Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ ở việt nam hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.96 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THU HÀ

THùC HIÖN PH¸P LUËT
VÒ QUYÒN CHÝNH TRÞ §èI VíI PHô N÷
ë VIÖT NAM HIÖN NAY

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 62 38 01 01

HÀ NỘI - 2018


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. NGUYỄN THỊ BÁO
2. TS. LÊ ĐINH MÙI

Phản biện 1

Phản biện 2

Phản biện 3

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án
cấp Học viện họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi


ngày

tháng

năm 2018

Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, quan tâm đến công tác nữ là quan điểm nhất quán của
Đảng và Nhà nước ta trong suốt quá trình cách mạng. Trong Di chúc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã viết: Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước,
phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản
xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất
nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả
công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một
cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ.
Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, chủ trương của Ðảng về bình đẳng
giới và trao quyền cho phụ nữ được thể hiện xuyên suốt trong các Nghị
quyết Ðại hội Ðảng, các nghị quyết và chỉ thị của Trung ương Ðảng, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư về công tác quần chúng, công tác vận động phụ nữ,
công tác cán bộ nữ. Từ chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều
chính sách, pháp luật cụ thể nhằm tạo điều kiện để phụ nữ phát triển và
thúc đẩy bình đẳng giới, trong đó quan trọng nhất là bảo đảm và tạo điều
kiện để phụ nữ Việt Nam thực hiện quyền chính trị.

Quyền bình đẳng nam nữ đã được xác định ngay từ Hiến pháp đầu
tiên năm 1946 của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Vấn đề này tiếp
tục được kế thừa trong các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992, 2013 và cụ
thể hóa trong các văn bản luật và dưới luật. Hàng loạt các văn bản pháp
luật của Nhà nước đã được ban hành nhằm nâng cao vị thế của phụ nữ
trong xã hội và thực hiện bình đẳng giới như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao
động, Luật Hôn nhân và Gia đình, Pháp lệnh Dân số, Luật Bình đẳng giới,
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình... Có thể thấy hệ thống luật pháp,
chính sách về phụ nữ ngày càng được hoàn thiện, đặc biệt, với việc ban
hành Hiến pháp 2013, quyền con người trong đó có quyền của phụ nữ
được khẳng định là động lực quan trọng để phát triển xã hội. Cùng với
việc ban hành pháp luật, Việt Nam đã phê chuẩn và gia nhập Tuyên ngôn
toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 và hầu hết các điều ước quốc tế cơ
bản về quyền con người, trong đó có các công ước liên quan đến các quyền
của phụ nữ như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966),
Công ước về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966, Công ước về xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (1979, CEDAW); Công
ước quốc tế về quyền của người khuyết tật...


2

Pháp luật Việt Nam về cơ bản đã nội luật hóa các chuẩn mực quốc tế
về quyền con người trong đó có quyền chính trị của phụ nữ, phù hợp cùng
với xu thế phát triển chung của nhân loại và đặc thù của Việt Nam nên đã
tạo động lực giúp người phụ nữ vươn lên, khắc phục khó khăn, trở ngại
đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra, khẳng định vị thế của mình trong gia đình
và ngoài xã hội. Kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIV, phụ nữ
chiếm 26,6% trong tổng số đại biểu. Đây là tỷ lệ cao qua các kỳ bầu cử
Quốc hội và đã đưa Việt Nam thuộc hàng nước có tỷ lệ nữ đại biểu trong

cơ quan lập pháp cao nhất châu Á cũng như trên thế giới (trên 25%). Tỷ lệ
nữ đại biểu Quốc hội nước ta cao hơn hẳn so với Trung Quốc, Ấn Độ,
Nhật Bản và nhiều nước trong khu vực. Theo Liên minh các Nghị viện,
Việt Nam đứng thứ 37 trong tổng số 188 nước trên thế giới về tỷ lệ phụ nữ
trong cơ quan lập pháp (số liệu tính đến ngày 31/01/2011 trên cơ sở báo
cáo của cơ quan lập pháp các nước).
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc đảm bảo
cho phụ nữ được thực hiện các quyền do pháp luật quy định, cần phải thừa
nhận rằng công tác thực hiện pháp luật (THPL) về các quyền của phụ nữ
trong đó có quyền chính trị vẫn còn nhiều hạn chế. Mặc dù, Việt Nam xếp
thứ hạng cao trên thế giới về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nhưng vẫn còn
khoảng cách khá lớn giữa tỷ lệ nam và nữ (73,4% và 26,6%); đặc biệt là tỷ
lệ phụ nữ nắm giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt (cấp trưởng). Vẫn còn
những rào cản từ phía gia đình, xã hội đối với phụ nữ khi tham gia công
tác xã hội, chính trị. Tỉ lệ phụ nữ tham chính vẫn còn chưa đạt được yêu
cầu đề ra; sự phân biệt đối xử về cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp của
phụ nữ dẫn đến hẫng hụt đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ vẫn là thách
thức lớn; pháp luật về quyền chính trị và THPL về quyền chính trị của phụ
nữ ở nước ta còn chưa được nhận thức đầy đủ như là một công cụ để quản lý
xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho phụ nữ. Tình trạng vi phạm
pháp luật đối với phụ nữ, nhất là vi phạm quy định pháp luật về quyền chính
trị của phụ nữ vẫn còn diễn ra ở một số nơi là cản trở quá trình phát huy dân
chủ, tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(XHCN), đi ngược lại bản chất tốt đẹp của xã hội chúng ta đang xây dựng.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên là do các nguyên nhân như: Hệ thống
pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ còn thiếu đồng bộ và tính khả thi
chưa cao; nhận thức về chính sách pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ
của các chủ thể còn chưa đầy đủ; năng lực THPL của các chủ thể còn hạn



3

chế; công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc THPL còn chậm, thiếu kiên
quyết trong xử lý dẫn đến việc thực hiện không đúng, đủ.
Vấn đề đặt ra là tại sao Việt Nam được đánh giá là một trong những
quốc gia có hệ thống pháp luật tốt nhìn từ góc độ bình đẳng giới, nhưng tỉ
lệ phụ nữ tham chính có chiều hướng giảm, sự hẫng hụt về nguồn cán bộ
nữ tham gia cấp ủy nhiệm kỳ 2015-2020, kể cả nhiệm kỳ 2020-2025 đang
là thực tế ở tất cả các cấp; tiếng nói của phụ nữ trong các lĩnh vực quan
trọng của đất nước chưa được chú trọng... Điều này đặt ra yêu cầu phải
nghiên cứu để tìm ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân kết quả, hạn
chế trong THPL để kiến nghị giải pháp đảm bảo THPL về quyền chính trị
của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay là cần thiết.
Vì vậy, nghiên cứu sinh chọn đề tài: "Thực hiện pháp luật về quyền
chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu trong phạm vi
luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn việc THPL về quyền chính trị
đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, luận án luận giải, xác định các quan
điểm và giải pháp đảm bảo THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt
Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là, phân tích, làm rõ khái niệm quyền chính trị, pháp luật về
quyền chính trị của phụ nữ; Chủ thể, nội dung, hình thức, vai trò, các yếu
tố bảo đảm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ; rút ra những gợi mở
đối với Việt Nam từ nghiên cứu kinh nghiệm THPL về quyền chính trị đối
với phụ nữ một số nước thế giới.
Hai là, phân tích chỉ ra những kết quả, hạn chế, nguyên nhân của kết

quả, hạn chế của pháp luật và THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở
Việt Nam hiện nay.
Ba là, luận giải, xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp bảo
đảm thực THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận án nghiên
cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật và THPL về quyền chính


