Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Truyền thông nâng cao nhận thức cho cộng đồng nghèo về vấn đề ô nhiễm môi trường tại xóm Trại, xã Nga My, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.62 KB, 24 trang )

Lý do chọn đề tài
Môi trường là một nhân tố vô cùng quan trọng trong cuộc sống của con người và tất
cả các sinh vật trên trái đất. Một môi trường trong lành, không ô nhiễm là một tiền đề
quan trọng cho sự phát triển toàn diện của con người. Tuy nhiên trong quá trình phát
triển của xã hội hiện nay thì ô nhiễm môi trường đang trở thành một vấn đề nóng bỏng
và nhức nhối trên toàn cầu chứ không riêng gì Việt Nam. Ô nhiễm môi trường đã,
đang và sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng cả về kinh tế, sức khỏe và mọi mặt của
đời sống con người. Những người nghèo, những cộng đồng nghèo lại chính là những
đối tượng chịu tác động nặng nề nhất từ tình trạng ô nhiễm môi trường này. Mặc dù,
hiện nay chưa có thống kê cụ thể về % số người phải chịu cảnh nghèo đói vì ô nhiễm
môi trường nhưng hầu hết mọi người đều biết, ô nhiễm môi trường là một trong các
nguyên nhân gây ra tình trạng nghèo đói. Người nghèo thường bị rơi vào vòng luẩn
quẩn của nghèo đói và thảm họa môi trường. Để giải quyết vấn đề nghèo nói chung và
vấn đề ô nhiễm môi trường- nguyên nhân của nghèo đói nói riêng là một công việc
không hề dễ dàng mà rất cần sự chung tay, góp sức của nhiều ban ngành, đoàn thể
khác nhau trong đó có ngành công tác xã hội, một ngành khoa học ứng dụng luôn
hướng tới những nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội trong đó có nhóm người nghèo.
Một trong những giải pháp quan trọng của công tác bảo vệ môi trường, ngăn chặn
nghèo đói cho các cộng đồng nghèo đó chính là công tác tuyên truyền, vận động nâng
cao nhận thức của người dân trong cộng đồng về vấn đề bảo vệ môi trường . Bởi lẽ
một trong những nguyên nhân hàng đầu của tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay
chính là từ nhận thức chưa cao của người dân về bảo vệ môi trường.
Từ những lý do trên mà em đã chọn đề tài: “Truyền thông nâng cao nhận thức cho
cộng đồng nghèo về vấn đề ô nhiễm môi trường tại xóm Trại, xã Nga My, huyện Phú
Bình, tỉnh Thái Nguyên” làm đề tài tiểu luận của mình.
Em xin cảm ơn Cô giáo (---) đã tận tình, giảng dạy giúp đỡ em hoàn thành bài tiểu lận
này. Trong quá trình nghiên cứu và trình bày bài không thể tránh khỏi những nhầm
lẫn, thiếu sót. Em rất mong nhận được sự nhận xét, đánh giá của cô để bài làm của em
được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo.



Phần 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề ô nhiễm môi
trường- nguyên nhân của nghèo đói
Một số khái niệm và những vấn đề liên quan tới công tác truyền
thông nâng cao nhận thức cho cộng đồng nghèo về bảo vệ môi
trường
1.1.1. Khái niệm nghèo
Quan niệm về nghèo trên thế giới:
Theo Tổ chức Liên hợp quốc (UN): “Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham gia
1.1.

hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ ăn, đủ mặc, không
được đi học, không được khám chữa bệnh, không có đất đai để trồng trọt hoặc không
có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có
nghĩa là không an toàn, không có quyền, và bị loại trừ, dễ bị bạo hành, phải sống trong
các điều kiện rủi ro, không tiếp cận được nước sạch và công trình vệ sinh”.
Bên cạnh đó, Liên Hợp Quốc cũng chia nghèo đói thành: “nghèo tuyệt đối” và “nghèo
tương đối”. Nghèo tuyệt đối là tình trạng của một bộ phận dân cư không có khả năng
thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống như nhu cầu ăn, mặc, ở, vệ
sinh, y tế, giáo dục. Nghèo tương đối là tình trạng của bộ phận dân cư có mức sống
dưới trung bình của cộng đồng nơi địa phương đang xét.
Tại hội nghị bàn về xoá đói giảm nghèo do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc Thái Lan
tháng 9- 1993 đã đưa ra khái niệm về nghèo đói như sau: Đói nghèo là tình trạng một
bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người
đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập
quán của các địa phương
Quan niệm về nghèo tại Việt Nam:
Qua nhiều cuộc khảo sát, nghiên cứu, khái niệm nghèo đói được công nhận phổ biến
là:



Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thỏa mãn một phần các nhu
cầu cơ bản của con người và có mức sống không ngang bằng với mức sống tối thiểu
của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Hiện nay Việt Nam đang tiếp cận vấn đề nghèo theo hướng nghèo đa chiều: Tiêu chí
tiếp cận đo lường nghèo đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 gồm tiêu chí về
thu nhập, mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản.
Tiêu chí về thu nhập, chuẩn nghèo ở khu vực nông thôn là 700.000 đồng/người/tháng;
khu vực thành thị 900.000 đồng/người/tháng. Chuẩn cận nghèo khu vực nông thôn là
1.000.000 đồng/người/tháng; khu vực thành thị 1.300.000 đồng/người/tháng. Tiêu chí
mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản, bao gồm 5 dịch vụ: y tế, giáo dục,
nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin. Chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ
xã hội cơ bản gồm 10 chỉ số: Tiếp cận các dịch vụ y tế; BHYT; trình độ giáo dục của
người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân
đầu người; nguồn nước sinh hoạt; hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn
thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin.
Tựu chung lại ta có thể thấy: Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không đủ khả
năng tự đáp ứng các nhu cầu cơ bản của bản thân và gia đình cũng như không thể
hoặc gặp khó khăn trong việc tiếp cận, sử dụng các dịch vụ xã hội cơ bản.
1.1.2. Khái niệm người nghèo, cộng đồng nghèo
Khái niệm người nghèo: Ở Việt Nam, theo Bộ Lao động thương binh và xã hội, từ
năm 1993, một người được coi là nghèo khi anh ta không có đủ tiền mua 20 kg gạo ở
thành thị và 15kg gạo một tháng ở nông thôn. Những con số này sau đó tăng lên thành
25 và 20kg vào năm 1995 và đến năm 1997 thì ngưỡng 15 kg được đưa ra cho miền
núi. Năm 2001, những con số này bắt đầu được tính bằng tiền với mức 150.000 cho
thành thị và 100.000 cho nông thôn. Cho tới nay, tiêu chí đánh giá về người nghèo đã
có những thay đổi phù hợp với sự phát triển của kinh tế và xã hội.


