Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ PHÂN TÂM HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.09 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
Trong bất kì tác phẩm văn học nào, con người luôn là đối tượng sâu xa nhất
mà văn chương muốn hướng đến. Cho dù nội dung tác phẩm viết về một vùng núi
xa xôi hẻo lánh không dấu chân người hay một thế giới huyền ảo xa lạ nào đó,
nhân vật trong tác phẩm chỉ là cây cỏ, là con vật hay bất cứ cái gì khác không phải
con người, thì chắc chắn, mục đích cuối cùng tác phẩm hướng đến vẫn là cuộc
sống của chính chúng ta. Cuộc sống là một vườn hoa tràn đầy màu sắc. Như những
con ong cần mẫn tìm mật cho đời, nhà văn không chỉ đem đến cho người đọc một
nội dung có tính thông điệp mà còn mong muốn tác phẩm của mình có sức mạnh
làm rung động hàng triệu tâm hồn. Có thể người đọc đồng cảm hoặc phản đối với
từng chi tiết, số phận của nhân vật, nhưng rồi họ cũng sẽ nhận ra điều mà nhà văn
muốn nói đến, theo cách riêng và tùy thuộc vào tầm đón nhận của mỗi người. Việc
khám phá từng trang sách, từng câu chữ trong mỗi tác phẩm, ta sẽ cảm nhận được
thế giới thú vị mà nhà văn muốn nói đến.
Nguyễn Ngọc Tư – nhà văn của vùng sông nước phương Nam, tuổi thơ của chị
gắn với dòng sông uốn khúc, với rừng đước bạt ngàn hay những cánh đồng thẳng
cánh cò bay. Ở mảnh đất bao la, trù phú ấy là những con người tần tảo, chịu
thương, chịu khó. Chính điều đó tạo nên một Nguyên Ngọc Tư với những nét riêng
khác biệt. Nguyễn Ngọc Tư là hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam đương
đại, với số lượng tác phẩm khá phong phú. Tuy mới xuất hiện nhưng hiện tượng
Nguyễn Ngọc Tư được nhiều người chú ý, gây nhiều tranh cãi trên thi đàn văn học.
Cánh đồng bất tận là tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Ngọc Tư, với sức thu hút
đông đảo độc giả. Tác phẩm thể hiện được cái nhìn nhiều chiều về đời tư, thế sự,
về những vấn đề liên quan đến góc khuất trong tâm lí con người. Dưới góc nhìn
phân tâm học, tác phẩm là đỉnh cao trong việc thể hiện tâm lí con người một cách
sâu sắc. Có thể nói, phân tâm học là một khoa học, có ảnh hưởng rất lớn trong việc
tiếp nhận cũng như phân tích tác phẩm. Đã có rất nhiều công trình, nhiều nhà

1



nghiên cứu tìm hiểu tác phẩm Cánh đồng bất tận theo các phương pháp, các hướng
tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, việc phân tích tác phẩm theo hướng phân tâm học
cũng đang được rất nhiều người quan tâm. Chúng tôi nhận thấy việc phân tích tác
phẩm theo hướng này giúp ta có thể hiểu sâu hơn về tâm lí nhân vật cũng như
phong cách sáng tác của nhà văn, đồng thời góp thêm tiếng nói khẳng định tài năng
và đóng góp của nhà văn cho văn học dân tộc.
NỘI DUNG
I. Lý thuyết chung về phân tâm học
1. Lý thuyết về vô thức cá nhân
Freud quan tâm đến việc phân tích khoa học những hiện tượng vô thức trong
đời sống con người. Ông nói: Người ta có thể đem nó áp dụng vào lịch sử văn
minh, khoa học, tôn giáo và thần thoại học cũng như vào lý thuyết bệnh thần kinh.
Mục tiêu và sự đóng góp duy nhất của nó là sự khám phá ra vô thức trong đời
sống tinh thần.
Freud cho rằng không phải chỉ có những khuynh hướng vô thức mà còn có sự
hiểu biết bằng vô thức, những liên quan vô thức giữa các ý tưởng, những sự so
sánh giữa các vật. Ông cho rằng những xung đột dục năng bị cái tôi dồn ép, đứng
ra ngoài trường ý thức nghi vấn tiếp tục tác động và nó biểu hiện dưới dạng ngụy
trang, trong những giấc mơ, những hành vi sai lạc, trong sự lỡ lời, trong những
triệu chứng bệnh tâm thần.
2. Lý thuyết về vô thức tập thể
K.G.Jung cho rằng cái bản ngã vô thức mà ông gọi là vô thức cá thể, và là một
lớp mỏng nằm cạnh ngang dưới ý thức; nó chứa đựng những nội dung và hoạt
động tâm lý không điều hòa được với ý thức, nhưng có khả năng được chuyển hóa
được nhanh thành ý thức. Ví dụ như bản năng tình dục. Đúng là mặc dù bị khống
chế bởi vô thức, nhưng không có khó khăn gì để chuyển hóa thành hành động có ý
thức. Jung cho rằng bên cạnh vô thức cá nhân còn có vô thức tập thể. Ông cho rằng

2



vô thức tập thể còn có nguồn gốc sâu xa từ kinh nghiệm lịch sử của nhân loại. Đây
chính là nhân tố mơ hồ, u u minh minh, nhưng lại rất sâu sắc quyết định hành vi
của con người. Jung khẳng định vô thức tập thể chính là nội dung kinh nghiệm
nguyên thủy trong quá trình tiến hóa sơ kì của nhân loại.
3. Quan niệm của phân tâm học về nhân cách
Theo S.Freud quan niệm cấu trúc nhân cách gồm 3 phần: bản năng (id), ngã tính
(ego) và siêu ngã (super ego).
Bản năng (id) là phần ban sơ của nhân cách, là cội nguồn nhân tính của con
người, là phần chúng ta có chung với loài vật. Đó là nơi của những bản năng và
hoạt động trên nguyên tắc khoái lạc (hay nguyên tắc thoả mãn). Ở đó, tích lũy các
nguồn năng lượng và cung cấp năng lực cho các hoạt động tâm lý. Khi nguồn năng
lượng gia tăng, khiến cho bản năng bùng phát mạnh, tạo thành những cú sốc tâm lý
khó chịu. Ngược lại sự giải tỏa căng thẳng và qui giảm năng lượng về trạng thái ổn
định là con đường phấn khích đưa đến khoái lạc. Do đó, Freud cho rằng con người
sinh ra với những bản năng thuộc về vô thức. Bao gồm hai loại bản năng, đó là
“bản năng tình dục” hay “bản năng sống” và “bản năng chết”. Bản năng sự sống
bao gồm những bản năng sống thúc ép cá nhân hướng tới cuộc chạy đua để tồn tại
và duy trì nòi giống: Đói khát và tình dục. Bản năng cái chết gồm toàn bộ những
bản năng mà Freund đồng hóa nó với cái chết và sự tàn phá.
Về ý thức tự ngã (ego): Freud cho rằng, ý thức tựu ngã luôn bị chi phối bởi bản
năng (id) mà nội dung chính của nó là libido hiểu theo nghĩa rộng – tức là mọi nhu
cầu, khát vọng, dục vọng, thèm muốn giao tiếp của thế giới thực tại khách quan. Ý
thức là bản năng khát vọng sống của tự ngã (cái tôi). Nhưng khi ý thức tự ngã bị
kiềm chế bởi những khuôn định, qui ước xã hội, nó lại đi vào vô thức. Rồi từ đó
những xung năng khát vọng bộc phát lên ý thức, biến thành những ưu phiền, lo
âu… Vì vậy cái tôi của mỗi cá nhân luôn bị phá vỡ bởi sự mâu thuẫn của bản năng
dục vọng và sự kiềm chế của ý thức xã hội. Bản ngã duy trì sự cân bằng giữa bản
3