4

trị đối với phụ nữ. Từ đó, luận án luận chứng những cơ sở khoa học và đề
xuất các quan điểm, giải pháp đảm bảo THPL về quyền chính trị đối với
phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu việc THPL về quyền chính trị đối
với phụ nữ ở Việt Nam.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu trên lãnh thổ Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu pháp luật và THPL về quyền chính
trị đối với phụ nữ từ năm 1945 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật, về quyền con người, quyền công dân;
chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về bình đẳng
giới và quyền chính trị của phụ nữ, về giải quyết các vấn đề xã hội, xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật, phát huy nhân tố con người; bảo đảm quyền con người,

quyền công dân trong đó có quyền chính trị của phụ nữ trong xu thế hội
nhập và phát triển hiện nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu tư liệu thứ
cấp, phân tích và tổng hợp được sử dụng để thu thập thông tin từ các
nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu THPL về quyền chính trị đối
với phụ nữ ở nước ta hiện nay.
Trong Chương 2, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích,
đánh giá để xây dựng các khái niệm; phương pháp phân tích, tổng hợp
dùng để nghiên cứu chủ thể, nội dung, hình thức và các yếu tố bảo đảm
THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay; phương pháp
luật học so sánh được sử dụng để tham chiếu giữa các chuẩn mực quốc tế
và kinh nghiệm về THPL về quyền chính trị của đối với phụ nữ ở một số
nước trên thế giới và những giá trị có thể tham khảo đối với Việt Nam.
Trong Chương 3, tác giả sử dụng phương pháp thống kê, nhằm đánh
giá việc THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay, đồng
thời đánh giá, phân tích những kết quả, hạn chế, nguyên nhân của những
kết quả, hạn chế, từ đó tác giả làm sáng tỏ nội dung của Luận án.


5

Trong Chương 4, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích,
tổng hợp để đưa ra các quan điểm, giải pháp có căn cứ khoa học góp phần
bảo đảm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay.
5. Những điểm mới của luận án
5.1. Về phương diện lý luận
- Luận án đã xây dựng được khái niệm, làm rõ chủ thể, nội dung,
hình thức, vai trò và các yếu tố đảm bảo THPL về quyền chính trị đối với
phụ nữ.

- Từ nghiên cứu các chuẩn mực quốc tế về quyền chính trị của phụ
nữ, kinh nghiệm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ của một số nước
trên thế giới, rút ra những gợi mở đối với Việt Nam.
5.1. Về phương diện thực tiễn
- Luận án là công trình đầu tiên đánh giá rõ thực trạng pháp luật và
THPL về quyền chính trị của phụ nữ, phân tích chỉ ra những ưu điểm, hạn
chế và nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế trong THPL về quyền chính trị
đối với phụ nữ ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
- Luận án luận chứng các quan điểm, đề xuất các giải pháp bảo đảm
THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam, luận án là tài liệu
tham khảo trong quá trình sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản pháp
luật về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam.
- Luận án cung cấp luận cứ khoa học và tài liệu cho các cơ quan
trong hệ thống chính trị (HTCT), các tổ chức xã hội thực hiện giáo dục
nâng cao ý thức pháp luật, tổ chức THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ
ở Việt Nam.
- Luận án được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu giảng dạy, học tập về pháp luật về quyền con người nói chung, pháp
luật về quyền của phụ nữ nói riêng trong các cơ sở đạo tạo chuyên luật và
không chuyên luật.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận án gồm 04 chương, 09 tiết.


6


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI

Qua khảo sát, đánh giá kết quả nghiên cứu về THPL và THPL về
quyền chính trị đối với phụ nữ cho thấy, có rất nhiều các công trình khoa
học được thể hiện dưới các hình thức khác nhau nghiên cứu các khía cạnh
của quyền chính trị, quyền chính trị của phụ nữ và cả việc bảo đảm THPL
về quyền chính trị đối với phụ nữ. Tuy nhiên, ở nước ta chưa có công trình
nào nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về THPL về quyền chính trị đối với
phụ nữ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Việc nghiên cứu cơ sở lý
luận và thực tiễn tình hình THPL nói chung, THPL về quyền chính trị đối
với phụ nữ ở Việt Nam nói riêng còn là lĩnh vực chưa có sự quan tâm,
nghiên cứu một cách đúng mức. Đây chính là điểm hạn chế, khoảng trống
còn bỏ ngỏ trong nghiên cứu khoa học pháp lý cũng như khoa học về
quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

Luận án nghiên cứu cơ sở lý luận của THPL về quyền chính trị đối
với phụ nữ, trong đó tập trung phân tích luận giải các vấn đề cơ bản khái
niệm, chủ thể, nội dung, hình thức, vai trò, các yếu tố đảm bảo THPL về
quyền chính trị đối với phụ nữ; Luận án tập trung phân tích đánh giá
những nội dung về thực trạng THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở
Việt Nam hiện nay; phân tích, hệ thống hóa và xây dựng các quan điểm
chỉ đạo, đề xuất các giải pháp để xử lý nguyên nhân và khắc phục những
hạn chế, yếu kém nhằm bảo đảm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ
ở Việt Nam hiện nay.
Với các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan

và dựa trên các lý thuyết sẵn có, luận án đặt ra giả thuyết nghiên cứu như
sau: Thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam
hiện nay còn rất nhiều hạn chế. Trước yêu cầu thực tiễn của đời sống xã
hội và yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi
phải nâng cao chất lượng thực hiện các quy định của pháp luật. Yêu cầu
nhận thức pháp luật và thực hiện pháp luật một cách đúng đắn là những
yếu tố quyết định bảo đảm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ.