Khái niệm cộng đồng nghèo: cộng đồng nghèo là tập hợp một bộ phận dân cư nghèo
cùng sinh sống trong một khu vực nhất định và tại khu vực đó người dân đang gặp

những khó khăn để tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
1.1.3. Đặc điểm của người nghèo
Đặc điểm tâm lý:
Do hoàn cảnh nghèo khó, người nghèo thường có mặc cảm cho thân phận của
mình. Người nghèo thường rụt rè, tự ti, ít tiếp xúc, phạm vi giao tiếp hẹp. Họ
thường không mạnh dạn tham gia vào các hoạt động mang tính tập thể, hoạt động
cộng đồng. Bị hạn chế bởi tính tự ti nên họ không dám vươn lên học hỏi những
kiến thức mới, hiện đại, từ đó dẫn đến hạn chế về khả năng nhận thức và kỹ năng
sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, người nghèo thường tổ chức sản xuất theo
thói quen, chưa biết mở mang ngành nghề và chưa có điều kiện tiếp xúc với thị
trường. Do đó sản xuất mang nặng tính tự cung, tự cấp.
Bên cạnh đó, người nghèo thường có tâm lý chán nản, buông xuôi, phó mặc cam
chịu số phận, thiếu nghị lực và sự cố gắng cần thiết để vươn lên làm chủ hoàn
cảnh, làm chủ cuộc đời mình. Họ có tâm lý bằng lòng với cuộc sống hiện tại,
chấp nhận cuộc sống nghèo khó, thiếu thốn.
Một bộ phận người nghèo có tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước,
của các cá nhân và tổ chức từ thiện, không có hoặc mất hẳn ý chí vươn lên.
Tuy nhiên, người nghèo cũng có những tiềm năng nhất định chỉ có điều chính họ
có nhận ra điều đó hay không và cơ hội để thể hiện và phát triển nó như thế nào
mà thôi. Chính sự mặc cảm, tự ti, người nghèo không nhận ra hết những giá trị và
tiềm năng sẵn có của mình và cũng chưa có môi trường thuận lợi để thể hiện và
bồi dưỡng những tiềm năng đó. Vì vậy, xã hội cần tạo môi trường thuận lợi cho
họ thể hiện tiềm năng của mình, nâng cao năng lực, xóa bỏ tâm lý mặc cảm tự ti
và nhân viên xã hội cần phát hiện cũng như khơi dậy những tiềm năng đó ở
người nghèo, giúp họ thoát nghèo,vươn lên trong cuộc sống.
Đặc điểm kinh tế:


Người và gia đình người nghèo có một đặc trưng cơ bản là kinh tế nghèo nàn,
thiếu thốn mọi bề. Có thể nói người nghèo không có tài sản nào đáng giá, càng

không có “của ăn, của để” để phòng khi “sa cơ lỡ vận” hoặc khi “trái nắng trở
trời”.
Nhà ở và các công trình phụ như nhà tắm, nhà vệ sinh thường rất tuềnh toàng,
không đảm bảo vệ sinh. Vì thế mà sức khỏe của họ cũng bị ảnh hưởng rất nhiều.
Người nghèo thường sử dụng vốn vào sản xuất nông nghiệp là chủ yếu hoặc là
những ngành nghề thủ công buôn bán nhỏ. Do vậy mà nhu cầu vốn thường mang
tính thời vụ.
Do không có điều kiện về kinh tế nên người nghèo thường ở rải rác ở những
vùng sâu, vùng xa. Họ thường tập trung ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới hải đảo, vùng bãi ngang ven biển, vùng dân tộc thiểu số. Đó là
những nơi có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt không thuận lợi cho việc làm ăn,
giao thông đi lại khó khăn, phong tục tập quán còn quá lạc hậu. Tất cả những cái
đó trở thành cái vòng trói vô hình, cột chặt cuộc sống và số phận của họ trong
nghèo đói và khó khăn không thoát ra được.
Đặc điểm về giáo dục:
Nhìn nhận một cách tổng thể thì trình độ học vấn của người nghèo rất thấp, số
năm đi học bình quân trên đầu người không cao, họ thiếu kiến thức phổ thông,
thiếu kỹ năng tư duy độc lập, sáng tạo.
Mặt khác, do người nghèo thường sống ở những nơi xa xôi, hẻo lánh, địa hình
hiểm trở, thiên nhiên khắc nghiệt nên ở những nơi đó rất thiếu các điều kiện cần
thiết cho học tập và giáo dục: trường lớp đơn sơ, trình độ giáo viên thấp, nội
dung giáo dục nghèo nàn, các phương tiện hỗ trợ cho giáo dục và học tập rất
thiếu thốn, đường đi lại khó khăn, vì thế mà người nghèo thường không mặn mà
lắm với chuyện học hành.
Những điều trên tạo ra cái vòng luẩn quẩn của nghèo đói, cuộc sống vất vả mưu
sinh, không có tiền đầu tư cho học tập, giao lưu…nên họ nghèo cả kiến thức,


nghèo cả vốn liếng xã hội vì vậy dần dần họ càng trở nên thiếu năng lực tháo gỡ
và thoát ra khỏi cuộc sống nghèo đói.

Đặc điểm về y tế, sức khỏe:
Người nghèo gặp nhiều khó khăn trong chăm sóc y tế và bảo vệ sức khỏe. Trạm y
tế, bệnh viện huyện, tỉnh xa xôi, chi phí tốn kém; điều kiện sinh hoạt thiếu thốn,
không đảm bảo vệ sinh; tập tục sinh hoạt, chữa bệnh lạc hậu, mê tín dị đoan là
những cản trở lớn đối với người nghèo trong chăm sóc y tế và bảo vệ sức khỏe.
Người nghèo thường ăn uống không đủ dinh dưỡng và đúng cách nên tình trạng
suy dinh dưỡng còn cao, khả năng lây truyền bệnh tật lớn, khả năng miễn dịch,
kháng bệnh còn thấp, sức khỏe nhanh chóng giảm sút.
Bên cạnh đó, môi trường sống của người nghèo vốn trước đây rất trong lành thì
nay do nhiều nguyên nhân khác nhau trong phát triển KTXH và do ý thức bảo vệ
môi trường kém nên đã làm cho môi trường nơi họ sống nhiều nơi bị ô nhiễm
nặng nề, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người dân và làm tăng nguy cơ
phát sinh và lây lan các loại dịch bệnh. Cũng chính vì môi trường ô nhiễm , ảnh
hưởng đến sức khỏe, gây ra nhiều bệnh tật nên người nghèo vốn đã thiếu thốn về
kinh tế, lại càng trở nên kiệt quệ hơn vì phải chạy chữa bệnh tật, làm cho tình
trạng nghèo đói trở nên tồi tệ hơn.
1.1.4. Khái nệm môi trường: Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật
chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời
sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. (Theo Ðiều 1, Luật
Bảo vệ Môi trường của Việt Nam).
1.1.5. Khái niệm ô nhiễm môi trường: Ô nhiễm môi trường là hiện tượng môi trường
tự nhiên bị bẩn, đồng thời các tính chất Vật lý, hóa học, sinh học của môi trường bị
thay đổi gây tác hại tới sức khỏe cũng như các mặt khác của đời sống con người và
các sinh vật khác. Ô nhiễm môi trường chủ yếu do hoạt động của con người gây ra.
Ngoài ra, ô nhiễm còn do một số hoạt động của tự nhiên khác có tác động tới môi
trường.


