Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát loài ngoại lai xâm hại tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.77 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU:
Môi trường và các yếu tố của nó luôn là một vấn đề nóng bỏng hu hút được
nhiều sự quan tâm của đa số các quố gia trên thế giới đặc biệt là trong thời kì phát
triển hiên nay. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Để bảo tồn được đa
dạng sinh học vốn có, Việt Nam đã phải đứng trước nhiều khó khăn thách thức to
lớn, đặc biệt là sự xuất hiện của cá sinh vật ngoại lai. Những năm gần đây, sinh vật
ngoại lai (SVNL) được nhắc đến bởi những tác động xấu tới môi trường và gây hại
cho sản xuất nông nghiệp. Nhiều giống loài ngoại lai mới đang là mối nguy hại,
trực tiếp đe dọa sinh vật bản địa, làm mất cân bằng sinh thái. Đáng nói, hiện hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan cũng đề cập rõ quy định kiểm
soát, xử lý vấn đề này1. Cũng tại Hội thảo Đánh giá thực trạng quản lý loài ngoại
lai xâm hại tại Việt Nam, bà Hoàng Thị Thanh Nhàn, Phó Cục trưởng Cục Bảo tồn
đa dạng sinh học Tổng cục Môi trường khẳng định rằng, công tác quản lý loài
ngoại lai hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn: “Nhiều quy định quản
lý loài ngoại lai chưa có hướng dẫn thực thi cụ thể. Ngoài ra, vẫn còn tồn tại những
bất cập nội tại trong các văn bản đã được ban hành, kể cả văn bản Luật”, bà Nhàn
cho hay2. Chính thế mà các việc đánh gá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng
pháp luật về kiểm soát loài ngoại lai tại Việt Nam đang ngày càng được quan tâm.
Nhận thấy tính cấp thiết của đề tài nên em đã chọn đề số 09: “Đánh giá thực trạng
pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát loài ngoại lai xâm hại tại Việt
Nam để làm bài tập lớn.

NỘI DUNG:
1.

Những vấn đề lí luận về kiểm soát loài ngoại lai:
1.1.
Loài ngoại lai:

Các loài động thực vật và vi sinh vật đều có khả năng di chuyển nhưng nhìn
chung sự di chuyển của chúng chủ yếu nhằm phát tán, mở rộng khu phân bố và


luôn nằm trong giới hạn sinh thái nhất định của loài. Chính sự tác động của con
người đã góp phần gây nên những xáo trộn trong sự hân bố của sinh vật. Đó cũng
1 Theo báo pháp luật />2 />

là cơ hội cho các loài nhập cư và phát triển ở các sinh cảnh vốn không phải là nơi
sống ban đầu của chúng, từ đó hình thành nên các loài ngoại lai.
Theo công ước quốc tế về Đa dạng sinh học năm 1992 (công ước CBD năm
1992), sinh vật ngoại lai (Alien species) là 1 loài hay một phân loài hay bậc phân
loài thấp hơn, kể cả một bộ phận bất kì (giao tử, trứng, chồi mầm) có khả năng
xuất hiện sống sót và sinh sản bên ngoài vòng phân bố tự nhiên (trước đây hoặc
hiện nay) và phạm vi phát tán tự nhiên của chúng. Theo khoản 18 điều 3 luật Đa
dạng sinh học năm 2008, loài ngoại lai xuất hiện và phát triển ở khu vực vốn
không phải là môi trường ống tự nhiên của chúng mà được du nhập từ nơi khác
vào.
1.2.