7

Từ đó, luận án đặt ra các câu hỏi nghiên cứu quan trọng cần phải trả
lời: Hiểu thế nào là quyền chính trị, pháp luật về quyền chính trị, THPL về
quyền chính trị đối với phụ nữ? Pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ có
nội dung, đặc điểm, vai trò gì? Chủ thể nào có trách nhiệm THPL về
quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay? THPL về quyền
chính trị đối với phụ nữ có nội dung, hình thức, vai trò gì? Muốn bảo đảm
THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ cần những yếu tố nào? Nghiên
cứu THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở một số nước trên thế giới
có thể rút ra những giá trị tham khảo gì cho Việt Nam? Pháp luật Việt
Nam, THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ có những kết quả, hạn chế
gì? Có những nguyên nhân nào ảnh hưởng đến những kết quả, hạn chế đó?
Cần có quan điểm, giải pháp gì đề bảo đảm THPL về quyền chính trị ở
Việt Nam hiện nay?
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Tiết 1. KHÁI NIỆM QUYỀN CHÍNH TRỊ, PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
CHÍNH TRỊ CỦA PHỤ NỮ, THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỂ QUYỀN
CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ


2.1.1. Khái niệm quyền chính trị, pháp luật về quyền chính trị, nội
dung, đặc điểm, vai trò của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ
- Trên cơ sở nghiên cứu các khái niệm trong và ngoài nước, nghiên
cứu sinh đưa ra các khái niệm: Quyền chính trị của phụ nữ là một trong
những quyền cơ bản trong hệ thống các quyền con người, được Nhà nước
ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật và bảo đảm thực hiện; nó xác
lập năng lực pháp lý của phụ nữ trong quá trình phụ nữ tham gia trực tiếp
hoặc gián tiếp vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội; Pháp luật về quyền
chính trị của phụ nữ là hệ thống quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban
hành và bảo đảm thực hiện; điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình bảo đảm quyền được tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quản
lý nhà nước, quản lý xã hội nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ được hưởng
các quyền chính trị của mình và xây dựng một xã hội hướng đến mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Nội dung của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ là đề cập tới


8

các quy phạm pháp luật cụ thể hướng đến mục tiêu xác lập và bảo vệ năng
lực và tư cách pháp lý bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị.
- Đặc điểm pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ: Pháp luật về
quyền chính trị của phụ nữ ghi nhận và thiết lập các biện pháp bảo đảm
quyền con người, quyền công dân; pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ
thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với phụ nữ trong việc tạo điều kiện
và cơ hội cho phụ nữ bình đẳng như nam giới; pháp luật về quyền chính trị
của phụ nữ thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về phụ nữ.
- Vai trò của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ: Thể chế hóa

đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng về quyền chính trị của phụ
nữ; tạo cơ sở pháp lý vững chắc nhằm thực hiện và bảo vệ quyền chính trị
của phụ nữ; động viên, khuyến khích và tạo cơ sở pháp lý để phụ nữ đấu
tranh thực hiện quyền chính trị của mình.
2.1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ
Nghiên cứu, tham khảo các quan điểm khoa học pháp lý hiện nay,
nghiên cứu sinh đưa ra khái niệm: Thực hiện pháp luật là tổng thể các hoạt
động có mục đích của các chủ thể pháp luật nhằm hiện thực hóa các quy
định của pháp luật thành các hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể qua
các hoạt động cụ thể nhằm phát huy vai trò của pháp luật trong điều chỉnh
các quan hệ xã hội; khái niệm: Thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối
với phụ nữ Việt Nam hiện nay là tổng thể các hoạt động có mục đích của
các chủ thể nhằm hiện thực hóa pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ
trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thành các hành vi thực tế,
hợp pháp của các chủ thể qua các hoạt động cụ thể vì mục tiêu bảo đảm
cho phụ nữ được hưởng các quyền chính trị và phát huy năng lực, vai trò
trong xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
2.2. CHỦ THỂ, NỘI DUNG, HÌNH THỨC, VAI TRÒ VÀ CÁC YẾU
TỐ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CHÍNH TRỊ ĐỐI
VỚI PHỤ NỮ

2.2.1. Chủ thể thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ
Chủ thể THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ là các pháp nhân và
thể nhân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia THPL về quyền chính trị đối với
phụ nữ, bao gồm: Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và các cơ quan


9

nhà nước cấu thành bộ máy nhà nước; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các

đoàn thể nhân dân; phụ nữ Việt Nam và các chủ thể khác.
2.2.2. Nội dung thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ
THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay gồm các nội dung sau đây:
Một là, Nhà nước nói chung và các cơ quan, người có thẩm quyền nói
riêng triển khai các hoạt động tổ chức thực hiện và đưa chính sách pháp luật
nói chung và đối với phụ nữ nói riêng vào cuộc sống, đến với phụ nữ và các
chủ thể.
Hai là, các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền tổ chức thực
hiện các hoạt động áp dụng pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ và
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quá trình các chủ thể thực hiện quyền,
nghĩa vụ hoặc xử lý các tranh chấp, vướng mắc, vi phạm pháp luật hoặc
các sự kiện pháp lý khác phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện; khen
thưởng, tôn vinh các hành vi tích cực.
Ba là, tổ chức để các chủ thể, đặc biệt là phụ nữ THPL pháp luật về
quyền chính trị đối với phụ nữ, tạo thuận lợi và hỗ trợ các chủ thể trong
quá trình thực hiện trên thực tế các quyền, nghĩa vụ.
2.2.3. Hình thức thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với
phụ nữ
Tuân thủ (tuân theo) pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ: Là
hình thức THPL mà các chủ thể pháp luật kiềm chế không thực hành
những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm. Tuân thủ pháp luật là thực hiện
các hành vi hợp pháp (chủ yếu đòi hỏi đối với quy phạm bắt buộc và ngăn
cấm). Nó gồm các hoạt động mà chủ thể thực hiện, làm theo có ý thức, tự
giác nhưng mang tính bị động dựa trên yêu cầu, nội dung được mô tả trong
quy phạm pháp luật (giữ đúng, làm đúng, thực hiện đúng yêu cầu, nội
dung đề ra).
Sử dụng (vận dụng) pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ: là
hình thức THPL mà chủ thể thực hiện quyền, tự do pháp lý của mình. Các
quyền, tự do này được pháp luật quy định dưới dạng tiềm năng mà chủ thể

có thể thực hiện hoặc không thực hiện mà không bị pháp luật bắt buộc
hoặc ngăn cấm. Như vậy, sử dụng pháp luật rộng hơn và bao hàm tuân thủ
pháp luật.