1.1.6. Khái niệm truyền thông: truyền thông là quá trình liên tục trao đổi thông tin, tư
tưởng, tình cảm… chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người nhằm

tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức tiến tới thay đổi hành vi và thái độ
phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân, của nhóm, của cộng đồng và xã hội.
1.1.7. Mối liên hệ giữa ô nhiễm môi trường và tình trạng nghèo: trước hết , chúng ta
có thể khẳng định rằng môi trường có vai trò, tác động to lớn đến cuộc sống của con
người và việc môi trường bị ô nhiễm đang có những ảnh hưởng rất tiêu cực đến sức
khỏe cũng như mọi mặt cuộc sống của chúng ta. Khi môi trường nước , không khí, đất
bị ô nhiễm làm cho sức khỏe con người bị ảnh hưởng nghiêm trọng, dễ mắc bệnh hơn
và sức khỏe cũng bị giảm sút hơn. Không khí bị ô nhiễm làm cho con người dễ mắc
phải các bệnh về đường hô hấp như hen suyễn, lao phổi hơn. Nguồn nước bị ô nhiếm
làm cho con người dễ mắc phải các bênh về đường tiêu hóa, bài tiết…. Một số nghiên
cứu cũng đã chỉ ra rằng, việc sống trong một môi trường bị ô nhiễm làm cho con
người dễ mắc phải các bênh về ung thư hơn. Và bệnh tật chính là một nguyên nhân
quan trọng đẩy con người vào tình cảnh nghèo hoặc nghèo thì lại càng nghèo thêm.Vì
họ phải chi trả rất nhiều tiền cho việc chữa trị của mình, đồng thời bệnh tật cũng làm
giảm hoặc mất đi khả năng lao động, tạo ra thu nhập của họ.
Bên cạnh việc đẩy con người vào cảnh bệnh tật thì ô nhiễm môi trường còn gây tác
động xấu đến con người qua một số các khiá cạnh khác như: ô nhiễm nguồn đất làm
suy thoái đất đai- nguồn sinh sống của các cư dân nông nghiệp hay ô nhiễm môi
trường gây ra những hiện tượng thời tiết cực đoan như: hạn hán, mưa lũ bất thường
làm phá hủy mùa màng, ảnh hưởng đến sản xuất , phá hủy nhà cửa , các công trình
xây dựng….và đó cũng chính là nguyên nhân đẩy con người vào cảnh nghèo đói.
Từ những ý trên mà ta có thể khẳng định được rằng ô nhiễm môi trường chính là một
nguyên nhân gián tiếp quan trọng dẫn tới hàng loạt các nguyên nhân trực tiếp đẩy con
người vào tình trạng nghèo. Vì thế mà để giảm nghèo được bền vững, hiệu quả thì
việc bảo vệ môi trường hay nâng cao nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường
là một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết trong bối cảnh hiện nay khi mà môi
trường sống của chúng ta đang bị ô nhiếm nghiêm trọng mà một trong những nguyên
nhân quan trọng là do ý thức bảo vệ môi trường của người dân là không cao.



1.1.8. Mối liên hệ giữa công tác truyền thông nâng cao nhận thức của người dân
về bảo vệ môi trường và giảm nghèo: khi nhận thức của người dân về bảo vệ bảo vệ
môi trường được nâng cao thì đồng nghĩa với việc tình trạng ô nhiễm môi trường cũng
được cải thiện và giải quyết. Từ đó những tác động , ảnh hưởng tiêu cực của ô nhiễm
môi trường đến tình trạng nghèo của người dân cũng được ngăn chặn và giải quyết.
Chính vì thế mà việc nâng cao nhận thức của cộng đồng nghèo về bảo vệ môi trường
cũng chính là phòng ngừa và giải quyết tình trạng đói nghèo
1.2. Tổng quan chung về vấn đề truyền thông nâng cao nhận thức cho cộng đồng
nghèo về bảo vệ môi trường
1.2.1.Thực trạng nghèo do ô nhiễm môi trường
Theo một nghiên cứu quy mô lớn được được công bố trên tạp chí y tế The Lancet, trên
toàn thế giới, cứ 6 ca chết yểu thì có một ca là do tiếp xúc với chất độc hại. Chi phí tài
chính cho các vấn đề liên quan đến phúc lợi liên quan đến ô nhiễm môi trường cũng
rất lớn, vào khoảng 4,6 nghìn tỷ USD/năm, tương ứng với 6,2% nền kinh tế toàn cầu.
Cũng theo kết quả nghiên cứu, người dân ở châu Á và châu phi bị tác động nhiều nhất
từ ô nhiễm môi trường. các nước nghèo cũng như những khu dân cư nghèo ở các nước
giàu hơn là đối tượng chính bị ảnh hưởng do ô nhiễm môi trường và người ta thì
không nhân ra rằng là ô nhiễm gây thiệt hại cho kinh tế. người bị ốm hay chết không
thể đóng góp cho nền kinh tế được, cũng như tạo nguồn kinh tế cho chính bản thân và
gia đình họ được.
“Mối quan hệ giữa ô nhiễm môi trường và nghèo đói rất rõ ràng”, ErnestoSanchezTrianna, chuyên gia môi trường hàng đầu tại Ngân hàng thế giới, nói: “Kiểm soát ô
nhiễm môi trường sẽ giúp chúng ta giải quyết nhiều vấn đề khác , từ biến đổi khí hậu
đến suy dinh dưỡng. Đó là những liên kết thiết yếu không thể bỏ qua”.(Theo Báo Tri
thức trực tuyến-Zing.vn, ngày 20/10/2017).
Nghèo đói của Việt Nam có nhiều nguyên nhân, song cần nhấn mạnh, có một phần
nguyên nhân quan trọng bởi sự cộng hưởng các nguy cơ rừng và tài nguyên cạn kiệt, ô
nhiễm đất, biển và các dòng sông, không khí, tình trạng khí hậu cực đoan gây khô
hạn, nhiễm mặn và ngập lụt đang gia tăng. Biến đổi khí hậu cực đoan gây bão lụt, phá



hủy nhà ở, đường sá, mất đất canh tác và thất bát mùa màng, trực tiếp làm giảm thu
nhập của người dân.
Mặc dù hiện nay chưa có con số thống kê chính xác về % số người phải chịu cảnh
nghèo đói vì ô nhiễm môi trường nhưng hầu hết mọi người đều biết, ô nhiễm môi
trường là một trong các nguyên nhân gây ra nghèo đói. ở Việt Nam tỷ lệ người nghèo
do môi trường tập trung chủ yếu ở vùng núi. Vùng Đồng bằng sông hồng, Đồng bằng
Sông cửu long và vùng ven biển tỷ lệ người nghèo môi trường không cao bằng miền
núi, nhưng tổng số người nghèo môi trường lại cao vì 2 vùng này rất đông dân. Người
nghèo thường bị rơi vòng luẩn quẩn của nghèo đói và thảm họa môi trường. họ chặt
phá rừng bừa bãi , chăn thả gia súc, gia cầm gây ô nhiễm trên các kênh rạch, đổ các
chất phế thải chưa qua xử lý ra đồng ruộng…
1.2.2. Quan điểm định hướng và các chương trình lớn