Kiểm soát loài ngoại lai:

Trong lĩnh vực kiểm soát loài ngoại lai, hoạt động kiểm soat được hiểu là
hoạt động của các cơ quan tổ chức, cá nhân được nhà nước giao quyền để thực
hiện các chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của mình thông qua việc sử dụng những
cách thức biện pháp trong quá trình phát triển, theo dõi và ngăn chặn sự xâm nhập
và phát triển của các loài ngoại lai xâm hại đe dọa đến đa dạng sinh học hệ sinh
thái bản địa, sự ổn định, phát triển của con người với quá trình sả xuất và sinh hoạt.
Như vậy, chủ thể của hoạt động kiểm soát loài ngoại lai bao gôm Nhà nước, các tổ
chức, cá nhân Việt Nam, các tổ chức đoàn thể quần chúng và cộng đồng dân cư.
Hoạt động xâm hại của loài ngoại lai dù vô tình hay cố ý được du nhập vào môi
trường sống bản địa cũng phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật về bảo
vệ môi trường Việt Nam nói chung và pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học nói
riêng, thông qua hoạt động kiểm tra và giám sát của hệ thống cơ quan quản lí nhà

nước có thẩm quyền.
2.

Thực trạng pháp luật về kiểm soát loài ngoại lai tai Việt Nam:

Pháp luật về kiểm soát loài ngoại lai hiện nay ở Việt Nam còn rất hạn chế.
Chưa có quy định đầy đủ và cụ thể về việc kiếm soát tất cả các loài ngoại lai mà
mới chỉ có quy định về việc kiểm soát loài thủy sinh ngoại lai đươc quy định tại
thông tư 53/2009/TT-BNNPTNT ngày 2 tháng 8 năm 2009 như sau:
Chương 2: QUẢN LÝ THỦY SINH VẬT NGOẠI LAI
Điều 3. Điều tra và lập danh mục thủy sinh vật ngoại lai


1. Cơ quan quản lý chuyên ngành thủy sản ở địa phương điều tra và lập danh mục
thủy sinh vật ngoại lai trên địa bàn, báo cáo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn để Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn trình Uỷ ban nhân tỉnh/thành phố
trực thuộc Trung ương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
2. Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản chủ trì phối hợp với cơ quan quản
lý chuyên ngành thủy sản địa phương và các cơ quan có liên quan tổ chức điều tra,
xác định về mức độ xâm hại của loài thủy sinh vật ngoại lai; trình Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn ban hành danh mục loài thủy sinh vật ngoại lai không xâm
hại, danh mục loài thủy sinh vật ngoại lai có nguy cơ xâm hại và danh mục loài
thủy sinh vật ngoại lai xâm hại.
Điều 4. Tiếp nhận thủy sinh vật ngoại lai
1. Chủ sở hữu phải thông báo và giao lại thủy sinh vật ngoại lai do mình sở hữu
cho cơ quan quản lý chuyên ngành về thủy sản ở địa phương khi không còn nhu
cầu sở hữu.
2. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ khi nhận được thông báo của chủ sở hữu,
cơ quan quản lý chuyên ngành về thủy sản ở địa phương hoàn thiện các thủ tục để
chuyển giao thủy sinh vật ngoại lai cho các đơn vị tiếp nhận trên địa bàn tỉnh hoặc

báo cáo Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản nếu trên địa bàn tỉnh không có
đơn vị tiếp nhận để Cục chỉ định đơn vị tiếp nhận.
3. Các đơn vị tiếp nhận gồm:
Các Trung tâm Thuỷ sản tỉnh có đủ điều kiện lưu giữ, Trung tâm giống thủy sản
Quốc gia thuộc các Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I, II, III và Viện nghiên
cứu Hải sản hoặc các cơ sở có đủ điều kiện tiếp nhận do cơ quan quản lý chuyên
ngành thủy sản ở địa phương quyết định.
Còn lại chủ yếu là những quy định về kiểm soát loài ngoại lai xâm hại như:
Năm 2013, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ NN và PTNT ban hành Thông
tư liên tịch Quy định tiêu chí xác định loài ngoại lai xâm hại và danh mục ngoại lai
xâm hại, luật đa dạng sinh học năm 2008 và thông tư liên tịch số 27/2013 BTNMT
nôi dung về:


Điều 1. Tiêu chí xác định loài ngoại lai xâm hại và loài ngoại lai có nguy cơ
xâm hại
1. Loài ngoại lai xâm hại đáp ứng một trong các tiêu chí sau:
a) Đã tự thiết lập quần thể trong tự nhiên, đang lấn chiếm nơi sinh sống, cạnh
tranh thức ăn và gây hại đối với các sinh vật bản địa, có khả năng phát tán mạnh;
có xu hướng hoặc đang gây mất cân bằng sinh thái tại nơi chúng xuất hiện ở Việt
Nam;
b) Qua khảo nghiệm, thử nghiệm thể hiện có xâm hại.
2. Loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại:
a) Loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại đã xuất hiện ở Việt Nam đáp ứng một
trong các tiêu chí sau: chưa tự thiết lập được quần thể trong tự nhiên, có xu hướng
lấn chiếm nơi sinh sống, cạnh tranh thức ăn, gây hại đối với loài bản địa; hoặc qua
khảo nghiệm, thử nghiệm, điều tra, đánh giá thấy biểu hiện nguy cơ xâm hại;
b) Loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại chưa xuất hiện ở Việt Nam đáp ứng các
tiêu chí sau: loài chưa du nhập vào Việt Nam; đã được ghi nhận xâm hại từ hai
quốc gia trở lên có điều kiện sinh thái tương tự với Việt Nam.

Điều 2. Ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này
1. Danh mục loài ngoại lai xâm hại (Phụ lục 1).
2. Danh mục loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại (Phụ lục 2).
Điều 3. Sửa đổi, bổ sung danh mục loài ngoại lai xâm hại và danh mục loài ngoại
lai có nguy cơ xâm hại
1. Hàng năm, Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, Bộ, cơ quan ngang bộ khác, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ
chức điều tra, xác định loài ngoại lai xâm hại, loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại.
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn tổ chức thẩm định và tổng hợp danh mục loài ngoại lai xâm hại và
danh mục loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại theo các tiêu chí quy định tại Điều 1
Thông tư liên tịch này.


3. Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn căn cứ kết quả thẩm định, xem xét, sửa đổi, bổ sung danh mục loài
ngoại lai xâm hại và danh mục loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại.
3.

Thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát loài ngoại lai ở Việt Nam:

Khách quan nhìn nhận, các loài sinh vật xâm hại hầu như ít được chú ý cho
đến nửa đầu thập niên 1990, khi dịch ốc bươu vàng bùng phát từ đồng bằng sông
Cửu Long đến Đồng bằng Bắc bộ. Nói cách khác, đã và đang có “lỗ hổng” trong
khâu phòng ngừa các sinh vật ngoại lai từ chính các cơ quan quản lý, kiểm soát.
Minh chứng là, sự chồng chéo, thiếu rõ ràng trong chức năng, nhiệm vụ của các
ban, ngành liên quan. Chẳng hạn, hiện ngành Nông nghiệp có trách nhiệm nhập và
quản lý các loại giống, cây, con vào Việt Nam, nhưng trách nhiệm quản lý về sinh
vật ngoại lai lại do ngành Tài nguyên và Môi trường đảm nhận.
Chưa hết, hiện khâu nhận diện sinh vật ngoại lai cho người dân hầu như ít

được chú trọng. Ở vụ việc nuôi sinh vật ngoại lai trên địa bàn Cao Lãnh (Đồng
Tháp), khi được hỏi, người dân đều tỏ ra khá bất ngờ về tác hại của loài tôm này.
Họ đơn thuần chỉ suy nghĩ nó có giá trị kinh tế cao nên bắt tay vào nhân nuôi chứ
không hề có khái niệm đâu là sinh vật ngoại lai0 gây hại bị cấm, đâu là loài được
cấp phép.
Ở khía cạnh khác, hiện việc quản lý sinh vật ngoại lai được quy định trong
Luật Đa dạng sinh học, và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác. Chẳng hạn,
như Luật Đa dạng sinh học năm 2008; Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18
tháng 11 năm 2016 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường; Nghị định số 103/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 9 năm 2013 của
Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thủy sản;
Thông tư số 53/2009/TT-BNNPTNT ngày 21 tháng 8 năm 2009 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn về quy định quản lý các loài thủy sinh ngoại lai…
Tuy nhiên, ngay trong hệ thống văn bản quản lý sinh vật ngoại lai lại đang tồn tại
sự thiếu thống nhất. Ví dụ, trong Luật Đa dạng sinh học 2008, tại khoản 7 Điều 7
những hành vi bị nghiêm cấm về đa dạng sinh học có quy định nghiêm cấm việc
“nhập khẩu, phát triển loài ngoại lai xâm hại”. Như vậy, sinh vật ngoại lai xâm hại
bị cấm nhập khẩu và phát triển.


