Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Nghiên cứu đa dạng cây thuốc thuộc ngành ngọc lan (magnoliophyta) tại khu bảo tồn thiên nhiên tà xùa, tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (770.87 KB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT
=============***=============

PHẠM QUỲNH ANH

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG CÂY THUỐC THUỘC NGÀNH NGỌC LAN (Magnoliophyta) TẠI
KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN TÀ XÙA, TỈNH SƠN LA
Chuyên ngành: Thực vật học
Mã số: 60 42 01 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Thế Bách

HÀ NỘI - 2015

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


LỜI CẢM ƠN
Luận văn hoàn thành theo chương trình đào tạo cao học khóa 17 tại Viện Sinh thái
và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm khoa học và Công nghệ Việt Nam. Hoàn thành luận
văn thạc sĩ này, tôi đã nhận được sự quan tâm của Ban lãnh đạo, Phòng Đào tạo
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến sự
giúp đỡ quý báu đó.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Trần Thế Bách – Viện Sinh thái và Tài


nguyên sinh vật đã trực tiếp chỉ dạy và hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn.
Luận văn nhận được những ý kiến tham gia, giúp đỡ của cán bộ Phòng thực vật,
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm khoa học và Công nghệ Việt Nam, dự
án “Tiềm năng sinh học của nguyên liệu sinh học ở Việt Nam”, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
với sự giúp đỡ quý báu đó.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn tới Ban lãnh đạo Đại học Tây Bắc, khoa Sinh Hóa đã
ủng hộ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn tới Ban quản lý Khu BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn
La đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới toàn thể gia đình, bạn bè đã động viên,
ủng hộ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhưng chắc chắn không tránh khỏi những thiết sót, tôi
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô, các nhà khoa học và bạn bè
đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày…..tháng…..năm 2015
Học viên

Phạm Quỳnh Anh

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và chưa được công bố ở bất kỳ công trình nào.
Hà Nội, ngày….tháng…..năm 2015

Phạm Quỳnh Anh


Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...............................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu .........................................................................................2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn..........................................................................3
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU...............................................................4
1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc............................................4
1.1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nước trên
thế giới ...............................................................................................................4
1.1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam. ..................10
1.1.3. Tình hình nghiên cứu cây thuốc tại khu BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La.... 18
1.2. Đặc điểm điều kiện tự nhiên – kinh tế và xã hội ở khu BTTN Tà
Xùa, tỉnh Sơn La ...............................................................................................19
1.2.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................19
1.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu BTTN Tà Xùa ......................................24
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU...................................................................................................26
2.1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu........................................................ 26
2.2. Nội dung nghiên cứu..................................................................................26
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu..........................................................................26
2.3.1. Điều tra thực địa theo tuyến ................................................................26
2.3.2. Điều tra tình hình khai thác sử dụng dược liệu ..................................27
2.3.3. Phương pháp thu thập – xử lí, phân tch và phân loại mẫu vật ........27
2.3.4. Phương pháp nghiên cứu dạng sống và yếu tố địa lý. .......................28
2.3.5. Phương pháp đánh giá đa dạng sinh học của cây thuốc ...................30
2.3.6. Đánh giá mức độ đe dọa ......................................................................30
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU...........................................................31


Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


3.1. Đa dạng cây thuốc thuộc ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) tại
khu bảo tồn thiên nhiên Tà Xùa, tỉnh Sơn La ..............................................31
3.1.1. Tính đa dạng các bậc taxon .................................................................31
3.1.2. Tính đa dạng họ ....................................................................................32
3.1.3. Tính đa dạng ở mức độ chi ..................................................................34
3.1.4. Tính đa dạng về dạng sống ..................................................................35
3.1.5. Tính đa dạng về yếu tố địa lý ...............................................................38
3.1.6. Tính đa dạng về bộ phận sử dụng .......................................................40
3.2. Một số nhóm bệnh đƣợc chữa trị bằng cây thuốc tại khu bảo tồn
thiên nhiên Tà Xùa – tỉnh Sơn La ..................................................................43
3.3. Các loài trong Sách Đỏ Việt Nam (2007), Nghị định 32/2006/NĐCP và Nghị định 160/2013/NĐ-CP..................................................................49
3.4. Một số bài thuốc của đồng bảo dân tộc tại khu bảo tồn thiên nhiên Tà Xùa,
tỉnh Sơn La...............................................................................53
3.5. Đề xuất các biện pháp bảo tồn các loài cây thuốc và nguồn tri thức bản địa cho
cộng đồng dân cƣ địa phƣơng ..........................................57
3.5.1. Tình hình khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên cây thuốc và bài
thuốc dân tộc tại khu BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La .........................................57
3.5.2. Các mối đe dọa đối với tài nguyên cây thuốc và tri thức sử dụng
cây thuốc tại khu BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La................................................57
3.5.3. Các biện pháp bảo tồn nguồn tài nguyên cây thuốc ở khu BTTN
Tà Xùa, tỉnh Sơn La ........................................................................................59
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .........................................................................63
Kết luận...............................................................................................................63
Kiến nghị ............................................................................................................64
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ.....................................65
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................66


Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


PHỤ LỤC .......................................................................................................... i Phụ lục 1:
Phiếu điều tra ................................................................................ ii Phụ lục 2: Danh lục các
loài cây thuốc khu BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La..... iv Phụ lục 3: Danh sách các loài cây có
tiềm năng chữa các nhóm bệnh tại
khu BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La. ............................................. xxiv Phụ lục 4:
Hoạt động điều tra và xử lí cây thuốc.................................... xxxix Phụ lục 5: Một số hình
ảnh về các loài cây thuốc tại khu vực nghiên cứu.... xli

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt

Viết đầy đủ

3440/QĐ-UB

Quyết định số 3440 của Ủy ban tỉnh Sơn La.

32/2006/ NĐ-CP

Nghị định số 32 năm 2006 của chính phủ.

160/2013/NĐ-CP


Nghị định số 160 năm 2013 của chính phủ.

BTTN

Bảo tồn thiên nhiên

CR

Critically Endangered: Rất nguy cấp

EN

Endangered: Nguy cấp

NCI

National Cancer Institute: Viện Ung thư Hoa Kỳ

NXB.

Nhà xuất bản

PRA

Participatory Rural Appraisal
Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của
người dân.

RRA


Rapid Rural Appraisal: Phương pháp đánh giá nhanh
nông thôn

SCN

Sau công nguyên

TCN

Trước công nguyên

VU

Vulnerable: Sẽ nguy cấp

WHO

World Health Organization: tổ chức y tế thế giới

WWF

World Wide Fund For Nature: Quỹ quốc tế bảo vệ
thiên nhiên.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1.


Sự phân bố các loài cây thuốc trong các taxon thuộc ngành
Ngọc lan (Magnoliophyta) ở khu BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La ...31

Bảng 3.2.

Các họ có nhiều loài nhất tại khu BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La. .....32

Bảng 3.3.

Các chi có nhiều loài cây thuốc nhất tại khu BTTN Tà Xùa.......34

Bảng 3.4.

Dạng sống của các loài cây thuốc thuộc ngành Ngọc lan
(Magnoliophyta) ở khu BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La. ..................36

Bảng 3.5.

Đa dạng yếu tố địa lý các loài cây thuốc thuộc ngành Ngọc
lan (Magnoliophyta) ở khu BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La. ............39

Bảng 3.6.

Sự đa dạng trong các bộ phận sử dụng làm thuốc........................41

Bảng 3.7.

Số lượng các loài có tiềm năng chữa bệnh, nhóm bệnh. .............43

Bảng 3.8.


Các cây thuốc quý hiếm có nguy cơ cạn kiệt (Các loài ở thứ
hạng trong Sách Đỏ Việt Nam 2007)............................................49

Bảng 3.9.

Các loài cây thuốc trong nghị định 32/2006/NĐ-CP ...................52

Bảng 3.10. Loài cây thuốc có trong Nghị định 160/2013/NĐ-CP (Các loài
thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tên bảo vệ) .....53
Bảng 3.11. Một số bài thuốc của đồng bào khu BTTN Tà Xùa sử dụng...... 54
Bảng 3.12. Các loài có tiềm năng chữa Rắn cắn........................................ xxiv Bảng 3.13.
Các loài có tiềm năng chữa bệnh Thấp khớp. ........................ .xxvi Bảng 3.14. Các loài có
tiềm năng chữa Lị. .............................................. xxviii Bảng 3.15. Các loài có tiềm năng
chữa Lợi tiểu, chữa Viêm gan, chữa
Sốt rét ........................................................................................ xxx Bảng 3.16.
Các loài có tiềm năng Giải độc, chữa Bạch đới, chữa Tim mạch ... xxxii Bảng 3.17. Các loài
có tiềm năng chữa Đau mắt ..................................... xxxiii Bảng 3.18. Các loài có tiềm
năng chữa Cảm cúm, chữa Đau răng, chữa
Lậu, chữa bệnh Trĩ, chữa Xuất huyết não ............................ xxxiv