Chính phủ đã phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo theo
quyết định số 133/1998/QĐ - TTg bao gồm 9 dự án: đầu tư cơ sở hạ tầng và sắp xếp
lại dân cư; định canh định cư, di dân và kinh tế mới; hỗ trợ vùng đồng bào dân tộc khó
khăn; hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo. Bên cạnh đó chương trình 135
cũng được ra đời nhằm hỗ trợ cho các xã đặc biệt khó khăn phát triển kinh tế xã hội,
chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng.
Trong những năm qua Việt Nam đã đưa ra rất nhiều các giải pháp giảm nghèo phù hợp
với từng vùng đặc thù thông qua các chính sách, chương trình, dựa án cụ thể qua các
năm như: Chương trình mục tiêu quốc gia về Y tế; chương trình mục tiêu quốc gia về
giáo dục; các chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh, bền vững cho 61 huyện nghèo
trong cả nước…các chương trình , chính sách này có thể là tham gia trực tiếp vào
công cuộc giảm nghèo hoặc là đóng vai trò bổ trợ , cùng tham gia vào công cuộc này
CTMTQG GN giai đoạn 2006-2010 (theo Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày
05/02/2007 của Thủ tướng Chính phủ). Trong giai đoạn này, Bộ LĐ-TBXH tập trung
xây dựng 3 loại mô hình là: Giảm nghèo ở các vùng đặc thù, giảm nghèo liên kết giữa
người nghèo với doanh nghiệp, Giảm nghèo gắn với củng cố an ninh – quốc phòng.
Trong từng lĩnh vực giảm nghèo khác nhau thì cũng có các nhóm giải pháp và mô



hình giảm nghèo đặc thù riêng. Với khía cạnh nghèo về thu nhập thì các mô hình giảm
nghèo tập trung vào các tiểu dự án hỗ trợ sinh kế” hoặc “mô hình khuyến nông” kết
hợp giữa tập huấn, hướng dẫn sản xuất với hỗ trợ vật tư, con giống, công cụ sản xuất
cho hộ nghèo, nhóm hộ nghèo. Trong khía cạnh nghèo về giáo dục thì các mô hình
giảm nghèo tập trung vào các dự án hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho
trường học kết hợp với hỗ trợ đồ dùng, chi phí học tập cho học sinh nghèo và xây
dựng các mô hình trường dân tộc nội trú hay bán trú dân nuôi….Với các khía cạnh
của nghèo đói khác như nghèo về y tế, nghèo về tiếp cận thông tin cũng có các mô
hình xóa nghèo phù hợp.
Mô hình xã hội hóa công tác giảm nghèo là một mô hình quan trọng và đóng góp tích
cực vào việc huy động sự tham gia của các nguồn lực xã hội , các nguồn lực ngoài
Nhà Nước tham gia vào công cuộc giảm nghèo , phát triển Đất Nước.
Việt nam chúng ta được xem là một trong những quốc gia có tỷ lệ người nghèo giảm
nhanh, đạt được những thành tựu lớn trong công tác giảm nghèo. Theo Báo cáo của bộ
Lao động- Thương binh và Xã hội cho hay, so với chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn
2016-2020, cả nước còn hơn 2,33 triệu hộ nghòe( chiếm tỷ lệ 9,88% so với tổng số hộ
dân toàn quốc) và howm 1,23 triệu hộ cận nghèo( chiếm 5,22% so với tổng số dân).
Tuy nhiên Bộ trưởng Đào Ngọc Dung thừa nhận, đời sống của một bộ phận dân cư có
thu nhập sát ngưỡng nghèo cũng rất bấp bênh, chỉ cần gặp thiên tai, dịch bệnh là có
nguy cơ quay trở lại cảnh nghèo bất cứ lúc nào.
Tại hội nghị giảm nghèo bền vững toàn quốc diễn ra tại Hà Nội vào ngày 15/10/2016 ,
thủ tường Nguyễn Xuân Phúc đã lưu ý “ cần tính toán làm sao để môi trường sống của
người dân được an toàn, giảm bệnh tật nếu không chỉ một sự cố là người ta lại tái
nghèo thôi” ( Theo bài” Giảm nghèo bền vững toàn quốc: không đẻ sự cố môi trường
làm dân tái nghèo”, báo Thanh niên, ngày 16 tháng 10 năm 2016).
Cùng với đó, Tại Nghị quyết liên tịch giữa Hội Nông dân Việt Nam- bộ Tài nguyên và
Môi trường về việc phối hơp hành động bảo vệ môi trường và quản lý, sử dụng đất đai
đã đưa ra nội dung phối hợp : Đẩy mạnh các hoạt động giáo dục, truyền thông và

nâng cao nhận thức nhằm trang bị các kiến thức khoa học kỹ thuật, công nghệ về bảo
vệ môi trường. Gắn liền công tác bảo vệ môi trường, quản lý và sử dụng đất đai với


chương trình xóa đói giảm nghèo, với công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn.

Phần II. Công tác truyền thông nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường tại
xóm Trại, xã Nga My, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.
2.1.

Khái quát về xóm Trại

Nga My là một xã trung du miền núi nắm ở phía Tây Bắc của huyện Phú Bình, tỉnh
Thái Nguyên. Tổng diện tích tự nhiên là 913,5 hecta, có 2.435 hộ với 10.652 nhân
khẩu, 98% là dân tộc kinh. Nhân dân sống chủ yếu bằng nghề thuần nông cây lúa. Do
vậy tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn.
Xóm Trại nằm ở vị trí gần trung tâm của xã Nga My, cách ủy ban xã 1,5km.Với dân
số: 104 hộ với trên 400 nhân khẩu và diện tích khoảng 1km2. Nghề nghiệp chủ yếu
của bà con là nông nghiệp trồng lúa và chăn nuôi lợn. Bên cạnh đó xóm Trại còn là 1
trong những xóm của làng mộc mỹ nghệ An Châu.
2.2.

Thực trạng nghèo do ô nhiễm môi trường tại xóm Trại .

Nhờ những kết quả của quá trình phát triển kinh tế tại địa phương mà số hộ nghèo của
xóm đã được giảm đi đáng kể. Đa số các hộ nghèo đều làm trong lĩnh vực nông
nghiệp, thu nhập chủ yếu là từ nguồn trông trọt và chăn nuôi. Vì thế mà ô nhiễm môi
trường có những tác động đáng kể đến đời sống cũng như thu nhập của các hộ gia
đình này.

Trong tổng số hộ dân cư năm 2015 là 104 hộ, số hộ nghèo năm 2016 là 10 hộ, chiếm
9,52%, số hộ cận nghèo là 5 hộ. Đến năm 2017 số hộ nghèo đã giảm xuống còn 9 hộ,
chiếm 8,65 %, số hộ cận nghèo còn 4 hộ. Qua đây có thể thấy được những thành tựu
trong giảm nghèo của xã Nga My nói chung và xóm Trại nói riêng đã đạt những thành
công nhất định.Trong số 9 hộ nghèo của năm 2017 thì có đến 4 hộ là do nguyên nhân
bệnh tật và đa số các hộ nghèo và cận nghèo đều hạn chế trong việc đảm bảo vệ sinh
môi trường sống như: không có nhà vệ sinh đảm bảo, chất thải chăn nuôi không có nơi
xử lý…


2.3.

Thực trạng ô nhiễm môi trường tại Xóm Trại

Tình trạng ô nhiễm tập trung chủ yếu vào 2 khía cạnh đó là: ô nhiễm đồng ruộng do
bao bì thuốc trừ sâu, ô nhiễm môi trường do chất thải chăn nuôi và rác thải sinh hoạt.