Thậm chí trong Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18 tháng 11 năm 2016
của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
(tại khoản 2 Điều 43) còn ghi rõ: “Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000
đồng đối với hành vi nuôi, lưu giữ, vận chuyển, trồng, cấy loài ngoại lai xâm hại
ngoài phạm vi khu bảo tồn vì mục đích thương mại, trong trường hợp kiểm soát
được sự phát triển, lây lan của chúng và chưa gây ra thiệt hại”.
Thế nhưng, khoản 1 Điều 52 Luật Đa dạng sinh học lại quy định: “Việc nuôi
trồng loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại chỉ được tiến hành sau khi có kết quả khảo
nghiệm loài ngoại lai đó không có nguy cơ xâm hại đối với đa dạng sinh học và
được UBND cấp tỉnh cấp phép” có nghĩa là việc phát triển nhân nuôi sẽ được cho

phép nếu qua phương cách được UBND tỉnh cấp phép và đã qua khảo nghiệm .
Cũng liên quan đến khảo nghiệm sinh vật ngoại lai như vừa đề cập thì tại khoản 3
Điều 52 Luật Đa dạng sinh học cũng quy định “Bộ TN&MT chủ trì phối hợp với
Bộ NN&PTNT, bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan quy định việc khảo nghiệm và
việc cấp phép nuôi trồng, phát triển loài ngoại lai”. Như vậy, chỉ một khía cạnh là
khảo nghiệm và cấp phép hiện cũng tồn tại không ít vướng mắc, nếu không có
thông tư hướng dẫn sẽ dẫn đến hiểu biết nhầm lẫn, mơ hồ.
Thực tế cho thấy, công tác quản lý sinh vật ngoại lai cũng rất phức tạp do
không thể nhìn thấy ngay tác hại và quan trọng hơn là khó để tiêu diệt hoàn toàn
sinh vật ngoại lai một khi đã xâm nhập. Để ứng phó với những diễn biến phức tạp
từ sinh vật ngoại lai, thiết nghĩ, trước hết các ban, ngành liên quan cần xây dựng và
hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về ngăn ngừa và kiểm soát sinh vật ngoại
lai xâm hại như những quy định về phân tích rủi ro trước khi nhập khẩu, quy định
về phát hiện sớm, phản ứng nhanh về loài sinh vật ngoại lai3.
Cũng theo bà Đặng Thị Kiều Oanh - Cục Bảo tồn đa dạng sinh học khi hậ
xét về luật kiểm soát loài ngoại lai xâm hại ở Việt Nam hiện nay cho rằng, hiện
nay, nội dung quản lý các loài ngoại lai xâm hại xuất hiện trong 5 Luật khác nhau
song vẫn tồn tại nhiều bất cập.
Nhiều điều khoản trong Luật Đa dạng sinh học 2008, Bộ Luật được cho là
quan trọng nhất trong vấn đề quản lý loài ngoại lai xâm hại không thống nhất, thậm
3 Theo báo pháp luật Việt Nam />

chí mâu thuẫn với nhau. Trong khi đó, các quy định hiện tại chỉ mới tập trung vào
các quy định khi nhập khẩu mà thiếu hẳn phần phân tích nguy cơ xâm hại (quy
định trước khi nhập khẩu), phát hiện sớm và phản ứng nhanh (quy định trong
nước) đối với các loài ngoại lai xâm hại.
Nhiều đối tượng cần quản lý như động vật cảnh, cây cảnh, động thực vật là
thức ăn cho các động vật nuôi vẫn chưa được đề cập tới trong bất cứ quy định nào.
Phong trào nuôi chuột hamster làm cảnh tại một số địa phương rộ lên vào khoảng
năm 2008 là một ví dụ. Bên cạnh đó, theo bà Oanh ngay các loài ngoại lai xâm hại

