Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

YẾU TỐ TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG VIỆC THỂ HIỆN VĂN HÓA VIỆT TRONG MẪU THƯỢNG NGÀN CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.92 KB, 11 trang )

YẾU TỐ TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG VIỆC THỂ HIỆN VĂN
HÓA VIỆT TRONG MẪU THƯỢNG NGÀN CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH

Văn hóa Việt, bản sắc Việt là một câu hỏi, một vấn đề được hàng trăm, hàng nghìn
nhà nghiên cứu tìm cách lí giải từ rất lâu. Nguyễn Xuân Khánh là nhà tiểu thuyết, ông
cũng có câu trả lời của riêng mình nhưng không phải bằng lí lẽ uyên bác mà bằng một
cuốn tiểu thuyết cực kì sinh động. Người ta đi tìm nhân vật chính là người này người kia
nhưng câu trả lời chính xác nhất chỉ có thể là nền văn hóa Việt với hiện thực đan xen hư
ảo biến hóa khôn lường, rất riêng mà lại rất chung. Nguyễn Xuân Khánh đẩy văn hóa Việtnhân vật chính trong tiểu thuyết của mình vào hoàn cảnh cực đoan nhất: nông thôn Bắc Bộ
cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX, khi dân tộc phải đối mặt một mất một còn với bọn thực
dân phương Tây đến từ nền văn minh tiên tiến với những vũ khí xâm lược hiện đại, khi
đạo Phật- tôn giáo đã từng ăn sâu bám rễ suốt nghìn năm nay đã suy dần, khi mà Nho
giáo- vũ khí chấn hưng xã hội phong kiến chỉ còn trong cơn thoi thóp; đến đây bỗng bừng
dậy một tôn giáo đã nảy sinh và thấm sâu âm thầm từ thuở bình minh của dân tộc. Đó là
đạo Mẫu rất Việt Nam, dồi dào, bất tận như Đất, như Mẹ, như người đàn bà vậy.
Với Mẫu thượng ngàn, Nguyễn Xuân Khánh đã thể hiện văn hóa Việt có cả yếu tố
truyền thống lẫn hiện đại, cũng có nghĩa là dựa trên cái khung truyền thống để làm mới thể
loại. Chính vì thế, tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn được xếp vào lộ trình cách tân khung
trong truyền thống của văn xuôi từ 1986 đến nay. Mẫu Thượng Ngàn là cuốn tiểu thuyết
lịch sử xã hội về Hà Nội cuối thế kỉ XIX, gắn với việc người Pháp đánh thành lần thứ hai,
việc xây nhà thờ lớn, cuộc chiến của người Pháp với quân Cờ Đen… Tác phẩm kể về cuộc
sống của những người dân làng Cổ Đình diễn ra trong bối cảnh người Pháp đang từng
bước áp đặt sức mạnh của họ lên Bắc Bộ . Từ đây, sức sống của nền văn hóa Việt đã được
thể hiện thông qua số phận, cuộc đời người đàn bà Việt trong khung cảnh làng cổ với
những câu chuyện về tình yêu bao dung, mãnh liệt, đậm chất bi hài, phồn thực.
Như đã nói ở trên, ta có thể bắt gặp cả yếu tố truyền thống lẫn hiện đại ở tiểu thuyết
Mẫu thượng ngàn. Về yếu tố truyền thống trong việc thể hiện văn hóa Việt ở tác phẩm
này, ta đi đến hai phương diện, nội dung và hình thức.
1. Yếu tố truyền thống
1.1 Phương diện nội dung



