Tải bản đầy đủ (.pdf) (173 trang)

Thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 173 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THU HÀ

THùC HIÖN PH¸P LUËT
VÒ QUYÒN CHÝNH TRÞ §èI VíI PHô N÷
ë VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật

HÀ NỘI - 2018


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THU HÀ

THùC HIÖN PH¸P LUËT
VÒ QUYÒN CHÝNH TRÞ §èI VíI PHô N÷
ë VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 62 38 01 01

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. NGUYỄN THỊ BÁO
2. TS. LÊ ĐINH MÙI


HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Thu Hà


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC
NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu
và giả thuyết nghiên cứu

6

6
26

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

2.1. Khái niệm quyền chính trị, pháp luật về quyền chính trị của phụ
nữ, thực hiện pháp luật vể quyền chính trị đối với phụ nữ
2.2. Chủ thể, nội dung, hình thức, vai trò và các yếu tố đảm bảo thực
hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ
2.3. Thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ ở một số
nước trên thế giới và những giá trị tham khảo đối với Việt Nam

29
29
44
67

Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỂ QUYỀN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

3.1. Thực trạng pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
hiện nay
3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ
ở Việt Nam hiện nay

79
79

94

Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUYỀN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY

4.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối
với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay
4.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với
phụ nữ ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

124
124
135
151
154
155


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCH

:

Ban Chấp hành


CNH, HĐH :

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

HTCT

:

Hệ thống chính trị

LHPN

:

Liên hiệp phụ nữ

LHQ


:

Liên Hợp quốc

PBGDPL

:

Phổ biến giáo dục pháp luật

THPL

:

Thực hiện pháp luật

UBND

:

Uỷ ban nhân dân

VBQPPL

:

Văn bản quy phạm pháp luật

XHCN


:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Trang
Bảng 3.1:

Đại biểu Quốc hội theo chức vụ

103

Bảng 3.2:

Cơ cấu lãnh đạo chủ chốt trong cơ quan của Quốc hội

104

Bảng 3.3:

Tỷ lệ nữ đại biểu tham gia các Ủy ban Quốc hội

105

Bảng 3.4:

Phụ nữ tham gia Ban Chấp hành Trung ương


106

Bảng 3.5:

Tỉ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy Đảng

106

Biểu đồ 3.1:

Tỉ lệ cử tri đi bầu cử Quốc hội các khóa từ năm 1946 đến nay

99

Biểu đồ 3.2:

Tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội các khóa từ năm 1946 đến nay

100

Biểu đồ 3.3:

Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân ba cấp (giai đoạn
1989-2016)

101


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, quan tâm đến công tác nữ là quan điểm nhất quán của Đảng và
Nhà nước ta trong suốt quá trình cách mạng. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
vĩ đại đã viết:
Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần
xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần
phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày
thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản
thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa
đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ [89, tr.30].
Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, chủ trương của Ðảng về bình đẳng giới và
trao quyền cho phụ nữ được thể hiện xuyên suốt trong các Nghị quyết Ðại hội
Ðảng, các nghị quyết và chỉ thị của Trung ương Ðảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về
công tác quần chúng, công tác vận động phụ nữ, công tác cán bộ nữ. Từ chủ trương
của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật cụ thể nhằm tạo điều
kiện để phụ nữ phát triển và thúc đẩy bình đẳng giới, trong đó quan trọng nhất là
bảo đảm và tạo điều kiện để phụ nữ Việt Nam thực hiện quyền chính trị.
Quyền bình đẳng nam nữ đã được xác định ngay từ Hiến pháp đầu tiên năm
1946 của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Vấn đề này tiếp tục được kế thừa
trong các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992, 2013 và cụ thể hóa trong các văn bản
luật và dưới luật. Hàng loạt các văn bản pháp luật của Nhà nước đã được ban hành
nhằm nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội và thực hiện bình đẳng giới như Bộ
luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và Gia đình, Pháp lệnh Dân số, Luật
Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình... Có thể thấy hệ thống luật
pháp, chính sách về phụ nữ ngày càng được hoàn thiện, đặc biệt, với việc ban hành
Hiến pháp 2013, quyền con người trong đó có quyền của phụ nữ được khẳng định là
động lực quan trọng để phát triển xã hội. Cùng với việc ban hành pháp luật, Việt
Nam đã phê chuẩn và gia nhập Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948
và hầu hết các điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người, trong đó có các công
ước liên quan đến các quyền của phụ nữ như: Công ước quốc tế về các quyền dân

sự và chính trị (1966), Công ước về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966, Công
ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (1979, CEDAW);
Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật...


2
Pháp luật Việt Nam về cơ bản đã nội luật hóa các chuẩn mực quốc tế về
quyền con người trong đó có quyền chính trị của phụ nữ, phù hợp cùng với xu thế
phát triển chung của nhân loại và đặc thù của Việt Nam nên đã tạo động lực giúp
người phụ nữ vươn lên, khắc phục khó khăn, trở ngại đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt
ra, khẳng định vị thế của mình trong gia đình và ngoài xã hội. Kết quả bầu cử đại
biểu Quốc hội khoá XIV, phụ nữ chiếm 26,6% trong tổng số đại biểu. Đây là tỷ lệ
cao qua các kỳ bầu cử Quốc hội và đã đưa Việt Nam thuộc hàng nước có tỷ lệ nữ đại
biểu trong cơ quan lập pháp cao nhất châu Á cũng như trên thế giới (trên 25%). Tỷ lệ
nữ đại biểu Quốc hội nước ta cao hơn hẳn so với Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và
nhiều nước trong khu vực. Theo Liên minh các Nghị viện, Việt Nam đứng thứ 37 trong
tổng số 188 nước trên thế giới về tỷ lệ phụ nữ trong cơ quan lập pháp (số liệu tính đến
ngày 31/1/2011 trên cơ sở báo cáo của cơ quan lập pháp các nước) [31].
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc đảm bảo cho phụ nữ
được thực hiện các quyền do pháp luật quy định, cần phải thừa nhận rằng công tác THPL
về các quyền của phụ nữ trong đó có quyền chính trị vẫn còn nhiều hạn chế. Mặc dù, Việt
Nam xếp thứ hạng cao trên thế giới về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nhưng vẫn còn khoảng
cách khá lớn giữa tỷ lệ nam và nữ (73,4% và 26,6%); đặc biệt là tỷ lệ phụ nữ nắm giữ các
vị trí lãnh đạo chủ chốt (cấp trưởng). Vẫn còn những rào cản từ phía gia đình, xã hội đối
với phụ nữ khi tham gia công tác xã hội, chính trị. Tỉ lệ phụ nữ tham chính vẫn còn chưa
đạt được yêu cầu đề ra; sự phân biệt đối xử về cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp của phụ
nữ dẫn đến hẫng hụt đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ vẫn là thách thức lớn; pháp luật
về quyền chính trị và THPL về quyền chính trị của phụ nữ ở nước ta còn chưa được nhận
thức đầy đủ như là một công cụ để quản lý xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho
phụ nữ. Tình trạng vi phạm pháp luật đối với phụ nữ, nhất là vi phạm quy định pháp luật