đã biết hiện nay đã được xác định tuy nhiên vẫn thiếu các biện pháp quản lý hữu
hiệu vẫn tiếp tục phán tán, lan tràn và ảnh hưởng tới môi trường, đa dạng sinh học4.
Qua phân tích có thể thấy luật về kiểm soát loài ngoại lai ở Việt Nam đã
thiếu sót, chỉ tập trung chủ yếu vào việc điều chỉnh luật kiểm soát loài ngoại lai
xâm hại. Tuy nhiên, pháp luật về kiểm soát loài ngoại lai xâm hại này cũng lại vẫn
chưa đầy đủ, thiết thực và dễ dàng trong ong tác thực hiện. Vệc thiếu hụt trong quy
định về kiểm soát loài ngoại lai xâm hại gây ra những khó khăn cho cơ quan chức
năng cũng như người dân trong quá trình thực hiện. Những lỗ hổng của luật cũng
dễ dàng làm cho loài ngoại lai xâm hại ở nước ta có diễn biến phức tạp hơn.
“Nút thắt” nẳm ở chỗ, việc quản lý sinh vật ngoại lai do ngành TN&MT,
ngành nông nghiệp chủ trì. Trong đó, ngành nông nghiệp có thẩm quyền cấp phép
nhập khẩu giống thủy sinh vật vào Việt Nam, còn việc quản lý thủy sinh vật ngoại
lai trong nước lại do cả ngành TN&MT và nông nghiệp thực hiện. Điều này dẫn tới
sự chồng chéo, thiếu thống nhất, kém hiệu quả trong việc thực hiện các biện pháp
ngăn ngừa, kiểm soát.
Hệ thống văn bản quản lý sinh vật ngoại lai ở Việt Nam được thể hiện ở
Luật Bảo vệ môi trường 2005; Luật Đa dạng sinh học 2008 ; Luật Bảo vệ và Kiểm
dịch thực vật, 2013; Luật Thủy sản 2004; Luật Bảo vệ phát triển rừng 2004. Ngay
trong nội tại Luật Đa dạng sinh học 2008 đã không thống nhất các điều khoản, tại
Khoản 7, Điều 7 những hành vi bị nghiêm cấm về đa dạng sinh học có quy định
nghiêm cấm việc “nhập khẩu, phát triển loài ngoại lai xâm hại”; Khoản 1, Điều 50
quy định “Loài ngoại lai xâm hại bao gồm loài ngoại lai xâm hại đã biết và loài
4 Theo báo mới Việt Nam />

ngoại lai có nguy cơ xâm hại”. Như vậy, theo quy định này, các loài ngoại lai xâm
hại đã biết và loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại đều thuộc đối tượng nghiêm cấm
nhập khẩu và phát triển.
Tiếp đó, Tại Khoản 1, Điều 52 Luật Đa dạng sinh học quy định “Việc nuôi
trồng loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại chỉ được tiến hành sau khi có kết quả khảo
nghiệm loài ngoại lai đó không có nguy cơ xâm hại đối với đa dạng sinh học và

