Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương việt nam chi nhánh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

PHẠM TIẾN TÙNG

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI
THƯƠNG VIỆT NAM - CHI NHÁNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Đồng Nai, 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

PHẠM TIẾN TÙNG

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI
THƯƠNG VIỆT NAM - CHI NHÁNH ĐỒNG NAI

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
MÃ SỐ: 60.62.01.15



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ XUÂN HƯƠNG

Đồng Nai, 2016


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngân hàng là một trong những kênh huy động và điều hòa nguồn vốn
quan trọng và ngày càng trở thành một định chế tài chính không thể thiếu
trong nền kinh tế thị trường.
Trong bối cảnh kinh tế của các nước trong khu vực và thế giới có những
lúc lâm vào tình trạng khủng hoảng và hiện nay vẫn còn trong giai đoạn phục
hồi, hoạt động của các tổ chức tín dụng Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề,
nhiều ngân hàng tỏ ra bối rối trong các hoạt động huy động và cho vay. Kết
quả là trong những năm qua, tăng trưởng của các ngân hàng chậm lại, chất
lượng nợ bị suy giảm, tỷ lệ nợ xấu gia tăng điều này đe dọa trực tiếp đến sự
phát triển của hệ thống ngân hàng trong thời gian tới. Trong thời gian này cầu
đặt ra đối với ngân hàng là phải nắm bắt diễn biến thị trường, để thích nghi
và tồn tại và còn phải giữ vai trò tiên phong trong việc định hướng cho những
hoạt động của các doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, mặc dù các ngân hàng đang gia tăng nguồn thu từ dịch vụ là
nguồn thu phí rủi ro, thì hoạt động tín dụng vẫn là lĩnh vực kinh doanh đem
lại nguồn thu lớn nhất cho các ngân hàng. Để đáp ứng được yêu cầu đó thì các
Ngân hàng phải không ngừng đổi mới mọi mặt trong đó việc nâng cao chất

lượng tín dụng là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của tất cả các Ngân
hàng. Chất lượng tín dụng có ý nghĩa sống còn đối với hoạt động của từng
Ngân hàng
Trong tín dụng không thể loại trừ hoàn toàn các rủi ro tiềm ẩn mà chỉ có
thể nhận dạng và kiểm soát chúng một cách chặt chẽ để hạn chế đến mức thấp
nhất tổn thất khi rủi ro xảy ra.
Do đó tôi lựa chọn đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín
dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam – Chi


2

nhánh Đồng Nai” làm luận văn nghiên cứu, nhằm đánh giá thực trạng chất
lượng tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam
– Chi nhánh Đồng Nai với những mặt đạt được và nguyên nhân dẫn đến
những yếu kém trong hoạt động tín dụng để làm cơ sở đưa ra những giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1 Mục tiêu tổng quát
Đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng nhằm đề xuất các giải pháp nâng
cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại
Thương Việt Nam – Chi nhánh Đồng Nai.
2.2 Mục tiêu cụ thể
Luận văn nghiên cứu nhằm đạt ba mục tiêu sau:
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về tín dụng, chất lượng tín dụng ngân hàng
thương mại.
- Đánh giá được thực trạng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại
cổ phần Ngoại Thương Việt Nam – Chi nhánh Đồng Nai
- Phân tích được những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tín
dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam – Chi

nhánh Đồng Nai
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng
Thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam – Chi nhánh Đồng Nai.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động tín dụng và chất lượng
hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt
Nam – Chi nhánh Đồng Nai.
3.2 Phạm vi nghiên cứu


3

Đề tài nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tín dụng và các nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại
Thương Việt Nam – Chi nhánh Đồng Nai.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn kế thừa có chọn lọc, hệ thống hóa và bổ sung, phát triển
những căn cứ khoa học về công tác tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng
của hệ thống ngân hàng thương mại nói chung, Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Ngoại Thương Việt Nam – Chi nhánh Đồng Nai nói riêng.
Phân tích, đánh giá thực trạng về công tác tín dụng và nâng cao chất
lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam
– Chi nhánh Đồng Nai trong những năm gần đây, chỉ ra những hạn chế, yếu
kém cần khắc phục.
Đề xuất một hệ thống các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng
tín dụng của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam – Chi
nhánh Đồng Nai trong những năm tới.
5. Kết cấu của luận văn
Phần mở đầu

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên
cứu
Chương 3: Kết qủa nghiên cứu
Kết luận


4

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1 Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng của ngân hàng thương
mại
1.1.1 Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính, hình thành trên
cơ sở của sự phát triển và trao đổi hàng hóa. Những tổ chức trung gian tài
chính này đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, là một kênh dẫn vốn
truyền thống thúc đẩy sản xuất phát triển.
Hiện nay, khái niệm về ngân hàng thương mại được xây dựng chủ yếu dựa
vào chức năng của ngân hàng.
Trong Đạo luật ngân hàng (1941) của Pháp quy định” Ngân hàng thương
mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận
của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc hình thức khác, những khoản
tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, nghiệp vụ tín
dụng hay nghiệp vụ tài chính” 8 .
Ở Việt Nam hiện nay, theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các
tổ chức tín dụng ngày 15/06/2004 thì: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín
dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh

doanh khác có liên quan”. Các hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử
dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán khác”
1.1.2 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Khái niệm tín dụng


5

Tín dụng xuất phát từ chữ La tinh: Credittum - tức là tin tưởng, tín nhiệm;
tín dụng được diễn giải theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam là sự vay mượn.
Trong thực tế cuộc sống, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật
ngữ tín dụng có một nội dung riêng.
Trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín
dụng được hiểu như sau:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho
vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh
nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho
bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay
có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến
thanh toán.
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên
cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau:
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình
thức cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản).
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển
giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở tin rằng người đi vay sẽ
trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, nói

cách khác người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện
nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát. Tuy
nhiên, do lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, nên trong một
số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ
này chỉ tồn tồn tại trong một thời gian ngắn.


