Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

LUẬN VĂN: Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 126 trang )














LUẬN VĂN:

Vi phạm phỏp luật phũng, chống bạo
lực gia đỡnh đối với phụ nữ ở Việt
Nam hiện nay











Phần mở đầu


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong khoa học pháp lý, vấn đề vi phạm pháp luật có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô
cùng phong phú. Việc nghiên cứu thấu đáo vấn đề vi phạm pháp luật sẽ giúp nâng cao
nhận thức, ý thức pháp luật, góp phần kiểm soát xã hội tốt, phát hiện nhanh, nhận diện
đúng bản chất và xử lý chính xác các vi phạm pháp luật, tìm ra phương cách hữu hiệu điều
chỉnh xã hội và định hướng việc thực thi pháp luật đạt hiệu quả.
Sau hơn 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng tạo, trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt
Nam cùng với sự đoàn kết một lòng của cả dân tộc, Việt Nam đã thu được nhiều thắng lợi
tốt đẹp, vị thế được nâng cao và đời sống của nhân dân thay đổi. Chúng ta đang trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, thực
hiện nền kinh tế thị trường XHCN, mở rộng dân chủ xã hội, tăng cường xã hội hoá và đặc
biệt, đang hội nhập đầy đủ trên các lĩnh vực với khu vực, thế giới và toàn cầu. Trên con
đường đổi mới ấy, bên cạnh những thuận lợi, chúng ta còn gặp không ít những khó khăn.
Một trong những khó khăn làm ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội là tình trạng vi
phạm pháp luật hiện nay đặc biệt trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ
nữ đang ngày một gia tăng, làm ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của xã hội và ngay
chính bản thân người phụ nữ đó cũng như sự phát triển bình thường của con cái họ.
Ngày nay, bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân
loại, để lai nhiều hậu quả cho con người, nhất là đối với phụ nữ. Mặc dù LHQ và các nước
trên thế giới đã có nhiều cố gắng trong việc phòng chống bạo lực gia đình và ban hành
nhiều văn kiện pháp lý liên quan đến phòng chống bạo lực gia đình và hiện đã có 89 nước
trên thế giới có các quy định pháp luật riêng về phòng chống bạo lực gia đình, trong đó có
60 nước có luật riêng về phòng chống bạo lực gia đình; 7 nước có luật riêng về bạo lực
chống lại phụ nữ nhưng ở khắp nơi trên thế giới, phụ nữ vẫn là nạn nhân của bạo lực gia
đình. Bước sang thế kỷ XXI, bạo lực gia đình không giảm mà vẫn tiếp tục lan rộng, trở
thành vấn đề nghiêm trọng và phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Theo ước tính, mỗi năm
trên thế giới có khoảng trên 3 triệu phụ nữ chết vì bạo lực gia đình; từ 15 đến 71% phụ nữ
phải chịu một hình thức bạo lực nào đó về thể xác và tình dục ngay trong gia đình. Cứ 3
phụ nữ trên thế giới thì có ít nhất một người bị đánh đập, ép buộc về tình dục hoặc bị lạm



dụng trong suốt cuộc đời mà những kẻ lạm dụng thường là chồng và bạn tình. Bạo lực gia
đình đang trở thành vấn đề phổ biến có quy mô của một đại dịch và là một biểu hiện của
các mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ trên toàn thế giới, là nguyên nhân dẫn đến
tử vong và làm mất khả năng của phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Bạo lực gia đình đã và
đang là một trở ngại lớn đối với sự bình đẳng, là sự vi phạm thô bạo các quyền con người.
Chính tính nguy hiểm và tác hại của bạo lực gia đình mà vấn đề bạo lực gia đình
tại Việt Nam đã được Luật hoá, được đặt dưới sự kiểm soát của pháp luật. Bạo lực gia đình
là vi phạm pháp luật. ở Việt Nam, vấn đề phòng chống bạo lực gia đình được Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm. Điều này được thể hiện trong các chính sách của Đảng và các
quy định của pháp luật. Điều 63, Hiến pháp 1992 quy định : "Công dân nữ và nam có
quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình, nghiêm cấm
mọi hành vi phân biệt đối xử, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ".
Thể chế hoá quy định của Hiến pháp năm 1992, việc bảo vệ phụ nữ khỏi các hình
thức bạo lực gia đình được quy định cụ thể, chi tiết trong nhiều văn bản pháp luật khác như
Luật Hôn nhân gia đình; Bộ Luật Hình sự; Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng chống bạo lực
gia đình Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc phòng chống bạo
lực gia đình, để các quy định pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình được thực thi
trong đời sống xã hội nhưng trên thực tế, tình trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình vẫn diễn ra thường xuyên ở nhiều nơi. Thống kê của Bộ Văn hoá - Thể thao và
Du lịch, Tổng cục thống kê và Quỹ nhi đồng LHQ công bố ngày 26/6/2008 với điều tra của
93 ngàn hộ gia đình trên khắp mọi miền đất nước thì có tới 21,2% cặp vợ chồng đã trải qua
một hình thức bạo lực gia đình như đánh, mắng, nhục mạ, ép quan hệ tình dục và như vậy
cứ 5 cặp vợ chồng thì đã có một cặp đã có hình thức bạo lực gia đình.
Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đã để lại nhiều hậu quả xấu cho
xã hội, trước hết là vi phạm đến quyền con người, danh dự, nhân phẩm và tính mạng của
mỗi cá nhân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Theo báo cáo của Bộ Công an, trên toàn quốc cứ
2 đến 3 ngày có một người bị giết liên quan đến bạo lực gia đình. Trong năm 2005, có 14%
số vụ giết người liên quan đến bạo lực gia đình. Ba tháng đầu năm 2006, tỷ lệ này đã lên
tới 30,5%. Theo thống kê của ngành Toà án, trong 5 năm từ 2000 đến 2005 cả nước có