được UBND cấp tỉnh cấp phép”; Tại Khoản 3, Điều 52 Luật Đa dạng sinh học quy
định "Bộ TN&MT chủ trì phối hợp với Bộ NN&PTNT, bộ, cơ quan ngang bộ có
liên quan quy định việc khảo nghiệm và việc cấp phép nuôi trồng, phát triển loài
ngoại lai". Điều này dẫn đến những vướng mắc trong việc xây dựng các văn bản
hướng dẫn Luật, do vậy, cần nhanh chóng xây dựng các nghị định, thông tư hướng
dẫn, thậm chí cần phải luật hóa để việc quản lý thủy sinh vật ngoại lai hữu hiệu
hơn. Bên cạnh đó, thiếu quy định về phân tích nguy cơ xâm hại, phát hiện sớm và
phản ứng nhanh. Cụ thể vấn đề phân tích nguy cơ xâm hại, đặc biệt nguy cơ xâm
hại trước khi tiến hành nhập khẩu, chưa được quy định trong Luật Đa dạng sinh
học dẫn đến chưa có căn cứ pháp lý để quy định nội dung này.
Như vậy, có thể thấy, thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát sinh vật ngoại
lai xâm hại có nhiều bất cập trong quá trình thực thi.
4.

Giải pháp nhằm cả thiện sự kiểm soát sinh vật ngoại lai ở Việt Nam:

Thứ nhất, tăng cường hoạt động điều tra, phát hiện thường xuyên và lập bản
đồ phân bổ để kiểm soát và xử lý kịp thời các vùng mới bị xuất hiện loài ngoại lai.
Việc điều tra cần phải được tiến hành thường xuyên để phát hiện những khu vực
mới có sự xuất hiện của sinh vật lạ và lập kế hoạch kiểm soát phù hợp. Qua điều
tra cũng có thể xác định đầy đủ về điều kiện, quy luật phát tán, lây lan của cây sinh
vật ngoại lai (SVNL). Trên cơ sở điều tra và phân tích hệ sinh thái, phải cảnh báo
được các vùng có nguy cơ xâm nhiễm cao để có kế hoạch kiểm soát kịp thời. Song
song với các phương pháp quan trắc, đo đếm cần sử dụng hệ thống thông tin địa lý
GIS để điều tra và lập bản đồ phân bố.
Thứ hai, áp dụng triệt để và nghiêm ngặt các biện pháp kiểm dịch. Kiểm
soát chặt chẽ và chủ động ngăn chặn các con đường lây lan của sinh vật ngoại lai.
Đây là một biện pháp khó thực hiện vì ngoài con đường phát tán qua nông sản,
nhiều loài sinh vật ngoại lai còn phát tán qua nước, không khí. Tuy vậy, trong



khuôn khổ hoạt động của con người, có kiểm soát và hạn chế sự phát tán qua nhập
khẩu nông sản, qua các phương tiện giao thông, phân gia súc... từ vùng bị nhiễm
sang vùng không bị nhiễm. Hạn chế sự di chuyển của nguồn hạt từ những vùng đã
bị xâm nhiễm nặng ra bên ngoài.
Thứ ba, tăng cường thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức của cộng
đồng tham gia phát hiện và ngăn chặn sớm sự phát tán của sinh vật ngoại lai. Hiệu
quả ngăn ngừa cây trinh nữ cũng phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức và sự tham gia
chủ động của công chúng. Cần tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức của
người dân về khả năng phát tán, các con đường lây lan, tác động của sinh vật ngoại
lai đến đời sống, kinh tế, xã hội và môi trường và những việc người dân có thể làm
hoặc tham gia được vào chiến lược ngăn chặn sự lây lan. Đặc biệt, không nuôi
trồng và sử dụng sinh vật ngoại lai vào các mục đích có thể gây nguy cơ phát tán
(ví dụ trồng cây làm cây cảnh, hàng rào, chống xói mòn, nuôi ốc bươu vàng, rùa tai
đỏ, chuột hải ly làm thực phẩm...).
Thứ tư, tiến hành các hoạt động kiểm soát và ngăn chặn kịp thời các khu
vực mới bị xâm nhiễm hoặc tái nhiễm. Đối với thực vật, tận dụng mọi khả năng có
thể để phủ kín mặt đất bằng các loài thực vật thích hợp vì đa số các loài thực vật
ngoại lai đều ưa sáng. Phải chủ động trồng các loại thực vật phù hợp để lấn át sự
xâm nhiễm của thực vật ngoại lai ngay từ đầu. Các loài thực vật hay cây trồng
được lựa chọn để sử dụng làm cây cạnh tranh phải phù hợp với từng vùng sinh
thái. Còn các loài động vật, cần huy động lực lượng cộng đồng để tìm diệt sớm. Có
thể khuyến khích thu bắt để làm thức ăn cho người hay gia súc hoặc áp dụng các
biện pháp bẫy bắt khi mật độ còn thấp.
Thứ năm, đối với loài sinh vật ngoại lai đã được liệt vào danh mục những
loài ngoại lai xâm hại ở nước ngoài, khi thấy nó có dấu hiệu xuất hiện ở môi
trường sinh thái Việt Nam cần ngay lập tức có biện pháp ngăn ngừa, chú ý đăc biệt
cung như có biện pháp trong công tác khoanh vùng khu vực xuất hiện từ đó loại trừ
sớm những tác động xấu của chúng đến môi trường.
Thứ sáu, ba hành những điều luật quy định cụ thể và thiết yếu điều chỉnh về