6

- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam
kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan
hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng , khế ước ... thực chất là lệnh phiếu, trong
đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn
thanh toán.
Vậy, tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn lẫn nhau về vốn giữa ngân
hàng và các chủ thể khác trong nền kinh tế dựa trên nguyên tắc hoàn trả cả
gốc và lãi.
1.1.2.2 Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
- Huy động vốn và cho vay được thực hiện chủ yếu dưới hình thức tiền tệ
Tất cả những nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế quốc dân được
ngân hàng huy động để hình thành nguồn vốn cho vay. Trên cơ sở nguồn vốn
đã có, ngân hàng cho vay đối với các tác nhân cần vốn cho sản xuất kinh
doanh hoặc tiêu dùng. Cả hai mặt hoạt động huy động vốn và cho vay đều
được thực hiện chủ yếu dưới hình thức tiền tệ. Đây là loại hình tín dụng phổ
biến, linh hoạt và đáp ứng nhu cầu tín dụng cho mọi khách hàng.
- Các ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian tín dụng
Khi huy động vốn trong nền kinh tế, ngân hàng sử dụng nhiều hình
thức thu hút tiền gửi với các kỳ hạn khác nhau, phát hành các loại giấy nhận
nợ (kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ…) ngắn hạn cũng như trung và dài hạn,
vay trên thị trường liên ngân hàng, ký các hiệp định vay nợ…

Khi cho vay, ngân hàng chủ yếu sử dụng các hình thức cấp tín dụng
theo tài khoản cho vay, gửi vốn tại các ngân hàng khác, đầu tư…để đáp ứng
nhu cầu vay vốn của khách hàng.
- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng độc lập tương
đối với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội.


7

Vốn tín dụng ngân hàng là một bộ phận không thể thiếu được của quá
trình tái sản xuất xã hội. Khối lượng hàng hoá sản xuất và lưu thông tăng lên
thì nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng cũng tăng lên. Trường hợp này vốn tín
dụng ngân hàng vận động phù hợp với sự vận động và phát triển của quá trình
tái sản xuất xã hội. Nhưng trong nhiều trường hợp, vốn tín dụng ngân hàng
không tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, mà chúng được
sử dụng vào những mục đích phi sản xuất như: chiết khấu hoặc cầm cố các
thương phiếu “khống”, trái phiếu của Chính phủ. Cũng có thể vốn tín dụng
ngân hàng được sử dụng vào những vụ “áp phe” chứng khoán hoặc sai mục
đích thiếu đảm bảo, không có hiệu quả kinh tế.
Những trường hợp trên, mặc dù nhu cầu tín dụng ngân hàng có gia tăng,
nhưng sản xuất và lưu thông hàng hoá không tăng. Trường hợp khác, hiện
tượng ngược lại có thể xảy ra, đó là trong thời kỳ hưng thịnh các doanh nghiệp
mở mang sản xuất kinh doanh, khối lượng hàng hoá sản xuất và luân chuyển
lớn, nhưng tín dụng ngân hàng lại không đáp ứng kịp. Những mâu thuẫn này
thường xuyên diễn ra đó là hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường.
NHTM cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay,
chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính
và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước như bao thanh
toán, tài trợ nhập khẩu, tài trợ xuất khẩu, cho vay thấu chi, cho vay theo hạn
mức tín dụng, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng,…Trong các hoạt

động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn
nhất.
1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng
Tín dụng Ngân hàng là công cụ đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy sự tăng trưởng
kinh tế và điều hành nền kinh tế thị trường. Vai trò của tín dụng Ngân hàng
thể hiện trên các khía cạnh sau:


8

(1)Tín dụng ngân hàng góp phần cho quá trình sản xuất kinh doanh
diễn ra một cách thường xuyên liên tục
Trong nền kinh tế thường xuyên có một số các doanh nghiệp trong quá
trình sản xuất kinh doanh có một bộ phận vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi được
tách ra khỏi quá trình tái sản xuất của các doanh nghiệp như: tiền khấu hao tài
sản cố định để tái tạo lại tài sản cố định nhưng chưa sử dụng; tiền mua nguyên
vật liệu tiếp tục cho quá trình tái sản xuất nhưng chưa mua, vì có sự chênh
lệch về thời gian giữa việc bán sản phẩm và việc mua nguyên vật liệu; tiền trả
lương cho người lao động nhưng chưa đến hạn trả; khoản tiền tích luỹ để tái
sản xuất mở rộng nhưng chưa đủ điều kiện để đầu tư...Các khoản tiền tệ trên
đây luôn được các doanh nghiệp tìm cách đầu tư kiếm lời. Ngoài ra, còn các
khoản tiền để dành của dân cư, khi chưa có nhu cầu sử dụng, họ cũng muốn
đầu tư để kiếm lời. Tất cả tạo thành nguồn vốn tiềm tàng trong nền kinh tế.
Trong khi đó, có một số các doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn để phục vụ cho
nhu cầu kinh doanh của mình; một số các cá nhân trong xã hội cần vốn để cải
thiện sinh hoạt hoặc đối phó với những rủi ro trong cuộc sống.
Tín dụng Ngân hàng huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử
dụng trong tất cả các thành phần kinh tế thị trường để cho các doanh nghiệp
và các cá nhân vay vốn, góp phần mở rộng sản xuất kinh doanh nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn tín dụng Ngân hàng là công cụ giải quyết mâu thuẫn giữa

người thừa vốn và người thiếu vốn, trong quá trình hoạt động của bản thân
mình.
Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường hiện nay, huy động và cho vay bao
nhiêu có đáp ứng được hay không đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế, thu
hồi vốn có đáp ứng hay không là vấn đề đặt nên hàng đầu trong hoạt động
tín dụng của Ngân hàng. Bởi nên đầu tư tín dụng không có hiệu quả, không
thu hồi được nợ thì Ngân hàng sẽ bị lỗ và có thể dẫn đến phá sản, có thể nói,


9

tín dụng Ngân hàng góp phần vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn
làm tăng tốc độ chu chuyển tiền tệ trong xã hội và góp phần thúc đẩy quá
trình tăng trưởng của nền kinh tế.
(2) Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, là động
lực đối với việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa – Hiện đại hóa nền kinh tế
Với chức năng là trung gian tài chính, ngân hàng sẽ thu hút vốn nhàn rỗi
từ các chủ thể khác của nền kinh tế đang nằm phân tán như: ở các doanh
nghiệp, chính phủ hay các cá nhân... tức là đã làm tăng hiệu quả đồng vốn
nhàn rỗi. Khi có đồng vốn trong tay thì ngân hàng phải tìm cách đem đầu tư
vào những nơi có hiệu quả kinh tế cao có thể thu hồi được vốn. Mặt khác, tín
dụng ngân hàng còn thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường chế độ hạch toán
kinh doanh, giúp các doanh nghiệp khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế
trong hoạt động kinh doanh. Điều này làm cho hiệu quả của đồng vốn ngày
càng cao và được đầu tư một cách hợp lý phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước.
(3)Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy phát triển chiến lược kinh tế
đối ngoại
Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ

giao lưu kinh tế quốc tế. Hiện nay việc phát triển kinh tế của một nước luôn
gắn liền với sự phát triển kinh tế thế giới, trong đó đầu tư vốn ra nước ngoài
và kinh doanh xuất nhập khẩu là hai lĩnh vực hợp tác quốc tế thông dụng và
phổ biến nhất. Vốn là nhân tố quyết định cho quá trình này, nhưng trên thực
tế không phải một tổ chức kinh tế, một nhà kinh doanh nào cũng có đủ vốn
để hoạt động. Trong hoạt động xuất nhập khẩu, tín dụng ngân hàng đóng vai
trò tài trợ thông qua cho vay hay mở thư thanh toán...tạo điều kiện cho các
nước giao lưu hợp tác với nhau về mọi mặt, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất và


10

kinh doanh hàng hoá ngân hàng với tư cách là một tổ chức kinh doanh tiền tệ,
thông qua hoạt động tín dụng sẽ hỗ trợ về vốn cho các nhà kinh doanh. Điều
này giúp các doanh nghiệp sẽ có đủ nguồn lực để cải tiến máy móc, thiết bị,
khoa học công nghệ, từ đó có thể nâng cao được năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm và uy tín của hàng hoá Việt nam trên thị trường quốc tế.
1.1.4. Phân loại tín dụng ngân hàng
Có rất nhiều cách để người ta phân loại tín dụng ngân hàng tuỳ thuộc vào
từng đối tượng nghiên cứu và mục đích nghiên cứu. Sau đây là một số cách
phân loại phổ biến nhất.
(1) Căn cứ theo thời gian
Theo căn cứ này cho vay được chia thành 3 loại sau:
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 năm trở xuống,
được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của doanh nghiệp và nhu
cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: Tùy từng quốc gia mà có quy định về thời hạn cho
vay trung hạn khác nhau. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Tín dụng trung hạn được
sử dụng chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới thiết bị,

mở rộng sản xuất... Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, tín dụng trung hạn
còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp,
đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu
cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô
lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. Tại Việt Nam, tín dụng dài hạn có thời hạn
trên 5 năm, thời hạn tối đa có thể lên đến 20-30 năm, một số trường hợp có
thể lên đến 40 năm.