10

Thi hành (chấp hành) pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ:
Là hình thức mà các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ của mình bằng
hành động tích cực. Nó là việc thực hiện đòi hỏi của quy phạm cụ thể, chứ
không còn là nghĩa vụ tuân thủ chung như tuân thủ pháp luật. Trong hình
thức này, pháp luật yêu cầu các chủ thể tự giác thực hiện nghĩa vụ một
cách đầy đủ, nghiêm chỉnh. Các chủ thể này làm đúng như pháp luật đòi
hỏi để pháp luật được thực hiện trên thực tế. Các quy phạm pháp luật được
thực hiện là các quy phạm bắt buộc. Chấp hành pháp luật đúng đắn là tuân
thủ pháp luật. Không chấp hành pháp luật là không tuân thủ pháp luật (vi
phạm pháp luật).
Áp dụng pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ: Đây là hình
thức THPL đặc biệt, chỉ do chủ thể có thẩm quyền thực hiện. Nhà nước
thông qua cơ quan có thẩm quyền hoặc người được Nhà nước trao quyền
tổ chức cho các chủ thể thực hiện quy định của pháp luật hoặc tự mình căn
cứ vào quy định của pháp luật ra các quyết định áp dụng pháp luật trong
các trường hợp cụ thể. Áp dụng pháp luật vừa là hoạt động THPL của cơ
quan nhà nước, vừa là hình thức THPL, là cách thức để Nhà nước tổ chức
cho các chủ thể THPL.
2.2.4. Vai trò của thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với
phụ nữ
Trước hết, THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ là cách thức, biện
pháp cơ bản, có hiệu lực, hiệu quả nhất để cho đường lối, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước, nhất là chính sách về bình đẳng giới

được thể hiện trong các quy phạm pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành
hiện thực trong thực tiễn.
Hai là, THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ là một trong những
phương tiện giữ vững bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, là phương thức đề cao trách nhiệm của cơ quan, người
có thẩm quyền trong bảo đảm công bằng xã hội; thực hiện bình đẳng giới.
Ba là, THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ là phương thức giúp
phụ nữ nâng cao ý thức pháp luật, bồi dưỡng năng lực làm chủ để tham gia
quản lý nhà nước và xã hội, giải quyết công việc chung của cộng đồng.
Bốn là, THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ là biện pháp phòng
ngừa các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm, tăng cường pháp chế XHCN.


11

2.2.5. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền chính trị
đối với phụ nữ
- Yếu tố chính trị, kinh tế - xã hội.
- Yếu tố pháp lý.
- Yếu tố tổ chức.
- Một số yếu tố tác động tiêu cực đến thực hiện pháp luật về quyền
chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
2.3. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI
PHỤ NỮ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ
THAM KHẢO ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về THPL về
quyền chính trị đối với phụ nữ cho thấy đây là vấn đề rất được quan tâm,
với nhiều sự vận dụng khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế chính trị, xã hội và hoàn cảnh của mỗi nước, mỗi thời kỳ lịch sử. Từ
kinh nghiệm của mỗi nước trong THPL về quyền chính trị đối với phụ

nữ, có thể kế thừa, phát triển, vận dụng sáng tạo trong điều kiện thực
tiễn Việt Nam hiện nay.
Chương 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỂ
QUYỀN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CHÍNH TRỊ CỦA
PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Nghiên cứu thực trạng pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ Việt
Nam cho thấy trong mỗi giai đoạn lịch sử, nội dung chính sách pháp luật
về quyền chính trị của phụ nữ ở nước ta có thay đổi cho phù hợp với thực
tiễn theo hướng từng bước được hoàn thiện, nội dung chính sách pháp luật
tương đối toàn diện, điều chỉnh các lĩnh vực có liên quan đến giải quyết
các vấn đề xã hội, mà trọng tâm là phụ nữ và bình đẳng giới gắn phát triển
kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội. Về hình thức, nó được thể hiện
trong nhiều văn bản, chương trình, chính sách, dự án về giới và bình đẳng
giới với hiệu lực pháp lý khác nhau. Về cơ bản, pháp luật về quyền chính
trị của phụ nữ đã đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, khẳng định vị trí, vai
trò và phát huy hiệu quả điều chỉnh. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, nó đã


12

bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, bất cập đòi hỏi phải tiếp tục được hoàn thiện
đáp ứng yêu cầu thực tiễn đất nước.
3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.2.1. Kết quả và nguyên nhân của kết quả trong thực hiện pháp
luật về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay

3.2.1.1. Kết quả thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ
nữ ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, kết quả THPL của các chủ thể có trách nhiệm thực hiện
quyền chính trị của phụ nữ
- Mức độ tuân thủ pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ.
- Mức độ sử dụng pháp luật vể quyền chính trị của phụ nữ để thực
hiện quyền của chủ thể.
- Mức độ chấp hành pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ để thực
hiện nghĩa vụ chủ thể.
- Mức độ áp dụng pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền:
Thứ hai, kết quả THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ trên các
nhóm quyền cụ thể.
* Quyền bầu cử, ứng cử
Nghiên cứu về thực trạng pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở
Việt Nam từ năm 1945 đến nay tại Mục 3.1 có thể thấy, với mỗi thời kỳ
cách mạng, mỗi giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Nhà
nước ta đều ban hành hệ thống VBQPPL phù hợp để đảm bảo quyền bầu
cử, ứng cử cho phụ nữ. Cùng với đó, việc tổ chức thực hiện các quy định
của pháp luật về quyền bầu cử, ứng cử cũng được tiến hành để hiện thực
hóa các quy định nói trên vào cuộc sống.
Tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội tăng dần qua các khóa: khóa III (19641971) tỉ lệ 16,7%; khóa IV (1971- 1975) tỉ lệ 29,7; khóa V (1975- 1976) tỉ
lệ 32%. Đây là giai đoạn hết sức khó khăn khi miền Bắc xây dựng CNXH,
dốc sức chi viện cho miền Nam; miền Nam chiến đấu anh dũng chống Mỹ
- ngụy, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất đất nước. Tuy
nhiên, nhưng sự tham gia của phụ nữ vào Quốc hội với tỷ lệ tăng lên đáng
kể thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong công tác cán bộ nữ.


13


Tỉ lệ đại biểu nữ khóa V (1975- 1976) (32%) cũng phản ánh một thực
trạng ở giai đoạn này, đó là, đây là giai đoạn đất nước ta đang dốc toàn lực
cho cuộc cuộc giải phóng, thống nhất đất nước. Tỷ lệ nữ Đại biểu Quốc
hội các khóa gần đây tăng, giảm không ổn định; xu hướng giảm trong 3
nhiệm kỳ liên tiếp: Khóa X nhiệm kỳ 1997- 2002 đạt 26,2%; khóa XI đạt
27,3%; khóa XII giảm còn 25,8%; khóa XIII giảm tiếp còn 24,4% (mặc dù
trước đó UBTVQH khóa XII có văn bản số 442/UBTVQH12 ngày
16/2/2011 dự kiến phân bổ số lượng, cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội
Khóa XIII là "Đại biểu Quốc hội là phụ nữ: 150 đại biểu (30%)"; Quốc hội
Khóa XIV tỉ lệ đại biểu nữ tăng lên 26,6% (132 đại biểu) nhưng vẫn thiếu
18 người so với dự kiến.
Đây là con số khá ấn tượng so với mức trung bình 19% của các nước
Châu Á và 21% của Thế giới. Tuy nhiên, Quốc hội từ khóa VIII đến khóa XI
có xu hướng tăng lên, song tỷ lệ này lại có xu hướng giảm xuống ở Quốc hội
khóa XII và XIII và điều này đã phản ánh, tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội thiếu
sự bền vững.
Kết quả cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội và HĐND khóa XIV được
đánh giá "cơ bản bảo đảm mục tiêu kế hoạch đề ra, tỷ lệ đại biểu là phụ
nữ, là người dân tộc thiểu số, đại biểu trẻ tuổi, có trình độ trên đại học cao
hơn so với nhiệm kỳ trước, phản ánh được tính đại diện rộng rãi cho các
tầng lớp Nhân dân; chất lượng đại biểu nâng lên đủ năng lực hoạt động với
chất lượng, hiệu quả cao hơn". Tuy nhiên, con số 133 người (tỷ lệ 26,80%)
là nữ đại biểu Quốc hội Khóa XIV vẫn còn cách khá xa so với con số
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đã đặt ra. Tỉ lệ
này cũng tương ứng ở bầu cử HĐND các cấp.
* Về quyền tham gia quản lý nhà nước
Phụ nữ trong Quốc hội: Mặc dù, xét tương quan về vị trí của nữ đại
biểu so với nam đại biểu có sự thiên lệch hơn trong Quốc hội song thực tế
hoạt động của nữ đại biểu cũng đã chứng minh họ tham gia có hiệu quả