Cuốn tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh xuất bản
tháng 6 năm 2006 được ông phát triển từ truyện ngắn Làng nghèo (chưa xuất bản) mà ông
viết từ năm 1959. Dù bối cảnh ở hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau nhưng vấn đề trung
tâm mà hai tác phẩm này đặt ra là nỗ lực tìm kiếm và dựng lại một không gian tinh thần
mà từ đó, căn cốt tinh thần của người Việt được định hình. Không gian tinh thần ấy, theo
nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, là không gian văn hóa làng mà hạt nhân quan trọng nhất
trong đó là tín ngưỡng dân gian. Những biểu hiện và giá trị của văn hóa Việt, đặc biệt
là văn hóa tâm linh chính là yếu tố truyền thống thuộc về phương diện nội dung ở
Mẫu thượng ngàn. Cụ thể hơn, đó là lễ hội Kẻ Đình với những tục lệ cổ xưa mang đậm
dấu ấn tâm linh; Thờ cúng bách thần và tín ngưỡng vật linh – sức hấp dẫn của
văn hóa bản địa; Tín ngưỡng thờ Mẫu – điểm hội tụ của văn hóa tâm linh trong tác
phẩm với ý niệm thiêng liêng về Mẫu cùng với đó là những chân dung mang tính
Mẫu.
Có thể thấy, bối cảnh chủ đạo mà Nguyễn Xuân Khánh tạo dựng trong tiểu
thuyết Mẫu thượng ngàn là một ngôi làng Bắc Bộ ở vào giai đoạn đầu thế kỷ XX. Trong
ngôi làng đó, có sự thống trị của một quan niệm chung, một niềm tin chung, một sức mạnh
của thói tục, đến mức, các cá nhân được sắp đặt sao cho hợp, sao cho khớp với khuôn khổ
của cộng đồng, đến mức, cuộc đời của mỗi một người chính là một phần trải nghiệm của
cộng đồng. Trong ngôi làng Cổ Đình bé nhỏ, ngự trị một không gian tâm linh thành kính
bao trùm lên cả không gian vật chất. Làng Cổ Đình được đánh dấu bằng một cây đa không
phải chỉ vì độ cao mà còn vì tính thiêng của nó. Một cây đa cổ thụ trứ danh, gốc to chục
người ôm không xuể. Nó là niềm kiêu hãnh của Cổ Đình. Một cây đa vừa hùng vĩ, vừa
đẹp, người trong vùng ai cũng biết. Người ta dùng nó làm điểm xác định vị trí. Ví như chi
tiết: “Làng tôi là làng Già, cách làng Cổ Đình hai cây số về phía đông”. Không khó tìm
hình ảnh cây đa xum xuê rễ phủ và ban thờ có nậm rượu và vàng hoa ngũ sắc trong Mẫu
thượng ngàn ở khắp chợ cùng quê vào thời điểm đầu thế kỉ XXI này. Từ cây chiên đàn
“cao hơn nghìn nhẫn, cành lá xum xuê, xòe tán rộng không biết mấy nghìn trượng” ở đất
Bạch Hạc thời Kinh Dương Vương (Truyện Mộc Tinh - Lĩnh Nam chích quái) đến tục thờ
cây còn hiện hữu ở nhiều nơi đầu thế kỷ XXI như vừa nói ở trên, có thể thấy rõ sự ứng

hợp của những gì Nguyễn Xuân Khánh miêu tả về một ngôi làng ở đầu thế kỷ XX. Như
vậy, những điều mà Nguyễn Xuân Khánh viết trong Mẫu Thượng Ngàn là những trải
nghiệm cộng đồng chưa bao giờ đứt đoạn, nó len lỏi, âm ỉ trong lòng đời sống trong một
bộ phận dân cư và được cả cộng đồng chấp nhận. Điều này thiết tưởng cũng không xa lạ


với các nước khác, chẳng hạn ở châu Âu, nơi mà theo J.G. Frazer, tục thờ cúng thần cây là
“một chuyện không có gì hợp lẽ tự nhiên hơn” và tàn dư của nó vẫn tồn tại ở châu Âu với
tục lệ trồng và rước cây tháng Năm hàng năm. Tuy mang nhiều nét khác biệt Đông-Tây
song rõ ràng, đây là một vỉa mạch của đời sống tinh thần con người đang rất cần khám
phá Ngoài ra, trong Mẫu Thượng Ngàn, người kể chuyện còn lồng vào một biến thể của
truyền thuyết về tục thờ thần cây là motif “khúc gỗ trôi sông”. Motif này được nhiều
người biết đến qua truyền thuyết về Tứ Pháp ở Bắc Ninh, ở truyền thuyết về Thiên Yana,
nữ thần người Chăm đã được Việt hóa ở Khánh Hòa, truyền thuyết về chùa Bà Đanh ở Hà
Nam... Đây được coi là một phái sinh của truyền thuyết thờ cây khi tín ngưỡng thờ cây đã
bị cắt đứt cội rễ, chuyển hóa thành khúc gỗ, sau được vớt lên tạc thành tượng. Khúc gỗ
trôi sông, vì vậy, cũng được coi như là một mẫu gốc trong truyền thuyết dân gian Việt
Nam. Bên cạnh đó, trong niềm tin tưởng chung của người dân Cổ Đình, còn có việc thờ
một ông thần cẩu. Việc thờ chó đá, theo các nhà nghiên cứu là một tục thờ xuất hiện muộn
nhưng khá phổ biến ở các làng quê Bắc Bộ. Chó đá có thể chôn dưới đất hoặc đặt lên ngai
thờ. Chó được thờ với mục đích canh cửa để trừ tà hoặc giữ của, điều này phù hợp với
quan niệm máu chó có thể trừ quỷ dữ. Trong Chuyện cũ Hà Nội, nhà văn Tô Hoài đã ghi
lại ký ức về việc thờ thần chó đá như sau: “Chó đá canh cổng trông quen mắt như cái bình
vôi treo ở đám rễ si, rễ đa… Con chó đá là thần canh cửa nơi miếu mạo và cổng ngõ các
nhà có của… Nhà có, nhà nghèo đều khói hương những ngày tết nhất mời ông Khuyển về
“thượng hưởng”, nhưng chó nhà khó thì chỉ ngửi hơi nước lã, chó nhà có máu mặt mới
được cúng rượu thịt thật”.
Việc tác giả thể hiện hình tượng Mẫu cũng nằm trong những yếu tố truyền thống.
Mẫu tính là bản năng của sự sống và đảm nhận sứ mệnh chở che cho sự sống. Thực ra viết
về vẻ đẹp tính Mẫu không phải là vấn đề mới. Mẫu là một khái niệm có căn cỗi lịch sử- xã