11

Ngân hàng căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng và nguồn vốn mà
mình có để xác định kỳ hạn một cách hợp lý, tạo điều kiện nguồn vốn vay
phát huy được hiệu quả từ đó tạo điều kiện cho ngân hàng thu hồi được cả gốc
và lãi.
(2) Căn cứ theo mục đích sử dụng
Theo căn cứ này, tín dụng được chia thành 2 loại:
- Tín dụng tiêu dùng: Đây là khoản tín dụng mà ngân hàng cho khách
hàng vay dùng cho mục đích tiêu dùng của khách hàng như mua sắm nhà cửa,
ô tô, xe máy…
- Tín dụng sản xuất: Đây là khoản tín dụng mà mục đích khách hàng
vay vốn của ngân hàng dùng cho mục đích sản xuất chứ không phải dùng cho
tiêu dùng, họ dùng khoản vay này để mua máy móc thiết bị, phương tiện vận
tải, nguyên nhiên vật liệu…dùng trong sản xuất.
(3) Căn cứ theo hình thức tín dụng
Dựa vào căn cứ này tín dụng thường được chia ra làm các loại sau:
- Chiết khấu thương phiếu: Đây là hoạt động khách hàng đem thương
phiếu mà mình có được do mua bán chịu trong hoạt động kinh doanh nhưng
do thương phiếu đó chưa đến hạn để thanh toán mà khách hàng lại cần tiền và

khách hàng sẽ mang thương phiếu đó đến ngân hàng xin chiết khấu. Nhược
điểm của hình thức chiết khấu là khách hàng luôn nhận được giá trị thấp hơn
giá trị của thương phiếu và ngân hàng trở thành người chủ của thương phiếu.
Ngân hàng không phải là người cho vay đối với chủ thương phiếu mà đây chỉ
là hình thức trao đổi trái quyền và đối với ngân hàng việc bỏ tiền hiện tại để thu
về một khoản lớn hơn trong tương lai với một mức lãi suất nhất định được coi
như là hoạt động tín dụng. Bản chất của chiết khấu thương phiếu là ngân hàng
ứng tiền cho người bán và thay thế người mua trả tiền trước cho người bán.


12

- Cho vay: Là hình thức ngân hàng cho khách hàng mượn một lượng tiền
nhất định với cam kết trong hợp đồng tín dụng là khách hàng phải hoàn trả cả
gốc và lãi trong một khoảng thời gian nhất định.
- Bảo lãnh: Là hình thức ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài
chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù trong trường hợp này, ngân hàng
không xuất tiền ra trực tiếp cho khách hàng của mình và chỉ thực hiện nghĩa
vụ tài chính hộ khách hàng khi khách hàng không còn khả năng chi trả.
- Cho thuê vận hành: Là việc ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản và sau đó
cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định về thời gian và giá
cả…và để được sử dụng tài sản thuê đó thì cứ đến hàng tháng, quý hoặc năm
tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên mà khách hàng phải thanh toán cho ngân
hàng một khoản tiền nhất định.
(4) Căn cứ theo tài sản đảm bảo
Theo căn cứ này, tín dụng được chia thành 2 loại sau:
- Tín dụng có tài sản đảm bảo: Là loại tín dụng mà khi khách hàng muốn
vay vốn tại ngân hàng thì khách hàng phải có tài sản đem ra làm đảm bảo
như: sổ đỏ, nhà cửa, máy móc thiết bị, hàng hoá, bảo lãnh của bên thứ ba để
bảo lãnh cho khoản vay và trong trường hợp khách hàng không trả được nợ

cho ngân hàng thì ngân hàng có quyền bán các tài sản đảm bảo này để bù vào
phần mà khách hàng không đảm bảo thanh toán.
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo: Đây là loại tín dụng mà khi khách
hàng vay vốn ngân hàng thì không cần có tài sản thế chấp mà ngân hàng chỉ
dựa vào uy tín của khách hàng là có thể cho khách hàng vay vốn. Thông
thường, khách hàng muốn tiếp cận đến khoản tín dụng này thì khách hàng
phải có tình hình sản xuất kinh doanh tốt, có nguồn tài chính dồi dào, có quan
hệ với ngân hàng lâu năm.
(5) Căn cứ vào mức độ rủi ro


13

Theo căn cứ này thì có các loại tín dụng sau đây:
- Tín dụng lành mạnh: Đây là các khoản tín dụng mà theo đánh giá của
ngân hàng thì có khả năng thu hồi cả gốc và lãi đúng hạn.
- Tín dụng không lành mạnh: Đây là khoản tín dụng mà theo đánh giá của
ngân hàng có dấu hiệu không lành mạnh trong việc thanh toán cả gốc và lãi,
vì tình hình tài chính của khách hàng có vấn đề do khách hàng không bán
được hàng, bị thiên tai, lũ lụt, bị rủi ro trong kinh doanh…
Ngoài ra còn có một số cách phân loại khác như: Theo ngành nghề kinh
tế thì có tín dụng công nghiệp, tín dụng nông nghiệp, tín dụng ngư
nghiệp…Theo đối tượng tín dụng thì có tín dụng tài sản lưu động, tín dụng tài
sản cố định.
1.2. Chất lượng tín dụng ngân hàng
1.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng ngân hàng
Trong các nghiệp vụ của ngân hàng, nguồn thu từ hoạt động tín dụng
chiếm tỷ trọng lớn trong lợi nhuận của ngân hàng, nhưng hoạt động này cũng
chứa đựng rất nhiều rủi ro. Vì thế, các ngân hàng không ngừng phải nâng cao
chất lượng hoạt động tín dụng của mình đảm bảo duy trì sự tồn tại và phát

