BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
NGUYỄN VĂN PHONG
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BẢO HIỂM
XÃ HỘI BẮT BUỘC TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BẾN CÁT,
TỈNH BÌNH DƯƠNG
NGÀNH KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Mã số: 60 62 01 15
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN THỊ THU HÀ
Đồng Nai năm 2016
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu được nêu trong luận văn là trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Bình Dương, ngày ….. tháng…. năm 2016
Người cam đoan
Nguyễn Văn Phong
ii
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc đến TS.Trần
Thị Thu Hà đã tận tình hướng dẫn và giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Bên cạnh đó, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến:
- Quý Thầy, Cô đã trang bị cho tôi những kiến thức, kỹ năng cần thiết
trong suốt khóa học để tôi có được nền tảng lý luận cơ bản khi nghiên cứu đề
tài này.
- Các anh, chị, em đang công tác tại các cơ quan Bảo hiểm xã hội thi xã
Bến Cát đã tham gia thảo luận, cung cấp tài liệu và tạo điều kiện thuận lợi
trong quá trình nghiên cứu.
- Cuối cùng tôi muốn chia sẻ đến gia đình và bạn bè là những người đã
luôn động viên, ủng hộ và giúp tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả
Nguyễn Văn Phong
iii
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là trụ cột
chính trong hệ thống an sinh xã hội của quốc gia, là sự bảo đảm thay thế hoặc
bù đắp một phần thu nhập đối với NLĐ khi họ gặp phải những biến cố làm
giảm khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một
quỹ tiền tệ tập trung nhằm góp phần đảm bảo đời sống của NLĐ và gia đình họ
góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Mục đích của nghiên cứu này là tìm ra giải pháp hoàn thiện công tác
quản lý thu bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn thị xã Bến Cát. Từ thực trạng
công tác quản lý thu BHXH bắt buộc trên địa bàn thị xã Bến Cát và những số
liệu thu thập được làm cơ sở nghiên cứu, xứ lý, phân tích để tìm ra những
nguyên nhân, tồn tại trong công trác quản lý thu BHXH bắt buộc. Kết quả
nghiên cứu cho thấy có sáu nội dung ảnh hưởng đến quản lý thu BHXH bắt
buộc (1) Quản lý đối tượng tham gia BHXH, (2) Quản lý tiền lương, tiền công
làm căn cứ đóng BHXH,(3) Quản lý số tiền thu BHXH, (4) Thanh tra, kiểm
tra, xử lý vi phạm về thu, nộp BHXH, (5) Phối hợp các bộ phận liên quan trong
quản lý thu BHXH, (6) Quản lý nợ đọng, trốn đóng BHXH.
Cuối cùng nghiên cứu chỉ ra được những hạn chế, tồn tại làm cơ sở cho
việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội bắt
buộc trên địa bàn thị xã bến cát đến năm 2020.
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHXHTN: Bảo hiểm xã hội tự nguyện
BHXH:
Bảo hiểm xã hội
BHYT:
Bảo hiểm y tế
BHTN:
Bảo hiểm thất nghiệp
ĐTNN:
Đầu tư nước ngoài
DN:
Doanh nghiệp
DNNQD:
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
DNNN:
Doanh nghiệp nhà nước
DNTN:
Doanh nghiệp tư nhân
HCSN:
Hành chính, sự nghiệp
HĐND:
Hội đồng nhân dân
NLĐ:
Người lao động
NSDLĐ:
Người sử dụng lao động
QD:
Quốc doanh
SXKD:
Sản xuất kinh doanh
NSNN:
Ngân sách Nhà nước
TNHH:
Trách nhiệm hữu hạn
UBND:
Uỷ ban nhân dân
v
DANH SÁCH CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Cơ cấu mẫu điều tra các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
45
Bảng 3.1: Số liệu các đơn vị, lao động tham gia BHXH tại thị xã Bến Cát
46
Bảng 3.2: Kết quả thu BHXH bắt buộc tại BHXH thị xã Bến Cát
49
Bảng 3.3. Tình hình tham gia BHXH trên địa bàn thị xã Bến Cát (2013-2015) 53
Bảng 3.4: Số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc theo khối quản lý
53
Bảng 3.5: Số lao động tham gia BHXH bắt buộc theo khối quản lý
48
Bảng 3.6: Kết quả thu BHXHbắt buộc theo khối quản lý
51
Bảng 3.7: Tình hình nợ đọng BHXH bắt buộc tại BHXH thị xã Bến Cát.