hội sâu xa, gắn liền với người Mẹ về tâm linh. Chính truyền thống trọng Mẫu, đề cao vai
trò của người Mẹ, người vợ trong xã hội là cơ sở để hình thành và lưu truyền hình tượng
Mẫu trong tâm thức văn hóa của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước ở phương
Đông. Là biểu tượng của niềm tin tôn giáo, hình tượng Mẫu chính là nơi quy tụ các giá trị
văn hóa- nghệ thuật của một dân tộc. Bước ra từ cội nguồn văn hóa dân gian, hình tượng
Mẫu đi vào văn học như một biểu tượng tiêu biểu của dòng văn học thiên tính nữ phương
Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Điều này đậm dấu ấn trong Mẫu thượng ngàn.
Tất cả lối sinh hoạt, cung cách ứng xử với môi trường sống của người phụ nữ đều được
xây dựng theo luận giải từ hình tượng Thánh Mẫu. Ý niệm thiêng liêng về Mẫu vốn là một


nét đẹp của nền văn hóa Việt Nam, không chỉ biểu hiện truyền thống tôn trọng và biết ơn
người phụ nữ mà còn ghi nhận những đóng góp của họ với vai trò gìn giữ văn hóa lịch sử
của một đất nước. Ở đây, những gì vốn thuộc về cuộc sống và tâm hồn Thánh Mẫu mà dân
gian đã xây dựng và tin tưởng thì nay đã được thể hiện trong cuộc sống người phụ nữ rất
đỗi bình dị.
Ở cuốn tiểu thuyết dày 807 trang này, vẻ đẹp Mẫu tính được hiện lên qua những nhân vật
nữ cụ thể như: bà ba Váy, cô đồng Mùi, bà Tổ Cô, Nhụ, Thắm, Ngơ,…Đó là những con
người biết yêu thương và khát khao, biết sản sinh và hi sinh, đậm nhất vẫn là vẻ đẹp ngoại
hình: phồn thực, đắm đuối và đầy trắc ẩn.
Đầu tiên phải kể đến vẻ đẹp mộc mạc, tròn đầy và tinh khiết của những cô gái như Nhụ
mà những tên đi xâm lược vẫn quen gọi là “bông hoa đẹp nhất xứ Đông Dương”. Cô bé
xuất hiện ở ngay đầu câu chuyện với hình ảnh rất trong sáng với “Đôi tay vung vẩy nhẹ
nhàng, đôi chân nhún nhẩy kín đáo, tay trái đặt trước bụng để giữ tấm áo, thân hình đung
đưa thật duyên dáng” với gót son và một tiếng hát trong veo được thừa hưởng từ Mẹ. Khi
về sống ở quê cha cùng với những người vốn không cùng dòng máu nhưng vẻ đẹp toát lên
từ tâm hồn trong trắng, hồn nhiên cùng với sự đảm đang khéo léo vun vén cho gia đình
không khác gì một người phụ nữ của một cô bé 14 tuổi đã khiến cho mọi người cảm mến
và hết mực yêu thương cô. Ông cụ đồ Tiết sung sướng lắm khi được nghe tiếng cười như
pha lê của Nhụ trong nhà tắm thiên nhiên. Bởi sự xuất hiện của cô cháu hờ trong ngôi nhà

xưa nay vắng bóng người phụ nữ đã cho ông cảm nhận về một gia đình ấm áp, những hình
ảnh vốn đã quen thuộc của người phụ nữ trong nhà mà nay mới thấy lại ở Nhụ như “cúi
đầu, xõa tóc, nắm lấy chân tóc quay vun vút cho nước văng đi tạo thành đám mưa bụi mát
rượi bay vào thềm hè” đã lấp đầy tình cảm trong trái tim và những chỗ trống mà một con
người cứng rắn như ông không bao giờ chịu nói ra. Nhụ rất khéo léo trong những công
việc gia đình, sáng nào cũng dậy sớm pha trà cho ông cụ, lúc lại theo ông học nuôi ong,
lúc đi nhặt trứng. Không sai khi nói rằng sự xuất hiện của Nhụ là niềm vui sống cho
những thành viên ít ỏi trong gia đình, đặc biệt là ông cụ đồ Tiết. Riêng nhân vật Điều tuy
còn nhỏ nhưng khi được uống nước từ ấm da lươn do Nhụ chuẩn bị tỉ mỉ thì cũng cảm
nhận được sự chu đáo của bàn tay người đàn bà trong gia đình. Nhụ đẹp lắm, nhất là khi
được soi tỏ dưới sắc vàng diễm ảo của ánh trăng. Có lẽ khi sinh ra người phụ nữ, như dự
báo trước được những bất công mà họ gặp phải, tạo hóa đã tìm cách nâng đỡ họ bằng
bóng đêm và đặc biệt là ánh trăng để tái sinh và khơi gợi những ham muốn giao tình. Ánh
trăng huyền ảo, nhễ nhại làm cho mọi vật trở nên lung linh huyền ảo hơn, nhất là các cô