352.000 vụ ly hôn thì có tới 39.730 vụ ly hôn do bạo lực gia đình (chiếm 53,1%). Vi phạm
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình còn làm xói mòn đạo đức, mất tính dân chủ xã hội


và ảnh hưởng xấu đến thế hệ tương lai. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở nhiều gia đình, thế
hệ con đã lặp lại hành vi bạo lực gia đình mà khi còn nhỏ chúng đã được chứng kiến. Bạo
lực gia đình đang là nguy cơ gây tan vỡ và suy giảm sự bền vững của gia đình Việt nam.
Ngoài hậu quả về xã hội, đạo đức và sự bền vững gia đình, vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình còn gây ra những hậu quả về kinh tế như chi phí chăm sóc và phục
hồi sức khoẻ nạn nhân, chi phí điều tra, truy tố, xét xử cùng nhiều chi phí gián tiếp khác
liên quan đến tình trạng bệnh tật, mất khả năng tham gia lao động sản xuất của nạn nhân.
Nhiều vụ án thương tâm liên quan đến bạo lực gia đình đối với phụ nữ đã xảy ra và
số lượng tăng lên từng ngày, gây hậu qủa nhức nhối cho xã hội. Điển hình như vụ bạo lực
kéo dài suốt 32 năm xảy ra ở Quảng Bình mà nạn nhân là bà Xuê. Đã không biết bao lần bà
chết đi sống lại với những trận đòn tàn bạo của chồng. Mới đây, chỉ vì không đào đâu ra
tiền cho chồng uống rượu, bà đã bị chính người chồng trói lại, đánh đập tàn nhẫn, gây
thương tích nghiêm trọng. Nhiều hành vi dã man khác như khống chế, đổ thuốc diệt cỏ vào
miệng vợ; đổ xăng đốt vợ; hành xử vợ bằng búa Những hành vi đã mất hết nhân tính đó
đã gây bức xúc cho xã hội. Tiếng kêu cứu thảm thương của rất nhiều người phụ nữ đã vang
lên đặt ra cho xã hội một lời giải đáp cần phải làm gì trước thực trạng vi phạm pháp luật về
bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Điều này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách, pháp luật
và các nhà thực thi pháp luật cùng các cơ quan có thẩm quyền cần có một cơ chế và biện
pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho phụ nữ, giúp họ thoát khỏi bạo lực đồng
thời có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các chủ thể vi phạm pháp luật về bạo lực gia
đình nói chung đặc biệt đối với phụ nữ nói riêng, tạo ổn định và phát triển cho xã hội.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp giúp phụ nữ thoát khỏi bạo lực gia đình,
loại bỏ vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình đối với phụ nữ trong xã hội, đề tài " Vi phạm
phỏp luật phũng, chống bạo lực gia đỡnh đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay " có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

ở nước ta, phòng chống bạo lực gia đình không còn là vấn đề mới và được quy định
cụ thể ở Hiến pháp và pháp luật. Điều 63, Hiến pháp 92 quy định: "nghiêm cấm mọi hành
vi phân biệt đối xử, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ". Điều 107, Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 quy định: "Cấm vợ, chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh


dự, nhân phẩm, uy tín của nhau" và gần đây nhất, Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình đã được ban hành.
Trên thực tế, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về bạo lực gia đình. Nhiều
công trình khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu về vấn đề này đã được công bố như :
"Luật phòng chống bạo lực gia đình của một số nước trên thế giới" (tài liệu dịch của Uỷ
ban các vấn đề xã hội của Quốc hội); "Bạo lực trên cơ sở giới tính ở Việt Nam" của Ngân
hàng thế giới năm 1999; "Bạo lực trên cơ sở giới" của TS. Vũ Mạnh Lợi, Vũ Tuấn Huy,
Nguyễn Hữu Minh năm 1999; "Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam" của Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam năm 2001; "Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở nước ta
hiện nay- Thực trạng, vấn đề và giải pháp" của Viện nghiên cứu quyền con người - Học
viện chính trị - hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008; "Nhận thức và thái độ của
cộng đồng đối với bạo lực gia đình - đề xuất và giải pháp" do TS. Nguyễn Thế Hùng, Phó
chủ nhiệm Uỷ ban DS - GĐ - TE Hà Nội và PGS. TS. Nguyễn Trí Dũng, Phó Viện trưởng
Viện Xã hội học và Tâm lý lãnh đạo, quản lý, Học viện chính trị - hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh; Báo cáo "Ngăn chặn bạo hành trong gia đình: Phổ biến tài liệu tư vấn chống bạo
hành gia đình cho các cộng sự ở nông thôn" của tác giả Lê Thị Phương Mai
Các công trình nêu trên chủ yếu là các tài liệu dịch từ tiếng nước ngoài nhằm giới
thiệu về Luật phòng chống bạo lực gia đình của một số nước trên thế giới; nghiên cứu giới
thiệu một số khía cạnh như thực trạng bạo lực gia đình, một số vấn đề đặt ra về phòng
chống bạo lực gia đình trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Tuy nhiên nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình
dưới góc độ pháp lý - vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở
nước ta đến nay hầu như chưa có. Trong khi đó, tình trạng vi phạm pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ diễn ra ngày càng nhiều với tính chất và mức độ

nguy hiểm ngày càng tăng, ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước. Hơn nữa, nhu cầu của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ khỏi bị bạo
lực gia đình đang đòi hỏi một hệ thống pháp luật đồng bộ với một bộ máy và con người cụ
thể trên cơ sở so sánh và tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới là vấn đề cấp
thiết ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích:


Đề tài có mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cơ sở lý luận về vi
phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay,
trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận văn đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phòng chống vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ
Để đảm bảo mục đích nêu trên trên, luận văn xác định các nhiệm vụ chính sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật và vi phạm
pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Trên cơ sở lý luận về vi
phạm pháp luật, các yêu cầu của hành vi hợp pháp trong việc phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ, luận văn có nhiệm vụ chỉ ra được các đặc điểm của vi phạm pháp luật
trong phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ; nội dung vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ trên cơ sở phân tích và đánh giá tình hình vi phạm pháp luật, làm rõ
các hành vi vi phạm pháp luật cơ bản trong phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
trong những năm qua để có một bức tranh về thực trạng vi phạm pháp luật một cách cơ bản
nhất trong phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Từ đó, phân tích các nguyên
nhân khách quan và chủ quan của thực trạng trên làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp
khắc phục vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này.
- Nghiên cứu đưa ra các giải pháp hợp lý, toàn diện, khả thi trong phòng, chống vi
phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ góp phần hạn chế tiến tới

đẩy lùi hiện tượng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ trong
xã hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu như đã trình bày ở trên, luận văn xác định
đối tượng nghiên cứu là các hành vi trái pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong việc
phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các vụ bạo lực gia đình mà nạn nhân của vụ bạo
lực gia đình chỉ là phụ nữ trên cơ sở lý luận chung về Nhà nước- pháp luật và pháp luật
thực định.


4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ trong phạm vi cả nước từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước,
pháp luật về bình đẳng giới, pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp biện chứng, lịch sử, so
sánh, phân tích, tổng hợp và điều tra xã hội học.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Xây dựng lý luận về vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ
nữ.
- Hệ thống hoá, phân tích thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ.
- Đề xuất những giải pháp nhằm đấu tranh, hạn chế, tiến tới đẩy lùi vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả của luận văn có thể được vận dụng làm tài liệu nghiên cứu về vi phạm pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ và góp thêm cơ sở lý luận và thực tiễn
trong việc hoàn thiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối
với phụ nữ ở Việt Nam


Chương 2: Thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ
nữ ở Việt Nam từ năm 2000 đến nay.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp cơ bản phòng, chống vi phạm pháp luật về bạo
lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam.