năng và siêu ngã. Khi một người đói, người ấy sẽ thoả mãn bằng cách thức xã hội
chấp nhận hay bằng cách mà xã hội không chấp nhận như là ăn cắp thực phẩm của
người khác. Nếu không có siêu ngã kiểm tra hành vi của con người thì thực phẩm
kia sẽ bị đánh cắp ngay.
Cái siêu ngã (super ego) hình thành giá trị cá nhân, những quy tắc đạo đức và
những điều được xem là đúng và sai. Cái siêu ngã còn gọi là cái siêu thức, nó vượt
lên trên bản năng tình dục và ý thức tự ngã để duy trì mọi giá trị truyền thống và
các lý tưởng đạo đức xã hội. Nó một mặt vừa kiềm chế sự thôi thúc của “ khát
vọng dục tính”; mặt khác, thúc giục ý thức bảo trì các giá trị đạo đức cá nhân và xã
hội. Do đó, siêu thức là ý thức vươn đến sự hoàn thiện của đời sống.
Theo Freud, trong đời sống tâm thần cá nhân luôn có sự xung đột giữa cái đó
với cái tôi. Và sự xung đột ấy xảy ra ba tình trạng khác nhau:
Nếu cái đó thắng cái tôi dẫn đến sự suy đồi tình dục.
Nếu cái tôi thắng cái đó thì tình hình bình thường.
Nếu cái đó và cái tôi có sự thỏa hiệp, sinh ra triệu chứng của bệnh tâm thần.
Freud thừa nhận rằng phân tâm học là lí thuyết về vô thức qua hàng loạt khái niệm
như: Mặc cảm tính dục ấu thơ, mặc cảm Oedipe, mắc cảm hoạn.
Tính dục ấu thơ là một vấn đề quan trọng đối với lí thuyết phân tâm học. Ông cho
rằng con người mang động cơ tính dục từ lúc mới sinh ra. Nó quy định cư xử của
con người cho đến lúc già. Những triệu chứng thần kinh thường phát sinh từ tuổi
nhỏ (từ 3 tuổi). Ông dựa vào tính dục ấu thơ để điều trị bệnh.
Mặc cảm Oedipe liên quan chặt chẽ tới tính dục ấu thơ. Ông cho rằng mỗi người là
một Oedipe. Hình tượng Oedipe không chỉ có hiện tượng loạn luân mà còn bao
hàm việc con người muốn khám phá những bí ẩn trong cuộc sống, làm chủ bản
thân.
4


Mặc cảm Oedipe liên quan chặt chẽ đến một mặc cảm khác là mặc cảm hoạn, một

phản ứng đối với những sự bó buộc do người cha đưa ra để ngăn cản những biểu
hiện tính dục của đứa con trai.
Bản ngã và siêu ngã hình thành theo suốt tiến trình phát triển con người. Bản
ngã có những chức năng khác nhau: chế ngự ham muốn bât hợp lý, chấp nhận sự
thất vọng, trì hoãn sự hài lòng, xử lý sự căng thẳng thần kinh, kiểm tra thực tế.
II. Cánh đồng bất tận dưới góc nhìn phân tâm học
Phân tâm học ra đời đánh dấu một bước ngoặc quan trọng trong việc nhận thức
những vấn đề thầm kín trong tâm lí của con người. Dưới góc nhìn phân tâm học,
mỗi tác phẩm hiện lên với nhiều màu sắc khác nhau, tạo nên sự hấp dẫn, thuyết
phục cho người đọc. Truyện ngắn Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư dưới
góc nhìn phân tâm học cho ta thấy được chiều sâu các yếu tố tâm lí, tính cách nhân
vật. Qua việc tìm hiểu tác phẩm, ta thấy được điểm tích cực cũng như những đóng
góp mới mẻ của nhà văn đối với nền văn học.
1. Thế giới nhân vật tính dục bản nguyên
Có thể nói, trước kia, do hoàn cảnh văn hoá xã hội, trong văn chương người ta
ngại nói thẳng, nói thật lòng mình đặc biệt là những chuyện thầm kín, riêng tư của
con người càng ít được nói đến. Ngày nay, trong xã hội dân chủ, mọi người đều
được sống tự do, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do mưu cầu hạnh phúc…
Chính vì thế, họ có thể mở lòng mình để nói về tất cả những gì mà mình gặp phải,
họ nói như là một hình thức để tìm hạnh phúc. Trong đó, tính dục là một yếu tố đã
được văn học đương đại đề cập một cách rất sôi nổi, dù bằng nhiều giọng văn khác
nhau. Với Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư rất tinh tế trong việc thể hiện nhu
cầu bản năng của con người. Qua tác phẩm, thế giới nhân vật tính dục bản nguyên
hiện lên một cách rõ nét.
Nổi lên trong tác phẩm là những người đàn bà với ham muốn tình dục. Đó là
hình ảnh của người vợ chán chường, của những người đàn bà bị bỏ bê, của những
5


tâm hồn thiếu thốn, từ vật chất tới tinh thần, sẵn sàng thay lòng đổi dạ, để thỏa mãn

nhu cầu và thoát khỏi cảnh tù túng, luẩn quẩn của một kiếp sống thiếu thốn, buồn
tẻ. Để rồi khi bước tới đường cùng, họ vụng trộm bán thân, để tạm bợ hưởng thụ
những cảm giác ve vuốt, tô điểm hời hợt. Con người có thể vô cùng hoan hỉ khi
“mồi chài một người đàn ông vào trò chơi giường chiếu”, để sau đó anh ta về nhà
nhìn “vợ con nheo nhóc bu quanh nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng chiều”
còn chị ta thì đã “cuỗm” được một triệu hai trong tổng con số hai triệu mà người
đàn ông kia vừa “vay xoá đói giảm nghèo”. Trong những hoàn cảnh thiếu thốn
cùng cực thì luân lý, trách nhiệm, liêm sỉ không mấy tồn tại. Tất cả chỉ còn vài nhu
cầu sinh tồn hoang dã, vụn vặt, phù phiếm. Như thèm thuồng từng gáo nước ngọt,
trong mát, đổ xối trên thân thể một lần, trước khi chết mãn nguyện; như khoác
những tấm vải “rực rỡ trên da thịt… đổi được (không phải bằng tiền hay lúa)”. Do
đó, những hình ảnh làm tình, giao cấu giữa con người, giữa súc vật đều được liệt
kê một cách tự nhiên, đồng đều, đồng loã với “bản năng hoang dã”.
Trong tác phẩm, ta không khỏi ngỡ ngàng trước hình ảnh người vợ của Út Vũ,
"người đàn bà có cái cười làm lấp lánh cả khúc sông" thường "thở dài khi tắm, khi
nước trôi dài trên làn da trắng như bông bưởi" trong những ngày dài chồng đi
chuyến. Và rồi một ngày, chị đã "oằn uốn người" dưới tấm lưng của người đàn ông
bán vải dạo. "Họ cấu víu. Vật vã. Rên xiết". Người phụ nữ với khao khát bản năng
trỗi dậy, họ sẵn sàng đánh đổi tất cả. Và khi hành vi ngoại tình vụng trộm bị lộ
trước cặp mắt đau đớn của con cái, người đàn bà tội lỗi chỉ còn cách chạy trốn, bỏ
chồng, bỏ con.
Tiếp đến, người đàn bà Bàu Sen, người đàn bà bị chồng bỏ để đi theo vợ bé,
"ba năm vắng bóng đàn ông", "một mình nhìn gương, tự ve vuốt và yêu lấy
mình"… Giữa mùa đại hạn ấy, một buổi chiều, anh thợ mộc Út Vũ như cơn mưa
rào bất chợt đến. Chiêm ngưỡng trộm cảnh Út Vũ tắm, "nước mỏng tang tràn qua
những thớ thịt đỏ au", "chị chợt giật thót người, cài vội chiếc nút áo bung ra vì
6