gái dậy thì. Nhụ chẳng phải dậy thì hay sao? Gặp ánh trăng, Nhụ đẹp lên gấp mấy lần, khi
ánh trăng tưới vào, tóc cô bé đen mượt hơn, đôi mắt lúng liếng hơn…Không chỉ mang vẻ
đẹp nữ tính, tinh khiết mà trong cô gái này còn ẩn chứa một sức mạnh đấu tranh quyết liệt
và tấm lòng yêu thương vô bờ bến. Khi làng Cổ Đình bị dịch bệnh hoành hành, anh cu
Điều cũng bị bệnh, Nhụ cuống quýt lấy dầu thoa cho chồng rồi chạy đi báo cho người
thân. Khi biết tin chồng mình chết cô giãy nảy rồi khóc thét lên: “Bố ơi, con cắn rơm cắn
cỏ con lạy bố, bố đừng chôn xác anh ấy”rồi cứ thế ôm chặt xác chồng ngồi cả đêm. Khi bị
Julien cướp đoạt thân xác thì Nhụ điên cuồng chống cự kịch liệt “cô đẩy, cô đạp, cô cào,
cô cấu, cô xé, cô cắn”. Người con gái vẫn cố gượng đứng lên, dù trần truồng, cũng đem
chút lực tàn chạy trốn dưới ánh trăng, chạy cho đến khi kiệt sức mới thôi. Chỉ chừng ấy
thôi cũng đủ thấy rằng Nhụ xứng đáng là hiện thân cho vẻ đẹp Mẫu tính, dùng hết sức
sống của mình để giữ gìn sự trong trắng của bản thân trước sự chiếm đoạt của thứ dân đi
xâm lược về cả thể xác và tâm hồn.
Nói đến tính Mẫu là nói đến người Mẹ và thiên chức làm Mẹ của người phụ nữ. Trong

trường hợp này thì bà ba Váy xứng đáng là đại diện cho vẻ đẹp Mẫu tính đậm nét phồn
thực bởi khả năng sinh sản dồi dào của mình như đã nói rõ ở phần trên. Nhưng người đàn
bà này đâu chỉ hiện lên với vẻ đẹp gắn liền với thiên chức làm Mẹ của một người phụ nữ
mà còn được miêu tả ở vẻ đẹp tự nhiên mặn mà, quyến rũ khiến cho con người ta mê đắm.
Tuy là phận con gái nhà nghèo nhưng bà lại sở hữu những nét đẹp mà ít người đàn bà nào
trong làng có được. Đó là “khuôn mặt tròn vành vạch như trăng rằm, mỡ màng hồng hào,
da thì lúc nào cũng trắng nõn”. Ông Lí Cỏn vì thế mà đã từng thốt lên rằng: “Ôi chao!
Sao da thịt bà vừa ấm áp vừa mát rượi vừa thơm tho”. Bà ba Váy cũng là một phụ nữ chịu
nhiều bi kịch nhất trong cuộc đời, con nhà nghèo phải làm vợ lẽ nàng hầu cho nhà Lí Cỏn
để gạt nợ, làm vợ Lí Cỏn nhưng luôn ngóng chờ một người đã bặt vô âm tín với một tình
yêu thương chưa bao giờ dứt. Và khi gặp lại người xưa thì tình yêu ấy lại được tái sinh và
trỗi dậy mãnh liệt, nhưng không vì thế mà bà hỏng đi bổn phận làm vợ của mình. Khi
dịch tả hoành hành, đặc biệt là sau khi thấy chồng mình- ông Lí Cỏn- vật vờ trước cái chết
thương tâm của bà cả thì bà ba cứ theo sát chăm sóc chồng, bỏ hết công việc, mọi chuyện
riêng tư cũng bỏ tất. Bởi vì bà nghĩ được rằng ít ra bà cũng có một đàn con với ông. Hơn
nữa lòng biết ơn ông Lí đã giúp mình từ một con bé nhà quê mà có cuộc sống như hôm
nay đã tạo động lực cho người đàn bà này cứ theo mà chăm chút cho người chồng gần đất
xa trời của mình. Sẽ phải gọi là gì nếu đây không phải là cái tình cái nghĩa, tấm lòng