61
Bảng 3.8: Số tiền nợ đọng BHXH bắt buộc theo khối quản lý
64
Bảng 3.9: Các đơn vị, doanh nghiệp nợ BHXH kéo dài
65
Bảng 3.10: Kết quả rà soát tình hình tham gia BHXH bắt buộc
68
Bảng 3.11: Tình hình mức lương tham gia BHXH bắt buộc
74
Bảng 3.12: Tình hình mức lương tham gia BHXH bắt buộc
86
vi
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Tóm tắt luận văn
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
Mục lục
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ THU BẢO
HIỂM XÃ HỘI .................................................................................................. 4
1.1. Tổng quan về Bảo hiểm xã hội .................................................................. 4
1.1.1. Bản chất của bảo hiểm xã hội ................................................................... 4
1.1.2. Vai trò của bảo hiểm xã hội trong đời sống xã hội ................................... 9
1.1.3. Các quan điểm cơ bản về bảo hiểm xã hội ............................................. 11
1.2. Nội dung quản lý thu bảo hiểm xã hội ................................................... 16
1.2.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc ...................................................... 16
1.2.2. Hiệu quả quản lý thu bảo hiểm xã hội bắt buộc ...................................... 14
1.2.3. Mục đích thu bảo hiểm xã hội bắt buộc .................................................. 18
1.2.4. Nội dung của thu bảo hiểm xã hội bắt buộc............................................ 18
1.2.5. Vai trò của Nhà nước trong thu bảo hiểm xã hội bắt buộc ..................... 26
1.3. Công tác quả quản lý thu bhxh bắt buộc:.............................................. 27
1.3.1. Quản lý đối tượng: .................................................................................. 27
1.3.2. Quản lý mức đóng. .................................................................................. 30
1.3.3. Quản lý tiền thu ....................................................................................... 31
1.4.Kinh nghiệm thu BHXH bắt buộc của một số địa phương trong tỉnh: 32
1.4.1. Kinh nghiệm ở BHXH thị xã Dĩ An ...................................................... 32
vii
1.4.2. Kinh nghiệm BHXH thị xã Tân Uyên .................................................... 33
1.4.3. Bài học rút ra từ kinh nghiệm thu BHXH bắt buộc của một số địa
phương trong tỉnh cho việc thu BHXH. ............................................................ 34
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU .................................................................................................................. 36
2.1. Đặc điểm cơ bản của thị xã hội thị xã Bến Cát, Bình Dương .............. 36
2.1.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................... 36
2.1.2. Điều kiện kinh tế – xã hội: ...................................................................... 38
2.1.3. Đặc điểm cơ bản của BHXH thị xã Bến Cát........................................... 39
2.2.Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 43
2.2.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu ....................................................... 43
2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu .................................................................. 44
2.3. Phương pháp xử lý số liệu. ...................................................................... 45
2.3.1. Phương pháp phân tích theo nhóm đối tượng đóng BHXH.................... 45
2.3.2 Phương pháp phân tích thống kê. ............................................................. 45
2.3.3 Phương pháp thống kê so sánh ................................................................. 45
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ..................... 46
3.1. Thực trạng quản lý thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại thị xã bến cát: . 46
3.1.1. Tình hình số lao động và số đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc 46
3.1.2. Công tác quản lý thu BHXH bắt buộc tại BHXH thị xã Bến Cát ........... 49
3.2. Hiệu quả quản lý thu BHXH bắt buộc tại BHXH thị xã Bến Cát ....... 52
3.2.1. Quy trình quản lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc .......................... 52
3.2.2. Quản lý số tiền thu BHXH ...................................................................... 56
3.2.3.Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công tác quản lý thu BHXH bắt
buộc của BHXH thị xã Bến Cát ........................................................................ 60
3.3. Đánh giá chung về công tác quản lý thu BHXH bắt buộc trên địa
bàn thị xã Bến Cát ........................................................................................... 76
viii
3.3.1. Ưu điểm ................................................................................................... 76
3.3.2. Hạn chế.................................................................................................... 76
3.4. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH bắt buộc trên địa
bàn thị xã Bến Cát ........................................................................................... 78
3.4.1. Định hướng phát triển của BHXH thị xã bến cát đến năm 2020 ............ 78
3.4.2. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH bắt buộc trên địa
bàn thị xã Bến Cát ............................................................................................ 80
3.4.3. Nhóm giải pháp liên quan đến tổ chức thực hiện ................................... 81
3.4.4. Nhóm giải pháp liên quan đến chính sách, pháp luật về BHXH bắt
buộc ................................................................................................................... 85
3.4.5. Kiến nghị ................................................................................................. 86
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 90
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước
được thực hiện ở nước ta ngay từ những ngày đầu thành lập nước. Ngày
01/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 54/SL quy định điều kiện
cho công chức, viên chức Nhà nước hưởng chế độ hưu trí. Từ đó đến nay,
chính sách BHXH không ngừng được sửa đổi, bổ sung phù hợp với từng thời
kỳ phát triển của đất nước, góp phần đảm bảo cuộc sống cho cán bộ, công
chức, viên chức, lực lượng vũ trang nhân dân, người lao động.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội, để chính sách
BHXH phù hợp với tình hình thực tiễn và hội nhập quốc tế, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định quan điểm cần phải giải quyết tốt
việc "Thực hiện và hoàn thiện chế độ BHXH, bảo đảm đời sống người nghỉ
hưu được ổn định, từng bước cải thiện". Trong Bộ Luật Lao động cũng quy
định rõ ràng về đối tượng tham gia đóng, hưởng BHXH gồm tất cả lao động
làm việc trong các thành phần kinh tế và mở rộng loại hình BHXH tự nguyện,
tạo nên sự bình đẳng về BHXH đối với mọi người lao động. Đây là bước
chuyển biến căn bản về sự nghiệp BHXH từ chế độ bao cấp chủ yếu dựa vào
ngân sách nhà nước sang chế độ dựa trên nguồn đóng góp từ người lao động,
chủ sử dụng lao động. Mặc dù có nhiều đổi mới trong cả hình thức đóng bảo
hiểm, đối tượng đóng bảo hiểm và các dịch vụ đi kèm khác, tuy nhiên trong
quá trình thực hiện chính sách BHXH thời gian qua còn bộc lộ những hạn
chế, đặc biệt trong công tác thu BHXH, như: (1) Việc phát triển đối tượng
tham gia BHXH ở cả hai loại hình bắt buộc và tự nguyện còn nhiều hạn chế;
(2) Tình trạng trốn đóng BHXH, nợ đọng BHXH, chưa tham gia hoặc tham
gia không đầy đủ cho số lao động làm việc tại đơn vị còn xảy ra phổ biến ở
nhiều địa phương. Thực tế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện
2
chế độ, chính sách BHXH đối với người lao động và kết quả thu BHXH.