sự kiểm soát loài ngoại lai. Cần thắt chặt hơn nữa trong công tác quản lí sự nhập
khẩu của các loài ngoại lai xâm hại vào môi trường Việt Nam. Điều chỉnh đây đủ
và cần thiết pháp luật quy định về lĩnh vực này.


Do tính chất phức tạp và mức độ gây hại nghiêm trọng của các loài sinh vật
ngoại lai, việc phòng trừ cần được tiến hành thường xuyên, liên tục thông qua công
tác kiểm dịch thực vật, đánh giá nguy cơ dịch hại, tăng cường tuyên truyền nâng
cao nhận thức của cộng đồng, giáo dục kiến thức bảo vệ đa dạng sinh học và quản
lý sinh vật ngoại lai cho học sinh phổ thông.
Việc phòng trừ các đối tượng sinh vật ngoại lai cần tiến hành sớm bằng các
biện pháp phù hợp với từng vùng sinh thái và mức độ xâm lấn cụ thể. Việc phòng
trừ sớm không chỉ đạt hiệu quả cao, chi phí thấp mà còn cho phép áp dụng nhiều
giải pháp khác nhau đặc biệt có thể lựa chọn các biện pháp an toàn như biện pháp
thủ công hay sử dụng tác nhân sinh học.
Không khuyến khích sử dụng sinh vật ngoại lai làm nguồn giống cây trồng,
vật nuôi (ngoại trừ việc nuôi trồng có kiểm soát) nhưng khi cần phòng trừ có thể
khuyến khích giải pháp sử dụng sinh vật ngoại lai như một nguồn vật liệu sản xuất
(sử dụng làm đồ thủ công, mỹ nghệ... làm thức ăn cho người hoặc gia súc. Trường
hợp đặc biệt buộc phải sử dụng đến các loại hóa chất có thể sử dụng một cách có
kiểm soát và lựa chọn các hóa chất ít độc, ưu tiên sử dụng các chế phẩm sinh học,
không nên quá tiêu cực với giải pháp sử dụng thuốc hóa học khi mức độ xâm lấn
của sinh vật ngoại lai đã ở mức không thể khống chế bằng các biện pháp khác.
Theo các chuyên gia môi trường, để ngăn ngừa và kiểm soát được sự lây lan,
giảm thiểu tác hại của một số loài ngoại lai đang xâm hại nghiêm trọng ở Việt
Nam, trước hết cần tăng cường xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp
luật về ngăn ngừa và kiểm soát loài ngoại lai xâm hại. Tăng cường công tác tuyên
truyền, giáo dục đào tạo và nâng cao nhận thức của cộng đồng, doanh nghiệp trong
việc ngăn ngừa, kiểm soát và diệt trừ loài ngoại lai xâm hại.
Mặt khác, tăng cường hợp tác quốc tế về ngăn ngừa và kiểm soát loài ngoại