chung thủy, sắt son gừng cay muối mặn của người vợ dành cho người chồng của mình.
Chẳng phải là đáng trân trọng đó sao?
Đọc xong tác phẩm, ta còn cảm động trước tấm lòng nhân hậu đáng kính trọng trong con
người bà Tổ cô. Tác giả Nguyễn Xuân Khánh đã dành hẳn một chương để nói về người
phụ nữ đặc biệt này. Bà thuộc họ Vũ Xuân, là một người đàn bà rất đẹp: “ thắt đáy lưng
ong, khuôn mặt trái xoan, mi thanh mục tú…cái dáng sang trọng, cao quý làm sao…
những ngón tay dài búp măng, lấp ló những chiếc váy sồi đen nhánh là hai bàn chân xinh
xinh gót lúc nào cũng đỏ như son. Tất cả con người như một đóa hoa tươi. Bà đứng chỗ
nào là chỗ ấy như sáng sủa lên, như rực rỡ lên”. Nhưng ông bà xưa nói “hồng nhan bạc
mệnh” quả không sai, cuộc đời người phụ nữ này gặp rất nhiều thăng trầm trong cuộc

sống. Bà lấy và đi theo ông cử Khiêm trong hoàn cảnh nước nhà đau thương nhất: giặc
cướp nổi lên tứ tung, quan lại thì tham nhũng chi lo vét cho đầy túi tham. Giặc thì đang
kéo tới. Bà chứng kiến luôn cả đồng bào giáo dân bị đàn áp khốc liệt. Những cái chết ám
ảnh bà và cái chết gây đau đớn nhất cho bà chính là cái chết của ông cử Khiêm vì lòng
trung với nước. Bà Tổ cô cũng đã có ý định tự tử, theo chồng qua bên kia thế giới để giữ
tròn phẩm tiết nhưng vì thương con, bà quyết định không chết nữa mà bám lấy cuộc sống
dù bằng giá nào để nuôi con. Đức hi sinh quá lớn lao của bà, ông trời đã không phụ. Bà
cõng con trốn thoát về quê nhà. Thề sẽ giữ tròn chữ tiết với người chồng quá cố nhưng để
bảo vệ giọt máu cuối cùng của chồng mình, bà đã chấp nhận tái giá cùng ông trưởng Cam.
Bà đã khóc tầm tả, chít khăn tang mà quỳ lạy bên bàn thờ chồng. Bị ép vào tình thế bắt
buộc mới phải đi bước nữa chứ thật ra không có yêu thương gì, nhưng sống lâu dần với
ông trưởng Cam, hiểu rõ con người và cảm thông với nỗi tủi nhục của ông, Bà đã dùng
chính tình yêu thương và tấm lòng nhân hậu của mình để chữa bệnh hằng đêm cho ông.
Tiểu thuyết có đoạn miêu tả: “bà ta bế đầu ông lên, cho ông bú như Mẹ cho con bú. Rồi
một tay bà xoa vào lưng ông, tay kia bà kéo cái chim ra. Đau đấy nhưng có cái vú bú, và
có cái tay xoa lưng ông cũng đỡ đau phần nào…có bận bà kéo mạnh quá ông đau điếng,
cắn chảy máu cả vú bà. Cứ như thế, mỗi ngày một ít, cuối cùng con chim cũng chui hẳn
ra. Và thế là ông Cam khỏi bệnh. Ông mừng đến phát khóc, ôm lấy vợ và nói: Bà đã sinh
lại ra tôi lần thứ hai”[7, 307]. Chính tình yêu của người đàn bà và cũng chỉ có tình yêu
thương của bà Tổ cô mới làm cho ông Cam sống lại được. Khi ông Cam và đứa con chết
đi thì Bà cải đạo một lần nữa, không đi lễ nhà thờ nữa mà trở về với đạo Mẫu, với vai trò
thanh tẩy của mình.


Vẻ đẹp Mẫu tính trong tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn được thể hiện đậm nét nhất vẫn là
dục tính mạnh mẽ của cô đồng Mùi. Hai người chồng là anh Tẻo và anh Tân- người nuôi
ngựa đã chết khiến cho dân làng xem cô là một kẻ dâm đãng vì không người chồng nào
chịu nổi. Họ đồn như thế là có nguyên cớ của nó, rõ ràng người phụ nữ thôn quê kia lại
chất chứa một tinh lực rất mạnh mẽ. Cô gật đầu chịu lấy Philip dưới sự xót xa của ông cụ
Tiết và sự dè bĩu của dân làng, dẫu sao thì cô cũng mang tiếng là người đầu tiên lấy chồng