-Bao bì thuốc bảo vệ thực vật vứt bừa bãi-

-Rác thải sinh hoạt vứt bừa bãi-


-ô nhiễm môi trường do nước thải chăn nuôiCó đến 90% số hộ dân của xóm Trại có chăn nuôi lợn, trong đó lại chỉ có khoảng 40%
số hộ là có xây hầm chứa chất thải bioga. Còn lại đa số chất thải chăn nuôi được xả
trực tiếp ra môi trường. Với số lượng lợn nuôi của mỗi hộ ngày càng tăng trong khi lai
chưa có phương án xử lý chất thải triệt để đã làm cho tình hình môi trường bị ô nhiễm
nghiêm trọng. Một số cánh đồng lúa, do bị nước thải chảy tràn ra qúa nhiều đã làm
cho lúa bị chết, kém phát triển, ảnh hưởng đến năng suất vụ mùa. Với một xóm mà
nguồn kinh tế của các hộ gia đình chủ yếu là nông nghiệp thì điều đó cũng đã có
những sự ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống của người dân nơi đây. Cùng với đó

nước thải chăn nuôi cũng tạo ra những môi hôi thối khó chịu, tạo điều kiện cho các
loại ký sinh trùng gây bệnh phát triển. Nước thải được thải trực tiếp ra môi trường,
ngầm dần vào đất, làm ô nhiễm nguồn nước, lại vô tình gây ra những căn bệnh liên
quan đến các độc tố trong nước gây ra.
Mặc dù ở các cánh đồng trong xóm đã được xây dựng bể đốt bao bì thuốc trừ sâu,
nhưng tình trạng vứt bừa bãi các bao bì thuốc bảo vệ thực vất vẫn còn rất phổ biến,
chúng được vứt rất nhiều tại các mương dẫn nước, trên các bờ ruộng , trên đường đi
ven đồng. Những chất độc hại còn lại trong các bao bì thuốc trừ sâu đó sẽ thấm dần
vào đất, vào nước, làm ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe
con người. Bên cạnh đó,những chất độc trong bao bì thuốc trừ sâu được vứt ven


đường đồng, tại các bãi cỏ sẽ rất nguy hiểm nếu trâu bò ăn phải- một tài sản to lớn của
người nông dân. Chính vì thế mà việc ngăn chặn việc xả bừa bãi bao bì thuốc bảo vệ
thực vật ra môi trường chính là một việc làm trong công tác phòng ngừa, bảo vệ sức
khỏe cho người dân. Phòng ngừa tình trạng rơi vào đói nghèo của người dân liên quan
đến bệnh tật.
Rác thải sinh hoạt là một trong những vấn đề phổ biến ở các vùng nông thôn hiện nay.
Và xóm Trại cũng không ngoại lệ. Hiện nay tình trạng rác thải sinh hoạt được vứt bừa
bãi ra đường, ra các đoạn kênh mương là rất phổ biến. Do trong xóm cũng chưa có bãi
xử lý rác tập trung nên hầu hết rác thải của nhà ai thì nhà đó tự xử lý. Và hầu hết là bà
con không hề biết đến cách phân loại rác thải sinh hoạt như thế nào mà tất cả các loại
rác sẽ được đổ chung vào một chỗ rồi đốt đi. Trong những lúc chờ được đốt thì rất
nhiều các đống rác đó đã phân hủy, thối rữa, nhất là trong tình trạng trời mưa. Và đó
lại trở thành những nơi phát triển của các loại mầm bệnh nguy hiểm.
Nhìn chung thì vấn đề môi trường bị ô nhiếm đã, đang và sẽ có những ảnh hưởng xấu
đến sức khỏe cũng như cuộc sống, thu nhập của người dân nơi đây. Khi mà các chất
thải đang được xả bừa bãi chính là mầm mống của bệnh tật, làm ảnh hưởng đến năng
suất, chất lượng mùa màng của người dân. Khi sức khỏe suy yếu, thu nhập chính từ
nông nghiệp bị ảnh hưởng thì người dân lại rất dễ rơi vào tình trạng nghèo. Chính vì

thế mà bảo vệ môi trường cũng là một biện pháp quan trọng trong việc phòng chống
nghèo.
2.4.

Nguyên nhân của thực trạng

Trước tiên đó là về vấn đề nhận thức: các cấp lãnh đạo và cả người dân đều chưa
nhận thức đầy đủ về tác động của ô nhiễm môi trường đến cuộc sống và mối liên hệ
của ô nhiễm môi trường đến tình trạng nghèo. Vì thế mà họ chưa có những sự quan
tâm đến tình trạng ô nhiễm môi trường cũng như giải quyết vấn đề ô nhiễm môi
trường trong quá trình thực hiện các giải pháp giải quyết, phòng ngừa đói nghèo.
Tiếp đó là sự nhận thức của người dân trong việc thực hiện các biện pháp bảo vệ môi
trường là rất hạn chế; người dân hầu như không biết cách phân loại rác thải như thế
nào cũng như cách xử lý phù hợp với mỗi loại rác thải .


Cùng với đó thì ý thức bảo vệ môi trường của người dân cũng rất thấp: Người dân vẫn
còn mang nặng tư tưởng “cha chung không ai khóc” hay “đèn nhà ai nhà nấy rạng”.
Môi trường là của chung, mình không bảo vệ thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến riêng
mình, nhà mình mình sạch là được rồi, còn ra đường là của chung ra sao thì mặc kệ..
Chính từ những nhận thức không đầy đủ của các cấp lãnh đạo nên các hoạt động tuyên
truyền, nâng cao nhận thức cho người dân về bảo vệ môi trường là còn rất hạn chế.
Hầu như ở xóm chưa hề có một chương trình phát thanh hay truyền thông nào về bảo
vệ môi trường hay mối liên hệ của ô nhiễm môi trường tới vấn đề nghèo.
Việc không có các bãi xử lý rác tập trung cũng là một nguyên nhân dẫn tới tình trạng
ô nhiễm môi trường tại xóm Trại hiện nay.
Chưa có quy chế về thu gom rác thải cũng như các chế tài xử lý với các hành vi vi
phạm nên tình trạng ô nhiễm môi trường tại xóm vẫn còn tồn tại và chưa thể giải
quyết.
Nhận thấy những tác động tiêu cực mạnh mẽ của ô nhiễm môi trường đến tình

trạng nghèo tại địa phương. Chính quyền Xã Nga My, trong thời gian gần đây đã
tiến hành một số những hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức cho người
dân về ô nhiễm môi trường, trong đó trọng điểm là xóm Trại, một trong những xóm
có tình trạng ô nhiễm môi trường nặng nề nhất trong xã. Sau đây là phúc trình một
buổi truyền thông được lồng ghép trong buổi sinh hoạt của Chi hội Phụ nữ xóm do
Nhân viên xã hội điều phối.
Phúc trình một buổi truyền thông nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường.
Buổi truyền thông này được lồng nghép vào buổi gặp mặt của Chi hội Phụ nữ để bàn
về kế hoạch cho ngày 20-10
Đối tượng: nhóm các chị em phụ nữ
Thời gian, địa điểm: ngày 19/10/2017 tại nhà văn hóa xóm Trại
Mục tiêu: nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường cũng như những tác động, ảnh
hưởng của ô nhiễm môi trường đến cuộc sống cũng như tình trạng nghèo.