Hiệu quả quản lý thu BHXH bị ảnh hưởng ngoài các yếu tố khách quan
trên còn có những nguyên nhân chủ quan như bản thân cơ quan BHXH. Đó là
những hạn chế trong thực hiện cải cách hành chính, đổi mới tác phong phục vụ
nhân viên và việc ứng dụng công nghệ nhằm tạo điều kiện nâng cao hiệu quả
công tác quản lý thu BHXH.
Bình Dương là Tỉnh có đặc thù số lao động là người ngoài tỉnh đến làm
việc chiếm khoảng 70% trên tổng số lao động tham gia BHXH, nên sự di
chuyển người ngoài Tỉnh biến động nhiều và có nhiều loại hình doanh nghiệp
phức tạp, khó khăn trong công tác quản lý nói chung và quản lý thu nói riêng.
Do vậy cần đổi mới quản lý thu BHXH nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
đơn vị, tránh thất thoát và đảm bảo trách nhiệm xã hội đối với người lao động là
yêu cầu thường xuyên và cấp thiết với mọi cấp quản lý BHXH. Xuất phát từ
thực tế trên, tôi chọn đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu bảo
hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương” làm đề
tài luận văn thạc sỹ để nghiên cứu.
2. Mục tiêu đề tài
Từ thực trạng quản lý thu BHXH bắt buộc để đề xuất giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác quản lý thu BHXH bắt buộc trên địa bàn thị xã Bến Cát,
tỉnh Bình Dương đến năm 2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn
đề lý luận và thực tiển liên quan đến công tác thu BHXH bắt buộc trên địa
bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về không gian:Trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương
+ Phạm vi về thời gian: Số liệu được thu thập, nghiên cứu giai đoạn từ
3
năm 2013đến 2015.
4. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận Luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả quản lý thu bảo hiểm xã hội.
Chương 2: Đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ THUBẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. Tổng quan về bảo hiểm xã hội
1.1.1. Bản chất của bảo hiểm xã hội
1.1.1.1. Khái niệm
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho chúng ta thấy rằng trong
quá trình tồn tại và phát triển thì nhu cầu cơ bản của con người chính là ăn,
mặc, ở.... Để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu này, con người phải lao động
để làm ra những sản phẩm cần thiết. Xã hội ngày càng phát triển, mức độ thỏa
mãn các nhu cầu của con người ngày càng cao. Trong thực tế cuộc sống,
không phải NLĐ nào cũng có đủ điều kiện về sức khỏe, khả năng lao động để
hoàn thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình
một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Bởi lẽ, trong đời sống hàng ngày bất cứ
người nào cũng có thể gặp phải những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn,
hay già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên,
của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như của các tác nhân xã hội
khác.... Khi rơi vào hoàn cảnh đó, thì ngoài những nhu cầu thiết yếu của con
người còn xuất hiện thêm những nhu cầu mới. Do vậy, muốn tồn tại và phát
triển trong xã hội, con người chúng ta đã có nhiều biện pháp khác nhau để
khắc phục khó khăn.
Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân
và gia đình thì ngoài việc tự bản thân mình phải khắc phục, NLĐ còn cần có
được sự bảo trợ, san sẻ của cộng đồng và xã hội. Sự tương trợ dần dần được
mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn
kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc xã hội của
các Nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau. Trong quá trình phát triển xã
hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống BHXH đã có
5
những nền tảng cơ sở cơ bản để hình thành và phát triển.
Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã
buộc những NLĐ làm công ăn lương tìm cách khắc phục bằng những hành
động tương thân, tương ái bằng cách thành lập các quỹ tương tế, các hội
đoàn...; đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm
cuộc sống cho họ. Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, có nhiều bang đã thành lập
quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu
nhập vì bệnh tật. Từ đó xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có
giới thợ tham gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho tất cả các
trường hợp rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880,
an sinh xã hội lúc này là BHXH đã mở ra được một hướng mới. Sự tham gia
là bắt buộc và không chỉ có NLĐ đóng góp mà giới chủ và Nhà nước cũng
phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo cơ chế ba bên. Tính chất đoàn kết và
san sẻ lúc này được thể hiện rõ nét và BHXH dần đã trở thành một trụ cột cơ
bản của hệ thống an sinh xã hội và được tất cả các nước thừa nhận là một
trong những quyền con người. Nội dung của an sinh xã hội đã được ghi nhận
trong Tuyên ngôn nhân quyền do đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua
ngày 10/12/1948. Trong bản Tuyên ngôn có viết: “Tất cả mọi người với tư
cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng an sinh xã hội. Quyền đó đặt cơ
sở trên sự thỏa mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa cần cho nhân
cách và sự tự do phát triển con người …”
Theo định nghĩa của Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì: “BHXH
được định nghĩa là biện pháp bảo đảm, thay đổi hoặc bù đắp một phần thu
nhập của NLĐ do mất việc làm thông qua một quỹ tiền tệ được tập trung từ
sự đóng góp của NLĐ và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an sinh xã
hội. BHXH là trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội ở mỗi nước”.
Chính sách BHXH là bộ phận lớn nhất trong toàn bộ hệ thống an sinh
6
xã hội của một quốc gia. Có thể nói, không có BHXH thì không thể có một
nên an sinh xã hội vững mạnh. Như vậy, BHXH được định nghĩa đó chính là
sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với NLĐ khi họ gặp
phải những biến cố làm giảm hoặc giảm khả năng lao động, mất việc làm trên
cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm góp phần đảm
bảo đời sống của NLĐ và gia đình họ góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Từ những cơ sở trên, khái niệm BHXH được khái quát cụ thể như sau:
BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi
họ bị mất hoặc giảm các khoản thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm
khả năng lao động hoặc mất việc làm do những rủi ro xã hội thông qua việc
hình thành, sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia
BHXH, nhằm góp phần bảo đảm an toàn đời sống của NLĐ và gia đình họ;
đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
1.1.1.2. Bản chấtcủa BHXH
BHXH là một sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Khi trình độ
phát triển kinh tế của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống
BHXH sẽ có điều kiện ra đời và phát triển. Vì vậy, các nhà kinh tế cho rằng,
sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của nền kinh tế. Một
nền kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân thấp kém không thể có một hệ
thống BHXH vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển mạnh mẽ, hệ thống
BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình thức
BHXH ngày càng phong phú.
Thực chất BHXH là sự đền bù hậu quả của những “rủi ro xã hội”. Sự
đền bù này được thực hiện thông qua quá trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ
tập trung hình thành do sự đóng góp của tất cả các bên tham gia BHXH và
các nguồn thu hợp pháp khác của quỹ BHXH. Như vậy, BHXH cũng là quá
trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ
7
phận của GDP, được xã hội phân phối lại cho những thành viên khi phát sinh
các nhu cầu BHXH như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, già yếu, chết.... Xét trong nội tại BHXH, sự phân phối của BHXH
được thực hiện cả theo chiều dọc và chiều ngang. Sự phân phối lại thu nhập
theo chiều ngang là sự phân phối giữa những người khỏe mạnh và người ốm
đau, giữa người đang làm việc và người đã nghỉ việc, giữa người chưa có con
cái và những người có gánh nặng gia đình. Sự phân phối lại thu nhập theo
chiều dọc là sự phân phối sự chuyển giao tài sản và sức mua của giữa những
người có thu nhập cao cho người có thu nhập thấp, cho nhóm người “yếu thế”
hơn. Việc phân phối lại theo chiều dọc có ý nghĩa xã hội rất lớn.
Qua đó có thể thấy, BHXH góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an
toàn kinh tế cho NLĐ và gia đình họ. BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu
nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nước để thỏa mãn nhu cầu an toàn kinh
tế của NLĐ và an toàn xã hội. BHXH mang cả bản chất kinh tế và cả bản chất
xã hội:
- Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của
NLĐ và gia đình họ luôn được bảo đảm trước những bất trắc, rủi ro xã hội.
- Về mặt xã hội, do có sự san sẻ rủi ro của BHXH, NLĐ chỉ phải
đóng góp một khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã
hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn trang trải những rủi ro xảy ra. Ở đây,
BHXH đã thực hiện nguyên tắc “lấy của số đông bù cho số ít”.
