Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

skkn một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình ở THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.13 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
Phần
I

II

III

Tên đề mục
Đặt vấn đề
I. Lí do chọn đề tài.
II.Mục đích nghiên cứu
III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
Giải quyết vấn đề
I. Cơ sở lí luận
II. Thực trạng của vấn đề.
III. Các biện pháp thực hiện.
1. Trang bị kiến thức lí luận về thơ cho học
sinh.
2. Cung cấp hình ảnh, tư liệu về tác giả, tác
phẩm.
3. Đọc diễn cảm.
4. Khuyến khích học sinh nêu ấn tượng, cảm
xúc cá nhận về tác phẩm.
5. Chỉ ra những quan niệm sai lầm khi cảm
thụ thơ trữ tình.
6. Hướng dẫn học sinh khai thác các điểm
sáng thẩm mĩ trong thơ.
7. Bình thơ.
8. Học mà chơi, chơi mà học.


IV. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm.
Kết luận
I.Bài học kinh nghiệm.
II.Ý kiến đề xuất
III.Lời cảm ơn.
Tài liệu tham khảo.

Trang
2
3
3
3
4
5
6
6
7
9
10
11
13
13
14
16
17
17
17
18

1



PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ.
I. Lí do chọn đề tài:
1.1. Thơ là thể loại nữ hoàng của văn chương. So với các thể loại khác như:
tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, kí …thơ có sức quyến rũ đặc biệt. Vì sao
vậy? Bởi lẽ, nội dung quan trọng nhất của thơ là tính trữ tình: “Thơ là tiếng
lòng”(Diệp Tiếp), “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy”(Tố
Hữu)…Những xúc cảm mãnh liệt trong thơ dễ dàng chạm đến trái tim người đọc,
người nghe. Thơ ca bồi đắp cho tâm hồn con người thêm phong phú, tinh tế. Hơn
nữa, thơ lại có hình thức ngắn gọn, được chắt lọc tối đa về ngôn từ, nên dễ nhớ,
dễ thuộc. Lời thơ hàm súc nhưng ý thơ sâu xa. Mỗi bài thơ, câu thơ, hình ảnh thơ
đều có thể đưa đến những cách cảm thụ, lí giải khác nhau, thậm chí trái ngược
nhau…Tiếp nhận của độc giả càng phong phú thì sức hấp của thơ càng lớn. Với
ý nghĩa đó, thơ luôn có vị trí quan trọng trong đời sống nói chung và trường học
nói riêng.
1.2. Dân tộc ta vốn có truyền thống lâu đời về thơ ca. Từ xa xưa, những bài ca
dao, dân ca, những câu hát ru… đã đồng hành cùng bao thế hệ người Việt. Trong
văn học trung đại, chúng ta lại cũng gặt hái được nhiều thành tựu về thơ hơn là
văn xuôi. Thời chiến, bao trang thơ đã theo binh sĩ ra chiến trường, trở thành
nguồn sức mạnh tinh thần to lớn. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, giới trẻ
(đặc biệt là lứa tuổi học sinh) lại có phần thờ ơ với thơ ca dân tộc. Họ có xu thế
hướng ngoại, tiếp cận các sản phẩm văn hóa ngoại lai mang tính giải trí như: ca
nhạc, phim ảnh … nhiều hơn. Đây cũng là một khó khăn đối với giáo viên Ngữ
văn trong quá trình giảng dạy thơ ca ở nhà trường.
1.3. Học sinh THPT đang ở lứa tuổi dễ xúc cảm trước những vui buồn của
cuộc sống, lứa tuổi dễ tin, dễ yêu và cũng dễ đổ vỡ trong các mối quan hệ tình
cảm, lứa tuổi còn chưa đủ chín chắn để đối mặt với những cám dỗ và mất mát.
Việc dạy học thơ trữ tình ở nhà trường có ý nghĩa đặc biệt trong việc bồi đắp tâm
hồn, tình cảm thẩm mĩ cho các em. Từ cảm nhận cái hay, cái đẹp trong thơ mà

học sinh có những tư tưởng, tình cảm lành mạnh, trong sáng để sống đẹp hơn,
tinh tế hơn.
1.4. Tuy nhiên, việc tiếp cận thơ, hiểu thơ lại không phải dễ dàng. Có thể nói
đây là thể loại rất “kén” độc giả. Bởi sức gợi của thơ là vô cùng. Thơ thường
chọn cách nói gián tiếp, mang tính biểu tượng cao. Người đọc thơ phải thông qua
những tín hiệu về ngôn từ, hình tượng, hình ảnh, cấu tứ… mà giải mã thơ. Sứ
mệnh của thơ ca không chỉ là bồi đắp tâm hồn cho con người mà còn bồi đắp
năng lực thẩm mĩ, khả năng cảm thụ cái đẹp cho con người. Nếu cho rằng chỉ
những học sinh có năng khiếu văn chương mới cảm thụ được cái hay, cái đẹp của
thơ, vậy những học sinh còn lại (tạm gọi là đại trà) sẽ đọc thơ như thế nào? Đây
là câu hỏi không dễ trả lời cho giáo viên trong quá trình dạy học.
2


1.5. Do hạn chế về thời lượng chương trình và kế hoạch ôn tập, giảng dạy thơ
nhiều khi cũng mới chỉ dừng ở việc gợi dẫn những vấn đề cơ bản của tác phẩm
chứ chưa thể khám phá một cách sâu sắc, tạo được những rung cảm mãnh liệt
cho học trò. Ở nhiều tác phẩm, giáo viên và học sinh mới chỉ ra được cái hay, cái
đẹp của thi phẩm chứ chưa phân tích thấu đáo những đặc sắc đó. Nói đúng hơn,
nhiều thầy cô chỉ mới dạy cho học sinh hiểu thơ mà chưa làm cho học sinh yêu
thơ. Làm thế nào để vừa đảm bảo những yêu cầu về thời gian, vừa dạy học đúng
đặc trưng môn học và tạo được sức lôi cuốn đối với học sinh? Đây là điều trăn
trở của nhiều giáo viên Ngữ văn như tôi.
Từ những lí do trên, tôi nhận thấy giảng dạy thơ trữ tình là một nghệ thuật thực
sự. Giáo viên vừa phải là chiếc cầu nối về tâm hồn đưa học sinh đến với thế giới
thơ ca, vừa phải là một nhà sư phạm tài ba lựa chọn được những phương pháp
dạy học phù hợp với thể loại, lại vừa sức với học sinh. Nhưng quan trọng nhất
vẫn là “kéo học sinh về phía mình”, làm cho các em hiểu và yêu thơ ca dân tộc
chứ không phải chạy theo những sản phẩm “mì ăn liền” mà các em tưởng nhầm
là nghệ thuật.