triển của ngân hàng.
Tín dụng và một hoạt động dịch vụ của NHTM, do vậy chất lượng tín
dụng được hiểu theo nghĩa chung là năng lực của một sản phẩm hoặc một
dịch vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu của người khách hàng. Với dịch vụ tín
dụng của NHTM, Chất lượng tín dụng được xem xét trên 2 khía cạnh:
- Trên quan điểm của ngân hàng:
Chất lượng tín dụng thể hiện ở giới hạn, mức độ, phạm vi tín dụng phải
phù hợp với khả năng thực lực của ngân hàng, phải đảm bảo tính cạnh tranh,
tỷ lệ nợ xấu đảm bảo đúng quy định của nhà nước và hợp lý, dư nợ ngày càng
gia tăng, hoạt động của ngân hàng ngày càng có lãi.


14

Như vậy, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh sự
thích nghi của ngân hàng với sự thay đổi môi trường bên ngoài, nó thể hiện
sức mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều chỉ tiêu như: Nợ xấu, mức độ an
toàn của vốn tín dụng, tổng dư nợ...
- Trên quan điểm của khách hàng
Đó là sự đảm bảo thoả mãn nhu cầu hợp lý nhất về vốn của ngân hàng
đối với khách hàng. Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với khách hàng là sự
thoả mãn về dịch vụ tín dụng với khách hàng, cụ thể: thời hạn cho vay, số tiền
cho vay, lãi suất, thủ tục đơn giản, thuận tiện...
- Chất lượng tín dụng xét từ giác độ kinh tế, xã hội
Mấy năm gần đây, nhờ có hoạt động tín dụng của ngân hàng nên đã
góp phần thay đổi nền kinh tế, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tín dụng góp phần tích cực vào việc phục vụ sản xuất và lưu thông
hàng hoá, từ đó góp phần vào giải quyết công ăn việc làm, khai thác một cách

tốt nhất các nguồn lực của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung
sản xuất từ đó làm hài hoà giữa tăng trưởng tín dụng và phát triển kinh tế
1.2.2. Các chỉ tiêu đo lường chất lượng tín dụng
1.2.2.1. Chỉ tiêu đo lường chất lượng tín dụng trên quan điểm của ngân
hàng
(1) Hiệu suất sử dụng vốn
Phân tích cơ cấu cho vay trong tổng nguồn vốn là việc xem xét đánh giá
tỷ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng của bản thân ngân hàng
cũng như đòi hỏi về vốn của nền kinh tế chưa. Trên cơ sở đó, các ngân hàng
thương mại có thể biết được khả năng mở rộng tín dụng của mình. Từ đó, có
thể quyết định quy mô, tỷ trọng đầu tư vào các lĩnh vực một cách hợp lý để


15

vừa đảm bảo an toàn vốn cho vay, vừa có thể thu lại lợi nhuận cao nhất có
thể.
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn

=
Tổng nguồn vốn

(2) Tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là hiện tượng phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không hoàn
hảo khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình cho
ngân hàng đúng hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của
ngân hàng thương mại ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối
quý, cuối năm.

Tỷ lệ nợ quá hạn
(%)

=

Nợ quá hạn * 100
Tổng dư nợ

Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng tín dụng, NHTM khi cho vay phải thu
hồi vốn và lãi đúng hạn. Nếu đến hạn khách hàng không trả hết nợ, ngân hàng
chuyển toàn bộ dư nợ còn lại sang nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn cao chứng tỏ
chất lượng tín dụng càng yếu kém. Theo quy định của NHNN, tỷ lệ này phải
được kiểm soát trong phạm vi không quá 5%.
Tùy theo mức độ và thời gian quá hạn thanh toán mà ngân hàng sẽ phân nợ
quá hạn thành các loại sau:
 Nợ cần chú ý (nhóm 2): các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là
có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách
hàng suy giảm khả năng trả nợ.
 Nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3): Các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các
khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất


16

một phần nợ gốc và lãi. Nếu xét theo thợ hạn trả nợ thì là những khoản
nợ có thời gian quá hạn từ 30 ngày đến dưới 90 ngày
 Nợ nghi ngờ (nhóm 4): Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là
khả năng tổn thất cao. Nếu xét theo thợ hạn trả nợ thì là những khoản
nợ có thời gian quá hạn từ 90 ngày đến dưới 180 ngày

 Nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5): các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Nếu xét theo thợ hạn
trả nợ thì là những khoản nợ có thời gian quá hạn từ 180 ngày trở lên.
Nợ xấu là nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5.
(3) Vòng quay vốn tín dụng
Đây là chỉ tiêu thường được các ngân hàng thương mại tính toán hàng
năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín
dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Doanh số thu nợ trong kỳ
Vòng quay vốn tín dụng