Tuy nhiên, tính kinh tế và tính xã hội của BHXH không tách rời mà đan
xen lẫn nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh tế cho NLĐ và gia đình họ là đã
nói đến tính xã hội của BHXH, ngược lại, khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại
đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH.
Dưới góc độ kinh tế, BHXH là sự bảo đảm thu nhập, bảo đảm
cuộc sống cho NLĐ khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động. Có nghĩa là
8
tạo ra một khoản thu nhập thay thế cho NLĐ khi họ gặp phải các rủi ro thuộc
phạm vi BHXH.
Dưới góc độ chính trị, BHXH góp phần liên kết giữa những
NLĐ xuất phát từ lợi ích chung của họ.
Dưới góc độ xã hội, BHXH được hiểu như là một chính sách xã
hội nhằm đảm bảo đời sống cho NLĐ khi thu nhập của họ bị giảm hay mất.
Thông qua đó bảo vệ và phát triển lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản
xuất, tăng năng suất lao động ổn định trật tự xã hội.
Để tạo ra của cải vật chất con người buộc phải lao động, để lao
động con người cần phải có đủ sức khỏe và khả năng lao động nhất định.
Song trong thực tế không phải NLĐ nào cũng có đủ điều kiện về sức khỏe,
khả năng lao động, làm việc để tạo nên thu nhập trang trải cho bản thân và
làm cho gia đình mình có được một cuộc sống ấm no, đầy đủ. Ngược lại,
không mấy ai có thể tránh được những điều không may mắn, rủi ro, bất hạnh
do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, của điều kiện sống và các yếu tố xã hội
khác.
Khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn, các nhu cầu thiết yếu không vì
thế mà mất đi, trái lại, có những nhu cầu còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện
thêm nhu cầu mới, ví dụ như: bị ốm đau thì lại xuất hiện thêm nhu cầu khám
chữa bệnh trong khi phải nghỉ làm và NLĐ lại mất đi phần thu nhập chính ....
Bởi vậy, muốn tồn tại con người đã phải tìm ra nhiều cách để tự mình giải
quyết, khắc phục; bên cạnh đó con người cũng cần được sự bảo trợ của cộng
đồng tập thể, của các tổ chức cơ quan Nhà nước và xã hội. Sự bảo trợ này
không thể chỉ bằng lời nói, bằng sự động viên thăm hỏi chung chung được mà
phải bằng những nguồn vật chất cần thiết nhằm giúp NLĐ phục hồi nhanh
chóng sức khỏe, duy trì sức lao động cho xã hội, góp phần làm giảm bớt
những khó khăn của bản thân và gia đình người lao động khi có những hụt
9
hẫng về thu nhập trong các trường hợp bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, hoặc gặp khó khăn khi tuổi già sức yếu….
Tất cả những điều đó đã trở thành mối đe dọa lớn đối với cuộc sống thường
ngày của NLĐ. Tình cảnh này đưa đến những hành động tập thể phát huy
truyền thống tương thân, tương ái vốn có từ lâu trong nhân dân; đồng thời
cũng đòi hỏi giới chủ, giới thợ và Nhà nước từng bước can thiệp để duy trì lực
lượng nhân công cần thiết cho xã hội.
Qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề của giới
chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới của quá trình phát triển kinh tế xã hội
của đất nước, cùng với trình độ chuyên môn và nhận biết về BHXH của NLĐ
ngày càng được nâng cao, cách chủ động khắc phục khi không may gặp
những rủi ro xảy ra ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ đến khi có sự ra đời
của BHXH thì những tranh chấp cũng như những khó khăn mới được giải
quyết một cách ổn thỏa và có hiệu quả nhất. Đó cũng là cách giải quyết chung
nhất cho xã hội loài người trong quá trình phát triển đi lên của một đất nước.
Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên
trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự
cần thiết phải tiến hành bảo hiểm cho NLĐ. Vì vậy, BHXH đã trở thành nhu
cầu và quyền lợi của NLĐ và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách
quan, là một trong những quyền lợi chính đáng của con người.
1.1.2. Vai trò của bảo hiểm xã hội trong đời sống xã hội
1.1.2.1 Đối với người lao động
Trong cuộc sống hàng ngày có những loại rủi ro như ốm đau, tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, già yếu rồi chết đi …. Tất cả những rủi
ro này đều có thể xảy đến đối với bất kỳ một NLĐ nào, tại bất cứ thời điểm
nào trong cuộc sống hàng ngày của con người. Nhất là trong giai đoạn hiện
nay, khi các quốc gia đang hoàn thiện quá trình công nghiệp hóa – hiện đại
10
hóa đưa đất nước phát triển ổn định thì những rủi ro này lại ngày càng diễn ra
một cách thường xuyên và có tính chất ngày càng phổ biến hơn do sự biến
động về thị trường lao động và tình hình sản xuất kinh doanh ngày càng đa
dạng, phức tạp hơn. Khi gặp khó khăn NLĐ sẽ bị mất hoặc giảm đi một phần
thu nhập làm ảnh hưởng không tốt về mặt vật chất lẫn tinh thần không chỉ cho
chính bản thân NLĐ, gia đình họ mà còn cho cả cộng đồng xã hội. Với tư
cách là một chính sách kinh tế – xã hội lớn của Đảng và Nhà nước, chính sách
BHXH sẽ góp phần trợ giúp cho NLĐ khi họ gặp phải những rủi ro, bất hạnh;
giúp họ khắc phục được khó khăn bằng cách tạo ra cho họ những phần thu
nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi … giúp họ ổn định được
cuộc sống, yên tâm công tác, tạo cho NLĐ một niềm tin vào tương lai tươi
sáng hơn từ đó góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng
như chất lượng công việc cho đơn vị của NLĐ đang làm nói riêng và mang lại
lợi ích kinh tế cho toàn bộ xã hội nói chung.