Trong phạm vi đề tài này, tôi mạnh dạn nêu lên một số kinh nghiệm của mình
với mong muốn góp phần khắc phục những bất cập và nâng cao hiệu quả giảng
dạy thơ trữ tình ở nhà trường THPT.
II. Mục đích nghiên cứu:
- Tổng hợp những kinh nghiệm cá nhân trong quá trình giảng dạy thơ trữ tình ở
nhà trường THPT.
- Nêu lên những phương pháp dạy học đặc trưng và có hiệu quả vượt trội trong
dạy học thơ trữ tình ở nhà trường THPT.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Phương pháp giảng dạy thơ trữ tình ở THPT.
- Áp dụng phương pháp dạy học thơ trữ tình trong các bài học chủ yếu thuộc
chương trình Ngữ văn lớp 10, lớp 11, lớp 12.
- Các lớp 10C2, 12C5, 12C7, 11B3, 11B6…trường THPT Nông Cống 1.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thực nghiệm: qua dự giờ, đánh giá, trao đổi, rút kinh nghiệm và
chấm bài học sinh.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh.
- Thống kê, xử lí số liệu.

3


PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Cơ sở lí luận:
* Những đặc trưng cơ bản của thơ:
* Về nội dung:
- Thơ ca là hình thức phản ánh thực tại khách quan qua thế giới chủ quan của
nghệ sĩ. Thơ bắt nguồn từ hiện thực đời sống nhưng không chú trọng ở việc miêu
tả ngoại cảnh hay kể lại diễn biến sự kiện, tình tiết mà đi sâu khám phá thế giới
tâm hồn con người với muôn vàn cảm xúc khác nhau. Việc tìm hiểu thơ trước hết

phải là hiểu tâm trạng của con người trong thơ.
- Tình cảm trong thơ vừa có màu sắc cá nhân lại vừa có tính chất điển hình,
mang sức khái quát cao. Đằng sau những cảm xúc trữ tình, bao giờ nhà thơ cũng
muốn đối thoại với bạn đọc một vấn đề gì đó về nhân sinh. Đọc thơ không chỉ
dừng lại ở việc chỉ ra diễn biến nội tâm mà phải thấy được ý nghĩa xã hội của
tâm trạng trong thơ.
* Về hình thức:
Nội dung trữ tình trong thơ được thể hiện qua các yếu tố hình thức đặc trưng
của thể loại. Muốn tìm hiểu cái hay của cảm xúc thơ phải giải mã được những tín
hiệu của hình thức nghệ thuật.
* Tứ thơ: là sự kết nối các ý thơ tạo thành một mạch phát triển logic về tâm
trạng. Ý nọ dẫn tới ý kia đi tới một điểm neo đậu cuối cùng làm sáng lên cả bài
thơ. Thơ hay thường có tứ bất ngờ, độc đáo hoặc vô cùng chặt chẽ
* Hình tượng thơ: là những bức tranh đời sống hoặc bức tranh tâm trạng được
miêu tả trong thơ. Chúng không được miêu tả tỉ mỉ như trong văn xuôi mà chỉ
hiện lên qua những nét phác thảo nhưng có sức gợi mở và khái quát cao, góp
phần biểu đạt sâu sắc tư tưởng, tình cảm của tác giả.
* Hình tượng thơ được tạo nên từ nhiều chi tiết, hình ảnh. Khác với chi tiết trong
truyện, hình ảnh trong thơ được chọn lọc và sáng tạo kĩ càng. Có những hình ảnh
rất gần gũi với đời sống mà ta dễ gặp, dễ hiểu như: dòng sông, con thuyền, cây
đa, sân đình…Nhưng cũng có những hình ảnh chỉ riêng thơ mới có: cây cầu cành
hồng, chiếc cầu dải yếm, áo mơ phai dệt bằng lá vàng của mùa thu…Hay những
hình ảnh ước lệ mang ý nghĩa biểu tượng: tùng, cúc, trúc, mai, thôn Đoài, thôn
Đông…Do đó, nếu hiểu thơ theo quy luật của đời sống mà không gắn với đặc
trưng thể loại thì có phần phiến diện và ngây ngô.
* Thơ lấy ngôn ngữ làm cứu cánh. Do dung lượng ngắn, nên ngôn ngữ thơ
thường cô đọng, hàm súc, có sức gợi lớn. Lời thơ nén chặt ý tối đa rồi “đột ngột
nổ ra như tiếng sét”(Chế Lan Viên). Mỗi câu, mỗi chữ trong thơ đều có sức
nặng, có khả năng làm “rung động triệu trái tim” trong “hàng triệu năm
dài”(Maiacôpxki). Việc đọc thơ không chỉ dừng lại ở chỗ hiểu ngữ nghĩa bề mặt

câu chữ mà là tìm thấy những “phần chìm” của “tảng băng trôi” (Hêminhuê)
kia, thấy được cái sức gợi sâu xa của ngôn ngữ thơ.
4