về quyền chính trị của phụ nữ vẫn còn diễn ra ở một số nơi là cản trở quá trình phát huy
dân chủ, tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN),
đi ngược lại bản chất tốt đẹp của xã hội chúng ta đang xây dựng.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên là do các nguyên nhân như: Hệ thống pháp
luật về quyền chính trị của phụ nữ còn thiếu đồng bộ và tính khả thi chưa cao; nhận
thức về chính sách pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ của các chủ thể còn
chưa đầy đủ; năng lực THPL của các chủ thể còn hạn chế; công tác chỉ đạo, kiểm
tra, giám sát việc THPL còn chậm, thiếu kiên quyết trong xử lý dẫn đến việc thực
hiện không đúng, đủ.


3
Vấn đề đặt ra là tại sao Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia
có hệ thống pháp luật tốt nhìn từ góc độ bình đẳng giới, nhưng tỉ lệ phụ nữ tham
chính có chiều hướng giảm, sự hẫng hụt về nguồn cán bộ nữ tham gia cấp ủy nhiệm
kỳ 2015-2020, kể cả nhiệm kỳ 2020-2025 đang là thực tế ở tất cả các cấp; tiếng nói
của phụ nữ trong các lĩnh vực quan trọng của đất nước chưa được chú trọng... Điều
này đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu để tìm ra những kết quả, hạn chế và nguyên
nhân kết quả, hạn chế trong THPL để kiến nghị giải pháp đảm bảo THPL về quyền
chính trị của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay là cần thiết.
Vì vậy, nghiên cứu sinh chọn đề tài: "Thực hiện pháp luật về quyền chính
trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu trong phạm vi luận án tiến
sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn việc THPL về quyền chính trị đối với
phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, luận án luận giải, xác định các quan điểm và giải pháp
đảm bảo THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:

Một là, phân tích, làm rõ khái niệm quyền chính trị, pháp luật về quyền chính
trị của phụ nữ; Chủ thể, nội dung, hình thức, vai trò, các yếu tố bảo đảm THPL về
quyền chính trị đối với phụ nữ; rút ra những gợi mở đối với Việt Nam từ nghiên cứu
kinh nghiệm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ một số nước thế giới.
Hai là, phân tích chỉ ra những kết quả, hạn chế, nguyên nhân của kết quả, hạn
chế của pháp luật và THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
Ba là, luận giải, xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp bảo đảm
thực THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận án nghiên cứu các
vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật và THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ.
Từ đó, luận án luận chứng những cơ sở khoa học và đề xuất các quan điểm,
giải pháp đảm bảo THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.


4
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu việc THPL về quyền chính trị đối với phụ
nữ ở Việt Nam.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu trên lãnh thổ Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu pháp luật và THPL về quyền chính trị đối
với phụ nữ từ năm 1945 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật, về quyền con người, quyền công dân; chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về bình đẳng giới và quyền chính trị của phụ nữ, về giải quyết các vấn đề xã
hội, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp

luật, phát huy nhân tố con người; bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong đó có
quyền chính trị của phụ nữ trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay; lý luận về thực hiện
pháp luật nói chung và lý luận về thực hiện pháp luật về quyền con người, quyền của phụ nữ
nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu tư liệu thứ cấp, phân
tích và tổng hợp được sử dụng để thu thập thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến
đề tài nghiên cứu THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay.
Trong Chương 2, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá để
xây dựng các khái niệm; phương pháp phân tích, tổng hợp dùng để nghiên cứu chủ thể,
nội dung, hình thức và các yếu tố bảo đảm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở
nước ta hiện nay; phương pháp luật học so sánh được sử dụng để tham chiếu giữa các
chuẩn mực quốc tế và kinh nghiệm về THPL về quyền chính trị của đối với phụ nữ ở
một số nước trên thế giới và những giá trị có thể tham khảo đối với Việt Nam.
Trong Chương 3, tác giả sử dụng phương pháp thống kê, nhằm đánh giá việc
THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay, đồng thời đánh giá,
phân tích những kết quả, hạn chế, nguyên nhân của những kết quả, hạn chế, từ đó
tác giả làm sáng tỏ nội dung của Luận án.
Trong Chương 4, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp
để đưa ra các quan điểm, giải pháp có căn cứ khoa học góp phần bảo đảm THPL về
quyền chính trị đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay.


5
5. Những điểm mới của luận án
5.1. Về phương diện lý luận
Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên một cách toàn diện về THPL về
quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay nên có những đóng góp mới về
mặt lý luận sau:
- Luận án đã xây dựng được khái niệm, làm rõ chủ thể, nội dung, hình thức,

vai trò và các yếu tố đảm bảo THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ.
- Từ nghiên cứu các chuẩn mực quốc tế về quyền chính trị của phụ nữ, kinh
nghiệm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ của một số nước trên thế giới, rút
ra những gợi mở đối với Việt Nam.
5.1. Về phương diện thực tiễn
- Luận án là công trình đầu tiên đánh giá rõ thực trạng pháp luật và THPL về
quyền chính trị của phụ nữ, phân tích chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên
nhân của ưu điểm, hạn chế trong THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt
Nam từ năm 1945 đến nay.
- Luận án luận chứng các quan điểm, đề xuất các giải pháp bảo đảm THPL
về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về THPL
về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam, luận án là tài liệu tham khảo trong
quá trình sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản pháp luật về quyền chính trị của
phụ nữ ở Việt Nam.
- Luận án cung cấp luận cứ khoa học và tài liệu cho các cơ quan trong hệ
thống chính trị (HTCT), các tổ chức xã hội thực hiện giáo dục nâng cao ý thức pháp
luật, tổ chức THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam.
- Luận án được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu
giảng dạy, học tập về pháp luật về quyền con người nói chung, pháp luật về quyền
của phụ nữ nói riêng trong các cơ sở đạo tạo chuyên luật và không chuyên luật.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
án gồm 04 chương, 09 tiết.