1.1.2.2 Đối với xã hội
Trước tiên, phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt động
dịch vụ, BHXH là một “Doanh nghiệp” sản xuất ra những “dịch vụ bảo hiểm”
cho NLĐ, một loại dịch vụ mà bất cứ ai trong đời cũng cần đến ít nhất một
lần. Nếu các “Doanh nghiệp” này càng sản xuất ra nhiều các loại hình dịch vụ
bảo hiểm đáp ứng được đa dạng các nhu cầu của NLĐ thì giá trịcủa những
sản phẩm dịch vụ nàycũng
được tính trực tiếp vào tổng sản phẩm xã hội.
Thứ hai, BHXH là một chính sách của Nhà nước, được Nhà nước ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật để quản lý và điều chỉnh nên BHXH sẽ
“bảo hiểm” được những rủi ro cho NLĐ, sẽ giải quyết tích cực những rủi ro
đã xảy ra cho NLĐ; góp phần tích cực của mình vào việc phục hồi năng lực
làm việc, khả năng tái tạo của sức lao động. Sự góp phần này tác động trực
11
tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động cá nhân, đồng thời góp phần nâng
cao năng suất lao động của toàn xã hội. Với sự trợ giúp của NLĐ khi gặp rủi
ro bằng cách tạo ra thu nhập thay thế thì BHXH đã gián tiếp tác động đến
chính sách tiêu dùng Quốc gia làm gia tăng tiêu dùng cho xã hội.
Thứ ba, với tư cách là một quỹ tiền tệ, BHXH tác động mạnh mẽ tới hệ
thống tài chính ngân sách của Nhà nước, tới hệ thống tiền tệ ngân hàng.
Chính vì vậy, đặt ra một yêu cầu cho quỹ BHXH phải tự bảo tồn và phát triển
quỹ bằng nhiều hình thức khác nhau trong đó có hình thức đầu tư phát triển
phần “nhàn rỗi” của quỹ. Phần này có tác động không nhỏ tới quá trình phát
triển kinh tế của đất nước, góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh
mới, góp phần quan trọng tạo ra công ăn việc làm mới cho NLĐ, từ đó góp
phần giải quyết tình trạng thất nghiệp của đất nước, tăng thu nhập cá nhân của
NLĐ nói riêng và tăng tổng sản phẩm quốc nội cũng như tổng sản phẩm quốc
dân nói riêng.
Thứ tư, BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là công
cụ phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Sự phân phối
tiến hành theo hai cách: phân phối theo chiều ngang và phân phối theo chiều
dọc. BHXH không bao hàm ý phân phối bình quân, cũng không hàm ý lấy
của người giàu chia cho người nghèo. Ý tưởng của BHXH là nhiễu điều phủ
lấy giá gương, là sự đoàn kết tương trợ phát huy tính tự thân, sống hòa nhập
có tình có nghĩa giữa các nhóm, giữa các cộng đồng với nhau vốn là truyền
thống của dân tộc ta đã được lịch sử minh chứng qua hàng ngàn năm.
1.1.3. Các quan điểm cơ bản về bảo hiểm xã hội
Khi thực hiện chính sách BHXH, các quốc gia trên thế giới đều phải lựa chọn
những hình thức, quy định, cơ chế và mức độ thoả mãn các nhu cầu BHXH
của NLĐ phù hợp với tập quán, khả năng trang trải và định hướng phát triển
kinh tế - xã hội của quốc gia mình. Đồng thời, phải có nhận thức thống nhất
12
các quan điểm cơ bản sau đây về BHXH:
1.1.3.1. Chính sách bảo hiểm xã hội là một bộ phận cấu thành và là bộ phận
quan trọng nhất trong chính sách an sinh xã hội
Mục đích chủ yếu của chính sách này nhằm đảm bảo đời sống cho
NLĐ và gia đình họ, khi NLĐ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất
khả năng lao động, mất việc làm. Ở nước ta, BHXH nằm trong hệ thống các
chính sách kinh tế và xã hội của Đảng và Nhà nước. Thực chất, đây là một
trong những chính sách lớn đối với NLĐ nhằm đáp ứng một trong những
quyền và nhu cầu hiển nhiên của con người, đó là: nhu cầu an toàn về việc
làm, an toàn lao động, an toàn xã hội .... Chính sách BHXH còn thể hiện trình
độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của
mỗi quốc gia. Trong một chừng mực nhất định, nó còn thể hiện tính ưu việt
của một chế độ xã hội. Nếu tổ chức và thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ là
động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của NLĐ trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.1.3.2. Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm tham gia
bảo hiểm xã hội cho người lao động
Chính sách BHXH phải được cụ thể bằng việc ban hành các bộ luật,
các văn bản luật trong đó quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của
các bên tham gia. Khi đó sẽ đảm bảo được quyền lợi của các bên tham gia.