- Ngôn ngữ thơ thường có nhiều từ cảm thán, hô gọi, câu hỏi tu từ, sử dụng các
phương thức chuyển nghĩa như: ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, phóng đại…Phân tích
ngôn ngữ thơ phải chỉ ra được các biện pháp tu từ ấy và làm rõ giá trị của chúng
trong việc biểu đạt nội dung.
- Ngoài ra, ngôn ngữ thơ cũng rất giàu tính nhạc. Với những âm thanh luyến láy,
những từ ngữ trùng điệp, sự phối hợp bằng trắc, cách ngắt nhịp, gieo vần…câu
thơ luôn có sức ngân vang, truyền cảm mạnh mẽ, góp phần tạo nên những cung
bậc tình cảm tinh tế của người nghệ sĩ.
Thơ còn gợi ra những hình ảnh sinh động về đời sống thông qua ngôn từ, tựa
như đang vẽ ra trước mắt người đọc những bức tranh có thật. Đó là chất họa của
thơ. Đặc điểm này của thơ có khả năng kích thích trí tưởng tượng của người đọc,
gợi mở bao điều thú vị khi đọc thơ.
II. Thực trạng của vấn đề:
2.1. Đối với giáo viên:
Hiện nay, thực tế dạy học thơ trữ tình của giáo viên ở nhà trường phổ thông
đang có những thuận lợi và khó khăn sau:
Về thuận lợi: Các tác phẩm thơ trữ tình trong chương trình phần lớn đều là
những bài thơ hay, có nhiều vấn đề để khai thác. Số lượng tác phẩm thơ cũng khá
nhiều, giáo viên có “đất” để trau dồi năng lực sư phạm cũng như khai thác khả
năng cảm thụ của học sinh. Các phương nguồn tư liệu từ sách, báo, các phương
tiện truyền thông khá phong phú, giáo viên có thể tham khảo, học hỏi được nhiều
kiến thức và kinh nghiệm quý báu.
Về khó khăn: Nhiều giáo viên vẫn duy trì lối dạy học theo kiểu đọc chép, nhồi
nhét kiến thức, yêu cầu học sinh học vẹt, thụ động vì cho rằng các em chưa đủ
nhận thức để cảm thụ tác phẩm thơ trữ tình.

Một bộ phận giáo viên đặt ra yêu cầu quá cao với học sinh, bắt các em phải đào
sâu vào những kiến thức hàn lâm, cao siêu, phải có cách cảm thụ sáng tạo như
một nhà phê bình thực thụ.
Một bộ phận khác dạy học theo lối chẻ nhỏ văn bản, bắt học sinh “tầm chương,
trích cú”, khai thác quá nhiều các chi tiết, hình ảnh trong tác phẩm khiến bài học
sa vào vụn vặt, thiếu trọng tâm.
Một bộ phận quá chú trọng vào việc đổi mới phương pháp mà quên mất giá trị
của những phương pháp cũ như: đọc diễn cảm, giảng bình.
2.2. Đối với học sinh:
Việc học Ngữ văn nói chung và tìm hiểu thơ trữ tình nói riêng của học sinh
THPT hiện nay đang tồn tại những bất cập sau đây:
- Thứ nhất: Phần lớn học sinh hiện nay có tâm lí hướng đến các môn khoa học tự
nhiên hơn là các môn khoa học xã hội, nhất là môn Ngữ văn. Điều này xuất phát
từ nhiều nguyên nhân như: do xu thế tuyển sinh của các trường chuyên nghiệp,
do nhu cầu tuyển dụng việc làm ở các ngành nghề của xã hội (thiên về các môn
5


học “thời thượng” như: Toán, Lí, Hóa, Sinh, Ngoại ngữ…), do những quan niệm
sai lệch về môn Ngữ văn của học sinh như: học văn là “chém gió một cách nghệ
thuật”, đạt điểm trung bình môn Văn thì dễ nhưng điểm giỏi thì khó, học Văn tốn
rất nhiều công sức mà kết quả lại trông vào may rủi khi thầy cô chấm bài…Trong
xu thế đó, học sinh tỏ ra ngại học Văn hoặc có học chẳng qua cũng chỉ vì mục
đích thi cử, ôn luyện chứ không phải vì yêu thích, đam mê. Việc tìm hiểu các tác
phẩm thơ trữ tình của học sinh cũng không nằm ngoài thực trạng đó.
- Thứ hai: hầu hết học sinh đều không thấy được tầm quan trọng của thơ đối với
đời sống tâm hồn, tình cảm con người, không thấy được giá trị giáo dục của thơ
mà chỉ xem việc đọc hiểu thơ là yêu cầu bắt buộc của môn học hoặc xem thơ như
một hình thức giải trí, “đọc cho đỡ buồn” lúc rảnh rỗi.
- Thứ ba: việc học dừng lại ở tình trạng học thụ động, học vẹt, học thực dụng,

học sinh chủ yếu lệ thuộc vào thầy cô, ngại tư duy. Có những học sinh quan niệm
chỉ cần học thuộc văn bản và văn mẫu, giải các bài tập để thi đạt điểm cao là
được.
- Thứ tư: trong xu thế công nghệ hiện nay, học sinh có xu hướng tìm đến với các
sản phẩm thơ trên những nguồn thông tin khác như: báo chí, mạng xã hội nhiều
hơn. Vì theo các em, chúng mới mẻ, đa dạng hơn chứ không quen thuộc, nhàm
chán như chương trình sách giáo khoa. Thậm chí có một bộ phận không nhỏ học
sinh chỉ thích đọc thơ chế, thơ xuyên tạc… mà không hứng thú gì với các tác
phẩm thơ trong nhà trường.
III. Các biện pháp thực hiện:
Trong phạm vi đề tài này, tôi không trình bày đầy đủ các phương pháp dạy học
thơ trữ tình mà chỉ nêu lên một số cách thức theo tôi là có hiệu quả đối với học
sinh, bao gồm cả những phương pháp cũ và phương pháp mới.
1. Trang bị kiến thức lí luận về thơ cho học sinh:
Bất kì môn học nào cũng thường phải đi từ lí thuyết đến thực hành.Việc trang
bị kiến thức lí luận sẽ tạo nền tảng giúp học sinh có cách hiểu thơ đúng đắn, sâu
sắc. Nhiều học sinh không vì không nắm được các đặc điểm của thơ nên thấy thơ
khó hiểu, khó tiếp nhận, mông lung, mơ hồ, nhiều khi nói, viết về tác phẩm mà
không hiểu ngọn ngành vấn đề.
Trong chương trình Ngữ văn 11, tập 2, có bài giảng kiến thức lí luận về thơ
nhưng thời lượng chỉ chiếm 2 tiết. Trong khi đó, ngay từ lớp 10, học sinh đã học
thơ trữ tình. Khắc phục bất cập đó, trong quá trình dạy các tác phẩm trữ tình, tôi
thường lồng ghép các nội dung lí luận phù hợp với bài học. Đối với các học sinh
theo khối C-D, tôi vừa dạy kiến thức lí luận sâu hơn, vừa biên soạn tài liệu lí
luận về thơ cho các em tự học ở nhà. Nếu học sinh chưa hiểu, có thắc mắc, tôi sẽ
giải đáp cho các em trong các tiết tự chọn.
Nội dung lí luận mà tôi cung cấp cho học sinh thường dừng ở mức đơn giản, dễ
hiểu chứ không quá hàn lâm, chủ yếu là giúp học sinh nắm được các khái niệm,
6