6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1.1. Khái lược tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
* Một số công trình khoa học nghiên cứu về quyền chính trị, pháp luật về
quyền chính trị và thực hiện pháp luật về quyền chính trị
Thứ nhất, các công trình khoa học nghiên cứu về quyền chính trị và pháp
luật về quyền chính trị
Đề tài khoa học cấp Bộ:
"Sự phát triển quyền dân sự và chính trị trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
(1986 - 2001)" của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [61]. Đề tài chia các
nhóm vấn đề để nghiên cứu như: Vị trí, đặc điểm quyền dân sự và chính trị trong
Công ước quốc tế về quyền con người; nội dung cơ bản của quyền dân sự và chính
trị trong Công ước quốc tế về quyền con người; quá trình phát triển của quyền dân
sự và chính trị ở nước ta trong một số lĩnh vực, đối tượng cụ thể.
Sách:
- "Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị" của Hoàng Văn Hảo, Chu
Hồng Thanh [56] đã nêu lên một số nội dung cơ bản về quyền dân sự và chính trị:
Một số vấn đề về lịch sử và lý luận, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư
tưởng Hồ Chí Minh về quyền dân sự chính trị, vị trí của quyền dân sự và chính trị
trong hệ thống nhân quyền. Quyền dân sự chính trị ở Việt Nam hiện nay.
- "Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị"
của Võ Khánh Vinh [157] đã trình bày những vấn đề liên quan đến quyền dân sự và
quyền chính trị, quyền con người, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bí mật
đời tư... ở Việt Nam;
- "ABC về các quyền dân sự, chính trị cơ bản" của tác giả Vũ Công Giao, Lã
Khánh Tùng [51], cuốn sách chứa đựng những thông tin cơ bản về các chuẩn mực
quốc tế và pháp luật Việt Nam về các quyền tự do biểu đạt, thông tin, hội họp, hiệp
hội, biểu tình và dân chủ trực tiếp. Cuốn sách được cấu trúc theo hình thức các câu



7
hỏi - đáp nhằm giúp bạn đọc dễ tiếp cận, qua đó góp phần vào việc soạn thảo các
đạo luật đã nêu mà đang được tiến hành ở nước ta.
- "Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến
pháp Việt Nam" của tác giả Phạm Văn Ba, Nguyễn Thị Báo và Vũ Công Giao là
đồng chủ biên [5]. Cuốn sách đã nêu và phân tích quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân trong các bản Hiến pháp đặc biệt là Hiến pháp năm 2013, trong đó, có nội
dung quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền của phụ nữ Việt Nam.
Luận án:
"Pháp luật bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực xã hội ở Việt Nam:
những vấn đề lý luận và thực tiễn" của Lê Hoài Trung [130]: Nội dung Luận án đã
phân tích, đánh giá về pháp luật về bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực xã hội
ở Việt Nam, trong đó có đề cập đến quyền của phụ nữ Việt Nam.
Tạp chí:
- "Quyền dân sự, chính trị trong xã hội ta" của tác giả Vĩnh An [1], tác giả đã
giải thích ngắn gọn về các nhóm quyền dân sự, chính trị; việc thực hiện các quyền
này trong quan điểm, hành động của Đảng và Nhà nước ta. Cuối bài viết, tác giả
khẳng định: Nhận thức một cách đúng đắn về quyền dân sự, chính trị trong bối cảnh
khó khăn, phức tạp của tình hình đất nước hiện nay; bình tĩnh, tỉnh táo trước những ý
kiến gọi là "thực tâm" hay "tâm huyết" của những người khởi xướng "Tuyên bố…"
để không rơi vào cạm bẫy của mưu đồ nhằm xóa bỏ chế độ chính trị hiện nay - thành
quả cách mạng mà nhân dân ta đã đổ biết bao mồ hôi, xương máu mới có được.
- "Quyền dân sự và chính trị trong Hiến pháp 1992 - Sự kế thừa và phát
triển" của tác giả Nguyễn Thị Báo [8], bài viết phân tích những vấn đề cốt lõi về
Hiến định các quyền dân sự và chính trị trong Hiến pháp 1992 có sự kế thừa, phát
triển trong quá trình lập hiến từ năm 1946 đến năm 1992; chỉ rõ những điểm mới,
những điểm cần bàn thêm về quyền dân sự và chính trị được ghi nhận trong quá
trình lập hiến ở Việt Nam.

Các công trình nêu trên cho cái nhìn khái quát nhưng toàn diện các nội dung
liên quan đến quyền con người nói chung và quyền chính trị nói riêng như: Đặc
điểm, nội dung, các quy định của pháp luật liên quan đến quyền con người trong đó
có quyền chính trị của phụ nữ trong các lĩnh vực cụ thể của xã hội.


8
Thứ hai, các công trình khoa học nghiên cứu về THPL và THPL về quyền
chính trị gồm có:
Đề tài khoa học cấp Bộ:
- "Điều tra việc thực hiện pháp luật" của Viện Khoa học xã hội [150] nhằm đạt
được những mục tiêu trước mắt và lâu dài. Trước mắt, đề tài làm rõ mức độ vi phạm
pháp luật, tình hình THPL ở các địa phương, các ngành, phát hiện ra những vi phạm
pháp luật ở các cấp độ khác nhau, tìm ra những kẽ hở, sự chồng chéo trong pháp luật
dẫn tới việc vi phạm pháp luật. Mục tiêu lâu dài của đề tài là trên cơ sở những thông tin
thu thập được, qua phân tích, xử lý thông tin sẽ đưa ra những kiến nghị có cơ sở khoa
học về xây dựng và áp dụng pháp luật về phòng ngừa các vi phạm pháp luật kiến nghị
về hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả pháp luật để thực hiện nguyên tắc
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật để Nhà nước thật sự là Nhà nước của dân, do
dân, vì dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, công bằng, văn minh.
Nhìn chung, THPL được nghiên cứu dựa trên nền tảng lý luận Mác - Lê nin
về Nhà nước và pháp luật; kế thừa, phát triển thành tựu của lý luận về Nhà nước và
pháp luật; lý luận về THPL từ khoa học pháp lý Liên Xô và các nước XHCN Đông
Âu trước đây.
- Trong 02 công trình khoa học: "Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật"
của Đào Trí Úc [141]; "Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi
mới" của Đào Trí Úc [142] đã nêu rõ lý luận về THPL và đặt nó trong quan hệ với
các yếu tố cấu thành của điều chỉnh pháp luật; với xây dựng, bảo vệ pháp luật và
thực thi quyền lực nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của Đổi mới. Trong bối cảnh
đó, đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới cả về nhận thức lý luận và hoàn thiện hệ thống

pháp luật, cơ chế tổ chức THPL. THPL được nghiên cứu dưới góc độ áp dụng pháp
luật để hiện thực hóa pháp luật trong thực tế, trong cơ chế điều chỉnh pháp luật đối
với các quan hệ xã hội - quá trình pháp luật phát huy hiệu quả điều chỉnh trong thực
tiễn. Ngoài ra, cũng trong một nghiên cứu khác, đó là: "Cơ chế giám sát của nhân
dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước một số vấn đề lý luận và thực
tiễn" của Đào Trí Úc [144] lại nghiên cứu về cơ chế giám sát và kiểm tra nói chung
và trong THPL nói riêng.
Sách:
- Trong cuốn sách: "Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam" của
Nguyễn Minh Đoan [45] đã làm rõ khái niệm, mục đích, ý nghĩa, hình thức, quy


