Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Vấn đề pháp lý về hoạt động cho vay trong lĩnh vực ngân hàng của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.23 KB, 39 trang )

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................3
2. Tình hình nghiên cứu.....................................................................................3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu......................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................4
6. Bố cục đề tài...................................................................................................5
CHƯƠNG 1. NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CỦA NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH................................6
1.1. Các khái niệm chung liên quan đến hoạt động cho vay..............................6
1.1.1. Các khái niệm........................................................................................6
1.1.2. Vai trò của tín dụng...............................................................................6
1.1.3. Phân loại tín dụng.................................................................................6
1.2. Những vấn đề chung về hoạt động cho vay của ngân hàng........................7
1.2.1. Khái niệm ngân hàng............................................................................7
1.2.2. Khái niệm hoạt động ngân hàng...........................................................8
1.2.3. Các dịch vụ truyền thông của ngân hàng..............................................9
1.2.4. Những dịch vụ của ngân hàng.............................................................12
1.3. Khái niệm về cho vay của ngân hàng........................................................16
1.4. Nguyên tắc cho vay của ngân hàng...........................................................18
1.5. Vai trò của hoạt động cho vay trong nền kinh tế.......................................19
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRONG HỆ
THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY.............................................21
2.1. Chủ thể của hợp đồng tín dụng.................................................................21
2.2. Các hình thức cho vay...............................................................................22
2.3. Các quy định về điều kiện cho vay...........................................................26
2.4. Các trường hợp hạn chế cho vay...............................................................27
1



2.5. Xử lý vi phạm liên quan đến hoạt động cho vay.......................................28
2.6. Những kết quả đạt được và hạn chế về hoạt động cho vay của ngân hàng ở
Việt Nam..........................................................................................................31
2.7. Một số giải pháp hoàn thiện......................................................................35
PHẦN KẾT LUẬN............................................................................................37
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................38

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bất kỳ một nền kinh tế phát triển sôi động nào, vốn bao giờ cũng là
nguồn lực khan hiếm. Vì vậy sử dụng có hiệu quả nguồn vốn là mục tiêu của bất
kỳ nhà quản lý kinh tế nào, dù ở tầm vĩ mô hay vi mô. Tín dụng, nhất trong
nền kinh tế thị trường, là một trong những hình thức sử dụng vốn có hiệu quả
nhất.
Tín dụng nói chung, tín dụng ngân hàng nói riêng ra đời có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng đối với nền kinh tế. Nó góp phần thúc đẩy quá trình luân chuyển vổn
trong nền kinh tế, giải quyết mâu thuẫn vốn có của quá trình tái sản xuất xã hội,
trong thực tế cùng một lúc có những chủ thể thừa vốn, cũng có những chủ thể
thiếu vốn cần có vốn để đáp ứng những khoản chi tiêu kinh doanh của mình.
Tình trạng này nếu không được giải quyết nhanh thì nó sẽ làm cho quá trình sản
xuất bị ngưng trệ, nền kinh tế kém phát triển. Ngày nay trong thời kỳ Công
nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước, tín dụng dường như đã đáp ứng được những
nhu cầu bức xúc về vốn đó.
Hiện nay, nhu cầu vay vốn của khách hàng ở Việt Nam nói chung và các
tỉnh nói riêng ngày càng cao. Các ngân hàng tại Việt Nam luôn phải nâng cao
hiệu quả hoạt động tín dụng của mình bằng cách mở rộng, đẩy mạnh phương

thức huy động vốn để cho vay, đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng, phát hiện
được những rủi ro có thể xảy ra. Từ đó đưa ra giải pháp hạn chế các khoản nợ
quá hạn, khoản nợ xấu của ngân hàng. Chính vì vậy, tác giả chọn vấn đề “Vấn
đề pháp lý về hoạt động cho vay trong lĩnh vực ngân hàng của pháp luật Việt
Nam” làm đề tài tiểu luận tốt nghiệp cử nhân Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, trong các công trình nghiên cứu khoa học, chỉ có một số tài
liệu nghiên cứu về “Vấn đề pháp lý về hoạt động cho vay trong lĩnh vực ngân
hàng của pháp luật Việt Nam” như tài liệu “Tội vi phạm quy định về cho vay
trong hoạt động ngân hàng” - Theo Luật sư Phan Văn Lãng - Tạp chí Ngân
3


hàng (số 18/2009); “Tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản trong hoạt động cho vay
của ngân hàng” Luật sư Phan Văn Lãng- Nguồn: Tạp chí Ngân hàng tháng
12/2009. Trên thực tế chưa có công trình cụ thể nào nghiên cứu sâu về “Vấn đề
pháp lý về hoạt động cho vay trong lĩnh vực ngân hàng của pháp luật Việt
Nam”. Chính vì lẽ đó, tác giả nghiên cứu đề tài “Vấn đề pháp lý về hoạt động
cho vay trong lĩnh vực ngân hàng của pháp luật Việt Nam” để phân tích rõ hơn
về vấn đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu đề tài: Tìm hiểu một cách tổng thể pháp luật hiện
hành về hoạt động cho vay trong lĩnh vực ngân hàng của pháp luật Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
+ Làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động cho vay của
ngân hàng theo pháp luật Việt Nam.
+ Thực trạng hoạt động cho vay của các ngân hàng tại Việt Nam.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay của
các ngân hàng tại Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Các quy định của pháp luật về hoạt động cho vay
trong lĩnh vực ngân hàng theo pháp luật hiện hành.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến
hoạt động cho vay như cho vay, thu nợ, dư nợ, nợ quá hạn, và các khách hàng
vay vốn tại ngân hàng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này người viết đã thực hiện các phương pháp :
+ Tổng hợp: Các quy định về hoạt động cho vay trong lĩnh vực ngân hàng
theo pháp luật hiện hành.
+ Phân tích: Các quy định về hoạt động cho vay một cách cụ thể.
Trong quá trình nghiên cứu các phương pháp này được vận dụng một cách
linh hoạt và đan xen lẫn nhau để tạo ra kết quả nghiên cứu.
4