đặc điểm về nội dung và hình thức của thơ trữ tình như: tình cảm trong thơ, kết
cấu, hình tượng, hình ảnh, ngôn ngữ thơ, tâm lí tiếp nhận khi đọc thơ, nhà thơ và
quá trình sáng tác…Ngoài ra, tôi còn yêu cầu học sinh phân biệt sự khác nhau
giữa các thể thơ, các chặng đường thơ như: thơ trung đại khác ca dao ở những
điểm nào? Phân biệt thơ cũ và thơ mới? Thơ cách mạng và thơ mới có khác biệt
gì nổi bật? Thơ lục bát và thơ thất ngôn Đường luật khác nhau như thế nào?...và
cung cấp cho cá em những nhận định về thơ trữ tình.
2. Cung cấp các hình ảnh, tư liệu về tác giả, tác phẩm:
Trong xu thế hiện nay, dạy học Ngữ văn đã có sự hỗ trợ của công nghệ thông
tin. Trên cơ sở đó, tôi đã cung cấp thêm cho học sinh một số hình ảnh tư liệu về
thời đại hoặc tác giả, tác phẩm thông qua máy chiếu. Bên cạnh tư duy trừu
tượng, người học văn cũng cần hình ảnh trực quan sinh động. Hình thức này sẽ
góp phần tăng thêm tính chân thực cho bài học, phần nào giúp học sinh hình
dung ra thời đại văn học, hiểu thêm về cuộc đời nhà thơ và hoàn cảnh sáng tác
của tác phẩm. Từ đó, giáo viên có thể kéo gần khoảng cách giữa học sinh với tác
giả, tác phẩm.
Tất nhiên, không phải bài học nào cũng cần đến tư liệu, hình ảnh. Tôi chỉ áp
dụng hình thức này đối với một số tác giả, tác phẩm phù hợp như: Tỏ lòng –
Phạm Ngũ Lão, Đọc Tiểu Thanh kí, Truyện Kiều – Nguyễn Du, Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử, Tây Tiến – Quang Dũng…
Ví dụ: Khi dạy tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, tôi thường cung cấp cho
học sinh một số tư liệu và hình ảnh sau:

Ảnh minh họa: Tượng đài Nguyễn Du ở quê hương.
7


Ảnh minh họa: Những bản in sớm nhất của “Truyện Kiều”

Ảnh minh họa: Tranh vẽ về “Truyện Kiều”

Tư liệu: Một số ý kiến đánh giá về Truyện Kiều:
* Chê:
- Đàn ông chớ kể Phan Trần
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều. (Ca dao).
8


- Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm. ( Nguyễn Công Trứ).
- Theo Ngô Đức Kế, Truyện Kiều chỉ là thứ “văn chương ngâm vịnh chơi bời”
chứ không phải là thứ “văn chương chính đạo đem ra dạy đời”.
- Huỳnh thúc Kháng coi Truyện Kiều là “một thứ dâm thư”.
* Khen:
- Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết,
nếu không phải có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời
thì tài nào có cái bút lực ấy. (Mộng Liên Đường chủ nhân).
- Đem bút mực tả lên trên tờ giấy nào những câu vừa lâm li, ủy mị, đốn tỏa, giải
thư, mới có cái văn tả hệt ra như vậy. (Phong Tuyết chủ nhân).
- Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn. (Phạm Quỳnh)
- Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm văn học để thưởng thức mà đã trở thành
một nét văn hóa của người Việt, gắn liền với các sinh hoạt văn hóa như: lẩy
Kiều, vịnh Kiều, bói Kiều…
3. Đọc diễn cảm:
Trong dạy học Ngữ văn, đây là phương pháp quá quen thuộc nhưng theo tôi
nó luôn có hiệu quả đặc biệt. Nếu các biện pháp khác thông thường tác động vào
lí trí thì đọc diễn cảm lại tác động vào tình cảm của học sinh. Thực chất đó là
một nghệ thuật trình diễn gắn liền với những ấn tượng tươi mới, những rung
động mãnh liệt của học sinh về tác phẩm, tạo hứng thú với người học ngay từ
đầu. Đọc diễn cảm cũng là một hình thức cảm thụ văn bản. Qua hình thức này,
giáo viên có thể đo được mức độ cảm thụ của học sinh.

Cơ sở của việc đọc diễn cảm là ngữ điệu trong câu, bao gồm tất cả các dấu
hiệu về âm thanh như: cách ngắt nghịp, gieo vần, sự phối hợp thanh điệu, giọng
điệu…
Tôi thường chọn những học sinh có chất giọng tốt và hỏi các em về cách đọc,
sau đó cho các học sinh khác nhận xét về phần đọc bài của bạn. Đối với những
bài thơ dài, không nhất thiết học sinh phải đọc trọn vẹn văn bản, tôi chỉ yêu cầu
các em đọc một đoạn mà mình yêu thích hoặc giáo viên chọn. Có những tác
phẩm, tôi chọn 2 học sinh đọc, mỗi em một đoạn, sau đó yêu cầu các học sinh
khác nhận xét về cách đọc. Cũng có những bài, tôi yêu cầu học sinh đọc trước,
sau đó giáo viên đọc những phần còn lại để rút ra cách đọc đối với văn bản. Nhìn
chung, cách đọc phải linh hoạt theo từng tác phẩm.
Trong quá trình đọc, tôi thường lưu ý học sinh ngắt nhịp nhanh hay chậm, điều
chỉnh giọng theo âm vực thấp hoặc cao và cảm xúc của người đọc phải bắt nhịp
với tác giả… tránh đọc kiểu đều đều hoặc tách từ, ngắt vế không đúng, gây ấn
tượng rời rạc, thiếu hấp dẫn.