không chịu nổi đôi vú căng tức". Chiến dịch giữ chân con mồi bắt mắt được thực

hiện. Chị không để ý gì nữa, "chị đang ưng bụng, ngây ngất tràn trề trong mắt".
Rồi những lúc "bưng nước ra", những lúc "kêu nghỉ tay ăn bánh, anh thợ à" là
"tiếng bào trượt trên ván ọt ẹt ngừng lại, buổi trưa im phắc. Và đống dăm bào bị
dẫm tạo ra âm thanh lạo xạo lao xao lào xào".
Đặc biệt, qua giọng kể rất già dặn, rất sắc sảo của Nương, chân dung ngắn gọn
của Sương - một ả điếm được phát họa rất tài tình: Tôi hỏi chị làm gì để bị đánh.
Chị cười, "làm đĩ"… chúng tôi đã gặp nhiều, rất nhiều người phụ nữ giống chị. Cứ
mỗi mùa gặt họ lại dập dìu trên đê. Họ cố làm ra vẻ trẻ trung, tươi tắn nhưng mặt
và cổ đã nhão... Đêm đến sau các đụn lúa, họ thả tiếng cười chút chít, tiếng thở
mơn man… Chúng tôi nhận ra họ ngay khi không còn mảnh vải nào trên người họ
vẫn điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo thân mình chứ không trơ ra ngượng
nghịu, cam chịu như những người phụ nữ quê…Chị cũng giống như họ, chớm tàn
tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy xuống quê, cất cái quán nhỏ giả đò buôn bán
bánh kẹo lặt vặt… mồi chài đàn ông vào chơi trò giường chiếu. Với thân phận
người đàn bà sa đoạ, Sương hành nghề làm đĩ một cách công khai, không ngượng
ngùng, như một nghiệp chướng bất khả cưỡng, nên an phận, chịu đựng. Cái nghiệp
chướng hèn hạ của Sương cũng phản chiếu tới nhiều nhân vật khác, xuất hiện như
những hình ảnh tương tự, “giống” na ná như nhau. Họ bất đắc dĩ trở nên hư hỏng,
và khi có cơ hội, lập tức bỏ chồng bỏ con, bỏ nhà bỏ cửa, “đánh đĩ, theo trai”. Họ
hành động theo phản xạ có điều kiện, dưới áp lực của xa xỉ phẩm, lời dụ dỗ ngon
ngọt. Một cách tự nhiên, Sương tự nhận mình làm đĩ. Ta nhận thấy việc làm cái
nghề này diễn ra rất phổ biến ở cái vùng quê nghèo, nơi mà chị em Nương đang
sinh sống. Vì mồi chài đàn ông vào chơi trò giường chiếu, nên Sương bị các bà vợ
xúm nhau đánh, cắt cả tóc và đổ cả keo dán sắt vào cửa mình. Ở đây, chuyện các
bà vợ nổi ghen "xé xác con đĩ nọ" là chuyện thường ngày. Và rồi: Ba hôm sau, chị
ngồi dậy, đi tắm. Chị trầm mình dưới đó rất lâu, chẳng kỳ cọ gì, chỉ để nước lạnh

7



chườm dịu lại những chỗ đau. Lúc chị lên bờ, tôi thấy máu lợn cợn theo những
giọt nước nhỏ xuống hai đùi, chắc chị đã làm gì với chỗ keo dán ác nghiệt ấy. Đau
đớn là thế, vậy mà, khi lên bờ vừa mới thấy Út Vũ chị đã quên hết nỗi đau còn hiện
hữu trên cơ thể, lớn tiếng khen: "Ba mấy cưng đẹp trai dễ sợ" và "con mắt đung
đưa về phía cha". Mắt chị nhìn cha đầy khiêu khích… Chị đổ lì, tìm mọi cách để sà
vào cha. Chị bảo Điền xuống ghe ngủ với tôi, còn chị sẽ lên chòi… chị ra khỏi
chòi, khoan khoái vươn vai. Sự ưng ý mãn nguyện lấp lánh trên khóe mắt. Khuôn
mặt chị tràn ngập ánh sáng, như chị vừa mở ra một cánh cửa mặt trời. Ngày đầu
dừng chân nơi quán trọ Út Vũ, chị bị hớp hồn bởi "người đàn ông đang vồng lưng
trong nắng sớm", "đẹp trai dễ sợ". Chị "tìm mọi cách để sà vào". Và rồi trong cái
chòi nhỏ trên bờ, nơi có người đàn ông tuổi tứ tuần ấy, phát ra "tiếng sột soạt rạo
rực" khi chị táo tợn tách hai đứa nhỏ cùng chiếc ghe để lên đó. Rồi "Chị bước ra
khỏi chòi, khoan khoái vươn vai. Sự ưng ý, mãn nguyện lấp lánh trên khoé mắt.
Khuôn mặt chị tràn ngập ánh sáng". "Rồi chị giành nấu cơm. Chị xoắn tay áo lên hì
hụi thổi lửa (...). Trông chị như bà vợ tảo tần". Lúc đầu, chị hành nghề là để kiếm
sống, nhưng lâu dần, sự chung đụng của thể xác đã khiến chị nghiện. Điều kinh
khủng ở Sương là chị ta chài mồi Út Vũ không phải vì tiền, mà vì ghiền đàn ông:
Mà, kiểu yêu tinh thần để nhìn nhau, để nắm tay vuốt tóc, để nín nhịn và hy sinh
chỉ tồn tại trong văn chương . Chị cần nhiều hơn, nhiều hơn, nhiều khủng khiếp,
tưởng như chị có thể ngốn ngấu, bào mòn tất cả đàn ông trên thế gian này. Một ả
làm điếm vì nghiện đàn ông nên mồi chài cả cậu bé Điền: Trưa ấy chúng tôi trầm
nghịch dưới nước rất lâu. Tự dưng nét mặt chị âu yếm lạ, như đang nựng nịu một
đứa bé con và thằng em trai 17 tuổi của tôi đứng đực ra, chết lặng trong nỗi
ngượng ngùng. Nước cồn cào chỗ bụng nó, tôi biết chị táo tợn làm gì phía dưới
đó. Rồi phát hiện ra một mất mát lớn lao, chị thảng thốt kêu lên; Trời đất ơi, sao
vầy nè, cưng?. Không chỉ dừng lại ở đó, Sương còn mồi chài cả mấy gã kiểm dịch
để cứu bầy vịt của Út Vũ bằng chính thân xác của chị. Trước những đưa đẩy lả lơi

8



đầy chủ ý của chị, bản năng tính dục nơi hai người đàn ông cán bộ ấp xã đã bùng
phát: Một người nuốt nước miếng, ánh nhìn ham muốn như mũi kim thò ra khỏi
bọc, lơ láo. Mắt ông ta lột trần chị.
Một con người có thể vô liêm sĩ khi không một chút ngượng mồm mà dõng
dạc nói “Làm đĩ” khi người khác hỏi “Làm nghề gì?”, có thể tỉnh bơ nói với những
đứa trẻ là mình “làm đĩ quen rồi”, cái chuyện hồi đêm vừa ngủ với cha chúng, trưa
nay đã vác thân sang chỗ hai ngài cán bộ ấp xã để “đổi chác” chỉ là “chuyện nhỏ”,
“nhằm bà gì” mà chúng phải buồn cho mệt. Khi “không còn mảnh vải nào trên
người” trong cuộc bán thân, trước ánh mắt thiên hạ, con người vẫn có thể “điềm
nhiên cười khúc khích và uốn éo thân mình chứ không trơ ra ngượng nghịu”. Con
người có thể vừa ngủ với người cha hồi đêm, trưa lại “táo tợn” mân mê trong nước
phần bụng dưới của thằng con trai mười bảy tuổi của chính người cha đó… Và
Sương chỉ chịu bỏ đi khi Út Vũ coi chị như một con điếm chứ không phải như
người tình. Sau chuỗi ngày bướm chán ong chường, chị vẫn "cần nhiều hơn, nhiều
hơn, nhiều khủng khiếp, tưởng như chị có thể ngốn ngấu, bào mòn tất cả đàn ông
trên thế gian này. Qua đây, ta có thể nhận thấy ở Sương bản năng tính dục trỗi dậy
vô cùng khủng khiếp.
Về phía Út Vũ, những cảm giác xác thịt chỉ là sự trả thù cho nỗi đau của chính
mình. Những người đàn bà bất tận cô đơn, bất tận khát thèm cái gọi là tình yêu cứ
thay phiên nhau như những con thiêu thân lao vào Út Vũ. Và họ lần lượt, sau nhiều
nhẫn nại, cố gắng, cũng chiếm được Út Vũ nhưng cái mà họ chiếm được chỉ là tấm
lưng đã từng “vồng lên trong nắng sớm”, là “những thớ thịt đỏ au” của người đàn
ông tứ tuần mà họ từng có dịp chiêm - ngưỡng - trộm mà thôi. Họ không thể nhìn
thấu cõi lòng bất tận “hoang hoải, chán chường”, cái “vết thương cũ mở miệng
toang hoác, không da thịt nào có thể lấp đầy”… nơi “người tình” của mình. Ngay
cả khi họ tưởng như đạt đến “vô biên và tuyệt đích” của sự “hai trong một” thì họ
cũng không biết được trong người đàn ông của mình đã “không còn một chút cảm
9