9
trình, các bảo đảm và tiêu chí đánh giá hiệu quả THPL ở Việt Nam, thực trạng và đề
xuất các giải pháp; làm rõ về áp dụng pháp luật (khái niệm, đặc điểm, các trường
hợp, nguyên tắc, quá trình và quyết định áp dụng); áp dụng pháp luật tương tự, giải
thích pháp luật…
Luận án:
Luận án: "Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp lý thực hiện quyền con
người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay" của Nguyễn Văn Mạnh [87];
"Những bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện quyền cơ bản của công dân trong lĩnh
vực tự do cá nhân" của Trần Thanh Hương [74]; "Hoàn thiện pháp luật về quyền
của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Thị Báo [9]; "Thực hiện
pháp luật đối với người nghèo trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam" của Đỗ Xuân Lân [79]; "Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của
nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra ở Việt Nam" của
Nguyễn Đỗ Kiên [77]; "Thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá đối
với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam" của Đỗ Thị
Thơm [121]; "Thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tực hành chính của cơ quan
nhà nước cấp tỉnh ở nước ta hiện nay" của Nguyễn Văn Linh [80]; "Thực hiện pháp

luật thế chấp quyền sử dụng đất ở Việt Nam" của Lê Thúy Bình [14]...
Những luận án nêu trên đã nêu được cơ sở lý luận và thực tiễn trong công tác
hoàn thiện và thực hiện pháp luật trong một số lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội
và quyền con người.
Tạp chí:
- Bài viết: "Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật của công dân ở
nước ta hiện nay" của Hoàng Thị Kim Quế trong [107] đã phân tích nhận thức toàn
diện về THPL của công dân gồm hai phương diện chủ yếu: Không thực hiện hành vi
trái pháp luật và thực hiện hành vi hợp pháp. Bài viết nhấn mạnh ý nghĩa của việc
nghiên cứu, nhận diện đầy đủ những yếu tố tác động đến THPL, coi đó như là cơ sở để
xây dựng các giải pháp bảo đảm hiệu quả THPL của công dân ở nước ta hiện nay.
- Bài viết "Đảm bảo thực thi quyền con người, quyền công dân theo Hiến
pháp năm 2013" của Lưu Ngọc Tố Tâm [113] đã phản ánh những quy định mới về
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp và chỉ ra
những điều kiện, giải pháp đảm bảo thực thi có hiệu quả những quyền này.


10
Những luận án nêu trên là tài liệu tham khảo về cơ sở lý luận và thực tiễn các
vấn đề liên quan đến quyền con người, THPL và thực tiễn THPL trên một số lĩnh
vực cụ thể.
* Một số công trình khoa học nghiên cứu về phụ nữ và thực hiện pháp
luật về quyền chính trị đối với phụ nữ
Đề tài khoa học cấp Bộ:
- Nghiên cứu: "Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống
chính trị" của Ban Tổ chức Trung ương [7], nghiên cứu này chủ yếu tập trung đánh
giá thực trạng năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ nhằm đưa ra các giải pháp thích hợp
để tăng cường năng lực lãnh đạo chính trị của nhóm đối tượng này. Cuộc khảo sát
của nghiên cứu này được thực hiện với mẫu khá lớn (1.218 phiếu), với đối tượng là
các quan chức làm việc trong các cơ quan của bộ máy chính trị (Đảng, chính quyền,

các tổ chức chính trị xã hội) từ Trung ương đến địa phương. Mục tiêu của nghiên
cứu là đưa ra bức tranh toàn cảnh về sự tham gia chính trường của phụ nữ Việt
Nam, nhưng thực trạng mà nghiên cứu này mô tả chỉ chủ yếu là ở giai đoạn đầu
những năm 2000. Nghiên cứu này chủ yếu xem xét quan niệm của cán bộ công
chức về năng lực làm việc của phụ nữ, trong sự so sánh với năng lực của nam giới,
và mô tả hiện tượng bất bình đẳng giới trong đời sống chính trị của đất nước, mà
không chú trọng phân tích các lý do hoặc so sánh các nhóm lý do dẫn đến thực
trạng đó. Những vấn đề bất bình đẳng giới trong cấu trúc thang bậc quyền lực giữa
nam và nữ cũng được công trình đề cập và mô tả tuy nhiên vẫn có thiếu vắng những
lý thuyết và trọng tâm phân tích các lý do hoặc so sánh các nhóm rào cản dẫn đến
thực trạng đó. Báo cáo nghiên cứu đã liệt kê một số nguyên nhân khiến phụ nữ Việt
Nam ít tham gia lãnh đạo chính trị, nhưng điều đáng chú ý là những nguyên nhân
này phần lớn được rút ra từ báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 37-CT/TW
của các bộ, ban ngành (1994 - 2004).
- Đề tài khoa học cấp bộ: "Điều tra cơ bản về sự tiến bộ nghề nghiệp của cán
bộ nữ trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước" của Trương Thị Thông [122], đề
tài tập trung phân tích cơ sở lý luận, Nghị quyết, đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và căn cứ số liệu điều tra để đánh giá những kết
quả, thành tựu và thách thức trong quá trình tiến bộ nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ
nữ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, đưa ra một