9


Ví dụ: Khi đọc “Tây Tiến” của Quang Dũng, hai câu đầu nên đọc với giọng tha
thiết, bồi hồi, ngân vang: Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Có những đoạn cần đặc biệt chú ý về cách ngắt nhịp vì đó là tín hiệu nghệ thuật
của văn bản như:
- Dốc lên khúc khuỷu/ dốc thăm thẳm.
- Ngàn thước lên cao/ ngàn thước xuống.
- Nhớ ôi Tây Tiến/ cơm lên khói.
- Kìa em/ xiêm áo tự bao giờ.
Có những đoạn cần đọc bằng giọng trầm hùng:
- Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
4. Khuyến khích học sinh nêu ấn tượng, cảm xúc cá nhân về tác phẩm:
Nhiều giáo viên đôi khi hay áp đặt cách hiểu thơ cho học sinh. Sự định hướng
của thầy cô chỉ cần thiết khi cách hiểu của học sinh có sự chệch choạc. Những
cảm thụ mang tính cá nhân của học sinh là rất đáng quý và cần được khơi gợi.
Trên tinh thần đó, tôi thường khuyến khích học sinh nói lên những ấn tượng,
cách cảm, cách nghĩ của mình về tác phẩm trong một số trường hợp sau đây:
Trường hợp thứ nhất, học sinh có thể nêu cảm nhận chung về bài thơ sau khi
đọc hoặc đề xuất một cách hiểu về tác phẩm.
Trường hợp thứ 2, học sinh có thể tự do cảm thụ những cái hay, cái đẹp của
tác phẩm về nội dung hoặc hình thức của tác phẩm theo quan điểm cá nhân, hoặc
một cảm xúc đẹp nào đó mà bài thơ để lại. Trường hợp này tôi thường vận dụng
trong các tiết tự chọn hoặc lồng ghép với các bài học chính khóa.
Ví dụ: khi cho học sinh tìm hiểu bức tranh mùa xuân trong khổ thơ thứ hai bài
thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu, tôi thường đặt câu hỏi: Trong số những hình ảnh
miêu tả bức tranh mùa xuân, em ấn tượng với hình ảnh nào nhất? Vì sao?
Hay khi dạy khổ thơ đầu của bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu, tôi yêu cầu học sinh:
chỉ ra các hình ảnh thể hiện lí tưởng cộng sản (bừng nắng hạ, chói qua tim, mặt
trời chân lí) trong đó, đâu là hình ảnh trung tâm theo quan điểm của em? Vì
sao?
Trường hợp thứ 3: cho học sinh thảo luận theo nhóm về giá trị của tác phẩm, sau
đó cử đại diện nhóm trình bày. Các nhóm khác cũng có thể cùng tranh luận nếu
chưa đồng quan điểm.
Ví dụ: Khi dạy bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, tôi thường chia lớp
thành 4 nhóm. Trong đó, tôi giao nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm như sau:
- Nhóm 1: tìm hiểu bức tranh ở khổ thơ thứ nhất, học sinh được tự do bàn luận về
cái hay, cái đẹp của hình ảnh, ngôn từ, cảm xúc thơ và có thể chọn bình 1 hình
ảnh mà nhóm ấn tượng nhất.
- Nhóm 2: tìm hiểu khổ thơ thứ 2. Công việc được giao tương tự như nhóm 1.

10


- Nhóm 3: tìm hiểu khổ thơ thứ 3. Công việc được giao tương tự như 2 nhóm còn
lại.
- Nhóm 4: nhận xét phần trình bày của các nhóm khác và kết nối mạch cảm xúc
của 3 khổ thơ trên, từ đó nêu cách hiểu về bài thơ.
5. Chỉ ra những quan niệm sai lầm khi cảm thụ thơ trữ tình:
Sở dĩ học sinh chưa tiếp cận được thơ là vì các em còn có những quan niệm sai
lầm về thơ ca. Từ chỗ hiểu sai dẫn đến viết sai, kết quả học thấp khiến các em
chán nản, không còn hứng thú với thơ. Công việc của giáo viên Ngữ văn là phải
giúp các em hiểu rõ những quan niệm lệch lạc đó và tiếp cận thơ theo đúng tinh
thần thể loại.
Trong quá trình dạy học, tôi thường chỉ cho học sinh thấy những cách hiểu thơ
sau là lệch lạc và yêu cầu các em không lặp lại những sai lầm này trong tư duy:
- Thứ nhất: đồng nhất thơ và cuộc đời:
Thơ bắt rễ từ đời sống nhưng thơ không phải là sự sao chép vụng về hiện thực
khách quan. Hình tượng, hình ảnh, ngôn ngữ thơ… đều có ý nghĩa biểu tượng
cao. Đúng hơn nó chỉ là sự mô phỏng đời sống để thể hiện tư tưởng chủ quan.
Hiểu thơ như đời sống sẽ là cách nhìn hạn hẹp và thiếu căn cứ về thơ. Tôi thường
chỉ ra quan niệm sai lầm này cho học sinh qua các ví dụ cụ thể.
Ví như khi Hàn Mặc Tử viết hai câu thơ: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/
Có chở trăng về kịp tối nay” thì không nhất thiết nhà thơ phải đứng trước bến
sông vào đêm trăng mà quan sát mới tả được. Đó chỉ là hình ảnh ngoại cảnh
được nhà thơ sáng tạo để bộc lộ khát khao giao cảm với đời và mặc cảm chia lìa,
xa cách với thế giới bên ngoài khi ông đang phải giam mình trong phòng bệnh
mà thôi. Hay Chế Lan Viết “Tiếng hát con tàu” với bối cảnh Tây Bắc nhưng nhà
thơ lại chưa hề lên với mảnh đất này. Vậy thì những hình ảnh về Tây Bắc trong
bài thơ chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng để thể hiện khát vọng lên đường của
nhà thơ.