CHƯƠNG 1
cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình đối với
phụ nữ ở việt nam

1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại vi phạm pháp luật
1.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật
Trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta, pháp luật với những thế mạnh của
mình đã điều chỉnh nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, được nhà nước đảm bảo thực hiện
và được nhân dân đồng tình ủng hộ, thực hiện khá nghiêm chỉnh. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong xã hội vẫn còn một số tổ chức, cá nhân không tuân thủ, chấp
hành pháp luật, làm trái các quy định của pháp luật như tình trạng vi phạm an toàn giao
thông còn xảy ra nhiều, nhiều vụ án giết người, tham nhũng, buôn bán ma tuý với tính
chất và mức độ nguy hiểm ngày càng tăng. Đó là những vi phạm pháp luật.
Nếu như hành vi hợp pháp là hành vi phù hợp với pháp luật, có ích cho xã hội, có

mục đích, động cơ tuân thủ pháp luật thì vi phạm pháp luật là những hành vi của các chủ
thể trái với pháp luật, làm ngược lại những gì pháp luật đặt ra, yêu cầu. Vi phạm pháp luật
xâm hại đến lợi ích vật chất và tinh thần của Nhà nước, của xã hội và của nhân dân.
Vi phạm pháp luật là cơ sở duy nhất phát sinh trách nhiệm pháp lý. Không có vi
phạm pháp luật thì không có trách nhiệm pháp lý.
Từ những phân tích trên đây, ta có khái niệm: Vi phạm pháp luật là hành vi trái
pháp luật do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, bởi lỗi cố ý hoặc vô ý, xâm
hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
1.1.2. Đặc điểm vi phạm pháp luật.
Đặc điểm của vi phạm pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định về bản
chất của vi phạm pháp luật, từ đó góp phần đề ra những biện pháp hữu hiệu để đấu tranh
phòng và chống vi phạm pháp luật trong xã hội ta hiện nay.
Thứ nhất: vi phạm pháp luật luôn là hành vi (hành động hoặc không hành động)
có tính xác định của con người.


Như ta đã biết các quy định của pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh các hành vi
của con người. C.Mác đã viết: Ngoài hành vi của mình ra tôi hoàn toàn không tồn tại đối
với pháp luật, hoàn toàn không phải là đối tượng của nó. Cho nên vi phạm pháp luật trước
hết phải là hành vi của con người hoặc là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức
xã hội (các chủ thể pháp luật). Vi phạm pháp luật phải biểu hiện bằng hành vi cụ thể của
con người (hành động có ý thức và ý chí của con người). Vì vậy mà một người dù có ý
nghĩ xấu như thế nào đi chăng nữa nếu không biểu hiện bằng hành động cụ thể thì không
phải là vi phạm pháp luật.
Như vậy, vi phạm pháp luật trước hết phải được thể hiện bằng hành vi cụ thể của
con người mà không phải là những tư tưởng, ý nghĩ, ý niệm. Bởi lẽ, trên thực tế, chúng ta
không thể dùng các quy phạm pháp luật để điều chỉnh, kiểm tra, đánh giá những ý nghĩ của
con người.
Hành vi vi phạm pháp luật được biểu hiện dưới hai hình thức:
+ Hành vi hành động: chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm.

+ Hành vi không hành động: chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu
cầu phải làm.
Thứ hai, vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật.
Tính trái pháp luật thể hiện: sự chống đối những quy định chung của pháp luật.
Pháp luật quy định như thế này thì chủ thể lại hành động ngược lại và trong một trường
hợp cụ thể nào đó, quy phạm pháp luật bắt buộc con người phải hành động nhưng chủ thể
lại không hành động. Hành vi trái pháp luật bao giờ cũng xâm hại tới các quan hệ xã hội
mà pháp luật bảo vệ và là những hành vi gây thiệt hại cho xã hội.
Như vậy, vi phạm pháp luật phải là những hành vi trái pháp luật, làm ngược lại
những gì pháp luật đặt ra, yêu cầu. Nhưng trong thực tế, có những hành vi rõ ràng đã xâm
hại tới các quy định của pháp luật nhưng không bị coi là vi phạm pháp luật vì chủ thể
không có lỗi như trường hợp vì phải chở bệnh nhân đi cấp cứu mà người lái xe đã đi vào
đường một chiều, vượt đèn đỏ.Vì vậy để bị coi là vi phạm pháp luật, hành vi trái pháp luật
phải chứa đựng lỗi của chủ thể hành vi đó.
Thứ ba, vi phạm pháp luật phải là hành vi có lỗi.


Điều này thể hiện người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật phải thực sự có lỗi.
Khi xem xét vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật thì mới chỉ dừng lại ở việc xem xét
biểu hiện bề ngoài của hành vi, nghĩa là mới chỉ xem xét tới mặt khách quan của hành vi.
Nhưng khi nói tới hành vi vi phạm pháp luật phải thấy rằng, đó là hành vi có ý chí, có
nghĩa phải xem xét tới mặt chủ quan của hành vi. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật chỉ
ra ai là người vi phạm, khuynh hướng ý chí của người đó và trạng thái tâm lý của người vi
phạm tại thời điểm thực hiện hành vi trái pháp luật, cũng như thái độ của người ấy đối với
hậu quả của hành vi. Vì vậy, hành vi trái pháp luật bị coi là hành vi vi phạm pháp luật chỉ
khi có sự biểu hiện ý chí của người thực hiện hành vi đó và chúng ta cần xác định trạng
thái tâm lý của chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật đó - xác định lỗi của họ.
Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi trái pháp luật của mình và hậu
qủa hoặc tác hại của hành vi đó đối với xã hội.
Một người bị coi là có lỗi khi hành vi mà họ thực hiện là kết quả của sự tự lựa chọn

và quyết định của chủ thể trong khi chủ thể có đủ điều kiện để lựa chọn và quyết định một
xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội tức là chủ thể hoàn toàn có đủ điều kiện để lựa
chọn và quyết định một xử sự khác phù hợp với yêu cầu của pháp luật nhưng chủ thể đã
không chọn.
Xét về mặt tâm lý có hai hình thức lỗi là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Trong đó, lỗi cố ý được
thể hiện dưới hai dạng phổ biến: lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp.
Lỗi cố ý trực tiếp: là trường hợp người thực hiện hành vi trái pháp luật đã nhìn thấy
trước tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và thấy được hậu quả của hành vi nhưng
mong muốn thực hiện và mong muốn đạt được hậu quả của hành vi.
Lỗi cố ý gián tiếp: là trường hợp người thực hiện hành vi trái pháp luật nhìn thấy
trước tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thấy trước hậu quả của hành vi, tuy không
mong muốn cho hậu quả xảy ra nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.
Lỗi vô ý chia thành hai dạng: lỗi vô ý do quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả.
Lỗi vô ý do quá tự tin là trường hợp người thực hiện hành vi trái pháp luật thấy
được sự tác hại cho xã hội của hành vi và hậu quả của nó, nhưng tin rằng hậu quả không
xảy ra hoặc có thể khắc phục được.