11
số dự báo xu hướng vận động, quan điểm, giải pháp thúc đẩy sự tiến bộ nghề nghiệp
của cán bộ nữ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước trong những năm sắp tới.
- Đề tài khoa học cấp Bộ: "Phụ nữ Việt Nam trong lãnh đạo, quản lý công
hiện nay" của Đặng Thị Ánh Tuyết [139], từ hướng tiếp cận chuyên ngành xã hội
học và các lý thuyết liên ngành, đề tài nghiên cứu, mô tả và phân tích thực trạng phụ
nữ Việt Nam trong lãnh đạo, quản lý công, chỉ ra các nguyên nhân, yếu tố ảnh hưởng
đến sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ thông qua đó đề xuất các giải pháp phát

huy và tăng cường sự tham gia của phụ nữ Việt Nam trong lãnh đạo, quản lý công hiện
nay. Đề tài cung cấp và phát triển các ý tưởng nghiên cứu chuyên sâu lý luận về sự
tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong bối cảnh hội nhập và phát triển ở Việt
Nam. Việc vận dụng cách tiếp cận lý thuyết xã hội học trong phân tích thực trạng, các
yếu tố tác động và hàm ý các chính sách tăng cường vai trò phụ nữ trong lãnh đạo,
quản lý công thể hiện sự phù hợp và kết nối được giữa lý luận và thực tiễn của chủ đề
nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cho việc
hoàn hiện hệ thống khung pháp lý đảm bảo thực hiện quyền phụ nữ trong lãnh đạo,
quản lý và chính sách cán bộ nữ trong bối cảnh hội nhập; đồng thời là tài liệu tham
khảo hữu ích cho học viên, nghiên cứu sinh chuyên ngành xã hội học, sử học, văn hóa
học... và những tác giả quan tâm đến lĩnh vực phụ nữ, giới trong quản lý.
Sách:
- "Phụ nữ tham gia lãnh đạo quản lý" của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học
về lao động nữ [131], cuốn sách có chủ đề phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý nhưng
mới phân tích và bàn luận sơ lược về địa vị của phụ nữ Việt Nam trong bộ máy
chính trị hiện tại.
- "Vai trò của nữ cán bộ quản lý nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa" của Võ Thị Mai [85] đã phần nào làm rõ thực trạng và xu hướng biến
đổi vai trò nữ cán bộ quản lý nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (CNH, HĐH) đất nước, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai
trò, vị thế của phụ nữ tham gia quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Tuy
nhiên, ở góc độ tiếp cận xã hội học, cuốn sách là kết quả nghiên cứu về giới trong
phạm vi khảo sát, điều tra tại tỉnh Quảng Ngãi thuộc vùng Duyên hải miền Trung.
- Cuốn sách: "Công ước của Liên Hợp quốc và pháp luật Việt Nam về xóa bỏ
phân biệt đối xử với phụ nữ" của Dương Thanh Mai [84], đây là sách chuyên khảo


12
gồm 412 trang có nội dung gồm những bình luận khoa học đối với từng điều (16
điều) của CEDAW, gắn với việc đánh giá thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật

về bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Cuốn sách cung cấp nhiều thông tin quý giá
về cơ sở lý luận của vấn đề bình đẳng giới, phân tích sâu sắc, toàn diện từng chính
sách, pháp luật Việt Nam hiện nay trên cơ sở quá trình nội luật hóa từng điều của
CEDAW. Ngoài giá trị về khoa học pháp lý, cuốn sách có thể được coi là một bản
Báo cáo quốc gia về pháp luật Việt Nam thực hiện CEDAW, tập trung giai đoạn
1992 đến năm 2004. Cuốn sách là tài liệu tham khảo bổ ích trong quá trình nghiên
cứu luận án này, giúp cho việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật và thực
trạng THPL về bình đẳng giới ở Việt Nam từ năm 1992 đến nay có căn cứ lý luận
và thực tiễn.
- "Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị" do
Nguyễn Đức Hạt chủ biên [57], là kết quả nghiên cứu của Đề tài độc lập cấp Nhà
nước của Ban Tổ chức Trung ương. Các tác giả đã góp phần làm sáng tỏ những luận
cứ khoa học, thực tiễn về việc nâng cao vị trí, vai trò, năng lực lãnh đạo của cán bộ
nữ trong hệ thống bộ máy Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể ở nước ta, đồng
thời, nhấn mạnh việc giải quyết các vấn đề liên quan tới nâng cao năng lực lãnh đạo
của cán bộ nữ trong HTCT; đa dạng hóa giá trị, tăng quyền và mở rộng cơ hội lựa
chọn cho nam - nữ một cách hợp lý nhằm phát huy mọi tiềm năng, sức lực của cả
hai giới đối với sự phát triển bền vững của đất nước.
- "Suy nghĩ về bình đẳng giới dưới góc nhìn pháp luật" của Trịnh Đình Thể
[120], sách giới thiệu các vấn đề: Chủ trương bình đẳng giới của Đảng, Nhà nước
ta; bình đẳng giới dưới góc nhìn của pháp luật; thực tiễn tư pháp đã áp dụng để góp
phần bảo đảm quyền bình đẳng giới; một số vấn đề thực hiện chính sách bình đẳng
giới rút ra từ thực tiễn. Trong bối cảnh việc nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề giới còn
khá mới mẻ đối với nhiều người ở Việt Nam hiện nay (nhất là đội ngũ cán bộ làm
công tác lập pháp, thực thi pháp luật) thì việc xuất bản, giới thiệu cuốn sách này
giúp cho mọi người nói chung, việc nghiên cứu đề tài của Luận án nói riêng có
thêm nhiều thông tin về bình đẳng giới từ thực tiễn và góc nhìn pháp luật.
- "25 năm thực hiện Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối
xử chống lại phụ nữ (CEDAW) thực tiễn tại Việt Nam" của Quỹ phát triển phụ nữ
của Liên Hợp quốc (LHQ) (UNIFEM), Viện Nghiên cứu quyền con người và Cơ



13
quan phát triển quốc tế Canada (CIDA) [110], sách gồm 30 bài viết, báo cáo chuyên
đề của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý trong các lĩnh vực đánh
giá thực hiện CEDAW của Việt Nam trong 25 năm qua.
- "Năng lực cán bộ lãnh đạo quản lý cấp cơ sở trong việc thực hiện quyền
phụ nữ - Thực trạng và giải pháp" của tác giả Nguyễn Đình Tấn, Lê Tiêu La và
Trần Thị Bích Hằng [114], sách được dựa trên kết quả của dự án điều tra về năng
lực thực hiện quyền phụ nữ của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở được thực hiện
từ năm 2005 đến 2009. Đây là một dự án huy động được nhiều nhà khoa học cũng
như thu hút được một đội ngũ khá đông đảo cán bộ trong và ngoài Viện Xã hội học,
của Trung ương và địa phương làm công tác chuyên môn và thực tiễn xã hội tham
gia điều tra, nghiên cứu, phân tích, đánh giá. Thông qua việc mô tả và phân tích
thực trạng năng lực cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở trong việc thực hiện quyền
phụ nữ, cuốn sách giúp bạn đọc tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến thực trạng năng
lực của họ trong việc thực hiện quyền phụ nữ. Trên cơ sở đó, các tác giả đề xuất
một số kiến nghị và giải pháp cơ bản nhằm tăng cường năng lực cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp cơ sở trong việc thực hiện quyền phụ nữ phù hợp với giai đoạn phát
triển tiếp theo của đất nước.
- "Bảo đảm quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Thị Báo
[12], nội dung cuốn sách góp phần luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo đảm
quyền của phụ nữ, từ đó kiến nghị các biện pháp đồng bộ và có tính khả thi giúp
phụ nữ vượt qua rào cản và thách thức để tiếp cận và thụ hưởng quyền.
Tạp chí:
- "Sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị - thể hiện qua bầu cử tại
Việt Nam" của tác giả Nguyễn Thúy Anh [3], tác giả đã trình bày một số nội dung
cơ bản như: khuôn khổ pháp lý về bình đẳng giới trong bầu cử, ứng cử (thể hiện qua
hệ thống các văn bản như Hiến pháp, các điều ước quốc tế, luật và các văn bản
hướng dẫn); sự tham gia của phụ nữ trong Nghị viện trên thế giới và ở Việt Nam.