trong các hoạt động thuộc lĩnh vực mà họ được phân công. Việc tăng cường
sự tham gia của phụ nữ trong cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nhà
nước đã góp phần tích cực thúc đẩy sự bình đẳng giới, góp phần vào cải thiện
đời sống vật chất, tinh thần, phát huy trình độ, năng lực và vai trò của phụ


14

nữ, đảm bảo để phụ nữ thực hiện các chức năng của mình và được tham gia
đầy đủ, bình đẳng vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, các nữ đại biểu Quốc hội (ở các khóa XI, XII, XIII và
XIV) chủ yếu tham gia vào các cơ quan của Quốc hội hoạt động trong lĩnh
vực văn hóa - xã hội như: Ủy ban về các vấn đề xã hội, Ủy ban văn hóa,
giáo dục, thanh thiếu niên và nhi đồng, Hội đồng dân tộc của Quốc hội
(xem bảng 3.3). Cơ hội cho phụ nữ tham gia vào các vị trí then chốt trong
các lĩnh vực quan trọng như tài chính ngân sách, kinh tế, đối ngoại, pháp
luật của Quốc hội còn là khoảng cách khá xa.
Phụ nữ trong cơ quan Đảng, tổ chức chính trị - xã hội, các Bộ và cơ
quan ngang Bộ: Theo báo cáo của Chính phủ (2012) cho thấy, tỷ lệ nữ giữ
vị trí chủ chốt chiếm khá thiên lệch so với nam giới, chỉ có 18,75% nữ có
vị trí chủ chốt trong các cơ quan Đảng. Trong nhiệm kỳ thứ XI, XII của
Đảng, trong bốn vị trí lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước là Tổng Bí
thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội không có vị trí nào là
nữ giới đại diện; Khóa XII, trong Ban Bí thư, có 1/10 thành viên là nữ,
trong Bộ Chính trị, 3/19 ủy viên là nữ. Trong ba nhiệm kỳ vừa qua, tỉ lệ nữ
trong trong BCH Trung ương chỉ duy trì khoảng từ 8-9% (xem bảng 3.4).
Theo kết quả Đại hội Đảng toàn quốc khóa XII, cho thấy tỷ lệ nữ tham gia
BCH Trung ương cũng không tăng so với nhiệm kỳ trước đó, vẫn chỉ
chiếm 10% (20/100).
Đối với các cơ quan tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan Bộ và

ngang Bộ, theo báo cáo của Chính phủ (2012), chỉ có 18,75% phụ nữ có vị
trí chủ chốt trong cơ quan thuộc tổ chức chính trị - xã hội so với 81,25%
của nam giới; có 7,91% nữ có vị trí chủ chốt ở trong các Bộ và cơ quan
ngang bộ so với 92,09% là nam giới; Trong tổng số 22 Bộ trưởng chỉ có 2
nữ giữ vị trí Bộ trưởng, chiếm 9% và có 10 nữ thứ trưởng trong tổng số
128 Thứ trưởng, chiếm 8%. Ở vị trí cấp vụ trưởng có 7% Vụ trưởng và
12% Phó Vụ trưởng là nữ. Nhiệm kỳ 2015-2020, trong số 18 bộ thì chỉ có
01 nữ bộ trưởng, 09 bộ không có lãnh đạo cấp bộ là nữ và 09 bộ chỉ có 01
lãnh đạo bộ là nữ. Bằng chứng này cho thấy, phụ nữ được bổ nhiệm vào
các vị trí chủ chốt ở các cơ quan Trung ương khá thiên lệch so với nam
giới và chưa tương xứng với tiềm năng và nguồn nhân lực nữ hiện có. Ở
địa phương, theo báo cáo của Chính phủ (2012) cũng cho thấy rằng, trong


15

tổng số 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì chỉ có 24 tỉnh, thành
phố có cán bộ nữ lãnh đạo chủ chốt, chiếm 38,1% và chỉ có 8,51% nữ lãnh
đạo chủ chốt ở các tỉnh, thành phố so với 91,49% của nam giới. Điều này
đã góp phần cũng cố thêm các phát hiện của các nghiên cứu trước đó khi
cho rằng nam giới chiếm ưu thế hơn so với phụ nữ trong "địa hạt" chính trị
từ Trung ương cho đến địa phương và đặc điểm này cũng tương đồng với
những nghiên cứu về phụ nữ của nhiều nước trên thế giới.
Phụ nữ trong UBND các cấp: Ủy ban Nhân dân do Hội đồng Nhân
dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng Nhân dân, cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương, được tổ chức ở cấp tỉnh, huyện và xã. Theo báo
cáo của Ủy ban các Vấn đề xã hội (2009) cho thấy, số lượng nữ là thành
viên UBND các cấp nhiệm kỳ 2004-2011 cũng được cải thiện hơn. Tuy
nhiên, số lượng nữ giữ chức vụ cấp phó chiếm khá cao so với vị trí là Chủ
tịch. Cụ thể, có 3,12% nữ giữ chức vụ Chủ tịch ở cấp tỉnh, Phó chủ tịch

chiếm 16,8%; cấp huyện: Chủ tịch chiếm 3,62%, Phó Chủ tịch chiếm
14,48%; cấp xã: tỷ lệ này là 3,42% và 8,84%. Nhìn vào kết quả này đã cho
thấy, Ủy ban Nhân dân ở tất cả ba cấp là phụ nữ chỉ chiếm dưới 10%. Tỉ lệ
nữ Phó Chủ tịch Ủy ban có cao hơn, nhưng vẫn thấp hơn rất nhiều so với tỉ
lệ nữ trong Hội đồng Nhân dân (cơ quan bầu ra Ủy ban Nhân dân). Tỷ lệ
nữ Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh tăng từ 1,64% trong khóa 19992004 lên 3,12% trong khóa 2004-2009, thì tỉ lệ nữ Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp huyện và xã lại giảm đi.
* Về quyền tự do lập hội và tự do hội họp
Thực tế ở Việt Nam, đã có rất nhiều hội, nhóm dân sự hoạt động.
Theo thống kê của Bộ Nội vụ, tính đến tháng 12-2014, cả nước có 52.565
hội, trong đó 483 hội hoạt động trên phạm vi cả nước và 52.082 hội hoạt
động trong phạm vi từng địa phương. Một số hội được xác định là tổ chức
chính trị xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp. Các hội còn lại
được xác định là tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nhân đạo,
hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự đảm bảo kinh phí hoạt động. Có
31 tổ chức hội được Nhà nước cấp kinh phí để tạo điều kiện hoạt động, vì
đó là những lĩnh vực Nhà nước cũng có trách nhiệm thực hiện hoặc
khuyến khích thực hiện, để thúc đẩy nền văn học nước nhà, phát triển phúc
lợi xã hội.