6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Tiểu
luận gồm có 2 chương:
Chương 1. Những lý luận chung về hoạt động cho vay của ngân hàng theo
pháp luật hiện hành
Chương 2. Quy định về hoạt động cho vay trong hệ thống pháp luật Việt
Nam hiện nay

5


CHƯƠNG 1. NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
1.1. Các khái niệm chung liên quan đến hoạt động cho vay
1.1.1. Các khái niệm

- Cấp tín dụng của ngân hàng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử
dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo
nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính,
bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.1
- Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ
ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí
nhất định.
- Cũng như quan hệ tín dụng khác, tín dụng ngân hàng gồm 3 nội dung sau:
+ Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu cho người sử
dụng.
+ Sự chuyển nhượng này mang tính chất tạm thời hay có thời hạn.
+ Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.
1.1.2. Vai trò của tín dụng
- Góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn.
- Là công cụ thúc đẩy và nâng cao hiệu quả sản xuất, lưu thông hàng hóa và
tiêu dùng.
- Là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế và góp phần thực hiện chính sách
xã hội.
1.1.3. Phân loại tín dụng
* Dựa vào mục đích cho vay
Theo tiêu chí này, tín dụng ngân hàng có thể chia thành các loại sau:
- Cho vay mục đích sản xuất kinh doanh công thương nghiệp;
- Cho vay tiêu dùng cá nhân;
1 Tham khảo tại trang web: />
6


- Cho vay bất động sản;
- Cho vay sản xuất nông nghiệp;
- Cho vay kinh doanh xuất; nhập khẩu.

* Dựa vào thời hạn cho vay
Theo tiêu chí này, tín dụng ngân hàng có thể chia thành các loại sau:
- Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay có thời hạn đến 1 năm. Mục đích của
loại cho vay thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động;
- Cho vay trung hạn: Là loại cho vay có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm.
Mục đích của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố
định.
- Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của
loại cho vay này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án.
* Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng:
Theo tiêu chí này, tín dụng ngân hàng được chia thành các loại sau:
- Cho vay không có bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách
hàng vay vốn để quyết định cho vay.
- Cho vay có bảo đảm: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm tiền vay
như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.
1.2. Những vấn đề chung về hoạt động cho vay c ủa ngân hàng
1.2.1. Khái niệm ngân hàng
Ngân hàng là một tổ chức tài chính và trung gian tài chính chấp nhận tiền
gửi và định kênh những tiền gửi đó vào các hoạt động cho vay, trực tiếp hoặc
gián tiếp thông qua các thị trường vốn. Ngân hàng là kết nối giữa khách hàng
có thâm hụt vốn và khách hàng có thặng dư vốn. Thông qua hoạt động nhận
gửi, cho vay, và đầu tư các ngân hàng có khả năng “tạo tiền”. Sự thay đổi trong
khối lượng tiền tệ do ngân hàng tạo ra liên quan chặt chẽ tới tình hình kinh tế,
đặc biệt là mức tăng trưởng của việc làm, tình trạng lạm phát, từ đó mà ảnh
hưởng tới các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Đây là một trong những lý do khiến hoạt
7


động của ngân hàng luôn được đặt dưới một hệ thống các quy định chặt chẽ của

Nhà nước nhằm tăng cường hoạt động quản lý, kiểm tra, kiểm soát hoạt động
ngân hàng, đồng thời hướngdẫn hoạt động ngân hàng theo hướng có lợi cho
nền kinh tế. Chính vì có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nên việc định
nghĩa ngân hàng là cần thiết.2
Theo quy định tại khoản 2 điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010,
ngân hàng được hiểu là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả
các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu
hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng
chính sách, ngân hàng hợp tác xã.
Ngân hàng là 1 loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế
nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Các ngân hàng có
thể được định nghĩa qua chức năng (các dịch vụ) mà chúng thực hiện trong nền
kinh tế. Vấn đề là ở chỗ không chỉ chức năng của các ngân hàng đang thay đổi
mà chức năng của các đối thủ cạnh tranh chính sách của ngân hàng cũng không
ngừng thay đổi. Thực tế là, rất nhiều tổ chức tài chính – bao gồm cả các công ty
kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quĩ tương hỗ và công
ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng.
Ngược lại, ngân hàng cũng đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài
chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về
lĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm,
đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục và dịch vụ
tài chính đa hạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và
thực hiện nhiều chức nằng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh
nào trong nền kinh tế. Sự đa hạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng
dẫn đến việc chúng được gọi là các “Bách hóa tài chính”.
2 Tham khảo tại PGS.TS Nguyễn Minh Kiều (2011), Giáo trình tín dụng và thẩm định tín dụng, NXB Lao động
xã hội, Trường đại học mở Thành phố Hồ Chí Minh, tr.18