Lỗi vô ý do cẩu thả: là trường hợp người thực hiện hành vi trái pháp luật không nhìn
thấy sự tác hại cho xã hội của hành vi và hậu quả của nó, mặc dù người đó có thể nhìn thấy
được hoặc cần phải nhìn thấy được.
Như vậy, chủ thể vi phạm pháp luật phải thực sự có lỗi vì có những người không có
đủ điều kiện để lựa chọn và quyết định hành vi (do điều kiện khách quan) tức không có lỗi
thì không phải là vi phạm pháp luật.
Thứ tư, vi phạm pháp luật phải do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực
hiện.
Năng lực chịu trách nhiệm pháp lý là khả năng tự mình chịu trách nhiệm về hành vi
vi phạm pháp luật của mình trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, chủ thể của vi
phạm pháp luật chỉ có thể là những người đã đạt tới một độ tuổi nhất định theo quy định
của pháp luật, có khả năng lý trí và có tự do ý chí (có khả năng nhận thức và điều khiển

được hành vi của mình). Họ phải đạt một độ tuổi nhất định và không mắc bệnh tâm thần
hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.
Tóm lại: Trên đây là bốn yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật. Khi xem xét hành vi
vi phạm pháp luật phải căn cứ vào cả bốn dấu hiệu. Nếu thiếu một trong bốn dấu hiệu đó
thì không thể đánh giá đó là hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy cần phân biệt hành vi trái
pháp luật với hành vi vi phạm pháp luật bởi có những hành vi trái pháp luật nhưng không
phải là vi phạm pháp luật.
1.1.3. Phân loại vi phạm pháp luật.
Vi phạm pháp luật đều là những hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại cho xã hội. Tuy
nhiên các loại hành vi này lại có mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm đối với xã hội, vi phạm pháp luật được chia thành: vi phạm
pháp luật hình sự (tội phạm); vi phạm pháp luật hành chính; vi phạm pháp luật dân sự và vi
phạm kỷ luật nhà nước.
Vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm): được định nghĩa tại điều 8, Bộ luật Hình sự
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 : "tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an


ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân,
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa".
Như vậy, tội phạm là những hành vi xâm hại tới những quan hệ xã hội quan trọng
nhất và do những quy phạm luật hình sự quy định. Chủ thể của vi phạm pháp luật hình sự
(tội phạm) chỉ là những cá nhân cụ thể.
Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước nhưng không phải là tội phạm hình sự và theo
quy định của pháp luật, phải bị xử phạt hành chính.
Chủ thể vi phạm hành chính có thể là cá nhân và cũng có thể là tổ chức.

Vi phạm pháp luật dân sự là những hành vi trái pháp luật, có lỗi, xâm hại tới những
quan hệ tài sản và những quan hệ nhân thân có liên quan tới tài sản và nhân thân trong lĩnh
vực hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng.
Chủ thể vi phạm dân sự có thể là cá nhân và cũng có thể là tổ chức.
Vi phạm kỷ luật nhà nước là những hành vi có lỗi xâm hại tới chế độ kỷ luật lao
động, kỷ luật công vụ, kỷ luật học tập, kỷ luật quân đội v.v. gây thiệt hại cho hoạt động
bình thường của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, trường học và
những tổ chức công khác.
Chủ thể vi phạm kỷ luật có thể là cá nhân và cũng có thể là tập thể, họ chỉ là cán bộ,
công nhân, công chức, viên chức, học sinh có quan hệ ràng buộc (phụ thuộc) với cơ
quan, xí nghiệp, trường học nào đó.
1.2. Khái niệm, nội dung pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
1.2.1. Khái niệm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
1.2.1.1. Khái niệm bạo lực
Bạo lực là một hiện tượng xã hội. Đã có rất nhiều định nghĩa về "Bạo lực".Theo Đại
từ điển Tiếng việt năm 1998: "Bạo lực là sức mạnh dùng để trấn áp, chống lại lực lượng
đối lập hay lật đổ chính quyền"; hoặc theo từ điển Tiếng việt 2003 thì "Bạo lực là sức
mạnh dùng để trấn áp hoặc lật đổ"[15], [53].


Trong xã hội có nhiều hình thức bạo lực. Tuy nhiên, không phải hình thức bạo lực
nào cũng hướng vào việc lật đổ các đảng nhóm, phe phái chính trị và chính quyền.Thực tế
xã hội cho thấy, vì nhiều lý do khác nhau, các chủ thể có thể dùng bạo lực để giải quyết
một sự bất hoà trong quan hệ xã hội; một sự tranh chấp quyền lợi giữa hai người; giành lấy
quyền và lợi ích cho mình Bạo lực đã ra đời từ rất lâu trong lịch sử xã hội loài người.
Trong những trường hợp nhất định, bạo lực có thể có vai trò tích cực trong xã hội song nó
sẽ trở thành tiêu cực, ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội nếu bạo lực được sử dụng sai
mục đích, đặc biệt là trong những trường hợp cấm được sử dụng bạo lực. Như vậy, bạo lực
chính là một phương thức hành xử trong các mối quan hệ xã hội và tồn tại từ rất lâu trong
lịch sử xã hội loài người.

1.2.1.2. Bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình hay còn được gọi là bạo hành gia đình là một trong những hình
thức bạo lực trong xã hội và nó đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của gia đình
cũng như sự phát triển của xã hội. Nhận thức rõ và thống nhất về khái niệm bạo lực gia
đình sẽ là điều kiện để ngăn chặn và đẩy lùi bạo lực gia đình trong xã hội.
Có nhiều định nghĩa, nhiều quan điểm khác nhau về "bạo lực gia đình". Theo quan
niệm của Hiệp hội Luật sư Hoa kỳ: bạo lực gia đình là thuật ngữ chỉ những hình thức
ngược đãi mà một thành viên trong gia đình, một người sống chung trong hộ gia đình, hoặc
một bạn tình gây ra cho một thành viên khác trong gia đình, một người chung sống khác,
hoặc bạn tình kia.
Theo Luật mẫu về bạo lực gia đình của Uỷ ban nhân quyền của Liên Hợp Quốc
ngày 02/ 02/ 1996 :
"Bạo lực gia đình là tất cả các hành vi lạm dụng thể chất, tinh thần, tình dục dựa
trên cơ sở giới đối với một thành viên, một người phụ nữ trong gia đình, từ hành vi đánh
đập giản đơn đến gây thương tích nặng, bắt cóc, đe doạ, doạ dẫm, cưỡng bức, quấy rối,
lăng nhục bằng lời nói, dùng vũ lực để vào nhà trái pháp luật, phóng hoả, huỷ hoại tài sản,
bạo lực tình dục, hiếp dâm trong hôn nhân, bạo lực liên quan đến thách cưới hoặc của hồi
môn, cắt bộ phận sinh dục nữ, bạo lực liên quan đến bóc lột mại dâm, bạo lực đối với
người giúp việc trong gia đình "[56].