Tây ở cái xứ sở ấy. Đối với một kẻ máu lạnh chuyên đi chinh phục như Philip thì chỉ có vẻ
đẹp ngút ngàn và khao khát bản năng của người đàn bà Việt như cô Mùi mới có thể khiến
hắn có những giây phút van nài, xin xỏ, quỵ lụy để xin ân sủng từ niềm đam mê dục tính
và cuối cùng chỉ nhận lại được sự thèm khát khôn nguôi mà rên rỉ: “Nàng bắt mất hồn ta
rồi, Ta tan biến đi trong nàng rồi. Nàng đã dắt ta tới miền lạc thú mà chưa bao giờ ta biết.
Ta run rẩy, ta quỳ sụp trước nàng để van xin phép lạ”. Nhân vật cô Mùi là hóa thân cho
sức sống ngút ngàn đậm chất phồn thực của hình tượng Mẫu mà Nguyễn Xuân Khánh xây
dựng, thể hiện ước mơ về vai trò của người phụ nữ trong chiến thắng của cuộc đấu tranh
văn hóa Đông – Tây, giữa âm mưu đồng hóa của những kẻ đi xâm lược và sức chiến đấu
bảo tồn những giá trị văn hóa tự ngàn đời của người dân bản địa. Đó là dụng ý nghệ thuật
mà cũng là thông điệp tác giả muốn gửi tới mọi người.
Đó là những vẻ đẹp và phẩm chất tuyệt diệu của hình tượng Mẫu- người Mẹ- người đàn
bà: vừa dịu hiền vừa mạnh mẽ, vừa oai nghiêm vừa chở che, an ủi, tất cả đều không nằm
ngoài sự hướng tới Chân- Thiện –Mỹ.
1.2 Phương diện hình thức
Về phương diện hình thức, trung tâm ở đây mô hình của tiểu thuyết truyền
thống vẫn còn được giữ lại, nghĩa là ở đây, Nguyễn Xuân Khánh tựa như có xu hướng
quay trở lại theo cách dựng “khung” tiểu thuyết theo kiểu truyền thống. Tác phẩm
dài hơn 800 trang, được chia làm 15 phần (mỗi phần có nhiều tiết nhỏ) với những tiêu đề
trải dài:
I. Người trở về
II. Nhụ và Điều
III. Đồn điền Messmer
IV. Họ Vũ, họ Đinh
V. Pierre và Julien
VI. Người Cổ Đình
VII. Bà tổ cô


VIII. Philippe Messmer

IX. Con chim cu cườm
X. Đối thoại
XI. Bà Váy kế chuyện
XII. Tai họa lớn
XIII. Ông Đùng, Bà Đà
XIV. Hội Kẻ Đình
XV. Chương kết
Nhận xét về cách viết của Mẫu thượng ngàn, Hoài Nam khẳng định: Nếu ở Hồ Quý
Ly, cách đây sáu năm, nhà văn đã tỏ ra nỗ lực làm mới nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết
Việt Nam đương đại (…) thì ở Mẫu thượng ngàn, dường như ông đã quay về với một lối
viết tiểu thuyết có thể nói là khá cổ điển. Tuy nhiên nó cũng không bị cũ nhàm. Nét mới và
gây hấp dẫn ở tác phẩm này không phải ở sự làm mới “cách viết” mà là ở năng lực làm
mới “cái được viết” và đó cũng chính là minh chứng cho sức sống của một lối viết không
còn mới. Trong suốt chặng đường sáng tác của mình, Nguyễn Xuân Khánh thừa nhận
mình vẫn trung thành với lối viết cổ điển, hạn chế tối đa kĩ thuật hiện đại, hậu hiện đại vì
tác giả không thích bỏ nhân vật, bỏ tâm lí, bỏ cốt truyện, đặc biệt là sự cắt đứt mối quan
hệ với quá khứ, mối giao lưu với đọc giả. Tác giả luôn tâm niệm rằng: “Hãy cho mọi
người có quyền khác anh để mỗi người đều có chỗ đứng dưới ánh nắng mặt trời. Đó chính
là biểu hiện cao nhất của tinh thần dân chủ.” Nhân vật có thể hư cấu, cũng có thể là
trong kí ức của nhà văn nhưng tất cả đều tập trung phản ánh chuyển tải những giá trị của
một nền văn hóa.
Suy cho cùng, với yếu tố truyền thống trong việc thể hiện văn hóa Việt, giống với
một số tác giả tiểu thuyết thời này, Nguyễn Xuân Khánh vẫn coi trọng việc khám phá nội
dung hiện thực thông qua các số phận, tính cách nhân vật, các mối quan hệ giữa
người con người và hoàn cảnh như trong mô hình tiểu thuyết truyền thống.
2. Yếu tố hiện đại
Viêc thể hiện văn hóa Việt trong tác phẩm Mẫu thượng ngàn mang nhiều yếu tố
hiện đại, các yếu tố hiện đại này được thể hiện rõ cả nội dung và hình thức tác phẩm.
2.1 Phương diện nội dung
Khi nhận xét về tác phẩm này, Hoài Nam từng khẳng định: “nét mới và gây hấp

dẫn ở tác phẩm này không phải ở sự làm mới “cách viết” mà là ở năng lưc làm mới “ cái