8



1.2.2. Khái niệm hoạt động ngân hàng
Ở Việt Nam, khái niệm hoạt động ngân hàng được dùng để chỉ các hoạt
động kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi và sử dụng số tiền gửi này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ
thanh toán. Theo đó, ngân hàng được ghi nhận là loại hình tổ chức tín dụng được
thực hiện các hoạt động ngân hàng và những hoạt động kinh doanh khác có liên
quan đến hoạt động ngân hàng.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam
2010 thì hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh cung ứng thường xuyên một
hoặc một số nghiệp vụ như nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh
toán qua tài khoản.
Từ định nghĩa trên, hoạt động ngân hàng bao gồm các đặc điểm sau:
+ Hoạt động ngân hàng lấy tiền tệ làm đối tượng kinh doanh trực tiếp.
+ Hoạt động ngân hàng chỉ do các tổ chức tín dụng thực hiện.
+ Chủ thể quản lý nhà nước là ngân hàng nhà nước.
+Hoạt động ngân hàng được điều chỉnh bằng Luật Ngân hàng.
+ Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh đặc thù, tính đặc thù
thể hiện ở chỗ rủi ro cao, khó quản lý, khó giảm sát.
1.2.3. Các dịch vụ truyền thông của ngân hàng
- Thực hiện trao đổi ngoại tệ. Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch
vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ – một nhà ngân hàng
đứng ra mua, bán một loại tiền này, chẳng hạn USD lấy một lại tiền khác, chẳng
hạn Franc hay Pesos và hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi đó là rất quan trọng đối
với khách du lịch vì họ sẽ cảm thấy thuận tiện và thoải mái hơn khi có trong tay
đồng bản tệ của quốc gia hay thành phố họ đến. Trong thị trường tài chính ngày
nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì
những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình
độ chuyên môn cao.

9


- Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại. Ngay ở thời kỳ đầu, các
ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh
nhân địa phương những người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của khách
hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bược chuyển tiếp từ chiết thương
phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua
hàng dự trữ hoặc xây dựng văn phòng và thiết bị sản xuất.
- Nhận tiền gửi: Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân
hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những
nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm gửi tiết kiệm của khách
hàng – một quỹ sinhlợi được gửi tại ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều
tuần, nhiều tháng, nhiều năm, đôi khi được hưởng mức lãi suất tương đối cao.
Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn các ngân hàng Hy Lạp
đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản tiết kiệm nhằm mục đích cho
vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất
tiết kiệm.
- Bảo quản vật có giá trị: Ngay từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu
thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo
quản. Một điều hấp hẫn là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách
hàng (ghi nhận về các tài sản đang được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền
– đó là hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo quản
vật có giá trị cho khách hàng thường do phòng “Bảo quản” của ngân hàng thực
hiện.
- Tài trợ các hoạt động của Chính phủ. Trong thời kỳ Trung Cổ và vào
những năm đầu cách mạng Công nghiệp, khả năng huy động và cho vay với
khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ
Âu – Mỹ. Thông thường, ngân hàng đượccấp giấy phép thành lập với điều kiện
là họ phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền

gửi mà ngân hàng huy động được. Các ngân hàng đã cam kết cho Chính phủ Mỹ
vay trong thời kỳ chiến tranh. Ngân hàng Bank of North America được Quốc hội
10


cho phép thành lập năm 1781, ngân hàng này được thành lập để tài trợ cho cuộc
đấu tranh xóa bỏ sự đô hộ của nước Anh và đưa Mỹ trở thành quốc gia có chủ
quyền. Cũng như vậy, trong thời kỳ nội chiến, Quốc hội đã lập ra một hệ thống
ngân hàng liên bang mới, chấp nhận các ngân hàng quốc gia ở mọi tiểu bang
miễn là các ngân hàng này phải lập Quỹ phục vụ chiến tranh.
- Cung cấp các tìa khoản giao dịch. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu
Âu và Châu Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng
mới. Một dịch vụ mới, quan trong nhất được phát triển trong thời kỳ này là tài
khoản tiền gửi giao dịch (demand deposit) – một tài khoản tiền gửi cho phép
người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra
loại tài khỏan tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng
nhất trong công nghiệp ngân hàng bởi vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá
trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh
chóng hơn và an toàn hơn.
- Cung cấp dịch vụ ủy thác. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện
việc quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp
thương mại. Theo đó ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy
mô họ quản lý. Chức năng quản lý tài sản này được gọi là dịch vụ ủy thác (trust
service). Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch vụ ủy thác thông
thường cho cá nhân, hộ gia đình; và ủy thác thương mại cho các doanh nghiệp.
Thông qua phòng Ủy thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các
khoản tiền để cho con đi học. Ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư khỏan tiền đó cho
đến khi khách hàng cần. Thậm chí phổ biến hơn, các ngân hàng đóng vai trò là
người được ủy thác trong di chúc quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời
bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá, đầu tư có hiệu quả, và

đảm bảo cho người thừa kế hợp pháp việc nhận được khoản thừa kế. Tron
gphòng ủy thác thương mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán
và kế hoạch tiền lương cho các công ty kinh doanh. Ngân hàng đóng vai trò như
những người đại lý cho các công ty trong hoạt động phát hành cổ phiếu, trái
11


phiếu. Điều này đòi hỏi phòng ủy thác trả lãi hoặc cổ tức cho chứng khoán của
công ty, thu hồi các chứng khoán khi đến hạn bằng cách thanh toán toàn bộ cho
người nắm giữ chứng khoán.
1.2.4. Những dịch vụ của ngân hàng
Những dịch vụ của ngân hàng phát triển gần đây bao gồm:
- Cho vay tiêu dùng. Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực
cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu
dùng nói chung có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm
cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế ký này, các ngân hàng bắt đầu
dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay thương
mại lớn. Và rồi sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay
đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng
trung thành tiềm năng. Cho tới những năm 1920 và 1930, nhiều ngân hàng lớn
do Citicorp và Bank of America dẫn đầu đã thành lập những phòng tín dụng tiêu
dùng lớn mạnh. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành
một trong những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất. Mặc dầu
vậy, tốc độ tăng trưởng này gần đây đã chậm lại do cạnh tranh về tín dụng tiêu
dùng ngày càng trở nên gay gắt trong khi nền kinh tế đã phát triển chậm lại. Tuy
nhiên, người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng và tạo
ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất.
- Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực
hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng
ngày nay cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và

kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư nhân về các cơ hội thị trường trong
nước và ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ.
- Quản lý tiền mặt. Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một
số dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng.
Một trong những ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân
hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành
12


đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoản sinh lợi và tín dụng
ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Trong khi các ngân hàng có khuynh hướng chuyên môn hóa vào dịch vụ
quản lý tiền mặt cho các tổ chức, hiện nay có một xu hường đang gia tăng về
việc cung cấp các dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng
này đang lan rộng là do các công ty môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài
chính khác cũng cấp cho người tiêu dùng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch
vụ tài chính liên quan. Một ví dụ là tài khoản quản lý tièn mặt của Merrill
Lynch, cho phép khách hàng của nó mua và bán chứng khoán, di chuyển vốn
trong nhiều quĩ tương hỗ, viết séc, và sử dụng thẻ tín dụng cho khoản vay tức
thời.
- Dịch vụ thuê mua thiết bị. Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng
kinh doanh quyền lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp
đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Ban
đầu các qui định yêu cầu khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả
tiền thuê (mà cuối cùng sẽ đủ để trang trải chi phí mua thiết bị) đồng thời phải
chịu chi phí sửa chữa và thuế. Năm 1987, quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu cho phép
ngân hàng quốc gia sở hữu ít nhất một số tài sản cho thuê sau khi hợp đồng thuê
mua đã hết hạn. Điều đó có lợi cho các ngân hàng cũng như khách hàng bởi vì
bới tư cách là một người chủ thực sự của tài sản cho thuê, ngân hàng có thể khấu
hao chúng nhằm làm tăng lợi ích về thuế.

- Cho vay tài trợ dự án. Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong
việc tài trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công
nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dùng này nói chung là cao nên chúng
thường được thực hiện qua một công ty đầu tư, là thành viên của công sở hữu
ngân hàng, cùng với sự tham gia của các nhà thầu, là thành viên của công ty sở
hữu ngân hàng, cùng với sự tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro.
Những ví dụ nổi bật về loại hình công ty đầu tư này là Bankers Trust Venture
Capital anh Citicorp Venture, Inc.
13


- Bán các dịch vụ bảo hiểm. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo
hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hòan trả trong trường hợp
khách hàng vay vốn bị chết hay bị tàn phế. Trong khi các quy định ở Mỹ cấm
ngân hàng thương mại trực tiếp bán các dịch vụ bảo hiểm, nhiều ngân hàng hi
vọng có thể đưa ra các hợp đồng bảo hiểm cá nhân thông thường và hợp đồng
bảo hiểm tổn thất tài sản như ôtô hay nhà cửa trong tương lai. Hiện nay, ngân
hàng thường bảo hiểm cho khách hàng thông qua các liên doanh hoặc các thỏa
thuận đại lý kinh doanh độc quyền theo đó một công ty bảo hiểm đồng ý đặt một
văn phòng đại lý tại hành lang của ngân hàng và ngân hàng sẽ nhận một phần
thu nhập từ các dịch vụ ở đó. Một số bang như Delawake và South Dakota đã
cho phép ngân hàng cung cấp các dịch vụ bảo hiểm được quy định trên toàn
quốc. Những ngân hàng hoạt động trên toàn quốc nếu được phép sẽ có thể cung
cấp các dịchvụ về bảo hiểm thông qua các chi nhánh riêng biệt, những quy mô
đầu tư của nó chỉ được giới hạn ở mực 10% tổng số vốn chủ sở hữu. Gần đây,
Citicorp đã thông báo kế hoạch sáp nhập với công ty bảo hiểm Travelers tromg
một số nỗ lực nhằm đưa ra các dịch vụ bảo hiêm đa dạng hơn.
- Cung cấp các kế hoạch hưu trí: Phòng ủy thác ngân hàng rất năng động
trong việc quản lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người
lao động, đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn

phế. Ngân hàng cũng bán các kế hoạch tiền gửi hưu trí (được biết như IRAS và
Keogle) cho các cá nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến khi người sở hữu các kế
hoạch này cần đến.
- Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán. Trên thị trường tài
chính hiện nay, nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một “bách hóa tài
chính” thực sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn
mọi nhu cầu tại một địa điểm. Đây là một trong những lý do chính khiến các
ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách
hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải
nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân
14


hàng mua lại một công ty môi giới đang hoạt động (ví dụ Bank of America mua
Robertson Stephens Co.) hoặc thành lập các liên doanh với một công ty môi
giới.
- Cung cấp dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp. Do ngân hàng cung cấp các tài
khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới
việc sử dụng cái gọi là sản phẩm đầu tư (investment products) đặc biệt là các tài
khoản của quỹ tương hỗ và hợp đồng trợ cấp, những loại hình cung cấp triển
vọng thu nhập cao hơn tài khoản tiền gửi dài hạn cam kết thanh toán một khoản
tiền mặt hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày nhất định trong tương lai
( chẳng hạn ngày nghỉ hưu). Ngược lại, quỹ tương hỗ bao gồm các chương trình
đầu tư được quản lý một cách chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ phiếu, trái
phiếu và các chứng khoán phù hợp với mục tiêu của quỹ (ví dụ: Tối đa hóa thu
nhập hay đạt được sự tăng giá trị vốn). Trong khi quá trình phát triển của các kế
hoạch trợ cấp diễn ra khá chậm do những vụ kiện tụng bởi các đối thủ cạnh
tranh chống lại sự mở rộng của ngân hàng sang lĩnh vực dịch vụ mới này thì
việc cung cấp cổ phiếu trong quỹ vốn ngân hàng quản lý chiếm 15% tổng giá trị
tài sản của quỹ tương hỗ trong những năm 90. Một vài ngân hàng đã tổ chức