Người sử dụng lao động thực chất là các tổ chức, các doanh nghiệp và
các cá nhân có thuê mướn lao động. Họ phải có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ
BHXH và có trách nhiệm thực hiện các chế độ BHXH đối với NLĐ mà mình
sử dụng theo đúng quy định của pháp luật. Người sử dụng lao động muốn ổn
định sản xuất kinh doanh thì ngoài việc phải chăm lo đầu tư để có thiết bị hiện
đại, công nghệ tiên tiến còn phải chăm lo tay nghề và đời sống cho NLĐ mà
mình sử dụng. Khi NLĐ làm việc bình thường thì phải trả lương thoả đáng
13
cho họ. Khi họ gặp rủi ro, bị ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp...
trong đó có rất nhiều trường hợp gắn với quá trình lao động với những điều
kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì người sử dụng lao động phải có
trách nhiệm tham gia BHXH và thực hiện nghĩa vụ cho NLĐ. Chỉ có như vậy
thì NLĐ mới yên tâm công tác, gắn bó, tích cực lao động sản xuất, phát huy
sáng kiến cải tiến kỹ thuật góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu
quả kinh tế cho doanh nghiệp.
1.1.3.3. Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với bảo
hiểm xã hội
Điều đó có nghĩa là mọi NLĐ trong xã hội đều bắt buộc phải tham gia
và được hưởng các chế độ BHXH theo như tuyên ngôn nhân quyền của Đại
hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày 10/12/1948 đã nêu: “Tất cả mọi
người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng Bảo hiểm xã hội”,
đồng thời bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi hưởng trợ cấp BHXH.
NLĐ khi gặp rủi ro không mong muốn và không phải hoàn toàn hay trực tiếp
do lỗi của người khác thì trước hết đó là do rủi ro của bản thân. Vì thế, muốn
được BHXH tức là muốn nhiều người khác hỗ trợ cho mình là dàn trải rủi ro
của mình cho nhiều người khác thì tự mình phải gánh chịu trực tiếp và trước
hết. Điều đó có nghĩa là NLĐ phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo
hiểm cho mình.
Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền lợi của NLĐ về BHXH còn tuỳ thuộc
vào điều kiện kinh tế - xã hội, vào các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội
và lịch sử của mỗi quốc gia. Nhìn chung, khi sản xuất phát triển, kinh tế tăng
trưởng, chính trị xã hội ổn định thì NLĐ tham gia và được hưởng trợ cấp
BHXH ngày càng đông.
1.1.3.4. Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội phụ thuộc vào các yếu tố
Các yếu tố chủ yếu phải kể đến đó là:
14
- Tình trạng mất khả năng lao động;
- Tiền lương lúc đang đi làm;
- Ngành công tác và thời gian công tác;
- Tuổi thọ bình quân của NLĐ;
- Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ…
Tuy nhiên, về nguyên tắc thì các khoản trợ cấp BHXH lúc nào cũng
phải thấp hơn khoản thu nhập khi NLĐ đang đi làm, có thấp hơn nhưng cũng
phải đảm bảo được mức sống tối thiểu cho NLĐ.
Quan điểm này vừa phải phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh
nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho những NLĐ tham gia BHXH. Trợ
cấp BHXH là loại trợ cấp thay thế tiền lương. Mà tiền lương là khoản tiền mà
người sử dụng lao động trả cho NLĐ khi họ thực hiện được những công việc
hoặc định mức công việc nào đó. Nghĩa là, chỉ khi NLĐ có sức khoẻ bình
thường, có việc làm bình thường và thực hiện được công việc nhất định mới
có tiền lương. Khi đã bị ốm đau, tai nạn hay tuổi già không làm việc được mà
trước đó có tham gia BHXH thì sẽ nhận được trợ cấp BHXH và mức trợ cấp
đó không thể bằng với khoản tiền lương do lao động trực tiếp tạo ra được.