xúc nào”, anh ta “vùi mặt vào da vào thịt, ngấu nghiến” mình mà lòng anh ta “lạnh
ngắt”, anh ta “làm chuyện đó thì cũng giống như mấy con vịt đạp mái” mà thôi, họ
không đọc thấu được nét mặt anh ta “tràn ngập những rắp tâm”, “toan tính chuyện
phụ phàng”. Nỗi hận bao vây lấy trái tim ông khiến ông trở nên lạnh lùng, đáng sợ.
Nhưng nó giày vò trái tim ông hơn ai hết. Ông đến với những người đàn bà, ông
khiến họ hạnh phúc dù là ngắn ngủi nhưng niềm hạnh phúc kia chưa bao giờ đến
với ông. Ngay cả đối với Sương, người đàn bà đã chấp nhận hy sinh bản thân vì
ông để cứu lấy cái gia tài duy nhất là bầy vịt chạy đồng cũng bị ông hắt hủi không
thương tiếc. Sự hy sinh của Sương cũng trở nên vô nghĩ trước thái độ bất cần đến
độc ác của Út Vũ. Lời nói tự nhiên nhưng chất chứa nhiều hàm ý của Sương đã nói
lên tâm trạng đau đớn của chị: “ Má cưng ác một nhưng người cha này của cưng
ác tới mười.” Người vợ phụ tình đã để lại trong ông một vết thương quá lớn, quá
sâu sắc và nỗi hận trong ông làm cho vết thương ấy thêm rộng và sâu hơn. Ông
dùng nỗi tuyệt vọng, đau khổ của những người đàn bà đi qua đời ông nhằm chữa
trị vết thương của mình, nhưng chúng chỉ làm ông thêm đau đớn. “ Mỗi lần cha
nhìn đăm đăm và mỉm cười với một người đàn bà mới, chúng tôi lại thắt thẻo.
Thêm mối tình đau trước cả ngày thứ nhất mà chị em tôi không cách nào ngăn
được. Tôi có cảm giác cha quắm lấy người ấy vùi mặt vào da thịt, ngấu nghiến mà
lòng cha lạnh ngắt. Thằng Điền cay đắng: “ Cha làm chuyện đó thì cũng giống
như mấy con vịt đạp mái….”. Vết thương ấy không những không lành mà nó đã
cuốn Út Vũ vào trò chơi giường chiếu với bao nỗi hận thù, không cảm xúc.
Nương - một đứa con gái mới lớn với vẻ đẹp trời phú, những người đàn ông
không ngăn nổi cái nhìn thèm khát: Bằng mắt, họ sờ soạng khắp người tôi. Ánh
mắt giống bàn tay của ông xẩm mù mà tôi từng gặp, đụng chỗ nào cũng dừng lại,
vuốt vuốt bóp bóp, rồi lần dò tới một chỗ khác, rờ nắn mê miết. Và sau cuối, lũ
thằng Hận đã từ "ngỡ ngàng" "thảng thốt" đến "lau dãi ròng rãi trên khoé miệng"
và sau cuối "ghì ngửa trên mặt ruộng bì bõm nước" "con nhỏ đẹp quá"... Nhưng
10



lúc này cảm giác thật là đơn điệu. Đầu tiên là sự xé toạt, và từ rách nát, đau đớn
như lũ kiến cánh được giải thoát, chúng bò rân khắp thân thể… hình như không
phải khoái lạc thăng hoa mà đau ràn rụa nhói tận chân tóc. Sau cùng, với cái nhìn
tràn đầy dục tính của cô nên những nơi cô đi qua, những người cô đã gặp cũng rạo
rực những cơn động tình có khi dữ dội như lúc cả bọn đàn bà xởn tóc, đổ keo dán
sắt vào chỗ kín, khi mùa gặt đến bọn gái điếm đi dập dìu trên đê, những đôi người
trần truồng tỉnh bơ ôm nhau cười khúc khích mặc dù có người đi qua bên cạnh…
Khi âm ỉ nhưng cũng dữ dội không kém, người đàn bà xa chồng, một mình tự ve
vuốt, tự yêu mình. Rồi những tiếng động trong chòi, tiếng loạt soạt của dăm bào,
tiếng thở hổn hển... và những con cái khát khao con đực. Sương mới bị đổ keo
chảy máu, vậy mà chỉ mới ba ngày đã sấn vào Út Vũ, người đàn bà Bàu Sen mới
thấy tấm lưng trần của anh ta mà vú đã căng đến nỗi bật cả nút áo. Ở Nương – một
cô gái đã chứng kiến tất cả những cảnh dục tình xảy ra xung quanh và cũng vì vậy
mà phần nào chính cô cũng hiểu được những vấn đề thuộc về bản năng ở con
người. Những kẻ đã cưỡng đoạt cô cũng chỉ vì thỏa mãn sự khát thèm chứ không
hề có chút tình cảm còn cô phải hứng chịu tất cả với sự đau đớn của thân xác.
Bốn nhân vật nói trên cùng với cánh đồng tình dục của họ xuất hiện trên mảnh
đất văn chương Việt Nam quả thực giống như những vật lạ có kích thước khổng lồ
đã từng va vào trái đất. Trong Cánh đồng bất tận, không tình cha con, không tình
chồng vợ, không tình bè bạn, không cả chút tình thiên nhiên… Chỉ có tình dục và
tình dục, ngay cả chó và vịt, con thì kêu la quằn quại, con thì êm đềm hoan lạc…
Cả một cánh đồng mênh mang không thấy đâu là mầm xanh, không thấy đâu là
dòng nước mát, chỉ có những con người và những con vật khao khát dục tình. Dục
tình là một phần tất yếu của cuộc sống. Phần chìm vô thức này như khối nham
thạch luôn chờ cơ hội để trào vọt. Năng lượng Libidô là xung năng tạo nên sự sống
ở mỗi người. Nhu cầu thỏa mãn tình dục của con người là nhu cầu rất người. "Kiểu
yêu tinh thần để nhìn nhau, để nắm tay, vuốt tóc, để nín nhịn và hy sinh chỉ tồn tại
11



trong văn chương". "Dục tình và xác thịt không xấu xa, không đáng bị khinh bỉ".
Tuy nhiên nếu con người cứ hồn nhiên để cái ấy vô tư chiến thắng cái tôi thì hậu
quả thật khôn lường. Với người vợ Út Vũ, đó là chị phải ra đi, "để bi kịch chất
đống lên những người ở lại". Với những người đàn ông quê mùa, đó là "mớ tiền
công ít ỏi suốt một ngày làm việc quần quật", hay "những món tiền cắm câu đêm
đêm, tiền bán lúa, dừa khô hay những buồng chuối chín", hay "một triệu hai" trong
tổng số hai triệu "vốn vay xoá đói giảm nghèo"... biến mất cùng người tình chớp
nhoáng của mình, để rồi về nhà ngậm ngùi ngồi nhìn "vợ con bu quanh nồi khoai
luộc trong nhập nhoạng nắng chiều". Với "chị đĩ", đó là cơn "chết lặng trong nỗi
ngượng ngùng" của thằng con trai mười bảy tuổi khi nó bị bàn tay người đàn bà
trải đời "táo tợn làm gì đó" nơi phần bụng dưới trong nước. Với những người
thoáng chốc "rũ cái sột, sạch trơn" để đi theo người tình, đó là bất tận "đau lòng
người ở lại". Với những người đàn bà đánh đổi gia đình, ruộng vườn, làng xóm, cả
đứa con nhỏ để chạy theo Út Vũ, đó là nỗi bẽ bàng bị bỏ rơi, là "con đường quay
về bị bịt kín". Đối với lũ thằng Hận, đó là tia hy vọng "le lói nhìn thấy con đường
dẫn đến cuộc - sống - bình - thường" của một đứa con gái mới lớn "chẳng phải
bình thường" đã bị dập tắt.
Tính dục mang giá trị mỹ học và nhân văn là tính dục nhằm tôn vinh con người,
khai phóng năng lực tiềm ẩn của con người, giúp họ thức nhận đầy đủ giá trị của
mình, tận hiến và tận hưởng cuộc sống trong sự bao bọc của những cảm xúc thiêng
liêng. Con người sẽ tự nhục mạ mình khi thả lỏng theo sự sai khiến của xung động
bản năng, trật xa cái trục ego mình, không biết dung hòa giữa nguyên tắc khoái
lạc và nguyên tắc thực tại, biến cấu trúc nhân cách của mình thành khuyết thiếu.
Như vậy, với Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư đã “không ngại” cho xuất
hiện nhiều “pha” tình dục nhưng có điều, các nhân vật đã điểm với bản năng tính
dục không được kiểm soát, tình dục ở họ không là sự thăng hoa của tình yêu, mà
chỉ hoặc là phương tiện để đổi chác, hoặc là hành vi tìm khoái lạc, bất chấp đạo lý,
12