những chi nhánh đặc biệt để thực hiện nhiệm vụ này (ví dụ: Citicorp’s
Investment Services) hoặc liên doanh với các nhà kinh doanh và môi giới chứng
khoán. Gần đây, hoạt động cung cấp nghiệp vụ quỹ tương hỗ của ngân hàng đã
có nhiều giảm sút do mức thu nhập không còn cao như trước, do những qui định
nghiêm ngắt hơn và đồng thời do sự thay đổi trong quan điểm đầu tư của công
chúng.
- Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn. Ngân hàng
ngày nay đang theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong việc cung cấp
dịch vụ ngân hàng đầu tư và dịch vụ ngân hàng bán buôn cho các tập đoàn lớn.
Những dịch vụ này bao gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại Công ty,
mua bán chứng khoán cho khách hàng (ví dụ: bảo lãnh phát hành chứng khoán),
cung cấp công cụ Marketing chiến lược, các dịch vụ hạn chế rủi ro để bảo vệ
15


khách hàng. Các ngân hàng cũng dấn sâu vào thị trường bảo đảm, hỗ trợ các
khoản nợ do chính phủ và công ty phát hành để những khách hàng này có thể
vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị trường tự do hay từ các tổ chức cho vay
khác.
Rõ ràng là không phải tất cả mọi ngân hàng đều cung cấp nhiều dịch vụ tài
chính như danh mục dịch vụ mà chúng tôi đã miêu tả ở trên, nhưng quả thật
danh mục dịch vụ ngân hàng đang tăng lên nhanh chóng. Nhiều loại hình tín
dụng và tài khỏan tiền gửi mới đang được phát triển, các loại dịch vụ mới như
giao dịch qua Internet và thẻ thông minh (Smart) đang được mở rộng và các dịch
vụ mới (như bảo hiểm và kinh doanh chứng khoán) được tung ra hàng năm.
Nhìn chung, dạnh mục các dịch vụ đầy ấn tượng do ngân hàng cung cấp tạo ra
sự thuận lợi rất lớn hơn cho khách hàng. Khách hàng có thể hoàn toàn thỏa mãn
tất cả các nhu cầu dịch vụ tài chính của mình thông qua một ngân hàng và tại
một địa điểm. Thực sự ngân hàng đã trở thành “bách hóa tài chính” ở kỷ nguyên
hiện đại, công việc hợp nhất các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, môi giới chứng

khoán… dưới một mái nhà chính là xu hướng mà người ta thường gọi là
Universal Banking ở Mỹ, Canada và Anh, là Allginanz ở Đức, và là
Bancassurance ở Pháp.
1.3. Khái niệm về cho vay của ngân hàng
Cho vay là một hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện trong xã hội loài
người có tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Trong pháp luật dân sự,
hiểu theo nghĩa chung nhất, cho vay là việc một người thỏa thuận để cho người
khác được sử dụng tài sản của mình trong một thời hạn nhất địnhvới điều kiện
có hoàn trả, dựa trên cơ sở sự tín nhiệm của mình với người đó.3
Vậy ta có thể định nghĩa hoạt động cho vay của ngân hàng như sau: Cho
vay là một trong những hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, theo đó tổ
chức tín dụng sẽ chuyển giao cho bên vay (khách hàng) một khoản vốn tiền tệ,

3 Tham khảo tại />
16


bên vay sẽ sử dụng khoản vốn tiền tệ đó trong một khoảng thời gian nhất định,
sau đó sẽ hoàn trả cho tổ chức tín dụng cả gốc và lãi theo hoả thuận.
Từ định nghĩa trên, cho vay là một hoạt động của ngân hàng bao gồm
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, về chủ thể bao giờ cũng có hai bên tham gia: Bên cho vay – là
người có tài sản chưa dùng đến, muốn cho người khác sử dụng để thỏa mãn một
số lợi ích của mình và bên vay – là người đang cần sử dụng tài sản đó để thỏa
mãn nhu cầu của mình (về kinh doanh hoặc vốn).
Thứ hai, hình thức pháp lý của việc cho vay được thể hiện dưới dạng hợp
đồng tín dụng tài sản.
Thứ ba, sự kiện cho vay phát sinh bởi hai hành vi căn bản là hành vi ứng
trước và hành vi hoàn trả một số tiền (hay tài sản) nhất định là các vật cùng loại.
Thứ tư, việc cho vay bao giờ cũng dựa trên sự tín nhiệm giữa người cho

vay đối với người đi vay về khả năng hoàn trả tiền vay.
Bên cạnh những đặc điểm cơ bản trên thì trong khái niệm cho vay của ngân
hàng còn thể hiện những dấu hiệu mang tính chất đặc thù như là:
- Một là việc cho vay của ngân hàng là hoạt động nghề nghiệp kinh doanh
mang tính chức năng. Đây là quy định mang tính chất đặc thù, mang tính chất
nghề nghiệp kinh doanh được pháp luật quy định cho nó những quyền năng cụ
thế.
- Hai là hoạt động cho vay của ngân hàng không chỉ là một nghề kinh
doanh mà hơn nữa còn là một nghề nghiệp kinh doanh có điều kiện. Điều này
thể hiện ở chỗ hoạt động cho vay chuyên nghiệp của ngân hàng phải thỏa mãn
một số điều kiện nhất định như phải có vốn pháp định, phải được Ngân hàng
Nhà nước cấp giấy phép hoạt động ngân hàng trước khi tiến hành việc đăn kí
kinh doanh theo luật định.
- Ba là ngoài việc tuân thủ quy định chung của pháp luật về hợp đồng, hoạt
động cho vay của ngân hàng còn chịu sự điều chỉnh, chi phối của các đạo luật về
ngân hàng, thậm chí kể các các tập quán thương mại về ngân hàng. Đặc điểm
17