16

Ngày 20/10/1930, Hội Phụ nữ phản đế Việt Nam (nay đổi tên là Hội
Phụ nữ Việt Nam) chính thức được thành lập, để đánh dấu sự kiện này,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định chọn ngày 20/10 hằng năm làm
ngày truyền thống của tổ chức này, đồng thời cũng xem đây là ngày kỷ
niệm và tôn vinh phụ nữ Việt Nam, lấy tên là "Ngày phụ nữ Việt Nam".
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội trong HTCT,
đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ

nữ Việt Nam; phấn đấu vì sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới. Hội
là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của Liên đoàn
phụ nữ Dân chủ quốc tế và Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN.
Ngoài tổ chức là Hội LHPN Việt Nam với thành viên là đông đảo
phụ nữ Việt Nam, để phát huy vai trò của nữ đại biểu Quốc hội đáp ứng
yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế, UBTVQH khóa XII (ban hành Nghị
quyết số 620/2008/UBTVQH12 ngày 15/5/2008) và UBTVQH khóa XIII
(ban hành Nghị quyết số 04/NQ-UBTVQH13 ngày 4/10/2011) về việc
thành lập Nhóm Nữ Nghị sỹ Việt Nam/Nhóm Nữ đại biểu Quốc hội Việt
Nam (do Chủ nhiệm UBVCVĐXH của Quốc hội Trương Thị Mai làm
Chủ tịch Nhóm từ năm 2008 đến nay).
Như vậy, bằng việc không hạn chế, thậm chí khuyến khích, tạo điều
kiện cho phụ nữ lập và tham gia các hội, nhóm với mục tiêu tương trợ, bảo
vệ, thúc đẩy nhau cùng phát triển, đóng góp tiếng nói của phụ nữ vào việc
quyết định các vấn đề lớn của đất nước.
3.2.1.2. Nguyên nhân của những kết quả đã đạt được trong thực
hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ
* Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, cùng với sự phát triển về kinh tế và xã hội của loài người,
nội dung quyền con người của phụ nữ tiếp tục phát triển. Pháp luật quốc tế
về quyền con người trong đó có quyền của phụ nữ liên tục phát triển và
nhận thức về quyền con người của phụ nữ trên toàn thế giới đã không
ngừng được tăng lên. Hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con người này
gồm những luật "mềm" (soft laws) và những luật "cứng" (hard laws). Các
luật "cứng" gồm những điều ước quốc tế có giá trị bắt buộc về mặt pháp lý
với các quốc gia thành viên đã tham gia (qua gia nhập hay phê chuẩn),
trong đó, quan trọng nhất là Công ước về quyền dân sự và chính trị năm
1966 và Công ước CEDAW năm 1979.



17

Thứ hai, cộng đồng quốc tế đã ghi nhận ý nghĩa, vai trò quan trọng
của thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ: Bình đẳng không
chỉ được coi là nền tảng của hòa bình, ổn định, dân chủ, tiến bộ xã hội mà
còn là yếu tố cơ sở của các quyền con người và vấn đề cốt lõi trong việc
bảo đảm các quyền con người cho phụ nữ và trẻ em gái chính là bảo đảm
các quyền bình đẳng giữa nam và nữ.
Thứ ba, Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế về
quyền con người trong đó có Công ước về quyền của phụ nữ (CEDAW)
nên phải thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ của một quốc gia thành viên
công ước là: Sau khi phê chuẩn hay gia nhập điều ước quốc tế về quyền
con người, các quốc gia thành viên có trách nhiệm tổ chức thực hiện bằng
những hỉnh thức chủ yếu: Chuyển hóa nội dung điều ước vào hệ thống
pháp luật quốc gia (nội luật hóa) nếu như theo pháp luật nước đó, các điều
ước quốc tế không có hiệu lực trực tiếp trên lãnh thổ quốc gia; tuyên
truyền phổ biến công ước trong công chúng một cách rộng rãi; xây dựng
chương trình hành động thực hiện điều ước; lồng ghép những nội dung cần
thực hiện của điều ước vào các chương trình, chính sách xã hội của Nhà
nước; thành lập các cơ quan chuyên trách tổ chức, theo dõi việc thực hiện
điều ước; báo cáo việc thực hiện điều ước.
Thứ tư, trong bối cảnh hội nhập và phát triển hiện nay, uy tín của một
quốc gia trên trường quốc tế phụ thuộc vào sự công nhận của quốc tế về
mức độ dân chủ và nhân quyền của quốc gia, trong đó thúc đẩy bình đẳng
giới và trao quyền cho phụ nữ được coi là một trong những tiêu chí để
đánh giá thành tựu bảo đảm quyền con người của một quốc gia. Mặt khác,
tôn trọng và bảo đảm quyền của phụ nữ là điều kiện quan trọng để tạo cơ
hội cho hơn một nữa dân số quốc gia cống hiến và hưởng thụ nên góp
phần quan trọng vào ổn định và phát triển bền vững của quốc gia, dân tộc.
* Nguyên nhân chủ quan:

Thứ nhất, sự phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta, nhận thức của các
tầng lớp nhân dân về tầm quan trọng, ý nghĩa của vấn đề quyền con người
trong đó có quyền chính trị của phụ nữ đã được nâng lên rõ rệt. Những thể chế
pháp lý của Nhà nước pháp quyền đã được hình thành và ngày càng hoàn
thiện, tạo khuôn khổ để bảo đảm trên thực tế các quyền con người, trong đó có
quyền chính trị của phụ nữ. Thể chế kinh tế thị trường cũng đã hình thành và


18

từng bước hoàn thiện, tạo điều kiện về tiền đề vật chất bảo đảm quyền chính
trị của phụ nữ. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đặc biệt là
công nghệ thông tin tạo cơ hội cho xã hội trong đó có phụ nữ tiếp cận với các
nguồn thông tin để hiểu rõ hơn về ý nghĩa, tầm quan trọng và trách nhiệm bảo
đảm quyền của phụ nữ.
Thứ hai, thái độ hiểu biết, thiện chí và những quan hệ thiết thực được
xây dựng giữa các tổ chức quốc tế với Chính phủ Việt Nam và các cấp
chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ thể chế, kinh nghiệm, tài chính
trong phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, mở rộng dân chủ ở nước ta
góp phần quan trọng thúc đẩy quyền của phụ nữ.
Thứ ba, bản thân phụ nữ - chủ thể thụ hưởng quyền chính trị đã nỗ
lực vượt qua rào cản để tiếp cận và hưởng thụ quyền chính trị
3.2.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong thực hiện pháp
luật về quyền chính trị đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay
3.2.2.1. Hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về quyền chính trị
đối với phụ nữ
Thứ nhất, những hạn chế trong việc THPL của các chủ thể có trách
nhiệm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ có thể thấy.
- Về mức độ sử dụng pháp luật vể quyền chính trị của phụ nữ để thực
hiện quyền của chủ thể.