Nếu gặp bài viết của học sinh có cách hiểu thơ như trên, tôi sẽ đọc trước lớp và
sửa cho học sinh, đồng thời lưu ý các học sinh khác về điều này.
- Thứ 2: hiểu thơ một cách dung tục.
Nhiều trường hợp học sinh có những cách hiểu ngô nghê về bài thơ, ý thơ, câu
từ, hình ảnh…Ví dụ: do không hiểu ngữ nghĩa văn bản mà học sinh hiểu câu thơ
tả màu xanh cây hòe trong “Cảnh ngày hè”của Nguyễn Trãi (Hòe lục đùn đùn
tán rợp giương) thành: cây hòe nhà ông Lục. Hay khi đọc 2 câu cuối của “Chiều
tối”, nhiều học sinh hiểu là: dưới chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch, con người
phải lao động cực nhọc nên trời đã về đêm mà vẫn chưa được nghỉ ngơi.
Trong những trường hợp như vậy, tôi thường chỉ ra cho học sinh thấy những
cách hiểu này là thiếu cơ sở và có phần làm giảm giá trị của câu thơ, bài thơ. Từ
đó, tôi định hướng học sinh một cách hiểu khác phù hợp.
- Thứ 3: diễn xuôi ý thơ.
11


Trong nhiều bài làm văn, nhiều học sinh thường diễn xuôi ý thơ và nhầm tưởng
cứ đánh bóng câu chữ là văn hay.
Ví dụ: Sau đây là một đoạn văn trong bài làm học sinh viết về đoạn đầu của bài
thơ “Tây Tiến”:
“Xa đồng đội chưa lâu mà Quang Dũng đã thấy nhớ nên ông cất lên tiếng gọi:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Nỗi nhớ vang vọng, chơi vơi, lan tỏa khắp núi rừng. Và sau đó, bao nhiêu kí ức
tươi rói cứ lần lượt hiện về:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Núi rừng đẹp làm sao, sương khói phủ lên bước chân hành quân của người lính,
những con dốc uốn lượn, không có điểm dừng như thử thách bước chân người
lính. Họ chinh phục đỉnh cao bằng nghị lực phi thường. Có lúc họ có được giây
phút nghỉ ngơi bên sườn đồi ngắm màn mưa phủ đầy trời. Trong màn mưa thấp
thoáng những ngôi nhà bình dị vùng Pha Luông. Còn gì đẹp hơn giây phút thư
giãn được ngắm cảnh thiên nhiên yên bình dưới mưa. Đẹp đến nỗi tâm hồn
người lính rung động mãnh liệt…”
Trong trường hợp này tôi thường chỉ cho học sinh thấy lối viết như vậy không
hề sai nhưng chưa đặc sắc. Yêu cầu của văn nghị luận là phải nhận xét, đánh giá,
bàn luận cái hay, cái đẹp về nội dung và nghệ thuật của thơ, chứ không phải chỉ
dừng lại ở việc tán dương hay diễn xuôi ý thơ.
- Thứ 4: Cách hiểu xa văn bản hoặc xuyên tạc văn bản.
Nhiều học sinh do không đọc kĩ bài thơ nên khi cảm nhận thường không gắn
với các tín hiệu nghệ thuật của văn bản. Thậm chí có những học sinh còn gán
ghép cho thơ những điều không có trong văn bản hoặc xuyên tạc các chi tiết,
hình ảnh trong văn bản.
Ví dụ: Khi cảm thụ về 8 câu đầu của “Việt Bắc”- Tố Hữu, học sinh có viết như
sau: Núi rừng việt Bắc níu giữ bước chân người cách mạng nên các anh không
nỡ chia tay đồng bào, mỗi bước đi đều thấm đẫm nước mắt. Đồng bào tặng áo
chàm cho các anh để làm kỉ niệm.
Trong những trường hợp này, tôi thường định hướng học sinh bám sát các tín
hiệu thẩm mĩ trong thơ để cảm nhận, đánh giá hợp lí. Đặc biệt là không nên gán
ghép cho văn bản những ý tưởng mà nhà thơ không hề đề cập như: mỗi bước đi
đều thấm đẫm nước mắt, hay đồng bào tặng áo chàm cho các anh để làm kỉ
niệm.
12


6. Hướng dẫn học sinh khai thác các điểm sáng thẩm mĩ trong thơ:

Trong thời gian hạn hẹp ở lớp, giáo viên và học sinh không thể khám phá hết
cái hay, cái đẹp của thơ. Hơn nữa, không phải bài thơ nào trong chương trình
cũng hoàn hảo về mọi mặt. Do đó, tôi thường hướng dẫn các em khai thác những
điểm sáng thẩm mĩ nổi bật của bài thơ. Điều này sẽ giúp học sinh một mặt nắm
được kiến thức trọng tâm của tác phẩm, mặt khác tăng cường hứng thú học tập.
Để giúp học sinh khai thác được những điểm sáng thẩm mĩ, tôi thường tạo ra
các tình huống có vấn đề và hướng dẫn học sinh gợi mở dần vấn đề.
Ví dụ:
Khi dạy bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận, tôi thường định hướng cho học
sinh tìm hiểu tứ thơ dựa trên tương quan giữa: dòng sông – dòng đời – dòng tâm
trạng. Hiểu được tương quan này, học sinh sẽ có cách thức giải mã bài thơ mà
không rơi vào tình trạng trùng lặp ý ở các khổ thơ. Hầu như khổ thơ nào cũng có
hình ảnh không gian, hoặc xa, hoặc gần, hoặc dài rộng, cao, sâu…Chỉ khi nắm
được mạch liên tưởng và cảm xúc của tác giả, học sinh mới hiểu những không
gian kia không hề trùng lặp mà là sự tìm kiếm giao cảm trong vô vọng của một
tâm hồn cô đơn. Dù nhìn ở đâu, dù quan sát ở chiều không gian nào, nhà thơ
cũng luôn bị choáng ngợp bởi cái vô cùng, vô tận của vũ trụ. Sự cô đơn của con
người trước thiên nhiên cũng giống như nỗi cô đơn của con người giữa dòng
đời bất trắc, trong mặc cảm của thân phận nô lệ. Đó là nỗi buồn của cả một thế
hệ thanh niên đương thời như Huy Cận.
Hay khi dạy bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu, tôi thường định hướng học sinh tìm
hiểu tương quan đối lập giữa cái riêng và cái chung trong bài thơ như: hồn tôi,
tình tôi, lòng tôi với trăm nơi, bao hồn khổ, khối đời…Từ đó, giúp học sinh
hiểu được quá trình nhà thơ tự nguyện từ bỏ cái tôi ích kỉ để hòa nhập với cuộc
đời. Điều này chỉ có được khi ánh sáng của lí tưởng cách mạng chiếu rọi vào tâm
hồn nhà thơ.
7. Bình thơ:
Cũng như đọc diễn cảm, bình thơ là phương pháp dạy học truyền thống nhưng
chưa bao giờ mất đi giá trị của nó. Một lời bình hay có thể nâng giá trị của một
câu thơ, bài thơ. Nếu thiếu những lời bình, bài giảng của giáo viên sẽ mất đi màu