Luật Phòng ngừa và điều chỉnh bạo lực gia đình B.E của Thái Lan quy định: "Bạo
lực gia đình là bất kỳ hành vi nào được thực hiện một cách cố ý nhằm gây ra những
thương tích về thân thể, sức khoẻ hoặc tinh thần hoặc các hành vi có khả năng gây nguy
hiểm cho thân thể, sức khoẻ hoặc tinh thần của các thành viên hộ gia đình hoặc cưỡng ép
lạm dụng quyền lực để các thành viên hộ gia đình phải thực hiện, không thực hiện hoặc
phải chấp nhận thực hiện những hành vi sai trái, bỏ mặc"[44] .Theo Luật bảo vệ chống
bạo lực gia đình của Bun-ga-ri ngày 29-3-2005: "Bạo lực gia đình là bất kỳ hành vi bạo
lực về thể chất, tinh thần hay tình dục nào, kể cả những hành vi trên trong giai đoạn chưa
đạt, cũng như việc áp đặt hạn chế tự do và sự riêng tư cá nhân, nhằm vào các cá nhân

đang hay đã có quan hệ gia đình hoặc họ hàng sống chung như vợ chồng hoặc sống chung
trong một nhà" [10].
Theo khoản 2, Điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 được Quốc
Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 21
tháng 11 năm 2007 quy định: "Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây
tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên
khác trong gia đình".
Như vậy, dù được định nghĩa với nhiều cách khác nhau nhưng khi xem xét bạo lực
gia đình, ta có thể thấy các đặc điểm:
+ Thứ nhất, bạo lực gia đình là hành vi bạo lực xảy ra giữa các thành viên trong gia
đình tức là chủ thể có hành vi bạo lực gia đình (người gây ra bạo lực gia đình) phải là
thành viên trong gia đình và nạn nhân của bạo lực gia đình là một trong những thành viên
còn lại của gia đình đó.
+ Thứ hai, bạo lực gia đình được thực hiện bởi lỗi cố ý chứ không thể là lỗi vô ý.
+ Thứ ba, bạo lực gia đình là hành vi gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về
thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.
Bạo lực gia đình đang là vấn đề được dư luận xã hội quan tâm sâu sắc. Bạo lực gia
đình không phải là vấn đề mang tính địa phương, vùng miền mà là một vấn đề toàn cầu, ở
đâu cũng có, từ các nước nghèo, nước đang phát triển cho đến nước giàu có, phát triển
mạnh về kinh tế và xã hội. Mọi gia đình thuộc mọi tầng lớp của xã hội đều có thể gặp phải
tệ nạn này. Đối tượng của các hành vi bạo hành gia đình có thể là bất kỳ ai trong đó có cả


nam giới nhưng thường là những thành viên yếu đuối, dễ bị tổn thương và trong hầu hết
các trường hợp là phụ nữ, người già và trẻ em.
Bạo lực gia đình đều ảnh hưởng lâu dài đến sức khoẻ, tâm lý, tình cảm của mỗi cá
nhân. Đặc biệt đối với trẻ em, bạo lực còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự hình thành nhân
cách, hạn chế những cơ hội để trẻ em có một cuộc sống bình thường và nhất là tương lai
của các em sau này.
1.2.1.3. Bạo lực chống lại phụ nữ và bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình

- Bạo lực chống lại phụ nữ : Theo Tuyên ngôn của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc
về việc loại bỏ bạo lực đối với phụ nữ ngày 20/12/1993 : "Bạo lực đối với phụ nữ là bất kỳ
hành động bạo lực dựa trên cơ sở giới nào dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến những tổn
thất về thân thể, tình dục hay tâm lý, hay những khổ đau của phụ nữ, bao gồm cả sự đe doạ
có những hành động như vậy, sự cưỡng bức hay tước đoạt một cách tuỳ tiện sự tự do dù nó
có xảy ra trong cuộc sống riêng tư hay ở nơi công cộng " [25] .Với cách định nghĩa như
trên, bạo lực chống lại phụ nữ là các hành vi bạo lực chống lại người phụ nữ trong cuộc
sống riêng tư (bạo lực gia đình) và các hành vi bạo lực chống lại phụ nữ ở nơi công cộng
(bạo lực ngoài gia đình).
Theo quan điểm của Liên Hợp Quốc, bạo lực chống lại phụ nữ có thể phân thành 6
lĩnh vực như sau: 1) Bạo lực trong gia đình; 2) Bạo lực về giới; 3) Những tập tục hủ lậu đối
với phụ nữ; 4) Tệ buôn bán phụ nữ và trẻ em gái; 5) HIV/ AIDS và bạo lực; 6) Những tội
ác chống lại phụ nữ trong chiến tranh lạnh và trong các cuộc xung đột vũ trang.
- Bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình: Quan hệ giới trong gia đình là một
trong những quan hệ cơ bản tạo nên sự tồn tại của một gia đình. Về thực chất nó là mối
quan hệ giữa nam giới và nữ giới trong gia đình mà trung tâm là mối quan hệ vợ chồng.
Trong mối quan hệ về giới, mặc dù thủ phạm của hành vi bạo lực gia đình có thể bao gồm
cả phụ nữ và nạn nhân của nó có thể bao gồm cả đàn ông. Tuy nhiên, các nghiên cứu về
vấn đề này cho phép kết luận rằng, bạo lực gia đình về cơ bản là bạo lực chống lại phụ nữ,
và thủ phạm cơ bản là đàn ông. Phần lớn bạo lực chống lại phụ nữ xảy ra trong gia đình và
người gây ra bạo lực gần như luôn luôn là nam giới, thường là chồng/ người tình, hoặc
chồng cũ/ người tình cũ, hay những người đàn ông quen biết của phụ nữ