lai xâm hại, đặc biệt với các nước trong khu vực ASEAN trong việc xây dựng hệ
thống thông tin, cơ sở dữ liệu, tổ chức diễn đàn, mạng lưới trao đổi kinh nghiệm về
ngăn ngừa và kiểm soát loài ngoại lai xâm hại.
Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1896/QĐ-TTg phê
duyệt Đề án ngăn ngừa và kiểm soát sinh vật ngoại lại xâm hại ở Việt Nam đến
năm 2020. Theo đó, Đề án tập trung tăng cường năng lực cơ quan quản lý Nhà
nước và đơn vị kiểm dịch trong việc kiểm soát các loài ngoại lai là kiểm soát và lập


danh mục, hồ sơ theo dõi các loài ngoại lai nhập khẩu vào Việt Nam; đào tạo, tập
huấn cho các cán bộ cấp Lãnh đạo và chuyên viên quản lý chuyên môn công tác tại
các Chi cục Bảo vệ môi trường, Chi cục bảo vệ thực vật của các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, Ban quản lý Khu bảo tồn về công tác ngăn ngừa và kiểm
soát loài ngoại lai xâm hại.
Nhằm đẩy mạnh việc thực hiện Luật Đa dạng sinh học 2008 và Quyết định
1896 của Thủ tướng Chính phủ, Tổng cục Môi trường triển khai các hoạt động xây
dựng năng lực về quản lý sinh vật ngoại lai. Trong thời gian qua, trong khuôn khổ
hỗ trợ của dự án khu vực “Ngăn ngừa và quản lý sinh vật rừng ngoại lai xâm hại ở
rừng0 sản xuất và rừng được bảo vệ khu vực Đông Nam Á” của Quỹ Môi trường
Toàn cầu, Tổng cục Môi trường đã tổ chức đánh giá nhu cầu đào tạo tăng cường
năng lực để thiết kế chương trình nâng cao năng lực phù hợp cho các nhóm đối
tượng. Trên cơ sở đánh giá này, Tổng cục Môi trường tổ chức chương trình đào tạo
cho các cơ quan quản lý cấp trung ương, địa phương về việc ngăn ngừa và kiểm
soát sinh vật ngoại lai xâm hại5.

KẾT LUẬN:
Pháp luật về kiểm soát loài ngoại lai xâm hại cũng như thực tiễn áp dụng nó
là vấn đề vô cùng thiết yếu và được quan tâm hiện nay. Chỉ có điều chỉnh pháp luật
phù hợp cũng như bám sát thực tiễn thì việc kiểm soát các loài ngoại lai xâm hại
mới trở nên dễ dàng, từ đó hạn chế những tác động xấu của chúng đối với đa dạng

sinh học Việt Nam. Việc ngăn chặn sự xâm hại của các loài ngoại lai đòi hỏi có sự
chung tay của các cấp chính quyền, cơ quan chức năng và một thành phàn không
thể thiếu chính là người dân. Bên cạnh sửa đổi luật chặt chẽ, phù hợp, cần nâng cao
nhận thức cho người dân về các loài ngoại lai xâm hại để tình hình hệ sinh thái Việt
Nam luôn đa dạng phong phú.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.

Giáo trình luật môi trường Đại học Luật Hà Nội

5 Theo báo tài nguyên môi trường />

2.
3.
4.
5.
6.

7.
8.

Luận văn thạc sĩ luật học: Pháp luật về kiểm soát loài ngoại lai xâm hại tại
Việt Nam – Phạm Thị Mai Trang
Tạp chí môi trường: Loài ngoại lai ở nước ta hiện nay
Thông tư 53/2009 TT/BNNPTNT quản lí thủy sinh vật ngoại lai ở Việt Nam.
/> />%E1%BA%A1ng-v%C3%A0-%C4%91%E1%BB%81-xu%E1%BA%A5tgi%E1%BA%A3i-ph%C3%A1p--ph%C3%B2ng-ng%E1%BB%ABa-sinh-v
%E1%BA%ADt-ngo%E1%BA%A1i-lai-x%C3%A2m-h%E1%BA%A1i%E1%BB%9F-Vi%E1%BB%87t-Nam-40186
/>Theo báo pháp luật Việt Nam />



×