Tác giả đã đưa ra số liệu về sự tham gia của phụ nữ trong nghị viện trên thế giới,
tính đến thời điểm 31/10/2011 thì "trong tổng số nghị sĩ trên thế giới là 44.657
người, phụ nữ là 8547 người chiếm 19,4%". Về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội Việt
Nam khóa XIII so với thế giới thì Việt Nam đứng thứ 39 trên tổng số 189 nước; so
với các nước trong khu vực Đông Nam Châu Á thì Việt Nam đứng thứ 3; so với các


14
nước trong khu vực Châu Á cũng như Châu Á Thái Bình Dương thì Việt Nam đứng
thứ 6. Đó là dẫn chứng cho thấy tỷ lệ phụ nữ tại các nghị viện trên thế giới và Việt
Nam không cân xứng với tỷ lệ dân số nữ trong tổng dân số trên toàn thế giới. Tuy
nhiên, tác giả chưa nêu ra những giải pháp cụ thể để khắc phục những hạn chế về sự
tham gia của phụ nữ trong Quốc hội trên thế giới và ở Việt Nam.
- "Phụ nữ Việt Nam và sự tham gia chính trị" của Vương Thị Hanh [52]
đã chỉ ra một trong những nguyên nhân quan trọng nhất đang làm cản trở quá
trình thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở Việt Nam có liên quan đến vai trò của
cán bộ trong HTCT: Đó là sự thiếu quyết tâm và cam kết có trách nhiệm của thủ
trưởng các cấp, các ngành. Lãnh đạo các ngành, các cấp thiếu sự chỉ đạo sát sao
việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ nữ như tạo nguồn, đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng, đề bạt phụ nữ; chưa mạnh dạn sử dụng, đề bạt cán bộ nữ trẻ.
Thiếu quan tâm trong việc thực hiện biện pháp đặc biệt về chỉ tiêu phụ nữ tham
gia lãnh đạo, ra quyết định, dẫn đến các chỉ tiêu đưa ra không đạt hoặc thực hiện
chỉ tiêu theo cơ cấu hình thức mà không quan tâm đến chất lượng cán bộ nữ.
Thiếu kiểm tra, đôn đốc và định kỳ đánh giá việc thực hiện chính sách cán bộ nữ,
thiếu biện pháp thưởng, phạt cần thiết đối với các đơn vị, ban, ngành trong việc
xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ nữ.
- "Định kiến giới đối với nữ trong lãnh đạo, quản lý" của tác giả Nguyễn Thị
Thu Hà [53], tác giả làm rõ khái niệm định kiến giới, biểu hiện định kiến giới đối
với phụ nữ: tiềm năng lãnh đạo, đặc điểm tính cách, hành vi lãnh đạo thực tế. Bài
viết nhấn mạnh, đó chính là một trong những yếu tố trực tiếp cản trở phụ nữ tham

gia bình đẳng vào các vị trí lãnh đạo, quản lý ở các cấp. Tuy nhiên, những luận giải
về tác động của định kiến giới đối với phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam
chưa đủ sức thuyết phục về các vấn đề liên quan của luận án nghiên cứu.
- "Một số yếu tố tác động đến tỷ lệ nữ trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XII"
của Nguyễn Thị Phương [103] đã phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nữ
trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XII và chỉ ra những yếu tố khách quan có sự tác
động đến kết quả tăng tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội như sự lãnh đạo, chỉ đạo của các
cấp ủy Đảng, công tác quy hoạch tạo nguồn cán bộ nữ, việc sắp xếp danh sách bầu
cử, công tác tuyên truyền và việc nâng cao nhận thức giới của cử tri. Bên cạnh đó,
bài viết còn cho rằng, các yếu tố khách quan như học vấn, nghề nghiệp, lĩnh vực, vị


15
trí công tác và uy tín của bản thân các nữ ứng cử viên cũng là những điều kiện quan
trọng quyết định sự thành công của họ trong quá trình bầu cử.
- "Những trở ngại đối với sự phấn đấu của nữ lãnh đạo" của tác giả Trần Thị
Vân Anh [4], tác giả đã trình bày những bằng chứng khá thuyết phục về những trở
ngại chính đối với sự phấn đấu của cán bộ nữ lãnh đạo. Đó là: ảnh hưởng, tác động
của những người có trách nhiệm, việc tạo nguồn và kiểm tra, đánh giá công tác cán
bộ nữ; trở ngại từ các quy định chính sách; sự ảnh hưởng của định kiến và chuẩn
mực cũ ở gia đình, cộng đồng và cơ quan. Chẳng hạn như chuẩn mực, sự mặc định
về năng lực của nam giới cao hơn so với nữ giới: "Nếu một người phụ nữ về năng
lực làm việc như một người nam giới thì chắc chắn người ta bỏ phiếu cho nam giới.
Không phải chỉ người nam bỏ phiếu cho người nam đâu mà tâm lý chung là nữ giới
cũng bỏ cho người nam giới. Có thể nhiều người không thích bị một người phụ nữ
lãnh đạo, đặc biệt là nam. Có thể họ cũng nghĩ là phụ nữ ít có thời gian dành cho
công việc hơn, vì phụ nữ còn có công việc gia đình" (Nữ, lãnh đạo sở, thành phố).
"Người ta không nói ra nhưng lúc nào người ta cũng nghĩ là nam giới làm tốt hơn".
Người có trách nhiệm thường mong muốn ở nam và nữ lãnh đạo các phẩm chất
khác nhau, đây là những kỳ vọng về "tiêu chuẩn" một cách không chính thức, nằm

sâu trong nhận thức và những suy nghĩ của mỗi cá nhân. Thông thường, nữ làm
lãnh đạo, quản lý thường bị quan sát, đánh giá và dễ bị phê bình hơn so với nam
giới... Trong gia đình thì chuẩn mực về phụ nữ trước hết là người phục vụ gia đình
còn khá phổ biến...
- "Những rào cản đối với phụ nữ khi tham gia ứng cử đại biểu hội đồng
nhân dân" của Phạm Thu Hiền [60] đã phân tích những rào cản đối với phụ nữ
trong quá trình tham gia ứng cử Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp, cụ thể là
rào cản về nhận thức; rào cản về năng lực; rào cản về cách thức, thủ tục bầu cử
(việc sắp xếp liên danh có thể có tác động quan trọng đến kết quả bầu cử, bố trí
địa bàn ứng cử cho các ứng cử viên là một trong những yếu tố tác động đến kết
quả trúng cử); rào cản về văn hóa và lối suy nghĩ truyền thống (định kiến giới đã
tác động đến việc lựa chọn ứng cử viên là nữ, thiếu sự ủng hộ của nam giới trong
gia đình, gia đình được xem là tiêu chí để đánh giá về phụ nữ). Trên cơ sở đó,
tác giả đưa ra những giải pháp can thiệp nhằm tăng cường sự tham gia của phụ
nữ trong hoạt động của HĐND.