này, bị chi phối bởi tính chất đặc thù trong nghề nghiệp kinh doanh của các tổ
chức tín dụng như tính rủi ro cao và sự ảnh hưởng mang tính chất dây chuyền
đối với nhiều lợi ích khác trong xã hội.
1.4. Nguyên tắc cho vay của ngân hàng
Hoạt động cho vay của ngân hàng được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc thứ nhất: Nguyên tắc tránh rủi ro, bảo đảm an toàn trong
hoạt động cho vay.
Trong hoạt động ngân hàng thường có tính rủi ro rất cao và thường mang
tính chất dây chuyền đối với nhiều lợi ích khác nhau trong xã hội. Đểtránh
những rủi ro này, các tổ chức tín dụng ngày nay thường thực -hiện việc thẩm
định tín dụng với tám biện pháp thẩm định sau: tính cách người đi vay

(character), tư cách của người đi vay (capacity), khả năng trả nợ
(capability),dòng tiền (cashflow), vốn (capital), điều kiện hoạt động
(conditions), tài sảnchung (collectability) và tài sản thế chấp (collateral).
- Nguyên tắc thứ hai: Nguyên tắc phải sử dụng vốn vay đúng mục đích.
Nguyên tắc này đảm bảo cho các tổ chức tín dụng tránh được những rủi ro
từ bên vay, đồng thời đảm bảo được tính thực hiện hợp đồng, nếu bên vay vi
phạm nguyên tắc này thì bên cho vay có quyền huỷ bỏ hợp đồng và bên vay phải
chịu sự điều chỉnh theo pháp luật.
- Nguyên tắc thứ ba: Nguyên tắc quản lý mục đích tiền vay
Theo nguyên tắc này mặc dù người đi vay phải thế chấp tài sản để được
vay tiền, nhưng người cho vay có quyền kiểm tra việc sử dụng vốn vay đối với
người vay. Người vay phải xây dựng dự án, phương án xin vay vốn và phải có
trách nhiệm thực hiện theo đúng hợp đồng đã ký với ngân hàng. Mục đích của
việc đề ra nguyên tắc này là đảm bảo tính hoàn trả của đồng vốn đồng thời quản
lý vốn đầu tư theo đúng định hướng và cơ cấu đầu tư. Quản lý vốn đầu tư đúng
định hướng từ đó đảm bảo tính cân đối trong nền kinh tế.
- Nguyên tắc thứ tư: Nguyên tắc hoàn trả

18


Theo nguyên tắc này, vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân
hàng sau thời gian vay vốn. Thời gian vay vốn là khoảng thời gian kể từ khi
người vay lĩnh tiền vay lần đầu tiên đến khi trả hết nợ gốc và tiền lãi. Nguyên
tắc hoàn trả thể hiện ở hai khía cạnh: khía cạnh thứ nhất là số lượng hoàn trả Số
lượng hoàn trả sẽ bằng tổng số tiền gốc của khoản vay và số lãi phát sinh trong
quá trình vay vốn. Khía cạnh thứ hai là thời gian hoàn trả. Thời gian hoàn trả
phải thực hiện theo thoả thuận giữ hai bên được ghi trong hợp đồng vay tiền.
1.5. Vai trò của hoạt động cho vay trong nền kinh tế
* Đối với nền kinh tế:

Thứ nhất, cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương
mại để tạo ra lợi nhuận.
Doanh thu từ hoạt động cho vay mới bù đắp nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự
trử, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và
các chi phí rủi ro đầu tư.
Kinh tế càng phát triển, doanh số cho vay của các ngân hàng thương mại
càng tăng nhanh và loại hình cho vay càng trơ nên vô cùng đa dạng ở hầu hết
các nước phát triển hàng đầu thế giới
Thứ hai, cho vay góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Do đặc điểm cho vay là quy mô rộng, khách hàng đa dạng mặt khác nó là
hình thức kinh doanh chủ yếu của ngân hàng. Với vai trò là trung gian tài chính
ngân hàng đóng vai trò là cầu nối vốn cho nền kinh tế, giữa người thừa vốn và
người cần vốn để đầu tư. Vì thế mà ngân hàng giải quyết được một trong những
đặc điểm của tiền là:
“Tiền có giá trị theo thời gian” các nguồn vốn nhàn rỗi đươc tập hợp và đầu
tư cho các phương án, dự án kinh doanh khác nhau đang cần vốn để thưc hiện
dự án. Đáp ứng được nhu cầu vốn của dự án nghĩa là phương án, dự án đã được
giải quyết về vấn đề vốn. Đây là yếu tố khó khăn, Quan trọng để biến ý tưởng
kinh doanh thành thực tế. Và chính nó giải quyết được các vấn đề kinh tế xã hội