được viết”. tác phẩm thể hiện sâu sắc văn hóa dân gian nhưng trong văn hóa tưởng chừng
đã quen thuộc đó lại chứa đựng cái mới – chính là sự giải thiêng huyền thoại.
Tác phẩm mang đậm màu sắc văn hóa dân gian với những truyện kể dân gian và lễ hội dân
gian về hai nhân vật Ông Đùng, bà Đà. Theo các bộ sưu tập truyện dân gian thì ông Đùng
và bà Đà là hai nhân vật huyền thoại gắn với sự sáng tạo của vũ trụ của người tiền ViệtMường, truyện kể dân gian và dấu tích sáng tạo vũ trụ của hai ông bà còn lại khá nhiều ở
vùng Hòa Bình. Nhưng trong kí ức của người Cổ Đình thì truyện kể về ông Đùng, bà Đà
đã có một hình hài mới, nó không còn là một huyền thoại sáng thế thuần nhất, mà là sự
pha trộn của các huyền thoại và cả sự giải thiêng huyền thoại theo các lớp thời gian thông
qua thái độ của từng thế hệ trong tác phẩm.Huyền thoại về ông Đùng, bà Đà trong Mẫu
Thượng Ngàn chứa đựng những lớp huyền thoại và các hành vi thế tục phản huyền thoại
sau: huyền thoại về hai vị thần khổng lồ sáng tạo nên vũ trụ, huyền thoại về cuộc hôn nhân
của hai anh em ruột sống sót sau trận đại hồng thủy, huyền thoại Nữ Oa – Tứ Tượng,
huyền thoại-bán thế tục hóa (tín ngưỡng phồn thực với khát khao trần tục về việc trải
nghiệm đời sống tính giao của trai gái trong làng thể hiện ở tục “trải ổ”), việc giải huyền
thoại thể hiện ở quyết định xua đuổi và bắn chết nhân vật huyền thoại.
2.2 Phương diện hình thức
Không chỉ mới ở nội dung mà nghệ thuật thể hiện văn hóa Việt trong tác phẩm
cũng mang nhiều nét hiện đại. Thứ nhất, với điểm nhìn trần thuật linh hoạt, Nguyễn
Xuân Khánh có ý thức dịch chuyển điểm nhìn trần thuật để tránh sự đơn điệu trong lối kể
chuyện, tạo cái nhìn đa chiều về hiện thực. điểm nhìn trần thuật chủ yếu là ngôi thứ ba
nhưng ở một vài chương điểm nhìn được di chuyển sang các nhân vật khác. Chương 11,
“Bà Váy kể chuyện”, mọi sự việc được kể theo nhân vật này. Hơn nữa, các phong tục,
huyền thoại về mẫu, cô Chín, ông Đùng , bà Đà không chỉ được nhìn nhận từ điểm nhìn
của người kể chuyện mà còn được cảm nhận từ các nhân vật khác như: Nhụ, cô Mùi,….
Không chỉ vậy, điểm nhìn còn được thể hiện ở những kẻ đi xâm lăng như : cha Colomber,
pier, Rene, chủ đồn điền Messmer. Tác giả sẵn sàng trao điểm nhìn cho mọi nhân vật
không phân biệt sang – hèn, chính – phụ đã tạo được chân thực, sinh động , hiện thực

được mở ra nhiều chiều hơn.
Thứ hai, hiện thực đang xen yếu tố thực, huyền ảo: Nguyễn Xuân Khánh gia
tăng chất bí ẩn, chiều sâu của văn hóa việt qua sự kết hợp giữa thực và ảo. niềm tin vào
thánh mẫu không phải là mê muội mà là nội lực sống mãnh liệt, bảo đảm cho dân tộc tồn
tại trong cuộc xung đột với văn hóa phương Tây. Đó là chi tiết Julien đến dẹp bỏ buổi hầu