16
- "Phụ nữ làm lãnh đạo trong khu vực công ở Việt Nam" của Vũ Mạnh Lợi
[83], tác giả đã phân tích thực trạng phụ nữ làm lãnh đạo trong khu vực công ở Việt
Nam chênh lệch khá lớn so với tỷ lệ nữ trong lực lượng lao động. Với những số liệu
thực tiễn, bài viết đã chỉ rõ phụ nữ có rất ít đại diện trong lãnh đạo, quản lý trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh: Vùng đồng bằng
sông Hồng (ĐBSH) tỏ ra là nơi có tỷ lệ phụ nữ tham gia làm lãnh đạo thấp, và Đông
Nam bộ là nơi có tỷ lệ nữ làm lãnh đạo cao hơn so với các nơi khác. Điều này gợi ra
rằng các khuôn mẫu văn hóa cản trở phụ nữ làm lãnh đạo có tính phổ biến. Nghiên
cứu này tuy chưa đưa ra giải pháp nào cho tình hình này nhưng là tài liệu hữu ích để
tác giả luận án định hướng phân tích số liệu cụ thể một cách có hệ thống và kỹ
lưỡng về đề tài của mình, góp phần làm cơ sở cho hoạt động chính sách trong lĩnh
vực thực hiện bình đẳng giới và công tác cán bộ tại vùng ĐBSH hiện nay.

- "Vấn đề sử dụng nhân tài là cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống
chính trị" của Võ Thị Mai [86], tác giả đã bàn về vấn đề sử dụng nhân tài là giới nữ
vào các vị trí lãnh đạo, quản lý trong HTCT. Đặc biệt, luận giải đến việc khắc phục
các rào cản đối với cán bộ nữ khi tham gia vào các vị trí lãnh đạo cấp cao và đề xuất
một số giải pháp về vấn đề này, tác giả nhấn mạnh: các nhà lãnh đạo là cán bộ nữ
ngoài những phẩm chất của một nhân tài, họ còn có những phẩm chất mang đặc thù
giới nữ nói riêng. Bởi vậy, các nhà hoạch định chính sách và lãnh đạo, quản lý cần
quan tâm phát hiện, đào tạo, trọng dụng và tôn vinh nhân tài nữ, tạo cho họ có môi
trường tốt hơn để làm việc và cống hiến.
- "Tăng cường tham gia của phụ nữ vào lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện
nay" của tác giả Đỗ Thị Thạch [115], tác giả đã đưa ra minh chứng phân tích về vai
trò, sự đóng góp, điểm mạnh và điểm yếu của phụ nữ trong lĩnh vực lãnh đạo, quản
lý, đồng thời chỉ ra một số những nguyên nhân hạn chế sự tham gia lãnh đạo, quản
lý của phụ nữ ở các cấp như: định kiến về năng lực lãnh đạo, quản lý của phụ nữ
vẫn còn khá nặng nề; rào cản về quy định tuổi nghỉ hưu; ảnh hưởng của công việc
gia đình. Bài viết nhấn mạnh:"Tình trạng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý còn
thấp về số lượng và chất lượng ảnh hưởng lớn tới nguồn nhân lực chất lượng cao
của đất nước, đồng thời ảnh hưởng tới việc thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ mà
Chính phủ Việt Nam đã cam kết với các tổ chức quốc tế". Theo tác giả, trong bối
cảnh hiện nay, để tăng tỷ lệ nữ trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý cần thiết phải: (1)


17
Nâng cao nhận thức cho cán bộ và nhân dân về sự cần thiết của việc phụ nữ tham
gia lãnh đạo, quản lý, nhất là hiệu quả của tỷ lệ công bằng về giới trong các vị trí ra
quyết sách ở các cấp; (2) Tăng cường tuyên truyền làm thay đổi định kiến giới trong
gia đình và xã hội; (3) Xem xét và điều chỉnh tuổi nghỉ hưu của phụ nữ; (4) Thực
hiện nghiêm túc và hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về lao
động nữ nói chung, lao động nữ trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý nói riêng; (5) Phụ
nữ cần có tinh thần vượt qua những rào cản về giới tính để phấn đấu vươn lên trong

học tập, công tác. Đây là tài liệu tham khảo có ý nghĩa thực tiễn quan trọng khi tác
giả thực hiện luận án.
Luận án:
- "Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt Hội Liên hiệp Phụ n ữ Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới" của tác giả Ních Khăm [98], Luận
án đi sâu nghiên cứu ba vấn đề: Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt Hội
LHPN ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào - Những vấn đề cơ bản về lý luận và quan
điểm; thực trạng cán bộ lãnh đạo các cấp của Hội LHPN Lào trong giai đoạn hiện
nay; phương hướng và giải pháp cơ bản để xây dựng đội ngũ cán bộ Hội LHPN
Lào. Nội dung của luận án đó đã đề cập đến nhiều vấn đề mà luận án này cũng quan
tâm nghiên cứu, như: Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và
cán bộ lãnh đạo quản lý; Hội LHPN Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng qua các thời kỳ
cách mạng; thực trạng của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo Hội LHPN
Lào…Quá trình nghiên cứu luận án của tác giả Ních Khăm cũng cho thấy nhiều
kinh nghiệm hay của nước bạn Lào về THPL về bình đẳng giới có thể chia sẻ và
học tập ở Việt Nam.
- "Tính nữ và tính nam: Nan đề của phụ nữ Việt Nam trong lãnh đạo chính
trị" của Lê Thị Thục [126], tác giả đã bước đầu khái quát những vấn đề mang tính
hệ thống, đóng vai trò rào cản đối với việc nắm giữ quyền lực chính trị của phụ nữ
Việt Nam trong bộ máy chính trị hiện đại. Tuy nhiên, do khuôn khổ của nghiên cứu
chủ yếu phục vụ mục đích học tập nên chưa bao quát được toàn bộ các vấn đề
nghiên cứu về lĩnh vực này, nhưng luận án đã đóng vai trò gợi mở cho những
nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu hơn cho các nghiên cứu khác về lĩnh vực này.
- "Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam" của Trần Thị Quốc
Khánh [75], luận án nghiên cứu thực trạng pháp luật và THPL về bình đẳng nam