Chị Lan( chi hội trưởng hội Phụ nữ): vừa nãy chúng ta cũng đã thống nhất nhất được
kế hoạch, chương trình, kế hoạch cho buổi lễ kỷ niệm chào mừng ngày 20-10 ngày
mai. Sau đây thì chị Mai, nhân viên xã hội sẽ chia sẻ với mọi người về một vấn đề mà
bà con mình đang rất quan tâm đó là vấn đề ô nhiễm môi trường.
Sv: vâng. em xin chào các cô, các chị ạ. Em là Mai, nhân viên xã hội tại xã ạ.(kỹ năng
giao tiếp ).
(mỉm cười) mai là ngày 20-10 rồi, ngày của những người phụ nữ, của các bà ,các cô,
các chị, mọi người có thấy vui. Có thấy háo hức khộng ạ?
(xôn xao….vui chứ, cả năm mới có một ngày mà…).
Hôm nay em rất vui khi được chia sẻ với mọi người về một chủ đề không mới, nhưng
lại rất quan trọng và đang được bà con mình quan tâm đó là vấn đề ô nhiễm môi
trường ạ. Chúng ta sẽ cùng nhau nhìn nhận, đánh giá lại xem tình trạng ô nhiễm môi
trường trong xóm mình đang diễn ra như thế nào , ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường
tới cuộc sống và liệu rằng có sợi dây lien hệ nào không giữa ô nhiễm môi trường và sự
nghèo đói.

Trước tiên em có một vài bức ảnh liên quan đến ô nhiễm môi trường mà chúng em đã
chụp được trong quá trình quan sát, đi thực địa ở đây ạ.( cho mọi người xem tranh).
Mọi người có nhận ra những bức ảnh này là chỗ nào không ạ?....xôn xao…có
chứ….cô Lê, cô có nhận ra những địa điểm trong các bức ảnh không ạ?( kỹ năng đạt
câu hỏi)
Cô Lê: có chứ…Đây này, cái này là cái đống rác ở chỗ góc ao hà ông Ngọ này, còn
đây là đoạn đầu mương gần nhà bà Lợi, toàn chai thuốc trừ sâu…..
Nhân viên xã hội: mọi người có thấy cô Lê đã nói đúng chưa ạ?( kỹ năng điều phối)
….đúng rồi, đúng rồi,…không trật đi đâu được….
Vâng. chính xác ạ. Đó chỉ là một số điểm đang ô nhiễm điển hình và nghiêm trọng
nhất mà chúng cháu đã chụp lại được thôi ạ. Vậy các cô, các chị có thấy cuộc sống
mình bị ảnh hưởng gì khi môi trường xung quanh mình bị ô nhiễm như thế không ạ?


Vâng. chị Lan ạ
Chị Lan: có chứ, ảnh hưởng nhiều chứ, nhà tôi cạnh cánh đồng mà nguồn nước thải
chăn nuôi được thải ra đó nên tôi biết, mùi khó chịu kinh khủng, nươc mương ngày
xưa trong xanh thì giờ đen ngòm, chả khi nào dám thò chân tay xuống rửa bao giờ
nữa. Không những thế, mấy năm nay, cứ hễ có mưa là nước thải đó lại bị tràn vào
ruộng có đợt còn làm chết cả lúa. Một số nhà cứ bờ mương, bờ ao nhà người ta mà đè
ra đổ rác nhà mình xuống đó , hôi thối lên hết cả….
Cô Cần: đúng đấy, một số nhà còn đem rác ra đổ ở ven đường để đốt, chó mèo lại tha
lung tung hết cả, không thì trời mưa, không kịp đốt rác đã thối lên hết cả….
Nhân viên xã hội: rất là cảm ơn những chia sẻ của các cô, các chị ạ. Chị Hoa, chị có
nhận thấy điều đó như mọi người vừa nói không ạ?(điều phối sự tham gia)
Chị Hoa: ừ thì đúng là như thế, nhưng mà những điều đó cũng vẫn chưa ảnh hưởng
trực tiếp, mọi người thấy vẫn có thể chung sống với điều đó ,mọi người vẫn chưa
lường hết được những hậu họa của sự ô nhiễm nên ắt hẳn là tình trạng này vẫn sẽ cứ
tiếp diễn thôi.
Cô Bình: thì tôi thấy ảnh hưởng thì cũng có đôi chút thôi mà.

Chị Hoa: bởi có rất nhiều hậu quả của nó mà mình chưa thấy hết thôi . chị có thấy
trên tivi ấy , người ta nói là rác thải làm ô nhiễm nước , gây ra bao nhiêu bệnh tật
không.
Nhân viên xã hội: rất là cảm ơn sự thảo luận, chia sẻ nhiệt tình của các cô, các chị.
Vâng, như chị Hoa đã nói đấy ạ. Những tác động của ô nhiễm môi trường nó cũng đến
dần dần, ngấm dần như thuốc ngủ ấy ạ. Chúng ta tưởng rằng không sao, nhưng chỉ khi
nào thuốc đủ ngấm thì chúng ta đã đi ngủ mãi mãi rồi ạ. Vì thế mà chúng ta cần có
những nhìn nhận đầy đủ, chắc chắn nhất về những tác động của ô nhiễm môi trường
tới sức khỏe cũng như cuộc sống của mình . Vì thế , giải quyết vấn nạn ô nhiễm môi
trường không chỉ là giải quyết những tác động trước mắt , mà còn là sự hòng ngừa cho
tương lai. Sau đây em xin được chia sẻ, cung cấp cho mọi người những bằng chứng
khoa học về tác động của tình trạng ô nhiễm môi trường tới cuộc sống của con người.


Trước tiên , đó là sự ảnh hưởng của sự ô nhiễm do bao bì thuốc bảo vệ thực vật .
những bao bì thuốc trừ sâu được bà con vứt rất nhiều ở các đoạn kênh mương, trên
đồng ruộng sẽ làm nguôn nước ô nhiễm ,nguồn nước ô nhiễm lại ngấm xuống đất, hòa
vào mạch nước ngầm, rồi lại được hút lên qua hệ thống các giếng khoan để phục vụ
nhu cầu sinh hoạt nên nguy cơ cao ảnh hưởng đến sức khỏe con người. một số bệnh
rất dễ gặp do sử dụng phải nguồn nước nhiễm độc bẩn như: bệnh về đường ruột, bệnh
giun sán, bệnh tả.. thì các chất phóng xạ, chất hóa học trong thuốc trừ sâu, thuốc bảo
vệ thực vật, chất diệt côn trùng…) hay kim loại nặng (Asen, Amoni, chì, thủy ngân…)
tồn dư trong nước cũng là nguyên nhân sâu xa gây nên nhiều căn bệnh cực kì nguy
hiểm như khối u, ung thư, sảy thai, dị tật bẩm sinh… Khi uống phải nguồn nước ô
nhiễm có chứa những chất này, tác động của nó không biểu hiện ngay trước mắt mà
ngấm dần vào cơ thể, để lại hậu quả khôn lường nếu sử dụng lâu dài. Vì thế mà mọi
người thường không nhận thấy những tác động này của sự ô nhiễm môi trường như
khi nãy chị Bình nói đấy ạ.
Tiếp đó là sự ảnh hưởng của sự ô nhiễm môi trường do rác thải sinh hoạt: ảnh hưởng
quan trọng nhất đó là sự ảnh hưởng tới sức khỏe , nguy cơ làm phát sinh, lan truyền

