, phương án dự phòng. Chỉ khi xét đến các mặt như vậy,
người lãnh đạo mới thực sự tìm ra giải pháp cải thiện tình trạng hiện
tại.

Nếu lý do bạn đưa ra để thay đổi không thể thuyết phục mọi

người thì chắc chắn nó cần phải được làm lại. Hãy bắt đầu vạch kế
hoạch lần hai với những người đã đưa ra ý kiến phản biện sắc bén

nhất.
Luôn hướng tới thành công chung của doanh nghiệp. Điểm mấu
chốt trong tư tưởng hành động của mỗi nhà lãnh đạo chính là khao
khát mang lại lợi ích cho công ty chứ không chỉ là để gây dựng danh
tiếng cho bản thân mình. Đó là mục tiêu lợi nhuận chung và cũng là
mục đích thể hiện năng lực cá nhân của người cầm lái.
Lãnh đạo cần ý thức rõ ràng quyền lợi của mình cần gắn với
quyền lợi của công ty. Hiện nay việc khan hiếm quản lý cấp cao đã
khiến cho nhiều nhà lãnh đạo phải đánh trên nhiều mặt trận, vừa
điều hành vừa cố vấn cho nhiều doanh nghiệp, về ngắn hạn hay lâu
dài, tình trạng này cần thay đổi để người lãnh đạo tập trung hơn
trong lĩnh vực của mình. Chỉ khi người lãnh đạo gắn bó máu thịt và
toàn tâm toàn ý với sự phát triển của công ty mới tạo nên sức mạnh
nhất quán, một trong những yếu tố sống còn của doanh nghiệp.

23


KẾT LUẬN
Như vậy, có thể nói, phong cách lãnh đạo là một hiện tượng hoàn toàn cụ thể,
không lặp đi lặp lại ở người khác một cách đầy đủ với mọi chi tiết. Đó là nét độc đáo,
riêng biệt trong cách thức tiến hành công việc lãnh đạo. Phong cách lãnh đạo còn ảnh
hưởng tới uy tín của chính người lãnh đạo. Bởi vì phong cách lãnh đạo chính là sự bộc
lộ phẩm chất, năng lực được kết tinh trong hành vi hoạt động của nhà lãnh đạo có bản
lĩnh. Phong cách lãnh đạo do tổng thể những phẩm chất của người lãnh đạo quyết định
phần lớn. Việc phát triển những phẩm chất và năng lực lãnh đạo sẽ là tiền đề quyết
định hoàn thiện phong cách lãnh đạo. Rõ ràng phong cách lãnh đạo không tự phát hình
thành, nó là quá trình luôn luôn phát triển dưới tác động của những điều kiện khách
quan và chủ quan. Có quan niệm sai lầm cho rằng phong cách do bẩm sinh, con người
không cần rèn luyện mà cũng trỏ thành người lãnh đạo giỏi. Phong cách được hình

thành và phát triển do giáo dục, hoạt động cá nhân và rèn luyện. Mỗi nhà lãnh đạo phải
tự bồi dưỡng khả năng áp dụng linh hoạt và hợp lý hệ thống những phương pháp và
thủ thuật lãnh đạo được kiểm nghiệm qua hoạt động thực tiễn.
Như các yếu tố tâm lý xã hội khác, phong cách lãnh đạo của người quản lý là
sản phẩm của đời sống xã hội, nó phản ánh sự vận hành của xã hội, trong đó có cơ chế
quản lý.
Ở nước ta trước đây, trong xã hội phong kiến, phong cách lãnh đạo gia trưởng,
quyết đoán và mệnh lệnh là chủ yếu vì chế độ phong kiến là chế độ tập quyền. Trong
cơ chế tập trung bao cấp thì phong cách tập thể lại chiếm ưu thế và cơ chế này coi
trọng chủ nghĩa tập thể. Cơ chế quản lý mới hiện nay đòi hỏi nhà lãnh đạo phải có tính
quyết đoán, năng động và tinh thần dám chịu trách nhiệm cá nhân cao. Vì vậy, phong
cách lãnh đạo theo kiểu mệnh lệnh, quyết đoán đã và đang thay thế phong cách quản lý
tập thể. Sự chuyển biến này là một nhu cầu tất yếu phù hợp với nền kinh tế thị trường.
Nen kinh tế thị trường đòi hỏi người lãnh đạo phải có phong cách quyết đoán thể hiện
qua các phẩm chất tự tin, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Có ý kiến cho
rằng 94,4% nhà lãnh đạo phải có phẩm chất này.
Phong cách quyết đoán không trùng hợp về nội dung với phong cách độc đoán
và gia trưởng. Càn phải nói, từ sự quyết đoán, tự tin đến sự độc đoán gia trưởng chỉ có
một khoảng cách rất gần. Nếu người lãnh đạo không tỉnh táo, sáng suốt thì dễ trở
24


thành người độc đoán chuyên quyền.
Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang vận động và phát triển, cùng với
tốc độ phát triển của khoa học- kĩ thuật và nền kinh tế thị trường như hiện nay thì vấn
đề đặt ra ở đây là phong cách của các nhà lãnh đạo cần phải đổi mới liên tục, bởi
phong cách phụ thuộc một phần vào thời kì lịch sử và văn hóa dân tộc...Do vậy, mỗi
một môi trường khác nhau sẽ có những phong cách lãnh đạo khác nhau. Phải đổi mới
cách thức làm việc của nhà lãnh đạo để đưa tập thể của chính họ lên.


25


×