bổn phận và trách nhiệm, họ do vậy, vừa đáng cảm thông, vừa cần được cảnh báo
để rồi được thanh lọc, giải thoát.
2. Ám ảnh tuổi thơ
Với mỗi đứa trẻ, tuổi thơ luôn có sức ảnh hưởng rất lớn trong suốt quá trình
trưởng thành. Tuổi thơ có thể đưa đứa trẻ đến tương lai tươi sáng nhưng tuổi thơ
cũng có thể trở thành nỗi ám ảnh, vùi dập cả cuộc đời một con người. Hiện lên
trong Cánh đồng bất tận là hình ảnh một người đàn ông bị vợ phụ tình đâm ra căm
ghét đàn bà và say mê trong những ý định trả thù những người phụ nữ bước qua
đời ông ta mà quên đi trách nhiệm của mình với hai đứa con rứt ruột đẻ ra. Đến
một ngày, có một cô gái điếm len chân vào cuộc đời họ, làm xáo lộn cuộc đời họ:
thằng con đuổi theo hình bóng của cô gái không chịu được sự bạc ác của người
cha; đứa con gái trong tận cùng của tủi nhục và đau đớn gắng chìa tay ra để kéo
người cha về phía thế giới của mình nhưng vô vọng. Hai cha con gần sát nhau
trong cơn hoạn nạn mà vẫn thuộc về hai thế giới xa cách. Mỗi người là khối cô đơn
tuyệt đối không chỉ đối với thế giới của người khác mà ngay cả ở thế giới của
chính mình.
Nỗi cô đơn, hiu quạnh và sự hờ hững của người cha khiến hai chị em Điền và
Nương có lúc rơi vào những chiêm bao, mộng mị. Sống trên những cánh đồng khô
nắng cháy nhưng chúng luôn ước ao về cuộc sống gia đình hạnh phúc, được sống
trong vòng tay yêu thương của gia đình như cái thuở mẹ chúng chưa bỏ đi. Hình
ảnh người mẹ cứ lởn vởn trong tâm trí, ám ảnh suốt cuộc hành trình cô đơn của hai
đứa trẻ. Đọc Cánh đồng bất tận, chúng ta không khỏi xúc động nghẹn ngào khi
chứng kiến sự ngây thơ trong câu hỏi mà Điền dành cho chị: “Người ta thương mẹ
ra làm sao ?” Hay lúc Điền bị lạc trong gò đất có cây chùm gọng mọc dày mịt và
được người đàn bà bưng rổ bánh quy biểu nó ăn. Lúc được tìm thấy thì bụng nó đã
lặc lè và miệng đầy sình đất. “ Nghe thằng Điền kể, người đàn bà đó thiệt hiền, chỉ
đau đáu vuốt tóc nó và ánh nhìn chan chứa thương yêu”. Cuộc sống đơn côi, tự lập
13



từ nhỏ đã rèn luyện cho Điền cách phân biệt chính xác phương hướng để khỏi lạc
trên những cánh đồng mênh mông, bất tận. Cánh đồng đã là nơi thân quen, gắn bó
mật thiết với cuộc sống của hai chị em đến nỗi không một nơi nào được gọi là xa
lạ. Cánh đồng như người mẹ cung cấp tình yêu thương, cung cấp thức ăn cho cuộc
sống của chị em Điền. Điền đi chăn vịt, đi câu cá, trồng cây, gắn bó cuộc sống của
mình trên cánh đồng này như người mẹ gắn bó với đứa con của mình. Cũng chính
vì những lời kể của Điền cứ ám ảnh, thôi thúc Nương nhớ đến hình ảnh của người
mẹ đã từng thương yêu, chăm sóc mình.
Mới 17 tuổi, Nương có một người mẹ chỉ vì mê một tấm vải đẹp mà bỏ cả
chồng con, có một người cha vừa ác vừa hèn, một đứa em trai khiếm khuyết cơ thể
lại nổi cuồng vì một ả điếm, thì không cần kể ta cũng biết chỉ có ngần ấy năm sống
ở đời mà cô đã phải chịu biết bao đau khổ. Cái bi kịch khủng khiếp nhất đời là lúc
cô bị ba thằng con trai hiếp giữa đồng trước mặt cha mình. Rồi cô chứng kiến cảnh
mà một đứa trẻ thơ mới 9 tuổi như cô không nên nhìn thấy: Cô thấy mẹ mình oằn
mình dưới một tấm lưng đầy mụn ruồi, rên xiết, cấu víu, vật vã. Cô thấy ông ta
sửng sốt khi thấy má rạo rực khi ướm thử những khúc vải rực rỡ lên người. Cô biết
rõ cha mình và người đàn bà Bầu Sen sẽ làm gì trên ghe và cô chắc chị hơi ngại
ngùng, mắc cỡ vì ghe không có vách, vì thế chị em tôi sẽ cố ngủ thật say, ngáy thật
to để át những tiếng thở hổn hển dìu dặt. Và đủ tỉnh táo để nhìn nhận về chuyện vợ
chồng ở thôn quê: Mệt nhọc làm lụng trên đồng, người đàn ông đã trở nên khô
cằn, có khi cả đời, họ không nói với phụ nữ một câu yêu thương. Họ không biết
vuốt ve âu yếm, khi cần, họ lật cạch người phụ nữ ra và thỏa mãn, rồi quay lưng
ngủ khò. Cuộc sống xung quanh của Nương cũng không còn một chút tình làng
nghĩa xóm nào. Khi mẹ Nương bỏ nhà theo gã bán vải: Tôi chạy qua hàng xóm,
nói với thím Tư rằng má đi mất tiêu rồi. Cả xóm tưng bừng, kẻ mừng vì vợ mình
chưa bỏ theo trai, người vui vì con đàn bà đẹp nhất xóm đã đi rồi, khỏi lo ông
chồng suốt ngày thòm thèm dòm ngó…Dường như không ai quan tâm tới những
14



việc liên quan đến gia đình cô, không ai chia sẻ nỗi buồn cùng với cô mà họ thờ ơ,
dửng dưng, lấy đó làm niềm vui vì thoát khỏi nỗi lo mất chồng vào tay người đàn
bà xinh đẹp kia. Ta nhận ra cô là một cô gái tội nghiệp và rất đáng thương. Mới 9
tuổi, sau bồ lúa cô đã thấy những cảnh không nên thấy, đã phải nghe những tiếng
không nên nghe. Cái thảm kịch mẹ nằm dưới tấm lưng đầy mụn ruồi đó đối với
Nương còn khủng khiếp hơn với Út Vũ. Nó tàn phá tuổi thơ của cô, làm méo mó
tất cả những gì cô nghe thấy, trông thấy. Trong cái cách kín đáo, tế nhị thu xếp cho
cha và những người đàn bà khác làm tình có một nỗi niềm cay đắng nào đó như thể
là cô thay mẹ để chịu tội với cha. Có thể nói tâm hồn cô đã bị người đàn ông bán
vải phá trinh từ buổi trưa nọ và cha cô đã "hãm hiếp" cô trong những lần trên ghe,
trong chòi, trên những đống dăm bào, qua Sương, qua những người đàn bà khác,
trước khi bị bọn con trai ngu dốt, tham lam hiếp thật sự trên ruộng. Cô là một nhân
vật bị tổn thương, bị què quặt, không được ai cứu vớt. Để rồi tất cả những ám ảnh
tuổi thơ, những kí ức đau lòng ấy cứ đeo bám suốt cuộc đời người con gái tội
nghiệp.
Hai đứa trẻ vô tội, đặc biệt là Điền trong Cánh đồng bất tận, sau cuối đã phát
triển không bình thường về tâm sinh lý. Ngoài nguyên nhân là khắc khoải nỗi mặc
cảm về "sự trừng phạt", sự "báo ứng", là việc bị "đẩy trượt dài vào nỗi thiếu thốn
triền miên": thiếu vật chất, thiếu đồng loại, thiếu tình mẹ, thiếu cả tình cha dẫu có
cha kề cạnh, thiếu quyền được đến trường, phải tự học cách để lớn lên...; còn là dư
chấn tất yếu của những va chấn tâm sinh lý dữ dội buổi thiếu thời - những va chấn
bởi những cảnh tượng, những âm thanh, những niềm mà chúng bất đắc dĩ phải
nhìn thấy, nghe thấy, và nghĩ. Đó là cảnh tượng "trên chiếc giường tre quen thuộc,
má oằn uốn người dưới tấm lưng chơm chởm những nốt ruồi. Họ cấu víu. Vật vã.
Rên xiết". Đó là cảnh những đôi người "khi không còn mảnh vải nào trên người họ
vẫn điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo thân mình" mà tối nào mua ruợu cho
cha, chúng cũng ngang qua. Đó là "tiếng sột soạt rạo rực trong cái chòi nhỏ trên
15