18
nữ/bình đẳng giới ở Việt Nam từ năm 1945 (chủ yếu từ năm 1992) đến nay. Luận
án cố gắng thể hiện tính hệ thống, thống nhất từ cơ sở lý luận để soi chiếu vào hệ

thống pháp luật, thực tiễn thi hành pháp luật về bình đẳng nam, nữ/bình đẳng giới ở
mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Tuy nhiên chỉ từ những năm gần đây, số liệu thống kê
tình hình thực tiễn mới có tương đối đầy đủ để có điều kiện đánh giá thống nhất.
Luận án đưa ra những quan điểm và đề xuất những giải pháp nhằm từng bước khắc
phục những tồn tại, hạn chế để bảo đảm THPL về bình đẳng giới ở Việt Nam đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới và xu thế hội nhập khu vực và quốc tế.
- "Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở vùng Đồng
bằng sông Hồng thời kỳ đổi mới" của Nguyễn Thị Tuyết [140], tác giả đã khảo sát
về thực trạng phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong HTCT ở vùng ĐBSH, kết quả cho
thấy, các địa phương đã đạt nhiều thành tựu như: so với mức bình quân chung của
cả nước hay của vùng đồng bằng sông Cửu Long, thực trạng phụ nữ lãnh đạo, quản
lý trong cấp ủy, HĐND, Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp có nhiều biểu hiện khả
quan. Tuy nhiên, phụ nữ lãnh đạo, quản lý ở các vị trí ủy viên Ban Chấp hành
(BCH), đại biểu HĐND các cấp khu vực ĐBSH đều không đạt các chỉ tiêu mà Nghị
quyết 11 đưa ra; trong HTCT, tỷ lệ phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan lãnh
đạo (Đảng), quản lý (chính quyền) còn thấp. Thực trạng trên có nhiều nguyên nhân,
trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là định kiến giới trong xã hội còn phổ biến.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Ở phần này, tác giả luận án tìm hiểu, sưu tầm và nghiên cứu các công trình
khoa học của nước ngoài hoặc bối cảnh ở nước ngoài có đề cập đến quyền con
người, quyền chính trị và THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ. Cụ thể:
* Một số công trình khoa học nghiên cứu về quyền chính trị, pháp luật về
quyền chính trị và thực hiện pháp luật về quyền chính trị
- "Human Rights Law" (Luật về quyền con người) của Alston, Philip [160],
tác giả cuốn sách đã cho rằng nguồn gốc lý thuyết triết học của con người với tư
cách là phương thức để bảo đảm sự tôn trọng quyền con người trên thực tế. Các bài
viết trong cuốn sách này chủ yếu mang tính triết lý về quyền con người, các lý
thuyết chủ đạo về QCN và đưa ra các quan điểm khác nhau về việc áp dụng quyền
con người trên thực tế.
- "The International Convernant on Civil and Political Rights: Cases,

Material and Commenttary" của nhóm tác giả Sarh Joseph, Jenny Schults và


19
Melissa Castan [164], tác phẩm này rất hữu dụng cho các nhà nghiên cứu, nhất là
học sinh, sinh viên. Lần tái bản thứ ba này, tác phẩm đã cập nhật các tài liệu của Ủy
ban Nhân quyền của LHQ, trong đó có cả các án lệ; cuốn sách cũng phân tích
những điểm phát triển mới trong khoa học pháp lý, bao gồm cả các vấn đề liên quan
đến quyền nạo, phá thai, quyền bầu cử của tù nhân, quyền tự do thông tin…
- "U.N Convenant on Civil and Political Rights - ICCPR Commentary" của
Manfred Nowak [163]. 02 tác phẩm này chủ yếu đưa ra các bình luận, khuyến nghị.
Tính đến nay, Ủy ban Nhân quyền của LHQ đã đưa ra 34 bản bình luận chung.
- "Lý luận về nhà nước và pháp luật" của Bộ Đại học và Trung học chuyên
nghiệp Liên Xô [18] đã trình bày khái niệm nội dung THPL với các hình thức tuân
thủ, chấp hành, sử dụng và áp dụng pháp luật. Trong đó áp dụng pháp luật là hình
thức THPL đặc biệt do các cơ quan nhà nước và nhà chức trách có thẩm quyền thực
hiện. Nội dung chuyên đề 20 của cuốn sách này đã lý giải các hành vi pháp lý trong
các trường hợp khác nhau để xác định các dạng THPL khác nhau như: tuân thủ
pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
- "The Role of Women in Law Enforcement" của F.Heidenson [161] đã nhấn
mạnh đến vai trò của phụ nữ trong THPL; trình bày một số phương pháp tiếp cận
nghiên cứu về kiểm soát xã hội; thảo luận cách thức các cách tiếp cận có thể được
sử dụng để giúp khẳng định liệu phụ nữ có vai trò kiểm soát xã hội hiệu quả.
* Một số công trình khoa học nghiên cứu về phụ nữ và thực hiện pháp
luật về quyền chính trị đối với phụ nữ
- "CEDAW và pháp luật: Nghiên cứu rà soát văn bản pháp luật Việt Nam
trên cơ sở quyền và giới qua lăng kính CEDAW" của R.A.Chiongson (Lê Thành
Long Chủ biên dịch) [24], tác giả là chuyên gia về bình đẳng giới, quyền con người
và luật quốc tế, tác giả đã đánh giá sự tuân thủ của văn bản pháp luật Việt Nam với
các tiêu chuẩn về bình đẳng giới theo khuôn khổ giới và quyền, nhấn mạnh những

giác độ giới trong các lĩnh vực cụ thể, chỉ ra những nhu cầu sửa đổi, bổ sung văn
bản pháp luật, đưa ra phân tích và khuyến nghị, đồng thời cung cấp thông tin cho
những nghiên cứu rà soát văn bản pháp luật Việt Nam trong tương lai. Đặc biệt,
Báo cáo khẳng định: "Vì Việt Nam là quốc gia một đảng mà theo đó Đảng Cộng
sản Việt Nam nắm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội, cho nên sự lãnh đạo và
tham gia của phụ nữ trong Đảng Cộng sản Việt Nam là yếu tố quan trọng để phụ nữ
có thể được bầu hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ quản lý, lãnh đạo".


×