"Bạo lực trên cơ sở giới là bạo lực giữa nam giới và phụ nữ, trong đó phụ nữ
thường là nạn nhân và điều này bắt nguồn từ các mối quan hệ quyền lực bất
bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ. Bạo lực thường nhằm vào phụ nữ vì họ là
phụ nữ, hoặc ảnh hưởng lớn đến phụ nữ. Bạo lực trên cơ sở giới bao gồm, những
tổn hại về thân thể, tình dục và tâm lý (bao gồm cả sự đe doạ, gây đau khổ , cưỡng
bức, và/ hoặc tước đoạt sự tự do xảy ra trong gia đình hoặc trong cộg đồng, nhưng nó

không hạn chế chỉ ở những dạng này. Bạo lực trên cơ sở giới bao gồm cả bạo lực do
Nhà nước gây ra hoặc bỏ qua "[40].
Như vậy, bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình gồm tất cả những hành động bạo
lực như đe doạ, khống chế, điều khiển, tước đoạt của nam giới với phụ nữ trong gia đình
gây ra hậu quả hoặc có thể gây ra hậu quả, làm tổn hại hoặc gây đau khổ cho phụ nữ về
thân thể, tâm lý, tình dục hay kinh tế, kể cả những lời đe doạ hay độc đoán, tước quyền tự
do
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ngoài những đặc điểm của bạo lực gia đình nói
chung còn mang một đặc điểm rất quan trọng để chúng ta nhận biết và phân biệt với bạo
lực gia đình nói chung, đó là, nạn nhân của bạo lực gia đình đối với phụ nữ chỉ là nữ
giới (nạn nhân của bạo lực gia đình có thể là tất cả đối tượng: nữ giới, nam giới, trẻ em,
người già, người tàn tật ). Chủ thể thực hiện hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ
thường là nam giới và thường là người chồng trong hôn nhân, chồng cũ hay bạn tình.
Với những đặc điểm đó, chúng ta cũng phân biệt được bạo lực chống lại phụ nữ nói
chung và bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình. Phạm vi, đối tượng bạo lực chống lại
phụ nữ rộng hơn rất nhiều so với bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình và điều này xuất
phát từ yếu tố rất quan trọng là yếu tố gia đình.
Bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình được biểu hiện dưới nhiều hình thức. ở góc
độ khái quát, chúng ta có thể nhận biết bạo lực gia đình đối với phụ nữ dưới các hình thức
chính như sau:
Bạo lực thân thể: thể hiện ở việc đánh đập, hành hạ, gây thương tích cho người phụ
nữ Một số nghiên cứu cho rằng hình thức này còn bao gồm việc hạn chế các nhu cầu
thiết yếu (ăn, uống, ngủ ) của nạn nhân.


Bạo lực tình dục: Thể hiện ở việc cưỡng hiếp hay ép buộc nạn nhân làm tình hay
xem phim, ảnh khiêu dâm dù họ không muốn, không có nhu cầu, hoặc khi đang bị đau ốm,
thậm chí, một số phụ nữ còn bị ép quan hệ tình dục sau khi đã bị đánh đập, cố tình gây đau
đớn hoặc tổn hại cho họ trong qúa trình quan hệ sinh lý, người phụ nữ không có quyền từ
chối.

Bạo lực về tâm lý: Thể hiện ở việc bắt nạn nhân sống trong bầu không khí sợ hãi,
khủng bố nạn nhân đến hoảng loạn tâm thần, nhục mạ nạn nhân trước người thân hoặc
công chúng điều này đôi khi làm cho người phụ nữ ngộ nhận về bản thân họ, vì vậy,
nhiều phụ nữ đã tìm đến cái chết.
Bạo lực về xã hội: Thể hiện ở việc cắt đứt mối quan hệ của nạn nhân và mối quan
hệ của nạn nhân với người thân trong gia đình, bạn bè, cô lập nạn nhân bằng cách nhốt
trong nhà, cắt điện thoại, không cho đi đâu hay không cho giao tiếp với bất cứ ai
Bạo lực về kinh tế: Thể hiện ở việc bao vây kinh tế, kiểm soát tiền bạc, bắt nạn
nhân phụ thuộc về tiền bạc, không cho giữ tiền và đi làm, bắt phải hỏi xin tiền và chứng
minh mọi mua mua sắm, chi tiêu dù lớn hay nhỏ
Cách phân chia các hình thức bạo lực như trên chỉ nhằm mục đích phân loại trên các
cơ sở. Còn trên thực tế, khó có sự phân biệt một cách rạch ròi các kiểu bạo lực như vậy.
Các hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ thường có sự kết hợp của nhiều hành vi bạo
lực. Có những hành động bạo lực thuộc về một loại hình bạo lực, nhưng cũng có hành
động bạo lực thường kết hợp từ hai hay nhiều hình thức bạo lực. Thực tế các trường hợp
bạo lực trong xã hội cho chúng ta thấy hành động đánh đập (bạo lực thể chất) thường đi
kèm với hành động chửi mắng, nhiếc móc, nhục mạ (bạo lực tinh thần) hoặc trường hợp
bạo lực tình dục thường kết hợp cả hai hình thức bạo lực thể chất (dùng vũ lực cưỡng bức -
trường hợp cưỡng dâm, hiếp dâm) và bạo lực tinh thần, tình cảm (làm nạn nhân xấu hổ,
nhục nhã, đau khổ). Các hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ đều để lại vết sẹo tâm lý
đối với người phụ nữ và tạo ra bầu không khí ảm đạm, buồn đau trong gia đình, làm mất
điều kiện phát triển tốt của trẻ em trong gia đình.
1.2.1.4. Khái niệm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
Lịch sử đã chứng minh vai trò vô cùng quan trọng của người phụ nữ trong xã hội.
Hiện nay ở Việt Nam, với sự cố gắng mọi mặt, nhiều người phụ nữ đã đạt được những


thành công lớn, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng đất nước, được Nhà nước và
xã hội tôn vinh, có một gia đình êm ấm, hạnh phúc. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác
nhau, cũng như ở nhiều quốc gia khác, người phụ nữ Việt Nam còn phải đối mặt với rất

nhiều khó khăn như: bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử liên quan đến giới và đặc biệt là
vấn đề bạo hành về giới. Rất nhiều người phụ nữ còn phải chịu bạo lực trong thời gian dài
thậm chí trong suốt cuộc đời của mình với những hành vi đánh đập, hành hạ dã man, tàn
bạo, tạo nên vết thương khó lành trong trái tim người phụ nữ. Bạo lực gia đình đối với phụ
nữ là vi phạm quyền con người; vi phạm quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử của
con người; vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm của người
phụ nữ Chính vì vậy, người phụ nữ cần được bảo vệ khỏi bạo hành để họ được sống, làm
việc, cống hiến và phát triển trong xã hội. Việc phòng và chống bạo lực gia đình đối với
người phụ nữ là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, là trách nhiệm của mỗi gia đình và
toàn xã hội.
Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là việc thực hiện các biện pháp nhằm
ngăn chặn và đẩy lùi bạo hành đối với phụ nữ trong gia đình, giúp cho người phụ nữ tránh
được bạo lực gia đình, bảo đảm các quyền con người và có cuộc sống hạnh phúc.
Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một công việc khó khăn và lâu dài.
Để bảo vệ người phụ nữ, bảo vệ quyền và vị trí của người phụ nữ trong xã hội, việc phòng,
chống bạo lực gia đình đối với người phụ nữ cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật.
Việc phòng, chống bạo lực gia đình đối với người phụ nữ chỉ đạt được hiệu quả khi nó
được đặt dưới sự bảo vệ của pháp luật và phù hợp với pháp luật, phù hợp với truyền thống
tốt đẹp của dân tộc. Người phụ nữ cần phải được bảo vệ mọi mặt trong hành lang pháp lý
hoàn thiện bởi vì pháp luật chính là đại lượng công bằng và phương tiện hữu hiệu nhất
trong việc che chắn, bảo vệ người phụ nữ trước nạn bạo hành gia đình. Chính vì vậy, vấn
đề phòng, chống bạo lực gia đình nói chung trong đó có phòng, chống bạo lực gia đình đối
với phụ nữ đã được Luật hoá, là một trong những vấn đề quan trọng được đặt dưới sự điều
chỉnh của pháp luật. Cho đến nay, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình đặc biệt, lần đâqù tiên, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
đã ra đời. Đây chính là cơ sở pháp lý để bảo vệ con người trong đó có người phụ nữ trước
bạo hành gia đình.