bờ" khi "chị đĩ" lên chòi cùng cha. Đó là "đống dăm bào bị dẫm tạo ra âm thanh
lạo xạo lao xao lào xào" khi người đàn bà Bàu Sen bị chồng bỏ ở chỗ cha làm mộc.
Đó là niềm "cay đắng" với cảm giác cha "quắp lấy" những người đàn bà "vùi mặt
vào da vào thịt, ngấu nghiến mà lòng cha lạnh ngắt", “cha làm chuyện đó thì cũng
giống như mấy con vịt đạp mái…”, thậm chí "nhạt nhẽo hơn cả việc quan hệ theo
mùa, theo bản năng, trong cha không còn một chút cảm xúc nào, nét mặt tràn ngập
những rắp tâm, chưa gặp mặt đã tính chuyện phụ phàng"...
Và thế là hai đứa trẻ từ lúc nào đã trở nên "kỳ dị, đến mức nhiều khi tự giật
mình". Chúng "quái dị" "chẳng phải những đứa trẻ bình thường". Cái gì đến nhất
định phải đến. Một ngày "thằng Điền nổi loạn". Dấu hiệu bắt đầu từ một bữa trong
xóm đê, tình cờ ngó đôi chó nhảy nhau, thằng Điền "cầm đoạn cây xông đến quất
đôi chó tới tấp". "Hai con chó kêu la thống thiết, hoảng loạn, xà quần trong đám
bụi đất. Đau đớn cùng cực, chúng rúc vào chân đống rơm, nhưng không chịu rời
nhau. Con đực phục đầu sát đất, rên rỉ, nước dãi chảy ròng. Không chạy hả. Bốp.
Không chạy nè. Bốp. Thằng Điền gào lên. Cây trúc giập nát. Tôi giữ tay Điền lại
bảo, “Ác với tụi nó chi vậy, cưng”, thấy nước mắt bê bết trên mặt em tôi". "Dục
tình và xác thịt không xấu xa, không đáng bị khinh bỉ" nhưng đã bị Điền khinh bỉ,
ghê tởm, coi đó là nguồn cơn của mọi bi kịch, của sóng gió đã cồn lên bất tận với
chị em nó. Rồi "Điền chối bỏ niềm vui được trở thành một người đàn ông thực thụ.
Nó tự kìm hãm bản năng trỗi dậy mạnh mẽ ở tuổi dậy thì bằng tất cả sự miệt thị,
giận dữ, căm thù. Nó phản kháng bằng cách trút sạch những gì cha tôi có, cha
tôi làm. Giãy dụa đến rã rời, nhiều bữa, nó dầm mình dưới ao đến khi người tái
nhợt. Nó chạy như điên trong đêm, trên những bờ ruộng mướt cỏ đến khi mỏi nhừ,
gục xuống. Rồi nằm xoãi trên đồng, tả tơi". "Điền mười sáu tuổi (...) đã lạnh ngắt.
Nó dửng dưng nhìn những đứa con gái làm cỏ lúa, quần xoắn cao, đùi non mởn.
Đôi lúc bắt gặp những đôi người quấn nhau giữa các chòi ruộng hay lùm cây, nó
khinh khỉnh cười khào"... Một nhân cách phát triển bình thường là nhân cách biết

16



dung hòa, điều tiết giữa nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc thực tại. Ngược lại với
những nhân vật tính dục đã điểm ở trên, Điền, do oằn mình đau đớn vì gánh ám
ảnh, nên đã một mình đi về phía cực đoan khác, đó là hòng lấy nguyên tắc thực tại
áp chế, triệt tiêu nguyên tắc khoái lạc, thay vì sở hữu thứ bản năng có sức tái sinh
là nỗ lực tự hủy hoại để nhận về mình bản năng chết.
Dưới sự khắc nghiệt của tự nhiên là tàn độc của người cha. Đó là thái độ hà
khắc, dửng dưng trước sự cô đơn, thiếu tình thương của hai chị em Điền. Có lẽ
trong thâm tâm của người cha, tình thương yêu con đã bị lấn át bởi sự hận thù, nỗi
đau đớn khi bị vợ phụ bạc. Ông bỏ mặc hai đứa trẻ trong sự cô đơn, thiếu hụt tình
cảm yêu thương của cha mẹ. Chính vì rời xa cuộc sống con người, rời xa đồng loại,
hai đứa trẻ dần từ bỏ cuộc sống của con người, nghĩa là từ bỏ đi thói quen giao tiếp
bình thường, “đắm đuối với loại ngôn ngữ mới”, ngôn ngữ không lời, ngôn ngữ
của loài vịt. Chẳng cần thốt lên một lời, chúng vẫn hiểu nhau, biết nhau muốn gì.
Điều khác thường đó, do hai đứa trẻ quá gắn bó hay do không gian cô quạnh, tịch
mịch quá đỗi nên chỉ cần một cái nấc nhẹ của tâm hồn, ta vẫn nghe thấy. Oái ăm
thay, chúng từ bỏ đồng loại để lao vào thế giới của bầy vịt, chỉ vì thế giới ấy không
hề có “ghen tuông, hờn giận”, “chỉ đủ yêu thương”. Sự tàn độc của người cha cũng
trở thành nỗi ám ảnh, lo sợ của hai đứa trẻ, để rồi chúng sỗng với nhau mà không
dám giao tiếp bằng lời giống như con người mà chỉ dùng những cử chỉ, hành động
cũng đã hiểu nhau.
Với mỗi người tuổi thơ là những kí ức khó quên và cả hai chị em Nương và
Điền cũng vậy. Tuổi thơ của Nương và Điền đã trải đã qua nhiều biến cố dữ dội.
Những thăng trầm trong cuộc sống cùng những nỗi đau khôn nguôi đã ám ảnh hai
chị em, trở thành vết thương lòng, để rồi nỗi đau ấy cứ thế bám riết, đeo đuổi suốt
hành trình trải dài trên cánh đồng bất tận. Ám ảnh tuổi thơ, ám ảnh từ những điều
không nên thấy đã khiến cho chị em Nương và Điền có cái nhìn đầy đau đớn, xót