- Về mức độ chấp hành pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ để
thực hiện nghĩa vụ chủ thể.
- Về mức độ áp dụng pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ của các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ hai, hạn chế trong bào đảm các quyền chính trị của phụ nữ
trong thực tế.
- Tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội tăng không mang tính bền vững qua các khóa.
- Bên cạnh những kết quả đạt được, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội
và HĐND Khóa XIV vẫn còn nhiều hạn chế.
- Công tác quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ nữ từng bước có sự lãnh
đạo, chỉ đạo từ Trung ương đến địa phương, cơ sở nên có chuyển biến hơn.
- Công tác quản lý Nhà nước trong THPL về quyền chính trị của phụ
nữ còn hạn chế, chưa được triển khai ở các cấp, các ngành; chưa thường
xuyên kiểm tra, thanh tra, đôn đốc, hướng dẫn ở các cơ quan, bộ, ngành,
cơ sở.


19

- Quy định phân biệt độ tuổi lao động, nghỉ hưu tạo ra rào cản trong
quy hoạch, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm nhiều cán bộ nữ.
- Việc phân công, bố trí cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý phần lớn còn mang
nặng định kiến giới (thường phụ trách công tác văn xã, giáo dục, thi đua, đoàn
thể…), còn chủ quan, chưa căn cứ vào trình độ, năng lực, chuyên môn được
đào tạo.
- Việc ban hành và thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ nữ
hiện nay chưa thống nhất, tùy thuộc vào nhận thức, sự quan tâm của lãnh
đạo từng cơ quan, đơn vị.
- Nhiều lãnh đạo cấp ủy và chính quyền các cấp, các ngành chưa
nhận thức, quán triệt đầy đủ công tác cán bộ nữ có vị trí quan trọng trong

công tác cán bộ của Đảng, là một yêu cầu khách quan.
3.2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện pháp
luật về quyền chính trị đôi với phụ nữ
* Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, định kiến giới còn tồn tại trong nhân dân và cả trong một
bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý. Với tư tưởng "trọng nam khinh nữ",
phân biệt đối xử với phụ nữ của các chủ thể dẫn tới hành vi sai lệch, làm
hạn chế kết quả của công tác đảm bảo quyền của phụ nữ; cản trở phụ nữ
thực hiện các quyền bình đẳng trong lĩnh vực chính trị, gây khó khăn trong
việc triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới; coi phụ
nữ chỉ phù hợp với thiên chức người tề gia nội trợ, gắn với công việc bếp
núc, công việc gia đình...
Thứ hai, tình hình kinh tế - xã hội trong những năm vừa qua có tác
động không nhỏ đến đảm bảo quyền của phụ nữ. Theo Báo cáo chính trị
của BCH Trung ương Đảng khóa XI, nhiệm kỳ 2010-2015 tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII, 5 năm qua, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi,
tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến rất phức tạp; kinh tế thế giới
phục hồi chậm, khủng hoảng chính trị ở nhiều nơi, nhiều nước; cạnh tranh
về nhiều mặt ngày càng quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực; diễn biến
phức tạp trên Biển Đông,... đã tác động bất lợi đến nước ta.
* Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, công tác truyền thông, phổ biến kiến thức giới, pháp luật về bình
đẳng giới chưa đa dạng, chưa gắn với các hoạt động văn hóa, cộng đồng, chưa
phù hợp với từng đối tượng; việc thực hiện chưa trở thành tiêu chí bắt buộc, gắn
với bình xét, đánh giá thi đua của tổ chức, gia đình và cá nhân hàng năm.


20

Thứ hai, cơ quan quản lý Nhà nước về bình đẳng giới còn lúng túng,

chưa kịp thời hướng dẫn thống nhất, cụ thể, đôn đốc, kiếm tra, thanh tra các
cơ quan trong bộ máy nhà nước trong tổ chức, THPL về bình đẳng giới; Hội
LHPN các cấp còn hạn chế trong tham mưu, tổ chức thực hiện chức trách,
nhiệm vụ theo quy định của pháp luật về bình đẳng giới (nhất là việc giới
thiệu nhân sự cho bầu cử, phản biện xã hội về bình đẳng giới…).
Thứ ba, định hướng lãnh đạo, chỉ đạo, phương pháp công tác vận
động phụ nữ còn thiếu cụ thể, chưa sát hợp với từng đối tượng, khu vực,
vùng miền, đặc biệt là đối với phụ nữ ở nông thôn. Còn thiếu quyết liệt
trong chỉ đạo thực hiện hoặc chỉ đạo triển khai mang tính hình thức.
Thứ tư, việc thực hiện trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành,
địa phương, đơn vị trong việc triển khai thực hiện bình đẳng giới và vì sự
tiến bộ của phụ nữ có lúc, có mặt thiếu đồng bộ, chưa chặt chẽ, thường
xuyên và chưa hiệu quả.
Thứ năm, chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác phụ nữ còn thiếu
và yếu. Hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về bình đẳng giới ở Việt Nam
mới hình thành sau khi có Nghị định số 186/2007/NĐ ngày 25-12-2007
của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, quản lý nhà nước về bình
đẳng giới được giao cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, do đó đội
ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới mới được hình thành, nên thiếu về
số lượng, hạn chế kiến thức chuyên môn về giới, kỹ năng lồng ghép giới
để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, nhất là ở địa phương cơ sở.
Thứ sáu, chưa phát huy hết vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội
trong bảo vệ quyền của phụ nữ ở nông thôn. Đặc biệt, chưa thực hiện tốt
chức năng giám sát và phản biện xã hội. Hoạt động giám sát, phản biện xã
hội còn mang tính hình thức, chất lượng chưa cao; còn lúng túng trong lựa
chọn nội dung, đối tượng giám sát; việc theo dõi thực hiện các kết luận,
kiến nghị sau giám sát chưa được quan tâm. Chất lượng phân tích, đánh
giá, kết luận và nêu chính kiến trong hoạt động phản biện chưa cao. Nhiều
dự thảo văn bản pháp luật, chưomg trình, dự án... không triển khai lấy ý

kiến góp ý của mặt trận và Hội Phụ nữ, đặc biệt là ở cấp cơ sở...
Thứ bảy, trong VBQPPL về bầu cử các chức danh lãnh đạo, quản lý, đại
biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu HĐND các cấp, chưa quy định rõ tỷ lệ nữ đảm
bảo nguyên tắc bình đẳng giới mà chỉ quy định chung chung "tỷ lệ nữ thích