các mầm mống bệnh, nguy cơ mắc các bệnh về đường hô hấp khi chúng ta hít phải
những khí độc trong quá trình đốt rác………(nhân viên xã hội chia sẻ thêm một số
những tác động, ảnh hưởng khác và nhấn mạnh đến khía cạnh sức khỏe, thu nhập để
dẫn dắt vào sự tác động của ô nhiễm môi trường đến tình trạng nghèo)
Nhân viên xã hội: mọi người có gì còn chưa hiểu hay muốn chia sẻ thêm không ạ?
( đặt câu hỏi để thu nhận sự phản hồi)
Cô Huệ: tôi, tôi. Trước hết là rất cảm ơn những kiến thức quý báu mà cháu đã cung
cấp. nhân tiện đây tôi cũng muốn nói với mọi người là. Đừng có bao giờ vứt chai
thuôc trừ sâu bằng thủy tinh xuống mương, không thì rất là nguy hiểm luôn. Hôm
trước bà chị tôi lội xuống mương, bị mảnh vỡ chai cắt vào chân, chủ quan nghĩ không
sao, không ngờ mấy hôm sau bị sưng tấy lên, đi khám người ta mới nói là bị nhiễm
uốn ván..thế có chết không. Thế nên những tác hại lâu dài của bao bì thuốc trừ sâu
thì đã rõ nhưng những tác hại đến sức khỏe, thậm chí là tính mạng của con người ngay
trước mắt như tôi vừa kể xin mọi người cũng để tâm cho.


Xôn xao….đúng thế….ai lại làm thế không biết nữa…thật là…
Nhân viên xã hội: chắc hẳn là sau những gì cháu vừa cung cấp và cô Huệ vừa chia sẻ
thì mọi người cũng đã thấy được những tác động của ô nhiễm môi trường tới cuộc
sống của mình như thế nào ngay trước mắt và cả lâu dài như thế nào đúng không ạ?
(đánh giá quá trình cung cấp kiến thức của mình)
Và bây giờ em xin được chia sẻ một vấn đề mà chắc hẳn đa số mọi người đều không
để ý đến đó là ô nhiễm môi trường- sợi dây liên hệ với tình trạng nghèo. Vậy ai đó có
thể chia sẻ về những nguyên nhân của sự đói nghèo không ạ?
Chị Lan: là chi hội trưởng chi hội Phụ nữ, cũng có cơ hội được tham gia vào các cuộc
rà soát, điều tra hộ nghèo trong xóm nên tôi cũng nhận thấy được một số các nguyên
nhân nghèo củ các hộ dân trong xóm như: bênh tật, đông con, không có vốn sản xuất,
tai nạn, mất mùa…
Nhân viên xã hội: cảm ơn những ý kiến chia sẻ của chị ạ, có ai có ý kiến gì muốn chia
sẻ không ạ?

Chị Lý: vâng, là một hộ nghèo nên tôi rất thấm thía về nó, với gia đình tôi thì bệnh tật
chính là nguyên nhân đẩy gia đình tôi vào cái nghèo như bây giờ. Từ ngày chồng em
bị bệnh thận, phải chạy thận, thế là tiền của cứ thế đội nón ra đi, lao động chính là
chồng em thì cũng không thể đi làm việc nặng nữa. Đúng là khổ các chị ạ
Nhân viên xã hội: em rất là cảm thông với hoàn cảnh của chị ạ. ( kỹ năng thấu
cảm).Qua câu chuyện của chị chắc hẳn là mọi người cũng thấy được rằng bệnh tật
không những mang đến những mất mát to lớn về sức khỏe cũng như tinh thần mà
cũng chính là nguyên nhân đẩy các hộ gia đình vào cảnh nghèo hoặc nghèo lại càng
nghèo thêm. Như lúc nãy chúng ta đã khẳng định với nhau rằng ô nhiễm môi trường
làm cho con người rất dễ mắc phải các loại bệnh tật nguy hiểm. mà bệnh tật lại chính
là nguyên nhân của nghèo. Vì thế mà ô nhiễm môi trường chính là nguyên nhân gián
tiếp gây ra cái nghèo cho con người. Môi trường và nghèo đói , hai vấn đề tưởng
chừng không liên quan gì đến nhau lại luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau vậy đấy
ạ.


Vậy là để có thể đảm bảo một cuộc sống tươi đẹp vững bền, phòng ngừa tình trạng đói
nghèo thì bảo vệ môi trường chính là một công việc quan trọng mà chúng ta cần quan
tâm, đẩy mạnh hành động nhất là với xóm Trại chúng ta, khi mà vấn đề ô nhiễm môi
trường đang ở mức độ ngày càng nghiêm trọng , và đang có những ảnh hưởng lớn đến
sức khỏe cũng như cuộc sống của bà con.
Với vai trò là người tiên phong, rất mong các cô ,các chị sẽ luôn là những nhân tố tích
cực, những người luôn noi gương, tuyên truyền, vận động mọi người xung quanh cùng
chung tay bảo vệ môi trường, ngăn ngừa tình trạng nghèo đói và cũng chính là bảo vệ
cuộc sống của mình. (kỹ năng khuyến khích sự tham gia).Với thông điệp Bảo vệ môi
trường, bảo vệ cuộc sống của chính mình, hãy cùng chung tay hành động . Hi vọng
rằng xóm Trại sẽ ngày càng xanh,sạch, phát triển bền vững hơn nữa.(đưa ra thông điệp
truyền thông)
Xin cảm ơn tất cả mọi người ạ…….
Phân tích kỹ năng: nhân viên xã hội đã thực hiện được một số những những kỹ

năng , kỹ thuật để phục tốt cho kỹ năng truyền thông của mình như: kỹ năng giao tiếp:
sử dụng ngôn từ ngắn gọn, dễ hiểu phù hợp với trình độ của đối tượng nghe; kỹ năng
điều phối khi mọi người chia sẻ, đưa ra ý kiến ; kỹ năng thấu cảm ; kỹ năng đặt câu
hỏi; sử dụng các hình ảnh trực quan để trình bày vấn đề, kỹ năng khuyến khích sự
tham gia
Nhân viên xã hội cũng đã thực hiện tốt một số yêu cầu cơ bản của quá trình truyền
thông như: đưa ra được nội dung, mục đích của buổi truyền thông. Đưa ra được thông
điệp truyền thông, có sự đưa ra thông tin và nhận phản hồi.

Phần 3. Đề xuất, khuyến nghị
3.1. Với Đảng và Nhà Nước: có sự đầu tư hơn nữa cho các chương trình giảm nghèo,
tập trung cho các địa phương nghèo, các địa bàn mà kinh tế- xã hội còn gặp nhiều khó
khăn.
Cần có sự đầu tư thích đáng cho công tác bảo vệ môi trường đảm bảo phát triển kinh
tế luôn song song với phát triển xã hội, bảo vệ môi trường.