17



xa trước cuộc đời. Nỗi thèm khát hạnh phúc gia đình cứ đeo bám hai chị em và nó
cũng trở thành ước mơ xa vời.
3. Nhân vật Điền với "mặc cảm Ơđíp" và "mặc cảm tàn phế"
Cuộc sống của hai chị em Điền cứ thế trôi đi, kể từ ngày mẹ bỏ nhà ra đi, bố bỏ
mặc hai chị em không tình yêu thương. Điền cùng chị gái như cây hoang tự gồng
mình về phía ánh sáng mặt trời để cầm cự. Rồi một ngày "chị đĩ" xuất hiện, mặc dù
chị đã là người của cha, nhưng bao nhiêu tình yêu của một đứa con giành cho mẹ
vẫn được Điền dốc hết cho chị. “Chị đĩ” đến như giọt nước mát lành khiến tình yêu
thương mẹ trong Điền trỗi dậy. Mười bảy tuổi, Điền yêu "chị đĩ" bằng tình yêu vô
điều kiện. "Điền có những ngày bối rối. Nó hay hỏi tôi, “người ta thương mẹ ra
làm sao?”. Mặt nó dãn ra, khi biết cây kẹp tóc, trái dừa tươi hay con cá thác lác…
mà nó dành cho chị cũng giống hệt như người ta vẫn thường cho mẹ. Và niềm nhớ
lúc đi xa, nỗi khao khát được nằm gần, được dụi mũi mình vào da thịt người đó…
cũng tự nhiên như ý nghĩ bình thường nhất của những đứa con". Vào cái đêm phát
ra "tiếng sột soạt rạo rực trong cái chòi nhỏ trên bờ" khi "chị đĩ" tách khỏi ghe lên
chòi cùng cha, "Điền đã mệt mỏi thiếp đi, nó nằm co quắp, hai tay kẹp giữa đùi,
mặt buồn như phủ một lớp sương giá". Rồi chứng kiến cảnh chị bị cha làm nhục
bằng cách trả tiền vụ hồi đêm, sợ chị buồn, Điền đã cùng Nương rủ chị đi câu. Suốt
buổi, không dính con cá nào, Điền đã làm chị vui bằng cách "lặng bắt con cá rô lội
xuống mương, lặn sâu, móc cá vô lưỡi câu của chị". "Điền đuổi theo chị, và chị thì
chạy theo cha". Điền bỏ cha và chị Nương chạy theo tìm Sương, cứ như mẹ nó đã
đi theo gã bán vải vậy. Cái vòng lẩn quẩn ấy cứ bám riết con người như trò chơi
trốn tìm. Để rồi khi con người ta cứ chạy mãi vẫn không tìm thấy đâu là đích.
Không chỉ mang mặc cảm Ơđíp, như một hệ quả tất yếu đã phân tích ở trên,
Điền còn mang cả mặc cảm tàn phế nữa. Cậu bé Điền. Gọi là bé vì tối đến vẫn
muốn chị hát ru cho ngủ. Bé vì vẫn chơi trò giả bộ nói chuyện với vịt. Và cũng rất
bé dưới cái nhìn của Sương vì gần như chẳng có gì ở bộ phận dưới. Có thể nói cậu
18



là đứa bé rất tội nghiệp. Cha nghèo, hay đánh không vì say mà vì mẹ bỏ đi theo
người đàn ông khác. Chỉ có chị Nương vừa là chị, vừa là mẹ. Có lần thức dậy thấy
chị Nương tưởng là mẹ nên khóc. Thế rồi gặp Sương không hiểu vì sao bỗng đâm
ra yêu người đàn bà tự nhận mình làm đĩ một cách trâng tráo này. Ngay từ lúc thấy
chị ta mặc cái quần cụt quăn queo và chiếc áo sơ mi thẩm phèn của mình, Điền đã
hí hửng. Rồi nó dành cho chị ta cái kẹp tóc, trái dừa tươi, con cá thát lát… khi chị
ta vào chòi với cha thì Điền ngọ ngoạy xoay trở liên tục, nó kêu khó ngủ, đòi nghe
tôi hát bài gì cũng được. Nhưng Điền vẫn thao thức, dường như giọng hát tôi
không át được tiếng sột sọat rạo rực trong cái chòi nhỏ trên bờ. Điền chê, ngủ ghe
chòng chành quá chừng. Tôi biết lòng nó đang chao. Khi thấy Sương buồn, Điền
rủ đi câu. Nghe Sương nói "mắc cười quá, tới mấy con cá quỷ này còn chê chị" thì
Điền lặn bắt cá rô lội xuống mương lặn sâu, móc cá vô lưỡi câu của chị. Lúc nó
trồi lên thì đã thấy chị cười. Điền rất chi dịu dàng với Sương nhưng với lũ chó
dính nhau thì Điền tàn nhẫn lấy cây quất cho đến rã nhau mới thôi. Lúc nhỏ, vào
một buổi trưa, Điền thấy mẹ đang oằn mình dưới một người đàn ông lạ. Mặc dù
khóc nhưng cái hình ảnh mẹ cào cấu rên siết đã ám ảnh khiến nó hành động như si
như dại trước một người đàn bà lần đầu tiên nó biết cũng có thể làm như mẹ. Giá
như nó yêu chị ta như yêu mẹ thì nó đã là một đứa bé rất nhân bản và bình thường.
Điền không được “trở thành người đàn ông thực thụ”. Điền từ ngày “ngủ kẹt bồ
lúa” mắc phải chứng bệnh chảy nước mắt. Nhìn qua làn nước mắt chứng nhân cho
một ngày đau đớn, nhục nhã khi phải chứng kiến cái xấu, cái “bậy”, rồi phải cô độc
để “tự học lấy cách sống”, Điền đã phản kháng bằng cách “trút sạch” những cái gì
nó cho là ác, là xấu… thậm chí “tự kìm hãm bản năng trỗi dậy mạnh mẽ ở tuổi dậy
thì bằng tất cả sự miệt thị, giận giữ, căm thù”. Buộc phải tự tìm lấy con đường đi,
bằng xúc cảm và trải nghiệm, làm sao có thể tránh được ngộ nhận nên có khi đủ
thấu hiểu một điều gì đó thì đã “phải trả một giá cao”. Đến khi sửng sốt trước sự
hoan lạc của bầy vịt “đầy ắp một thứ tình – yêu”, “tuyệt không có gì là thô tục,


19


cưỡng đoạt, gạ gẫm” như những gì đã biết, Điền chới với, “nghi hoặc lan ra như
những vòng sóng”. Và khi Sương xuất hiện, thì trong Điền “chỉ là một nỗi ân hận
giày vò”. Điền yêu chị nhưng “tình yêu ấy đã bị khiếm khuyết mất rồi”, sau giấc
ngủ dài, “bản năng nó không trở dậy”… Vì vậy, dù là hiện thân của tình yêu
thương, có tình yêu thương nhưng Điền không thể trao gửi tình cảm ấy cũng như
không thể đem lại hạnh phúc cho người mình yêu. Do đó, ngoài ý nghĩa là đại diện
cho cái tốt, Điền còn là một cá nhân khiếm khuyết. Rõ ràng, khi Điền bị đẩy vào
một thế giới tha hoá, cái tốt đẹp đã bị cái xấu xa vây kín. Điền đơn độc trên hành
trình bảo toàn cho căn tính tốt đẹp của mình. Có chăng trong những hoàn cảnh nào
đó, Nương có thể đồng cảm với cậu nhưng tuyệt nhiên có những điều mà Điền
không thể chia sẻ với Nương được. Khi “chị đĩ” xuất hiện: Điền yêu chị, nhưng
tình yêu đó khiếm khuyết mất rồi. Sau giấc ngủ dài, bản năng nó đã không trở dậy.
Trái tim nó chỉ là hòn than nhỏ, không thể hâm nóng lại cơ thể ngả màu tro. Sợi
dây xúc cảm như lối đi lâu lắm không người lui tới, cỏ dại mọc bít mất, đường đứt,
cầu gãy.... Cái buổi trưa khi bàn tay của chị "táo tợn làm gì đó" nơi phần bụng dưới
của nó trong nước, Điền, thằng con trai mười bảy tuổi đã "chết lặng trong nỗi
ngượng ngùng". Đây là cái "chết lặng trong nỗi ngượng ngùng" của một chàng trai
mới lớn mang mặc cảm tàn phế trước người đàn bà mà mình yêu thương. Trước
“chị đĩ”, trước tình yêu thương Điền dành cho chị, trong Điền trỗi dậy mặc cảm tàn
phế.
4. Những giấc mơ
Trong Cánh đồng bất tận, những giấc mơ luôn thường trực trong giấc ngủ của
chị em Điền: "Một bữa tôi chiêm bao, chẳng đầu chẳng cuối gì, chỉ thấy vía má
giãy dụa trong tấm vải đỏ lạ lùng kia nhưng nó thít chặt, riết lấy, siết dần cho tới
khi má thành một con bướm nhỏ, chấp chới bay về phía mặt trời". Theo Freud,
chẳng có giấc mơ nào không có nghĩa. Giấc mơ là thấu kính soi chiếu đời sống
tâm sinh lý của con người. Giấc mơ này của cô bé Nương nói đến việc cô