=
Dư nợ bình quân

Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Vòng quay vốn
tín dụng càng cao chứng tỏ nguốn vốn vay ngân hàng đã luân chuyển nhanh,
tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với một số vốn
nhất định, nhưng do vòng quay vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng đã đáp ứng
được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, mặt khác ngân hàng có vốn để tiếp
tục đầu tư vào các lĩnh vực khác. Như vậy, hệ số này càng tăng phản ánh tình
hình quản lý vốn tín dụng càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao.
(4) Thu nhập từ hoạt động tín dụng
Không thể nói một khoản tín dụng có chất lượng cao khi nó không đem
lại một khoản thu nhập cho ngân hàng. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng là
nguồn thu chủ yếu để ngân hàng tồn tại và phát triển. Lợi nhuận do tín dụng


17

đem lại chứng tỏ các khoản vay không những thu hồi được gốc mà còn có lãi,

đảm bảo được độ an toàn của nguồn vốn cho vay.
Thu nhập từ
hoạt động tín dụng

=

Lãi từ hoạt động tín dụng
Tổng thu nhập

Ta thấy rằng nếu ngân hàng thương mại chỉ chú trọng vào việc giảm và
duy trì một tỷ lệ nợ quá hạn thấp mà không tăng được thu nhập từ hoạt động
tín dụng thì tỷ lệ nợ quá hạn thấp cũng không có ý nghĩa. Chất lượng tín dụng
được nâng cao chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó góp phần nâng cao khả năng sinh
lời của ngân hàng.
1.2.2.2. Chỉ tiêu chất lượng tín dụng trên quan điểm của khách hàng
Có thể nói thước đo chất lượng tín dụng của một ngân hàng chính là sự
hài lòng của khách hàng, đồng thời ngân hàng cũng phải đảm bảo hài hoà với
an toàn và đạt hiệu quả tín dụng cao nhất. Các chỉ tiêu chất lượng tín dụng
trên quan điểm khách hàng:
(1) Sự đa dạng của dịch vụ cung cấp:
Tiêu chí này thể hiện tính đa dạng, phong phú của dịch vụ tín dụng mà
một NHTM mang đến cho khách hàng. Tính đa dạng trong hoạt động tín dụng
là một đặc điểm quan trọng của dịch vụ ngân hàng. Một NHTM có số lượng
dịch vụ tín dụng càng nhiều thì năng lực cạnh tranh càng cao, đáp ứng được
càng nhiều các nhu cầu của khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi để khách hàng
được sử dụng nhiều dịch vụ tin cậy, chất lượng tốt.
(2) Thủ tục và quy chế cho vay vốn đơn giản, thuận tiện
Đây là khâu tiếp xúc đầu tiên của khách hàng với ngân hàng. Thủ tục làm
việc, tinh thần thái độ phục vụ khách hàng của các cán bộ tín dụng sẽ gây ấn
tượng mạnh cho khách hàng. Yêu cầu về các thủ tục giấy tờ thời gian làm

việc đơn giản, không gây phiền hà kết hợp tinh thần thái độ phục vụ chu đáo
nhiệt tình của cán bộ tín dụng sẽ tạo cho khách hàng một tâm lý thoải mái, tạo


18

niềm tin và hình ảnh tốt trong mỗi khách hàng.
(3) Năng lực và thái độ phục vụ của cán bộ tín dụng
Năng lực trình độ chuyên môn, kinh nghiệm của cán bộ tín dụng có ảnh
hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động tín dụng, thể hiện ở năng lực xét duyệt
các khoản cho vay. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt hiện nay, Cán bộ ngân
hàng không chỉ biết tuân thủ các quy định của pháp luật mà phải có kiến thức
chuyên môn về nghiệp vụ ngân hàng, phải biết phân tích đánh giá các rủi ro
có thể có của mỗi loại hình dịch vụ, xu hướng phát triển của mỗi loại nghiệp
vụ… để có các biện pháp dự phòng và bước đi thích hợp.
Bên cạnh đó, thái độ nhân viên cũng là những yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến sự hài lòng của khách hàng: tính tin cậy, sự đồng cảm, tính đáp
ứng và năng lực phục vụ. Các dịch vụ KHCN về cơ bản là giống nhau ở mọi
ngân hàng, chỉ có cách thức phục vụ, mang sản phẩm đến tận tay người tiêu
dùng như thế nào mới là yếu tố tạo sự khác biệt, điều này phụ thuộc vào đội
ngũ nhân viên giỏi, có khả năng cung cấp dịch vụ nhanh chóng chính xác, có
nhiệt huyết và tận tâm với khách hàng.
(4) Cơ sở vật chất, công nghệ hiện đại của ngân
Một cơ sở tốt có ảnh hưởng tốt tới tâm lý khách hàng, giúp hỗ trợ tốt việc
thực hiện các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng một cách chính xác, nhanh
chóng và tin cậy. Ngoài ra, việc cung cấp các điểm giao dịch, phương tiện
giao dịch tốt giúp thuận tiện cho việc giao dịch, giảm bớt chi phí cho khách
hàng. Do vậy, chất lượng dịch vụ ngân hàng, trong đó có chất lượng tín dụng
cũng bị ảnh hưởng bởi yếu tố này.
Với công nghệ thông tin, công nghệ hiện đại giúp cho ngân hàng có thể

tiếp cận được những thông tin phục vụ cho công tác thẩm định tốt nhất trên
các mặt: thông tin về khách hàng, thông tin về dự án (tính hiệu quả của dự án,
xu hướng phát triển đối với sản phẩm của dự án, thông tin về thị trường, giá