sắc văn chương, thiếu sự hấp dẫn, lôi cuốn.
Không chỉ có giáo viên biết bình thơ mà học sinh cũng nên nắm được kĩ thuật
bình. Nhưng nắm kĩ thuật là một chuyện, lời bình lại cần phải có cảm xúc và có
cách diễn đạt hấp dẫn. Quan trọng là người bình phải nói lên được cái hay, cái
đẹp của thơ…Ở mức độ của học sinh THPT, tôi thường đặt ra yêu cầu nhẹ nhàng
với việc bình thơ, chủ yếu là giúp các em cảm thụ được những giá trị cơ bản của
tác phẩm.
13


Trong quá trình dạy học, tôi thường vận dụng một số cách bình thơ sau đây và
hướng dẫn học sinh cách bình thơ thông qua những ví dụ cụ thể. Lời bình được
giới thiệu thường là những đoạn viết hay của các nhà phê bình, người yêu thơ
hoặc của những học sinh viết tốt.
- Bình bằng cách nêu ấn tượng, cảm xúc cá nhân.
Ví dụ: Bài thơ cũ, bài viết cũng cũ. Trong khi rất nhiều người đi tìm cái mới thì
quay về với những gì truyền thống có khi là một cách thư giãn cho cả tác giả và
độc giả:
Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…
Chỉ có bốn câu nhưng theo tôi đây là bài thơ hay nhất, hoàn chỉnh nhất của
Nguyễn Bính. Bài thơ có hai nhân vật, người con trai và người con gái. Nguyễn
Bính nói họ thương nhau nhưng chắc chỉ là thương thầm, nhớ trộm. Cảm xúc ấy
ta đã gặp nhiều trong thơ và hình như trong lòng ta cũng đã đôi lần vương vấn.
Vì thế mà bài thơ cứ như sợi tơ giăng mắc trong ta một nỗi buồn nhẹ nhàng, lan
tỏa…(Nguyễn Hưng Quốc bình về bài thơ “Không đề” của Nguyễn Bính).
- Bình bằng cách so sánh.
Ví dụ: Không lấy một người sánh với một người, hãy lấy thời đại sánh cùng thời

đại. Tôi quyết rằng chưa có một thời đại nào phong phú như thời đại này trong
lịch sử thi ca Việt Nam. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần, một
hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy
Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như
Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân
Diệu (Hoài Thanh bình về Thơ mới).
- Nêu lên nhiều quan điểm tiếp cận và đi đến cách hiểu thống nhất.
Ví dụ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Ý thơ là một câu hỏi đầy sức gợi. Có người bảo đó là lời mời thân thiện. Nếu là
“về thăm” thì xa cách quá. “Về chơi” nghe thân mật và gần gũi hơn. Người khác
lại bảo đó là lời trách móc nhẹ nhàng, trách yêu con người xa Huế đấy thôi. Nếu
là trách thầm thì hình như có chút nũng nịu trong đó, thế thì phải là giọng của
một cô thôn nữ nào đấy. Có người lại cho rằng: câu thơ là sự chất vấn trong
chính tâm hồn tác giả. Đây là tiếng vọng của kí ức hay của ước mơ? Hàn Mặc Tử
đã từng có thời gian học ở Huế. Trong nhớ nhung và cách xa, trong nghịch cảnh
bệnh tật dày vò, giờ đây xứ Huế trở thành nỗi ước mong. Sao mà xa xôi quá đỗi.
Vì thế mà nó vang lên thành tiếng lòng thôi thúc, vẫy gọi nhà thơ trở về.(Bài làm
học sinh bình về câu thơ đầu của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” – Hàn Mặc Tử).
8. Học mà chơi, chơi mà học:

14


Trong quá trình dạy học, để khuyến khích tư duy sáng tạo của học sinh, đồng
thời đem đến cho các em những giây phút thư giãn thú vị, tôi thường đan xen
một số trò chơi hoặc hoạt động mang tính chất ngoại khóa như: cho học sinh
nghe các bài hát được phổ nhạc từ các bài thơ trong chương trình (Tây Tiến –
Quang Dũng, Sóng – Xuân Quỳnh…), các bài đọc Ráp về thơ trong chương trình
Ngữ văn lớp 11 và lớp 12 đang rất phổ biến trên mạng Internet hiện nay (trong

đề tài này, tôi có gửi 3 video kèm theo). Các em rất hứng thú với hình thức này
và thuộc bài rất nhanh.
Ngoài ra, tôi còn tổ chức cho học sinh thi ngâm thơ và làm thơ theo chủ đề.
Hình thức này thường được tổ chức trong các tiết tự chọn hoặc sau phần tổng kết
bài học (nếu thời gian cho phép). Các học sinh mạnh dạn tham gia đều được
chấm điểm hoặc trao một phần quà nhỏ trước lớp như một hình thức động viên.
Đối tượng áp dụng hình thức này thường là học sinh khá, giỏi hoặc có năng
khiếu về văn nghệ. Tuy số lượng tham gia ít nhưng nhận được sự động viên rất
tích cực từ những “khán giả” còn lại. Những giây phút thư giãn như vậy sẽ giúp
cả giáo viên và học sinh giảm bớt áp lực học tập.
Để học sinh nắm được những kiến thức cơ bản về thơ, tôi còn khuyến khích các
em tham gia giải đáp ô chữ. Sau đây là ô chữ mà tôi đã từng hướng dẫn học sinh
và được các em hưởng ứng rất nhiệt tình.
Ô CHỮ VỀ THƠ.
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
Hàng ngang:
1. Nhà phê bình nổi tiếng của phong trào thơ mới 1932 – 1945. (Hoài Thanh)
2. Một bài thơ về nét đẹp văn hóa cổ truyền dân tộc của Vũ Đình Liên. (Ông đồ).
3. Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới là ai? (Xuân Diệu).
4. Một đề tài quen thuộc trong thơ. (Mùa thu)