21

đáng"; chưa có cơ chế bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng giới trong công
tác tổ chức cán bộ nói chung, đào tạo, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ nữ nói riêng.
Thứ tám, trong thực tế, công tác tổ chức, quy hoạch, sắp xếp, đề bạt
cán bộ là công việc của Đảng, có quy trình riêng. Nghị quyết 11-NQ/TW
ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ CNH, HĐH
đất nước chưa quy định giao trách nhiệm cho các cơ quan có thẩm quyền
(Ban Tổ chức, Ban Kiểm tra…) phối hợp với các cơ quan chuyên môn thể
chế hóa, "luật hóa" thành các VBQPPL quy định cụ thể, bảo đảm quy trình
quy hoạch, sắp xếp, bố trí đề bạt cán bộ theo đúng nguyên tắc bình đẳng
giới; chưa quy định cụ thể trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, tổ
chức trong HTCT phải THPL về bình đẳng giới; chưa có quy định trách
nhiệm cụ thể của cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý cấp trên trong việc phát hiện,
kèm cặp, bồi dưỡng, giới thiệu nhân sự cán bộ nữ cấp dưới…
Thứ chín, chưa có các quy định hướng dẫn cụ thể quy trình thủ tục thụ lý,
tiếp nhận hồ sơ nhằm xem xét, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới
trong lĩnh vực chính trị nên tư tưởng, thói quen "Trọng nam, khinh nữ" vẫn còn
khá phổ biến trong các cơ quan, tổ chức và cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ mười, quy định của pháp luật về tuổi nghỉ hưu của lao động nữ
(nhất là nữ cán bộ, công chức, viên chức) còn bất hợp lý, chưa phù hợp với
nguyên tắc bình đẳng giới cũng như xu thế chung của thế giới, nhưng
chậm được sửa đổi.
Thứ mười một, việc giới thiệu ứng cử viên nữ trong bầu cử đại biểu

Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp ở nhiều nơi vẫn còn hình thức, chưa
tương xứng (về trình độ, chức vụ, bằng cấp…) so với nhân sự nam nên
thường chỉ được coi là "quân xanh".
Thứ mười hai, bản thân phụ nữ chưa đủ kiến thức, kinh nghiệm,
phương pháp, kỹ năng, sự tự tin, bản lĩnh để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của bản thân. Nhiều nữ cán bộ, công chức, viên chức an
phận, hoặc không đủ năng lực, trình độ, chưa được người đứng đầu và bộ
phận đơn vị ủng hộ; thậm chí có trường hợp cán bộ nữ còn không ủng hộ
nhau, níu kéo nhau...
Chương 4
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nghiên cứu về những quan điểm và giải pháp THPL về quyền
chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay là nhu cầu rất cần thiết.


22

Các quan điểm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ mang tính tất
yếu, khách quan, phản ánh đúng đắn nhu cầu thực tiễn phát triển đất
nước và yêu cầu của công tác hoàn thiện chính sách pháp luật đối với
phụ nữ cũng như THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ, vì vậy, nó
cần phải được xây dựng phù hợp với yêu cầu, bám sát các đặc trưng của
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,
hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện và sát với tình hình thực tiễn nước ta. Với mỗi quan
điểm đều có nội dung, yêu cầu riêng và đòi hỏi phải được các chủ thể,
đặc biệt là các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức và đảng viên, đặc

biệt là phụ nữ và các chủ thể có liên quan quán triệt và tuân thủ đầy đủ
trong THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ.
4.1. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Thứ nhất, quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng giới và vai trò của
phụ nữ trong thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ.
Thứ hai, nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong việc hoàn thiện
và tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về bình đẳng giới và trao quyền
cho phụ nữ.
Thứ ba, bảo đảm tính kế thừa, phát triển, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại trong xu thế hội nhập và phát triển.
Thứ tư, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và phát huy vai trò của hệ
thống chính trị trong thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ.
Thứ năm, thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ gắn
với chống lại tư tưởng "Trọng nam, khinh nữ".
4.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Thứ nhất, nhóm giải pháp nâng cao nhận thức của mọi chủ thể trong
xã hội về quyền chính trị và thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với
phụ nữ.
Thứ hai, nhóm giải pháp hoàn thiện hệ pháp luật và cơ chế thực hiện
pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ.
Thứ ba, nhóm giải pháp phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ
thống chính trị, đặc biệt là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong thực hiện
pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ.



23

KẾT LUẬN
1. Pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ là hệ thống quy phạm
pháp luật lấy phụ nữ làm chủ thể trung tâm, quy định trách nhiệm của Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, ghi nhận và thiết lập các đảm bảo nhằm
tiến tới bình đẳng giới, thể hiện đường lối của Đảng và Nhà nước ta về vai
trò của phụ nữ nhằm xây dựng một xã hội hướng đến mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Pháp luật về quyền chính trị đối
với phụ nữ có các đặc trưng sau: i) Ghi nhận và thiết lập các biện pháp bảo
đảm quyền con người, quyền công dân; ii) Pháp luật về quyền chính trị đối
với phụ nữ thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với phụ nữ trong việc tạo
điều kiện và cơ hội cho phụ nữ bình đẳng như nam giới; iii) Pháp luật về
quyền chính trị đối với phụ nữ thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta về phụ nữ.
2. THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay là tổng
thể các hoạt động có mục đích của các chủ thể, đặc biệt là trách nhiệm của
Đảng và Nhà nước nhằm hiện thực hóa pháp luật về quyền chính trị đối với
phụ nữ của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thành các hành vi thực
tế, hợp pháp của các chủ thể qua các hoạt động cụ thể vì mục tiêu chung là
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. THPL có 4 hình thức:
Tuân thủ pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ; chấp hành pháp luật
về quyền chính trị đối với phụ nữ; sử dụng pháp luật về quyền chính trị đối
với phụ nữ và áp dụng pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ. Các
hình thức này gắn với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Mỗi hình thức có đòi hỏi riêng đối với từng loại chủ thể với các nội dung,
yêu cầu khác nhau.
3. Qua thực trạng THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ cho thấy,
nó đã đạt được các mục tiêu chính sách, có tác động tích cực đến đời sống
nhà nước và pháp luật; phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm

quyền con người, quyền công dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền, hoàn
thiện hệ thống pháp luật, góp phần thực hiện thành công các chính sách xã
hội. Cơ chế THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ từng bước được hoàn
thiện. Pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ đã và đang đi vào cuộc
sống, trở thành hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể. Nhận thức pháp
luật và ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ
và các chủ thể được nâng lên. Các thiết chế THPL và thiết chế hỗ trợ, giúp


×