19

cả, cạnh tranh...) một cách nhanh chóng và chuẩn xác nhất, thông tin quản lý
đối với các khách hàng lớn vay vốn của nhiều tổ chức tín dụng. Độ tin cậy
của các thông tin này là yếu tố trước tiên để cán bộ tín dụng ra quyết định cho
vay và ảnh hưởng rất lớn đến độ an toàn của món vay.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng
(1) Chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên
Con người là nhân tố trung tâm trong mọi hoạt động và trong hoạt động
tín dụng cũng không phải là ngoại lệ. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, hệ
thống ngân hàng ngày càng hiện đại đòi hỏi chất lượng con người trong các
ngân hàng ngày càng phải biến đổi về chất, chất lượng ngày càng phải cao để
đáp ứng kịp thời và có hiệu quả trong hoạt động ngân hàng nói chung và
trong hoạt động tín dụng nói riêng. Nhiệm vụ của cán bộ tín dụng ở Ngân
hàng là: Giúp phân tích tài chính và quản lý rủi ro tín dụng một cách có hiệu
quả và hiệu suất cao, phát triển các khách hàng hiện có và tăng khả năng sinh
lời của Ngân hàng. Một cán bộ tín dụng được coi là có trình độ chuyên môn
giỏi khi có các kỹ năng nghiệp vụ rộng ngoài hai loại kỹ năng chính là kỹ
năng đánh giá và kỹ năng kỹ thuật, thể hiện sự hiểu biết toàn diện các quy tắc
công việc, luật pháp và kinh nghiệm quản lý và kinh doanh, kế toán, kinh tế
học, tài chính để có thể phân tích nhằm đưa ra các kết luận đúng đắn từ các số
liệu mà họ thu nhập được từ khách hàng cũng như từ nhiều nguồn thông tin
khác. Khi tuyển chọn cán bộ không chỉ chú ý đến chất lượng chuyên môn như
năng lực phân tích dự án đầu tư, đánh giá tài sản thế chấp, bảo đảm, giám sát
quá trình sử dụng tiền vay của khách hàng, hiểu biêt kinh tế xã hội địa bàn do

mình phụ trách mà còn phải xem xét đến tư cách đạo đức của cán bộ vì hoạt
động tín dụng buộc cán bộ phải thường xuyên tiếp xúc với môi trường tiền
bạc nếu không có tư cách đạo đức tốt rất dễ dẫn đến sa ngã, gây thiệt hại cho
ngân hàng.


20

(2) Tổ chức bộ máy của ngân hàng
Trong cơ cấu tổ chức của ngân hàng, các phòng ban phải sắp xếp một
cách hợp lý, có khoa học, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các
phòng ban, các bộ phận nghiệp vụ của Ngân hàng. Một cơ cấu tổ chức khoa
học, hợp lý sẽ giúp nâng cao hiệu lực quản lý các khoản cho vay, rút ngắn
thời gian và thủ tục cho vay, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng.
(3) Chính sách, pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng
Chính sách tín dụng được xem là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng,
quyết định sự thành bại của một Ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng
đắn, thích hợp với điều kiện kinh doanh của Ngân hàng sẽ giúp Ngân hàng
thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời cho hoạt động tín
dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật và đường lối chính sách
của nhà nước.
(4) Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng là những quy định cụ thể trong công tác tín dụng từ
khâu thẩm định khách hàng, thiết lập hồ sơ tín dụng đến việc giải ngân và thu
nợ; đồng thời quyền hạn và nhiệm vụ của từng người, từ bộ phận nhân viên
đến cấp lãnh đạo trong việc giải quyết hồ sơ tín dụng…
Từng bước, từng khâu trong quy trình tín dụng đều có ảnh hưởng trực tiếp
đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động tín dụng. Khâu thẩm định là khâu
quan trọng đầu tiên giúp sàng lọc, lựa chọn ra những khách hàng tốt, những
dự án đầu tư có hiệu quả để ngân hàng đầu tư vốn. Khâu thiết lập hồ sơ tín

dụng là khâu quan trọng kế tiếp, bảo vệ ngân hàng trong trường hợp khách
hàng mất khả năng thanh toán và duy trì vị thế được bảo đảm của Ngân hàng
đối với tài sản thế chấp của người vay. Sau đó, để thu nợ và kết thúc giao dịch
về tín dụng, Ngân hàng phải thực hiện kiểm tra sau khi cho vay. Đây cũng là
một khâu hết sức quan trọng giúp Ngân hàng theo dõi diễn biến của khoản