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


Bảng 3.19. Các loài có tềm năng chữa Viêm thận, Viêm họng, Hen suyễn, Viêm dạ
dày và Sỏi niệu ............................................. xxxv
Bảng 3.20. Các loài có tiềm năng chữa Vô sinh, Tiểu đường, Lợi sữa, Quai bị, Ung
thư, Viêm não, Xơ gan, Bại liệt, An thần, Viêm
giác mạc, Viêm xoang, Giang mai ....................................... xxxvii


Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Bản đồ khu BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La..........................................23
Hình 3.1. Sự phân bố của các loài cây thuốc trong các taxon thuộc ngành
Ngọc lan (Magnoliophyta) ở khu BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La.......31
Hình 3.2. Các họ có nhiều loài nhất tại khu BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La.......33
Hình 3.3. Các chi có nhiều loài cây thuốc nhất................................................34
Hình 3.4. Đa dạng dạng sống của các loài cây thuốc ......................................37
Hình 3.5. Yếu tố địa lý các loài cây thuốc khu BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La. ....40
Hình 3.6. Đa dạng bộ phận sử dụng làm thuốc................................................41
Hình 3.7. Loài cây thuốc có tiềm năng chữa bệnh, nhóm bệnh tại khu
BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La..............................................................44

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xa xưa, các loài thảo dược luôn được con người đánh giá cao bởi khả năng làm
giảm đau các vết thương và chữa bệnh. Trải dài lịch sử, loài người không ngừng tìm tòi,
phát triển những phương thức chữa bệnh cổ truyền. Các loài thảo dược và các bài thuốc
chữa bệnh gắn với những đặc trưng riêng của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Cùng với sự phát
triển của khoa học kỹ thuật con người đã biết áp dụng những thành tựu về hóa học, sinh
học,…để nghiên cứu cây thuốc. Sự kết hợp giữa y học cổ truyền và khoa học hiện đại đã
chứng minh cơ sở khoa học của các loại thảo dược thông qua thành phần hóa học, tác
dụng kháng khuẩn,...[22]. Nhiều hoạt chất quan trọng như quinin, morphin, ajmalicin,
vincaleucoblastin, dogoxin…đều phải tách chiết từ thảo dược mà chưa có thể đi bằng con
đường tổng hợp. Ngày nay đã có nhiều chứng minh khoa học cho thấy việc sử dụng các

loại thuốc thảo dược để chữa bệnh có hiệu quả tương đương với các loại thuốc tây y mà
hầu hết là an toàn [22]. Vì vậy hiện nay việc chăm sóc, điều trị bệnh bằng thuốc có nguồn
gốc từ thảo dược là một trong những xu hướng thu hút sự quan tâm và nghiên cứu.
Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu gió mùa nóng ẩm, có thảm thực vật rất
phong phú và đa dạng. Theo thống kê nước ta có hơn 12.000 loài thực vật bậc cao có
mạch thì có tới 4.472 loài cây sử dụng làm thuốc [18]. Nguồn tài nguyên cây thuốc đang
được khai thác, sử dụng để chăm sóc sức khỏe, phát triển kinh tế, giữ gìn bản sắc của các
nền văn hóa. Tuy nhiên hiện nay nguồn tài nguyên cây thuốc đang bị đe dọa nghiêm trọng.
Những cây thuốc được thương mại hóa và khai thác cạn kiệt. Việc nghiên cứu gây trồng
cây thuốc còn hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường là nguy cơ lớn ảnh hưởng
tới sự tồn tại và phát triển cây thuốc tự nhiên. Tri thức sử dụng cây thuốc ngày càng bị mai
một do nhiều bài thuốc chưa được hệ thống hóa mà chỉ được nhân dân lưu