Nghị quyết của Quốc hội về chiến lược phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2006-2010)

đề ra nhiệm vụ " Đấu tranh phòng, chống bạo lực gia đình". Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005-2010, trong đó có mục
tiêu tăng cường phòng, chống bạo lực gia đình và giảm tỷ lệ bạo lực gia đình, bình quân
hàng năm từ 10-15%.
Chính phủ Việt Nam đã tham gia rất mạnh mẽ phong trào quốc tế trong việc bảo vệ
người phụ nữ và đẩy lùi bạo lực gia đình. Việt Nam đã phê chuẩn Công ước về Xoá bỏ mọi
Hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW) năm 1981 và cam kết với kế hoạch
hành động của Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển tại Cai-rô năm 1994 và Cương lĩnh
hành động của Hội nghị quốc tế về phụ nữ tại Bắc Kinh năm 1995. Với tư cách là quốc gia
thành viên của công ước CEDAW, Việt Nam đã có những tiếp cận theo đúng cách tiếp cận
của công ước đối với bình đẳng và bình đẳng giới. Điều này được thể hiện trong hệ thống
pháp luật của Việt Nam, từ đạo luật gốc là Hiến pháp đến các đạo luật và các văn bản pháp
luật khác đều khẳng định một nguyên tắc bình đẳng nam nữ và không có bất kỳ sự phân
biệt nào trên cơ sở giới trên mọi lĩnh vực.
Phòng, chống bạo lực gia đình trong đó có phòng, chống bạo lực gia đình đối với
phụ nữ đã được đề cập trong một số văn bản pháp luật của nước ta như: Hiến pháp 1992,
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Tố tụng Dân sự,
Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh người cao tuổi
Những văn bản pháp luật trên đã có rất nhiều quy định về phòng, chống bạo lực gia
đình, góp phần quan trọng trong bảo vệ người phụ nữ khỏi bạo lực gia đình. Để công tác
phòng, chống bạo lực gia đình có hiệu quả hơn nữa, ngày 21 tháng 11 năm 2007, Quốc hội
khoá XII của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình. Luật phòng, chống bạo lực gia đình ra đời là một bước tiến tích cực, có ý
nghĩa rất lớn để chúng ta tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực
gia đình, bảo vệ quyền con người, bảo vệ người phụ nữ, tiếp tục sự nghiệp giải phóng
người phụ nữ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình lần đầu tiên ra đời như tiếng chuông
lớn cảnh tỉnh những ai đang có hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ, gửi đến tất cả các
chủ thể trong xã hội một thông điệp rõ ràng rằng bạo lực gia đình nói chung và bạo lực gia



đình đối với phụ nữ là trái với đạo đức, đi ngược lại truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân
tộc, trái với ý chí chung của xã hội, là vi phạm pháp luật, vi phạm những chuẩn mực chung
của xã hội và phải chịu sự trừng phạt của xã hội, của pháp luật.
Toàn bộ các quy định liên quan đến bạo lực gia đình trong các văn bản pháp luật kể
trên hợp thành một hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình trong đó người
phụ nữ là một trong những đối tượng được bảo vệ khỏi sự tấn công của bạo hành gia đình.
Như vậy, chúng ta không có một hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với
phụ nữ riêng mà Luật Phòng, chống bạo lực gia đình cũng như các văn bản pháp luật khác
trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình quy định và áp dụng, bảo vệ đối với tất cả các
chủ thể trong gia đình : nam giới, phụ nữ, trẻ em, người già khi họ là nạn nhân của bạo
lực gia đình. Vì vậy, phụ nữ là một trong các đối tượng được bảo vệ trong hành lang pháp
lý phòng, chống bạo lực gia đình chung.
Pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình không chỉ ghi nhận quyền con người nói
chung trong đó có người phụ nữ mà còn quy định rõ các hành vi nào là bạo lực gia đình,
hành vi nào bị cấm trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình; trách nhiệm của cá nhân,
cơ quan, tổ chức trong việc phòng, chống bạo lực gia đình; quy định những thiết chế bảo
đảm việc phòng, chống bạo lực gia đình đối với người phụ nữ đạt được hiệu quả.
Từ những phân tích trên, có thể khái niệm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
như sau:
Pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình là hệ thống các quy định pháp luật do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về phòng,
chống bạo lực gia đình và các lĩnh vực khác có liên quan.
1.2.2. Nội dung của pháp luật phòng chống bạo lực gia đình
Nhìn vào hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, ta thấy, không có
nhiều quy phạm pháp luật quy định riêng, trực tiếp về việc phòng, chống bạo lực gia đình
đối với phụ nữ mà những quy định chung đó áp dụng với tất cả các đối tượng.
Trong hệ thống pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, Hiến pháp là văn bản
pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất. Điều 63, Hiến pháp 1992 quy định: "nghiêm cấm mọi

hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ "; "vợ chồng phải
thương yêu nhau, bình đẳng và không phân biệt đối xử".


Cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp 1992, nội dung phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác. Tiêu biểu là những
quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 là một trong những văn bản đó. Bộ luật Hình sự
là căn cứ để xác định hành vi bạo lực gia đình nào là hành vi phạm tội. Điều 130, Bộ
luật Hình sự năm 1999 quy định tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ: "người nào
dùng vũ lực hoặc có hành vi nghiêm trọng khác cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính
trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một
năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm". Ngoài ra, Bộ luật hình sự Việt Nam đã hình
sự hoá nhiều hành vi bạo lực gia đình, quy định thành nhiều tội phạm liên quan đến bạo lực
gia đình. Tuy nhiên, những điều luật đó mới chỉ quy định gián tiếp về hành vi bạo lực gia
đình, chưa có nhiều quy định trực tiếp về phòng, chống bạo lực gia đình trong đó có bạo
lực gia đình đối với phụ nữ.
Cùng với Bộ luật Hình sự, Luật Tổ chức Chính phủ cũng quy định nhiệm vụ, quyền
hạn của Chính phủ: "thực hiện chính sách và biện pháp bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ
về mọi mặt chính trị, kinh tế,văn hoá, xã hội và gia đình; bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và thực
hiện quyền trẻ em; giúp đỡ người già, người khuyết tật và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn
đặc biệt; có biện pháp ngăn ngừa và chống mọi hành vi bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em,
xúc phạm nhân phẩm phụ nữ và trẻ em". (Khoản 4, điều 12, Luật Tổ chức Chính phủ)
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 là một trong những văn bản pháp
luật quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến
bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, kế
thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia
đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
còn là phương tiện hữu hiệu trong việc phòng, chống bạo lực gia đình. Luật đã có nhiều
điều khoản quy định trực tiếp và gián tiếp đến việc phòng, chống bạo lực gia đình. Tại
khoản 2, điều 4, Luật Hôn nhân và gia đình quy định: "Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản

trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, giả tạo, lừa dối để kết hôn, ly hôn; cấm cưỡng ép ly hôn,
ly hôn giả tạo Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống
như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ. Cấm ngược đãi, hành hạ ông, bà, cha, mẹ,
vợ, chồng, con, cháu, anh em và các thành viên khác trong gia đình". Ngoài ra, tại khoản 3,


điều 4, Luật Hôn nhân và gia đình còn quy định chế tài đối với những hành vi vi phạm
pháp luật về hôn nhân và gia đình. Khoản 2, điều 21, Luật Hôn nhân và gia đình đã trực
tiếp quy định về phòng, chống bạo lực gia đình trong đó có bạo lực gia đình đối với phụ
nữ: "Cấm vợ, chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến nhân phẩm, uy tín của
nhau" hay điều 35 quy định: "Nghiêm cấm con có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm
cha mẹ".
Như vậy, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 cũng như các văn bản
pháp luật kể trên đã có nhiều quy phạm pháp luật nhằm phòng, chống bạo lực gia đình.
Tuy nhiên, xét một cách tổng quát, những quy định đó vẫn còn sơ sài, tản mạn ở nhiều văn
bản khác nhau, thiếu tính cụ thể và chưa có những quy định pháp lý đặc thù.
Để khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình nói chung trong đó có bạo lực gia đình đối với phụ nữ đồng thời nhằm đạt được hiệu
quả cao hơn nữa trong việc phòng, chống bạo lực gia đình, hạn chế tiến tới đẩy lùi bạo lực
gia đình, tạo nên một cuộc cách mạng thực sự trong phòng, chống bạo lực gia đình, Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình đã được Quốc hội khoá XII nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam thông qua ngày 21 tháng 11 năm 2007 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008.
Đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định một cách trực tiếp, cụ thể về hoạt động phòng,
chống bạo lực gia đình. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 đã điều chỉnh một
cách có hệ thống các hành vi bạo lực gia đình để trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp phòng,
chống bạo lực gia đình. Luật phòng, chống bạo lực gia đình gồm 6 chương và 46 điều với
những nội dung cơ bản sau:
Chương I: "Những quy định chung" gồm 8 điều (từ điều 1 đến điều 8) quy định về
phạm vi điều chỉnh; định nghĩa về bạo lực gia đình, xác định cụ thể các hành vi bạo lực gia

đình; nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình; nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia
đình; quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình; chính sách của Nhà nước, hợp tác
quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình và những hành vi bị nghiêm cấm.
Về phạm vi điều chỉnh: Được quy định tại điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình: "Luật này quy định về phòng ngừa bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực
gia đình; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực
gia đình và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình". Như vậy phạm vi
điều chỉnh của Luật khá rộng. Luật điều chỉnh nhiều vấn đề, quy định về tất cả hành vi bạo


lực của các thành viên trong gia đình kể cả đối với gia đình của vợ, chồng đã ly hôn hoặc
nam nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng, các phương thức
phòng, chống bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình đồng thời xác định
trách nhiệm của toàn xã hội đối với vấn đề này và quy định về xử lý vi phạm pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình.
Khoản 2, điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định: "Bạo lực gia đình là
hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất,
tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình".
Lần đầu tiên, bạo lực gia đình được quy định trong văn bản pháp luật Việt Nam.
Theo đó, hành vi bạo lực gia đình trước hết phải là hành vi cố ý chứ không thể là hành vi
vô ý. Thứ hai, người thực hiện hành vi bạo lực chính một trong những thành viên trong gia
đình (các chủ thể ngoài gia đình bị loại trừ). Đối với bạo lực gia đình đối với phụ nữ thì
chủ thể thực hiện bạo lực gia đình chính là người chồng hiện tại, người chồng cũ hoặc bạn
tình; nạn nhân của bạo lực gia đình là một trong các thành viên của gia đình. Thứ ba, hành
vi bạo lực gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ngoài việc định nghĩa về bạo lực gia đình còn
quy định cụ thể các hành vi bạo lực gia đình gồm:
- Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc có hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ,
tính mạng;
- Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

- Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm
trọng;
- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và
cháu; giữa cha mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
- Cưỡng ép quan hệ tình dục;
- Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến
bộ;


- Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản
riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên trong gia
đình;
- Cưỡng ép thành viên trong gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả
năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc
về tài chính;
- Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
Các hành vi bạo lực trên cũng được áp dụng đối với thành viên gia đình của vợ,
chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ
chồng.
Khi chủ thể là thành viên trong gia đình mà có những hành vi trên đối với một trong
những thành viên trong gia đình thì bị coi là hành vi bạo lực gia đình đồng thời là hành vi
vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các
cơ quan thực thi pháp luật, các cá nhân cũng như toàn xã hội nhận thức và xác định và hiểu
rõ hơn về các hành vi bạo lực gia đình, khắc phục được tình trạng chưa có và chưa hiểu rõ
quy định về hành vi bạo lực gia đình, tránh được quan niệm của một số người, bạo lực gia
đình là chồng đánh vợ hoặc vợ đánh chồng, có nghĩa là phải có "đánh đập", còn "chửi
mắng, lăng mạ, cô lập, xua đuổi, hay cưỡng ép " thì không phải là hành vi bạo lực gia
đình hay một số người thì cho rằng hành vi đánh vợ hay chồng là chuyện bình thường xảy
ra trong cuộc sống, vì vậy, không phải là hành vi bạo lực gia đình và như vậy, không phải
là vi phạm pháp luật.

Cũng như các đạo luật khác, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình Việt Nam cũng
quy định "nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình". Điều 3, Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình quy định:
"1. Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình, lấy
phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hoà
giải phù hợp với truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
2. Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy
định của pháp luật.

×