đồng đã bị con rắng hổ mang đột ngột xuất hiện trên bệ thờ tấn công. Đó là hình ảnh của
Mẫu hiện lên huyền ảo khi tiếng hát chầu văn cất lên. Đó là ông hộ Hiếu, sau khi bị sét
đánh, có khả năng nhìn thấy mọi thứ, đoán biết vận mạng, tương lai, chữ bách bệnh, tiêu
diệt tà ma.Hình ảnh Mẫu thượng Ngàn giống như ước mơ của nhân dân trong truyện cổ,
con người hôm nay vẫn luôn tìm kiếm những điều bí ẩn, kì lạ của đời sống tâm linh. Các
yếu tố kì ảo này đã khẳng định được niềm tin ấy.
Thứ ba, kết cấu phức tạp. Để kể lại câu chuyện mới này, Nguyễn Xuân Khánh đã
đặt câu chuyện vào miệng một số nhân vật (Nhụ, cô Mùi). Ở chỗ này, Nguyễn Xuân
Khánh đã đóng vai trò một nhà biên soạn tư liệu folklore (sưu tầm, thu thập và sắp xếp lại
trong một cốt kể), hơn nữa, còn đóng vai một người kể truyền thuyết (với đặc trưng là
thuyết phục người nghe tin vào câu chuyện mình đang kể). Cũng mang dáng dấp của một
cuộc điều tra tư liệu văn học dân gian ở các nghệ nhân, Nguyễn Xuân Khánh đã “thu thập”
truyện kể từ các nhân vật của mình, và bằng các cách kể đó để thuyết phục độc giả tin vào
“tính có thực” (một nguyên tắc của việc sáng tạo truyền thuyết dân gian) của những điều
mình muốn gửi gắm. Mỗi câu chuyện do một nhân vật kể là một góc nhìn, một dị bản
nhưng các dị bản không mâu thuẫn với nhau mà hòa vào nhau thành một câu chuyện
thống nhất, đó chính là câu chuyện sống trong tâm khảm của mỗi người làng Cổ Đình, là
câu chuyện chung của làng Cổ Đình, và cũng chính là câu chuyện của người kể chuyện
giấu mặt, người kiến tạo nên một mạch ngầm thống nhất cho tất cả những câu chuyện –
người kể chuyện Nguyễn Xuân Khánh. Đóng vai người kể truyền thuyết, không thể nào
khác, nhà tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh đã chọn điểm nhìn cộng đồng để xâu chuỗi và
lí giải. Trong tác phẩm, câu chuyện được kể dù là huyền thoại thiêng liêng có tính thuần
nhất, huyền thoại bị pha trộn hay huyền thoại bị giải thiêng thì với người kể chuyện

Nguyễn Xuân Khánh, chúng đều tìm được “sự đồng thuận” của cả cộng đồng mà không
phải là sự thức nhận mang màu sắc cá nhân của ông hay của bất cứ nhân vật nào. Nói rõ
hơn, câu chuyện mới về ông Đùng bà Đà được tái hiện dần qua cách kể, cách nghĩ của
nhiều người, nó được thể hiện trong tác phẩm như là một tập hợp các cách nhìn, các cách
nghĩ, các cách quan niệm của nhiều người theo cái chuẩn của tâm lí cộng đồng. Theo sự
sắp xếp của người kể chuyện, ở làng Cổ Đình, kẻ kể, người nghe đều bị cuốn theo mạch
cảm, mạch nghĩ chung về sự đồng cảm và xót thương trộn lẫn nỗi sợ hãi và chút ước ao
thầm lặng, không một mảy may cật vấn và phán xét.
Thứ tư, kết hợp nhiều thể loại. Mẫu thượng ngàn có sự kết hợp giữa tiểu thuyết
lịch sử - văn hóa. Bên cạnh đó, trong tác phẩm có sự kết hợp giữa thơ và văn xuôi. Đang


xen giữa những câu chuyện là những câu hát văn với giọng điệu ngọt ngào thiết tha, sâu
lắng. mở đầu tác phẩm là hai câu :
Cô Chín ngự đồng dệt gấm thêu hoa
Thêu non, thêu nước, cô thêu ra đôi phượng chầu.
Đẹp lạ đẹp lung
Rõ ràng cô Chín trong đền Sòng cô giá lâm
Với 807 trang viết, ta không phủ nhận sự cuốn hút người đọc từ đầu tới cuối bằng
lối viết chuẩn mực cổ điển nhưng suy cho cùng thì ta phải nhìn nhận lại một cách thật sự
khách quan cho những đóng góp cùng những yếu tố hiện đại của nhà văn đối với nền văn
xuôi đương đại Việt Nam, đặc biệt là ở khía cạnh tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết văn hóaphong tục. Trong buổi tọa đàm mang tên “Lịch sử và văn hóa qua tự sự nghệ thuật của
Nguyễn Xuân Khánh”, nhà nghiên cứu Phạm Toàn đã nói thế này: “Lịch sử là người câm
đã đi mất. Người làm khoa học lịch sử chỉ ghi chép đơn thuần theo quan niệm cá nhân.
Chỉ có người nghệ sĩ mới chạm tới khát vọng lịch sử, khơi mở những vấn đề ẩn khuất và
lay động lòng người”. Còn giáo sư Trần Đình Sử lại cho rằng: “Nguyễn Xuân Khánh là
người có tư tưởng riêng chứ không minh họa cho tư tưởng nào khác. Ông viết lịch sử là
để viết về con người, về những giá trị nhân văn trong đời sống”




×