19


như tăng trưởng, phát triển kinh tế. Giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động…
Thứ ba, hoạt động cho vay góp phần mở rộng sản xuất, thúc đẩy đổi mới
công nghệ, thiết bị, cải tiến khoa học kỹ thuật.
Viêc vay vốn không những giải quyết được nhu cầu vốn kinh doanh mà còn
làm thay đổi cách nghĩ, cách làm … làm thế nào để sử dụng vốn có hiệu quả
kinh tế và vấn đề phần mỡ rộng sản xuất, thúc đẩy đổi mới công nghệ, thiết bị,

cải tiến khoa học kỹ thuật sẽ làm tiền đề cho sự phát triển có hiệu quả đó. Trong
đó vốn quyết định mọi vấn đề trong kinh doanh. Đặc biệt trong xu thế hội nhập
nền kinh tế thị trường thì đây là vấn đề quan trọng cần giải quyết của các doanh
nghiệp Việt Nam.
* Đối với người đi vay:
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mai có các kỳ hạn khác nhau.
Ngắn hạn, trung han và dài hạn bên cạnh đó lãi suất linh hoạt cố định hay thả
nổi, vì thế khách hàng tuỳ ý lựa chọn kỳ hạn vay và thoã thuận hình thức lãi suất
vay phù hợp với mục tiêu kinh doanh của mình.
Mặt khác việc vay vốn ngân hàng giúp khách hàng tập chung được vốn
kinh doanh đồng bộ, giảm chi phí huy động và chủ động trong việc hoàn trả gốc
và lãi theo hợp đồng. Bên cạnh đó việc thoã thuận giữa ngân hàng và khách
hang khi hết hợp đồng cho vay tạo điều kiện cho khách hàng kinh doanh tiếp…
như trợ giúp vốn, gia hạn hợp đồng.
* Đối với ngân hàng:
Hoạt động cho vay là hoạt động chứa nhiều rủi ro tiềm ẩn, nhưng nó lại là
hoạt động chính của ngân hàng cho vay. Bên cạnh rủi ro tiềm ẩn thì ngân hàng
cho vay thu đươc lãi suất phù hợp với các khoản vay đó và đó cũng là thu nhập
chính của ngân hàng cho vay.
Trong nền kinh tế thị trường, cho vay là chức năng kinh tế cơ bản của ngân
hàng. Đối với các hầu hêt các ngân hàng, dư nợ tín dụng chiếm tới hơn 50%

20


tổng tài sản có và thu nhập từ hoạt động cho vay chiếm khoảng từ 1/2 đến 2/3
tổng thu nhập của ngân hàng.

21



CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRONG HỆ THỐNG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Chủ thể của hợp đồng tín dụng
* Bên cho vay
Theo quy định của pháp luật hiện hành, một tổ chức tín dụng muốn trở
thành chủ thể cho vay trong hợp đồng tín dụng phải thoả mãn các điều kiện sau:
- Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp.
- Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y.
- Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp.
- Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín
dụng với khách hàng.
Đối với tổ chức không phải là tổ chức tín dụng (TCTD), muốn trở thành
chủ thể cho vay trong hoạt động tín dụng (HĐTD) thì chỉ cần thoả mãn các điều
kiện như có giấy phép hoạt động ngân hàng, có giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh và có người đại diện hợp pháp. Trong giấy phép hoạt động ngân hàng và
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của loại tổ chức này phải ghi rõ hoạt động
cho vay là hoạt động ngân hàng đươc phép thực hiện.
* Bên vay
Bên vay là tổ chức, cá nhân phải thoả mãn các điều kiện sau (về nguyên
tắc, những điều kiện này có tính chất bắt buộc chung với mọi chủ thể đi vay
trong mọi hợp đồng tín dụng):
Bên vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với tổ
chức là pháp nhân hay không phải là pháp nhân thì phải có người đại diện hợp
pháp có đủ năng lực và thẩm quyền đại diện cho tổchức đó khi ký kết hợp đồng
tín dụng.
Mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp.

22



Ngoài ra bên vay còn có một số điều kiện chung sau (những điều kiện này
chỉ có tính bắt buộc phải thỏa mãn đối với bên vay khi chúng được các bên thoả
thuận rõ trong hợp đồng tín dụng).
- Bên vay có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Bên vay có phương án sử dụng vốn khả thi, hiệu quả.
- Bên vay có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh bằng tài sản của
người thứ ba trên cơ sở hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo
lãnh.
2.2. Các hình thức cho vay
Với sự phát triển không ngừng và đa dạng hóa nhiều hoạt động ngânhàng
hiện nay, trong thực tế có rất nhiều hình thức cho vay mà mỗi một tổchức tín
dụng đã tự xây dựng nên. Ở đây chúng ta chỉ đưa ra một số loại dựa vào những
căn cứ sau đây:
* Căn cứ vào thời hạn sử dụng vốn vay:
- Cho vay ngắn hạn: là hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng đối với
khách hàng với thời hạn sử dụng vốn vay do các bên thỏa thuận là một năm.
Hình thức này chủ yếu đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động của khách hàng trong
hoạt động kinh doanh hoặc thỏa mãn nhu cầu về tiêu dùng của khách hàng trong
một thời hạn ngắn.
- Cho vay trung và dài hạn: hình thức này khác cho vay ngắn hạn là với
thời gian thỏa thuận là từ trên một năm trở lên. Người đi vay sử dụng hình thức
này để thỏa mãn nhu cầu mua sắm tài sản cố định trong kinh doanh, thỏa mãn
nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng như mua sắm nhà ở, phương tiện đi lại.
* Căn cứ vào tính chất có bảo đảm của khoản vay:
- Cho vay có bảo đảm bằng tài sản: là hình thức cho vay trong đó nghĩa vụ
trả nợ tiền vay được bảo đảm bằng tài sản của bên vay hoặc của người thứ ba.
Việc cho vay này phải được bảo đảm dưới hình thức ký kết cả hai loại hợp đồng,
bao gồm hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiềnvay (hợp đồng cầm cố,
hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh). Pháp luật cũng cho các bên có thể thỏa