21

vay, sự tuân thủ những thõa thuận và tình hình hoạt động kinh doanh của bên
vay. Việc sớm phát hiện ra vấn đề của người vay có thể dẫn đến gián đoạn lưu
chuyển tiền mặt và mất khả năng thanh toán có thể cho phép Ngân hàng bảo
vệ vị thế của mình trước khi tổn thất lớn xảy ra.
Sự phối hợp nhịp nhàng các bước trong quy trình tín dụng sẽ tạo điều kiện
cho vốn tín dụng được luân chuyển bình thường, đúng kế hoạch từ đó góp
phần đảm bảo chất lượng tín dụng.
(5) Kiểm soát nội bộ
Đây là biện pháp giúp cho ban điều hành NHTM biết được tình trạng của
hoạt động tín dụng cũng như các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng
nhằm kịp thời phát hiện những sai sót, hạn chế trong công tác quản lý để có
những biện pháp xử lý kịp thời tránh tổn thất lớn, nâng cao hiệu quả hoạt
động tín dụng.
(6) Công nghệ phục vụ cho hoạt động tín dụng
Bên cạnh các yếu tố đã được nêu ở trên, công nghệ cũng là một yếu tố
không kém phần quan trọng tạo nên chất lượng trong hoạt động tín dụng.
Công nghệ hiện đại, một mặt giúp đáp ứng kịp thời và nhanh chóng đáp
ứng nhu cầu của khách hàng trong mọi mặt dịch vụ, mặt khác giúp các cấp
quản lý NHTM nắm bắt kịp thời tình hình hoạt động tín dụng nhằm điều
chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế nhằm thỏa mãn ngày càng
cao nhu cầu của khách hàng.

(7) Môi trường kinh doanh: Môi trường kinh tế xã hội, pháp lý, chính
trị
Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp là tổng hòa các mối quan hệ
kinh tế xã hội, chính trị, pháp luật có liên quan đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.


22

Các yếu tố kinh tế, xã hội bao gồm: tình hình phát triển kinh tế, thu nhập
của dân cư, tình hình phát triển sản xuất kinh doanh của khu vực, mức độ hội
nhập kinh tế quốc tế là các yếu tố có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh
nghiệp, trong đó có hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Môi trường kinh tế xã hội ổn định không bị khủng hoảng về tài chính tiền
tệ, không bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, siêu lạm phát là cơ sở vững chắc để
khách hàng đầu tư, tiến hành sản xuất kinh doanh.
Ngày nay, cùng với chiến lược toàn cầu hóa nền kinh tế, sự giao lưu về
văn hóa kinh tế giữa các nước là rất rộng, sự thay đổi nền kinh tế của các
nước trong khu vực và thế giới tác động rất lớn đến nền kinh tế trong nước.
Vì vậy, môi trường kinh tế ở nước ngoài cũng có ảnh hưởng đến các hoạt
động sản xuất kinh doanh của khách hàng và là người vay của ngân hàng.
- Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý bao gồm hệ thống luật pháp, các văn bản của nhà
nước ban hành liên quan đến hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Khi chúng ta có một môi trường pháp lý đồng bộ, đầy đủ, thống nhất,
ổn định sẽ có tác động rất lớn đến chất lượng hoạt động tín dụng.
Nền kinh tế càng phát triển thì hệ thống các văn bản ngày càng phải
hoàn chỉnh để bắt kịp sự phát triển đó. Hệ thống các văn bản pháp luật của
hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng có tác động
hết sức mạnh mẽ tới sự rủi ro trong hoạt động tín dụng hay bảo toàn vốn mà

ngân hàng bỏ ra, trong điều kiện các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng (cả
ngân hàng và khách hàng) tuân thủ đúng như các văn bản pháp luật thì quan
hệ tín dụng mới đem lại lợi ích cho các bên tham gia.
(9) Các nhân tố khác
- Sự tác động của chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước


23

bao gồm các chính sách tài chính tiền tệ, chính sách lãi suất, chính sách đối
ngoại... có vai trò quan trọng đối với hoạt động của nền kinh tế nói chung và
hoạt động của các ngân hàng, các doanh nghiệp nói riêng. Chính sách kinh tế
trong hoàn cảnh này thì có tác dụng cho cả ngân hàng và doanh nghiệp nhưng
trong hoàn cảnh khác thì lại ngược lại. Các chính sách này nhằm ưu tiên phát
triển hay hạn chế một ngành nào đó để đảm bảo cân đối cho nền kinh tế. Do
vậy các chủ trương, chính sách của Nhà nước phải đúng đắn thì mới thúc đẩy
sản xuất kinh doanh phát triển, là điều kiện cần để đạt được chất lượng và
hiệu quả của các khoản tín dụng ngân hàng.
- Sự tác động của thiên tai
Chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhiều khi mang tín thời
vụ. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, các doanh nghiệp hoạt động trong
các ngành nông - lâm - ngư nghiệp lại chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Khi thiên
tai xẩy ra như: lũ lụt, hạn hán, mưa bão, hỏa hoạn,... làm cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị đổ bể, dẫn đến khả năng hoàn trả
các khoản nợ là khó khăn hoặc không thể, làm cho chất lượng của các khoản
tín dụng bị giảm sút.
1.3. Kinh nghiệm về nâng cao chất lượng tín dụng của các ngân hàng
thương mại trên thế giới
1.3.1 Kinh nghiệm thế giới trong nâng cao chất lượng tín dụng

Chất lượng tín dụng là yếu tố quan trọng trong việc quyết định sự tồn
tại và phát triển của bất cứ ngân hàng nào. Trong đó, việc kiểm soát và phòng
ngừa rủi ro là khâu then chốt trong quá trình quản lý và nâng cao chất lượng
tín dụng.
Cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ bắt đầu vào năm 2008, có ảnh hưởng
lớn đến nền kinh tế toàn cầu. Sự sụp đổ của 195 ngân hàng từ năm 2008 và 30


×