15


5. Điền từ còn thiếu vào chỗ trống trong câu thơ sau trong Truyện Kiều – Nguyễn
Du: … con én đưa thoi. (Ngày xuân)
6. Một trong những nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu. (Trữ tình – chính
trị)
7. Một trong các thể thơ dân tộc có từ lâu đời. (Thơ lục bát)
8. Một bài thơ về chú bé liên lạc của Tố Hữu. (Lượm)
9. Một trào lưu thơ của Việt Nam góp phần làm nên “cuộc cách mạng trong thơ
ca” đầu thế kỉ XX. (Thơ mới)
10. Một trong những yếu tố tạo nên tính nhạc trong thơ. (Nhịp)
11. Hình tượng con sông quê hương gợi cảm hứng cho Hoàng Cầm sáng tác.
(Sông Đuống).
Hàng dọc: Tên một nhà thơ nữ nổi tiếng thời trung đại. (Hồ Xuân Hương).
IV. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:
Sau một thời gian năm áp dụng các biện pháp nói trên, bước đầu tôi đã thu được
những kết quả khả quan. Cụ thể:
1. Đối với học sinh đại trà, các em đã có cách cảm thụ thơ đúng với tinh thần thể
loại, không còn tình trạng hiểu thơ một cách chệch choạc, thiếu căn cứ.
2. Học sinh tỏ ra đặc biệt hứng thú với các hình thức học mà chơi, chơi mà học
và hào hứng đăng kí tham gia.
3. Những học sinh có năng khiếu văn chương biết cách phát huy tư duy sáng tạo,
có những cảm thụ mới mẻ về thơ và có thêm những lời bình hay, đặc biệt là khả
năng khai thác chi tiết nghệ thuật của các em tiến bộ rất nhanh. Một số em tự
sáng tác thường nhờ tôi góp ý về thơ của mình. Những bài viết tốt, tôi sẽ chọn
đăng trong câu lạc bộ học tập của trường (một hình thức tập san do Đoàn trường
tổ chức).
4. Dưới đây là kết quả khảo sát của một số lớp sau bài kiểm tra chất lượng giữa
kì về thơ năm học 2016 – 2017:

Lớp
10C2
11B3
11B6
12C5
12C7

Sĩ số
43
40
45
43
38

Dưới TB(%)
5(11%)
6(15%)
7(15%)
3(6%)
4(10,5%)

TB(%)
15(34%)
14(35%)
18(40%)
17(39%)
12(31,5%)

Khá, giỏi(%)
23(55%)

20(50%)
20(45%)
23(55%)
22(58%)

16


PHẦN III: KẾT LUẬN
I. Bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình thực nghiệm, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm quý báu cho việc
giảng dạy thơ trữ tình như sau:
1. Các biện pháp trên có thể áp dụng cho nhiều đối tượng học sinh, ở nhiều cấp
học.
2. Muốn rèn luyện kỹ năng cảm thụ thơ cho học sinh, bản thân thầy cô phải tự
rèn giũa lời ăn, tiếng nói, cách phát âm, cách đọc, lời giảng của mình để ngày
càng đạt đến độ mẫu mực. Đặc biệt qua quá trình chấm bài, trả bài kiểm tra, giáo
viên phải chỉ ra cho học sinh thấy những mặt mạnh, mặt yếu của các em, từ đó
giúp các em điều chỉnh phù hợp.
3. Những phương pháp mà thầy cô áp dụng trong quá trình dạy học thơ trữ tình
phải linh hoạt với các đối tượng học sinh. Đối với các học sinh có thiên hướng
học các môn khoa học tự nhiên, không nên đặt ra yêu cầu quá cao đối với các em
trong quá trình cảm thụ thơ. Đối với các học sinh yêu thích khoa học xã hội, giáo
viên có thể đặt ra yêu cầu cao hơn, hướng đến sự sáng tạo trong cách cảm thụ thơ
nhưng không vượt quá trình độ nhận thức của lứa tuổi.
4. Giáo viên cần định hướng rõ cho học sinh: không chỉ cảm thụ thơ mà đối với
các thể loại khác như: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí sự, phóng sự… học sinh cũng
cần nắm vững đặc trưng thể loại và có cách tìm hiểu phù hợp trên tinh thần chủ
động, tích cực.
II.Ý kiến đề xuất:

- Cần có thêm một số tiết tìm hiểu về kiến thức lí luận cho học sinh trong chương
trình Ngữ văn THPT.
- Nhà trường, tổ chuyên môn nên tổ chức các buổi hội thảo về phương pháp dạy
học thơ trữ tình để giáo viên có thể trao đổi, học tập, rút kinh nghiệm.
III.Lời cảm ơn:
Đề tài này đã và đang trong thời gian nghiên cứu, còn nhiều hạn chế, bất cập.
Tôi rất mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp, hội đồng khoa học của nhà
trường và những thông tin phản hồi từ học sinh để đề tài này hoàn thiện hơn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới BGH nhà trường, tổ chuyên môn, các bạn bè đồng
nghiệp và học sinh ở nhiều khối lớp, nhiều khoá học trong những năm qua đã
nhiệt tình quan tâm, hưởng ứng và giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này.

17


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình, không sao chép nội dung của
người khác.
Thanh Hóa, ngày 10 tháng 05 năm 2018
Người viết SKKN:

Phạm Ngọc Hà

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH:
1. Ba bộ sách giáo khoa Ngữ văn 10, 11,12 hiện hành – NXB Giáo dục.
2. Văn - Bồi dưỡng học sinh giỏi – Nguyễn Đăng Mạnh – Đỗ Ngọc Thống
(tập 1) – NXB ĐHQG Hà Nội.
3. Thi nhân Việt Nam – Hoài Thanh, Hoài Chân.

4. Muốn viết được bài văn hay – Nguyễn Đăng Mạnh.
5. Giáo trình phương pháp dạy học Văn – Phan Trọng Luận.

18


19



×