Tạo điều kiện tốt nhất cho các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam. Đồng thời tận
dụng, khai thác hiệu quả nguồn lực to lớn này cho công tác giảm nghèo cũng như bảo
vệ môi trường, một giải pháp quan trọng ngăn chặn tình trạng đói nghèo.
3.2. Với chính quyền xã Nga my:
Có những sự quan tâm đầu tư hơn nữa trong công tác bảo vệ môi trường cũng như
công tác truyền thông về bảo vệ môi trường
Đảm bảo môi trường sống sạch sẽ , không ô nhiễm cho người dân , đặc biệt là những
hộ gia đình nghèo. Có những hỗ trợ cần thiết cho các hộ gia đình nghèo để họ có kinh
phí thực hiện các biện pháp giữ gìn môi trường sống như: xây bể chứa bioga, xây
dựng nhà vệ sinh , lắp đặt hệ thống nước sạch…
Đẩy mạnh công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho người dân, nhất là thế hệ
trẻ, thế hệ học sinh trong các trường học.
Xã hôi hóa công tác giảm nghèo cũng như bảo vệ môi trường nói chung. Huy động,

khuyến khích sự tham gia tích cực của tất cả các ban ngành, tổ chức, đoàn thể tại địa
phương.
3.3. Với ngành công tác xã hội:
Quan tâm giải quyết các vấn đề của cộng đồng nghèo một cách toàn diện. Đảm bảo tất
cả các nguyên nhân cả trực tiếp lẫn gián tiếp của nghèo đói đều được phát hiện, giải
quyết , trong đó có vấn đề ô nhiễm môi trường.
Đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ NVCTXH làm việc trong lĩnh vực công tác xã hội
với người nghèo, đặc biệt là nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở, những người
nắm rõ địa bàn cơ sở nhất.
Trang bị kỹ năng truyền thông cho NVCTXH một cách tốt nhất. vì các cộng đồng
nghèo thường tồn tại nhiều hạn chế trong vấn đề nhận thức, quan niệm cần phải được
truyền thông xóa bỏ.
Tăng cường các chương trình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giảm nghèo , trong các
dự án phát triển cộng đồng và trong các dự án hỗ trợ cho việc bảo vệ môi trường cho
cộng nghèo.


Khơi gợi , khai thác nội lực của chính cộng đồng vào việc giải quyết vấn đề; xây dựng
các công trình xử lý nước thải chăn nuôi, xây dựng điểm xử lý rác, hỗ trợ cho các gia
đình nghèo tiếp cận được các dịch vụ, biện pháp bảo vệ môi trường sống cho chính
họ, trong gia đình họ.
Phối kết hợp với các ban ngành địa phương triển khai các hoạt động truyền thông
mạnh mẽ hơn nữa bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú, cuốn hút được sự quan
tâm, tham gia của người dân.
3.4. Với nhân viên xã hội hoặc những người truyền thông không chuyên tại cơ sở.
Để thực hiện tốt công tác truyền thông trong nâng cao nhận thức cho người dân về các
nguyên nhân của nghèo đói trong đó có nguyên nhân do ô nhiễm môi trường, thì bên
cạnh những kiến thức chung về vấn đề nghèo, người nghèo thì nhân viên xã hội cũng
như những người làm công tác truyền thông tại cơ sở cũng phải nắm bắt được những
kiến thức về môi trường, về các tác động của môi trường đến cuộc sống con người nói

chung và nghèo đói nói riêng.
Cùng với đó thì kỹ năng truyền thông cũng rất là quan trọng như: kỹ năng giao tiếp,
truyền đạt, kỹ năng xây dựng nội dung truyền thông, kỹ năng điều phối, kêu gọi sự
tham gia và quan trọng là khi truyền thông người truyền thông phải sử dụng những
ngôn từ phù hợp, không quá xuồng xã nhưng cũng không được sử dụng thuật ngữ
chuyên ngành làm cho người nghe không thể hiểu được nội dung truyền thông.
Trong bất cứ công việc nào thì đạo đức nghề nghiệp cũng vô cùng quan trọng và với
những nhân viên xã hội thì lại càng quan trọng hơn, vì nhân viên xã hội là những
người làm việc, hỗ trợ giúp đỡ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp các đối tượng yếu thế
trong xã hội. Đặc biệt trong công tác xã hội với nghèo thì những nhân viên xã hội cần
phải có thái độ tôn trọng, không phán xét, không chê bai những người nghèo mà luôn
phải thực hiện tốt những vai trò của mình để giúp họ thoát nghèo, vươn lên trong
cuộc sống.
Vai trò truyền thông: NVCTXH sẽ tiến hành các hoạt động truyền thông nâng cao
nhận thức cho người dân và cả các cấp lãnh đạo về tình trang ô nhiễm môi trường
cũng như tác động, mối liên hệ của nó đến tình trạng nghèo. Các hình thức truyền
thông mà NVCTXH có thể tiến hành như: truyền thông trên loa phát thanh, truyên
thông qua các tài liệu, khẩu hiệu , pano, apphich…và các đối tượng truyền thông có


thể là một cá nhân, một nhóm , hay cả một cộng đồng thông qua các buổi chia sẻ, nói
chuyện…đây là một vai trò vô cùng quan trọng của NVCTXH. Vì nguyên nhân dẫn
tới tình trạng ô nhiễm môi trường xuất phát chủ yếu từ ý thức bảo vệ môi trường của
con người mà ra.
Một số vai trò quan trọng mà nhân viên xã hội thực hiện đó là:
Vai trò là người tạo sự thay đổi: đó chính là việc NVCTXH thực hiện các hoạt động
nhằm thay đổi nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường cũng như tác động của
ô nhiễm môi trường đến cuộc sống của họ.
Vai trò vận động nguồn lực: NVCTXH vận động trước tiên là nội lực của chính cọng
đồng, tiếp đó là các nguồn hỗ trợ từ các tổ chức, đơn vị khác.

Vai trò kết nối:trong bất cứ hoạt động nào của mình NVCTXH cũng cần có sự liên hệ,
kết nối với các tổ chức khác thì mới có thể cung cấp các dịch vụ, hỗ trợ cho người
nghèo, cộng đồng nghèo được một cách toàn diện nhất.
Vai trò biện hộ: biện hộ người nghèo nhận được nhưng chính sách, chương trình, sự
hỗ trợ phù hợp.
Vai trò vận động chính sách: : NVCTXH sẽ có những đề xuất , kiến nghị và tham
mưu với các cơ quan chức năng có thẩm quyền về bổ sung, chỉnh sửa hay ban hành
các chính sách liên quan đến giảm nghèo, giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường
cho các cộng đồng nghèo.

Kết luận
Người nghèo là một đối tượng yếu thế trong xã hội, cuộc sống của họ gặp rất nhiều
những khó khăn không chỉ về kinh tế mà còn là về khả năng tiếp cận với các dịch vụ
xã hội cơ bản khác. Cũng chính vì là đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương nên họ cũng
rất dễ chịu phải những tác động mạnh mẽ từ môi trường xung quanh, trong đó có vấn
đề ô nhiễm môi trường . Những hậu quả của ô nhiễm môi trường làm cho họ dễ rơi
vào cảnh nghèo đói và nghèo lại càng nghèo thêm. Để giải quyết vấn đề ô nhiêm môi
trường cần có sự tham gia của toàn xã hội với tổng thể của nhiều biện pháp trong đó
có công tác truyền thông nâng cao nhận thức về ô nhiễm môi trường. Để ngăn chặn


tình trạng đói nghèo, xây dựng cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn hãy cùng chung tay
bảo vệ môi trường.

Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thị Thanh Hương,2015, Giáo trình công tác xã hội với người
nghèo, NXB Lao động xã hội.
2. Trần Văn Khảm, Công tác xã hội với người nghèo (2010), Tài liệu .vn

3. Ưu đãi dành cho người nghèo, thư viện pháp luật.vn

4. Trang thông tin về giảm nghèo bền vững,
/>5. Trang web điện tử của bộ tài nguyên và môi trường:
/>


×