20


bị ám bởi sự "xa lạ" của má, cùng nỗi bất an, phấp phỏng, hoang sợ, niềm linh
cảm, dự cảm của cô về cơ nguy mất má, cơ nguy má cô sẽ bỏ cha con cô để ra đi
cùng ông chủ của những "tấm vải đỏ lạ lùng" "đỏ hơn cả máu" mà bà đã bị ám.
Ngày Nương có kỳ kinh nguyệt đầu tiên, cô đã vô cùng hoảng sợ: "Máu chảy
giữa hai đùi không tạnh được, tôi thụp xuống, bụm chỗ ấy lại. Máu từ từ chảy qua
kẽ tay, tôi thấy mình rỗng ra, tái nhợt, chết dần. Thằng Điền vói bứt đọt chuối, tọng
vào miệng nhai ngốn ngấu, điên dại, để lấy bã rịt lại chỗ máu. Thuốc gò nghe nói
cầm máu rất tốt, cũng chẳng ăn thua. Hai đứa nhìn nhau khóc, tôi đã mơ thấy ngôi
mộ của mình, như chiếc giường giữa bốn bề đồng nước...". Giấc mơ này tường
minh cho cơn hoảng loạn, niềm tủi cực tột cùng của một cô gái bị tước quyền được
bình thường, nỗi mặc cảm về cái án bất tận bi đát, tuyệt đối trống rỗng, vô nghĩa
của cô giữa kiếp nạn nhân sinh; tường minh cho cái trạng thái thường trực lưỡng
phân mê - tỉnh, vô thức - hữu thức, sống - chết, tồn tại - không tồn tại; tường minh
cho sự xuất hiện ở một kiểu dạng khác thứ bản năng chết (nếu ở Điền là nỗ lực tự
hủy hoại như đã nói, thì đến lượt, ở Nương là mong muốn được chết); tường minh
cái điềm báo về thảm họa bị lũ thằng Hận "ghì ngửa", "xé toạc" giữa cánh đồng bì
bõm nước...
"Nằm chèo queo, co rúm, chen chúc nhau trên sạp ghe, chúng tôi đánh mất thói
quen chiêm bao. Điều này làm tôi và Điền buồn biết bao nhiêu, vì cách duy nhất để
được nhìn lại hình bóng má cũng tan rồi". Việc "đánh mất thói quen chiêm bao"
của hai đứa trẻ đồng nghĩa với sự "quái dị" "kì dị" "không phải bình thường" theo
tháng năm của chúng, đồng nghĩa với sự "nghèo rơi nghèo rớt" bởi bị "đẩy trượt
dài vào nỗi thiếu thốn triền miên", không quá khứ, không hiện tại, không tương lai
của chúng.
Thông qua miêu tả những ám ảnh tuổi thơ, mặc cảm tàn phế, những giấc mơ...
nói trên đã ám ảnh người đọc bởi những đứa trẻ phải sống trong sự đày đọa, bỏ rơi

do thói vô trách nhiệm của người lớn. Mẹ bỏ đi, người cha Út Vũ vì thù hận mà

21


dường như trong ông niềm tin về phụ nữ đã hết, tình yêu thương đối với hai đứa
con theo đó cũng vơi dần. Ông lạnh tanh, không quan tâm đến nỗi đau của chính
những đứa con của mình, rằng chúng không được giáo dục tử tế, rằng chúng đang
rất thiếu thốn yêu thương của cha mẹ. Những giấc mơ như một nỗi ám ảnh, một
nỗi đau cứ len lõi trong tâm can những đứa trẻ tội nghiệp. Nhờ có những giấc mơ,
hai đứa trẻ có thể tìm về với những kí ức khi còn có mẹ nhưng cũng chính những
giấc mơ đem lại nỗi sợ hãi khủng khiếp, để rồi khi những giấc mơ không đến nữa
thì chúng lại hụt hẫng.
Cảm quan phân tâm học đã chi phối cái nhìn nghệ thuật của Cánh đồng bất tận,
nhất quán từ nội dung đến hình thức. Tác phẩm tỏ ra khá nhuần trong kiến tạo cấu
trúc tự sự giàu dữ kiện phân tâm. Cốt truyện, thời gian tâm lý lấn lướt, phân rã,
nhòe mờ cốt truyện, thời gian sự kiện. Thủ pháp gián ghép điện ảnh những mảnh
vụn, những phiến đoạn ký ức đứt gãy của nhân vật, đẩy nhân vật trượt vào, tan
chảy trong dòng xúc cảm hỗn độn giữa quá khứ và hiện tại và tương lai, giữa tâm
cảnh và ngoại cảnh. Ngôn ngữ tâm trạng, ngôn ngữ cảm giác lấn lướt, chồng quyện
ngôn ngữ miêu tả. Sự độc dụng điểm nhìn bên trong, để nhân vật tự cảm nghiệm,
tự nói bằng ngôn ngữ hoặc của khoái lạc, hoặc của niềm đau vỡ... Và bao trùm lên
tất cả, đó là một không khí truyện "ẩn chứa bên trong sự dồn nén cái sức mạnh của
bộc phá" - sức mạnh của khát vọng thành thực.
Cánh đồng bất tận, thông qua cái nhìn phân tâm học, đã miêu tả nỗi cô đơn,
khát thèm, bẽ bàng, bi đát, sự tha hóa của con người bằng tất cả tình yêu
thương, sự cảm thông và thiện chí cảnh báo, phản tỉnh con người. Đọc Cánh đồng
bất tận, chúng ta thêm cơ hội nhận diện đầy đủ tính hiện đại của văn học Việt
Nam, nhận diện hành trình tư tưởng văn học là hành trình con người được miêu tả
sâu sắc từ hình hài đến tâm sinh lí. Vang ngân niềm khắc khoải thiết tha của tác

giả, rằng trên hành trình ấy, con người hãy nỗ lực bảo vệ, chắt chiu, gìn giữ những

22


giá trị tốt đẹp của con người. Cánh đồng bất tận sẽ sống rất lâu vì nó chạm đến
miền sâu nhất, khuất nhất, người nhất của con người.
KẾT LUẬN
Cánh đồng bất tận đã khép lại nhưng những suy nghĩ miên man về cuộc đời,
về kiếp người phiêu bạt sao cứ mãi “ám ảnh” lấy người đọc? Bằng giọng văn đậm
chất Nam Bộ, nhẹ nhàng mà sâu lắng, Nguyễn Ngọc Tư đã khắc họa thành công về
những con người đáng thương, suốt đời lam lũ nơi đồng ruộng hoang vu, về những
suy tư trong lòng họ, về cách họ làm để tìm quên quá khứ, tìm quên thực tại đau
khổ, để rồi vượt qua chúng và tiếp tục cuộc hành trình của mình với niềm tin bất
diệt vào cuộc sống. Câu chuyện tưởng chừng đơn giản nhưng ẩn sau những dòng
văn ấy là cả một triết lí sâu sắc mà nhà văn muốn nhắn gửi đến người đọc: Dù
trong hoàn cảnh nào cũng nên lạc quan, tin yêu vào cuộc sống. Bởi đêm tối rồi sẽ
qua đi, ánh dương rồi lại sẽ soi rọi muôn nơi, và đôi khi cần phải biết tha thứ để
lòng được nhẹ nhàng hơn.
*****************************************

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tập truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
2. Hồ Thế Hà, Tiếp nhận cấu trúc văn chương (tiểu luận – phê bình), NXB văn học.

23


3. Lê Huy Bắc, 2005, Truyện ngắn Hậu hiện đại, in trong Truyện ngắn, lí luận, tác
gia và tác phẩm, Tập Hai, NXB Giáo dục, Hà Nội.

4. Phương Lựu, 2001, Về chủ nghĩa Hậu hiện đại, in trong Tiếp tục khơi dòng,
NXB Văn học, Hà Nội.
5. Jean – Francois Lyotard, 2007, Hoàn cảnh hậu hiện đại, Ngân Xuyên dịch, NXB
Tri thức, Hà Nội.

24



×