23


thuận lập một hợp đồng nên trong trường hợp này các thỏa thuận về bảo đảm
tiền vay được xem là một bộ phận hợp thành của hợp đồng có bảo đảm bằng tài
sản.
- Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: là hình thức cho vay trong đó
nghĩa vụ hoàn trả tiền vay không được bảo đảm bằng các tài sản cụ thể, xác định
của khách hàng vay hoặc của -người thứ ba. Thông thường các bên chỉ giao kết
một hợp đồng duy nhất là hợp đồng tín dụng. Trong trường hợp tổ chức tín dụng
cho vay có bảo đảm bằng tín chấp thì vẫn phải xác lập một văn bản cam kết bảo
lãnh bằng uy tín của mình và gửi cho tổ chức tín dụng để khách hàng vay có thể
được tổ chức tín dụng chấp nhận cho vay.
* Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay:
- Cho vay kinh doanh: là hình thức cho vay trong đó các bên cam kết số
tiền vay sử dụng vào mục đích thực hiện các công việc kinh doanh của mình.
Nếu bên vay vi phạm sử dụng vào những mục đích khác thì bên cho vay có
quyền áp dụng các chế tài thích hợp như đình chỉ việc sử dụngvốn vay hoặc thu
hồi vốn vay trước thời hạn.
- Cho vay tiêu dùng: bên tham gia vay cam kết số tiền vay sẽ được sử dụng
vào việc thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hay tiêu dùng như mua sắm đồ gia dụng,
mua sắm nhà cửa hoặc phương tiện đi lại, hay sử dụng vào mục đích học tập.
* Căn cứ vào phương thức hoàn trả
- Cho vay trả góp: Cho vay trả góp là loại cho vay mà quá trình trả nợ diễn
ra đều đặn. Chu kỳ trả nợ bằng nhau, số tiền trả nợ gốc các kỳ bằng nhau. Cho
vay trả góp cũng phân thành hai phương thức cho vay trả góp, hai phương thức
cho vay trả góp khác nhau ở cách tính và thu lãi tiền vay.
Phương thức thứ nhất là: để có số tiền trả nợ bằng nhau ngân hàng đã tính
sẵn tiền lãi trên số tiền vay ban đầu sau đó chia đều cho những kỳ trả nợ. Lãi
suất danh nghĩa của phương thức cho vay trả góp này là lãi suất được tính trên

số tiền vay ban đầu. Vì vậy mà lãi suất cho vay trả góp theo phương thức này
thường thấp hơn lãi suất cho vay các phương thức cho vay khác. Sở dĩ cho vay
24


trả góp theo phương thức này có lãi suất thấp bởi vì nó được tính trên dư nợ ban
đầu khi khách hàng nhận nợ, thực tế số dư nợ giảm dần theo thời gian.
Phương thức cho vay trả góp thứ hai là tính lãi trên số dư nợ thực tế. Khi
cho vay khách hàng và ngân hàng thoả thuận số tiền gốc được chia đều cho các
kỳ trả nợ, số tiền lãi được tính trên số tiền gốc của kỳ trước. Như vậy số tiền trả
nợ không bằng nhau giữa các kỳ trả nợ do số tiền lãi nhỏ dần theo dư nợ thực tế.
Phương thức cho vay trả góp thường áp dụng đối với cho vay trung, dài
hạn. Phương thức cho vay trả góp mà tiền lãi được tính trên dư nợ ban đầu sau
đó chia đều cho các kỳ trả nợ hiện rất phổ biến khi cho vay tiêu dùng, như cho
vay mua ôtô trả góp, cho vay mua nhà trả góp…Ưu điểm của phương thức này
là khách hàng rất dễ nhớ và dễ tính toán bởi tính đều đặn của nó.
- Cho vay phi trả góp: Cho vay phi trả góp là các phương thức cho vay mà
quá trình trả nợ gốc không đều, không đều về chu kỳ trả nợ và không đều về số
tiền trả nợ từng chu kỳ. Căn cứ để xây dựng kế hoạch trả nợ giữa ngân hàng và
khách hàng là nguồn tra nợ, những dự án có nguồn trả nợ đều thì cho vay theo
phương thức cho vay trả góp. Những dự án không có nguồn trả nợ đều thì cho
vay theo các phương thức phi trả góp. Cho vay phi trả góp có rất nhiều phương
thức cho vay, phổ biến hiện nay là các phương thức cho vay mà quá trình trả nợ
gốc do hai bên thoả thuận, quá trình trả nợ lãi trả định kỳ hằng tháng hoặc cùng
kỳ với kỳ trả gốc. Căn cứ để ngân hàng và khách hàng xây dựng kỳ hạn trả nợ là
nguồn trả trả nợ của khách hàng, đặc điểm luân chuyển vốn vay và khả năng
nguồn vốn của ngân hàng..
- Cho vay thấu chi: Cho vay thấu chi, là phương thức cho vay mà theo đó
ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản và thoả thuận với khách hàng một
hạn mức thấu chi trong một khoảng thời gian nhất định. Tài khoản của khách

hàng khi dư có là nguồn vốn để ngân hàng kinh doanh và ngân hàng phải trả lãi
cho khách hàng. Ngược lại khách hàng có thể rút quá số dư của mình đến một
hạn mức nhất định mà khách hàng và ngân hàng đã thoả thuận. Khi thấu chi tài
khoản của khách hàng dư nợ và ngân hàng tính lãi đối với khách hàng. Sản
25


×