Nếu mức trợ cấp bằng hoặc cao hơn mức tiền lương thì không một NLĐ nào
phải có gắng tìm kiếm việc làm và tích cực làm việc để có lương, mà ngược
lại sẽ lợi dụng quỹ BHXH để được nhận trợ cấp, trục lợi cho bản thân. Hơn
nữa cách lập quỹ BHXH theo phương thức dàn trải rủi ro cũng không cho
phép trả trợ cấp BHXH bằng lúc đang làm việc. Và như vậy thì chẳng khác gì
NLĐ bị rủi ro và qua rủi ro của mình dàn trải hết cho những NLĐ khác. Lúc
này quỹ BHXH sẽ bị vỡ ngay lập tức.
Như vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương của NLĐ
khi đi làm. Tuy nhiên, do mục đích bản chất và phương thức BHXH thì mức
trợ cấp thấp hơn cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu để NLĐ đảm
15
bảo trang trải được cuộc sống của mình khi gặp khó khăn rủi ro.
1.1.3.5. Nhà nước quản lý thống nhất chính sách bảo hiểm xã hội, tổ chức bộ
máy thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội
BHXH là một bộ phận cấu thành các chính sách xã hội, nó vừa là nhân
tố ổn định an sinh xã hội, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế xã hội.
Cho nên, vai trò của Nhà nước trong chính sách BHXH là rất quan trọng.
Thực tế đã chỉ rõ, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước, không có sự quản
lý vĩ mô của Nhà nước thì mối quan hệ giữa NLĐ và người sử dụng lao động
sẽ không được duy trì bền vững; và mối quan hệ ba bên trong BHXH sẽ bị
phá vỡ nếu một bên không tuân thủ.
Hơn nữa, BHXH được thực hiện thông qua một quy trình, từ việc
hoạch định chính sách, đảm bảo vật chất đến việc xem xét trợ cấp .... Vì vậy,
Nhà nước phải quản lý toàn bộ quy trình này, hay phải có những quy định
giới hạn về mức độ và phạm vi. Trước hết, phải khẳng định rằng việc hoạch
định chính sách BHXH là khâu đầu tiên và quan trọng nhất. Sự quản lý của
Nhà nước về vấn đề này thể hiện ở việc xây dựng các dự án luật, các văn bản
pháp quy về BHXH và ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện. Sau đó là
hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân thực hiện chính sách.
Đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà nước phụ
thuộc vào chính sách BHXH do Nhà nước quy định. Có những mô hình về
bảo đảm vật chất cho BHXH do ngân sách Nhà nước cung cấp thì vai trò
quản lý Nhà nước là trực tiếp và toàn diện, nếu nguồn đảm bảo trợ cấp do
người sử dụng lao động, NLĐ và Nhà nước đóng góp thì Nhà nước tham gia
quản lý.
Để quản lý về BHXH, Nhà nước sử dụng các công cụ chủ yếu như luật
pháp và bộ máy tổ chức. Nhìn chung, ở hầu hết các nước trên thế giới, việc
quản lý vĩ mô BHXH đều được Nhà nước giao cho Bộ Lao động hoặc Bộ Xã
16
hội trực tiếp điều hành, chỉ đạo chung. Tuy nhiên, quan điểm này đến ngày
nay không phải là tuyệt đối bởi vì ở một số quốc gia trên thế giới thì hệ thống
BHXH đã bắt đầu được tư nhân hóa.
Ở Việt Nam, BHXH Việt Nam là một cơ quan trực thuộc Chính Phủ
có nhiệm vụ tổ chức và thực hiện chính sách BHXH, BHYT cho NLĐ và
nhân dân trên cả nước.
1.2. Nội dung quản lý thu bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.2.1. Khái niệm BHXH bắt buộc
- Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình BHXH mà người lao động và
người sử dụng lao động phải tham gia.
- Thu BHXH bắt buộc là phần thu được trích theo tỷ lệ phần trăm trên
tiền lương, tiền công của các đối tượng thu BHXH bắt buộc được quy định
trong luật BHXH bao gồm:
+ NLĐ làm việc theo hợp đồng không xác định thời hạn và hợp đồng
lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên;
+ Người quản lý doanh nghiệp thuộc các chức danh hoạt động theo
Luật doanh nghiệp hưởng tiền lương, tiền công từ đủ 3 tháng trở lên.
1.2.2. Hiệu quả quản lý thu BHXH bắt buộc
Quản lý bao giờ cũng là tác động có hướng đích, có xác định mục tiêu,
thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, đây là quan
hệ giữa người lãnh đạo và bị lãnh đạo, không đồng cấp và có tính bắt buộc.
Nó diễn ra trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người với nhiều cấp độ, hiều
mối liên hệ với nhau. Đối với hoạt động BHXH thì quản lý bao gồm cả quản
lý các đối tượng tham gia và thụ hưởng, quản lý thu, quản lý chi trả và quản
lý nguồn quỹ từ đầu tư tăng trưởng.
Khi nói đến quản lý thu BHXH là nói đến một loạt quan hệ, bao gồm
quan hệ giửa Nhà nước, người SDLĐ, NLĐ và cơ quan BHXH. Trong mối
quan hệ trên đây, thì người SDLĐ, NLĐ là đối tượng quản lý; Nhà nước giao