1


trữ bằng truyền miệng, ít người biết tới. Số lượng các ông lang, bà mế người dân tộc thiểu
số có nhiều những bài thuốc hiệu quả đang giảm mạnh. Thế hệ trẻ ngày nay ít quan tâm
tới những tri thức sử dụng cây cỏ làm thuốc từ thế hệ trước [22].
Các Vườn Quốc gia, các khu BTTN là nơi bảo vệ và duy trì lâu dài tnh đa dạng loài
và gen, các nguồn tài nguyên thiên nhiên [59]. Khu BTTN Tà Xùa được thành lập theo
quyết định số 3440/QĐ-UB ngày 11/11/2002 của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La. Đây là khu
bảo tồn tiêu biểu cho rừng kín thường xanh núi cao vùng Tây Bắc, rừng ở đây không
những phong phú về tài nguyên thực vật mà còn có giá trị bảo tồn cao bởi lưu giữ
nhiều loài thực vật quý, vai trò quan trọng trong hệ thống rừng phòng hộ đầu nguồn
sông Đà [42]. Tuy nhiên hiện nay hệ sinh thái rừng cũng đang bị xâm hại, đối mặt với
những sức ép lớn từ nhu cầu cuộc sống của người dân địa phương. Cộng đồng dân sống
chủ yếu là người H’Mông. Họ sinh sống ở đây từ lâu đời với tập quán du canh du cư,
phát rừng làm nương rẫy, chăn thả gia súc và chặt phá rừng nên ảnh hưởng không nhỏ
đến tài nguyên thực vật nói chung và tài nguyên cây thuốc nói riêng [9],[13],[38]. Trước

thực trạng nêu trên thì việc nghiên cứu điều tra về tài nguyên thực vật có giá trị làm
thuốc, xây dựng kế hoạch quản lý, bảo tồn tnh đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường và
phát triển bền vững những tri thức bản địa về cây thuốc tại vùng bảo vệ và vùng đệm
đồng thời góp phần phát triển kinh tế xã hội của khu BTTN Tà Xùa là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi thực hiện đề tài Nghiên cứu đa dạng cây
thuốc thuộc ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) tại khu bảo tồn thiên nhiên Tà Xùa, tỉnh
Sơn La.
2. Mục têu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá sự đa dạng tài nguyên cây thuốc, kinh nghiệm sử dụng cây
thuốc của đồng bào dân tộc ở khu BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La.


2.2. Mục tiêu cụ thể
Tập hợp một cách hệ thống các loài cây thuốc thuộc ngành Ngọc lan
(Magnoliophyta) ở khu BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La.
Đánh giá mức độ đa dạng về thành phần các taxon, các bệnh chữa trị. Cung cấp
thông tin một số bài thuốc của đồng bào dân tộc ở khu BTTN
Tà Xùa, tỉnh Sơn La.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
Cung cấp dữ liệu khoa học về đa dạng cây thuốc thuộc ngành Ngọc lan
(Magnoliophyta) ở khu BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Làm cơ sở khoa học để bảo tồn, phát triển bền vững các loài cây thuốc
ở BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La.
Là cơ sở khoa học cho việc xây dựng chiến lược trong các chương trình quy hoạch,
quản lý, bảo vệ, phát triển tài nguyên thực vật ở khu BTTN Tà Xùa, tỉnh Sơn La.



Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc
1.1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nước trên thế giới
Những kiến thức về thảo dược đã được quan tâm và tm hiểu ngay từ thời các bộ
tộc nguyên thủy. Trong quá trình con người tìm kiếm thức ăn họ đã tìm hiểu về cây cỏ
xung quanh để tìm hiểu các cây dùng được làm thức ăn và các cây có độc cho con người.
Dần dần, trong tiến trình phát triển của lịch sử loài người, những kinh nghiệm thu được
một cách ngẫu nhiên được truyền miệng từ người này sang người khác rồi tới các thực
nghiệm khoa học.
Ngày nay các nhà khoa học đã tìm thấy những bằng chứng sử dụng thảo dược
như dấu vết của các hạt phấn hoa tại nơi chôn cất của người Neandertan. Tuy nhiên, các
bằng chứng về việc sử dụng thảo dược thời tiền sử còn khá ít. Khoảng 5.000 – 6.000
năm TCN cư dân vùng hồ Thụy Sĩ đã sử dụng thảo dược để chữa bệnh, trong đó có
khoảng 200 loài định danh được và một số loài vẫn còn được sử dụng làm thuốc[13],[14].
Khi chữ viết ra đời, các kinh nghiệm về việc sử dụng cây cỏ làm thuốc được ghi chép lại.
Văn bản cổ xưa nhất được tìm thấy là bản đất nung của người Assyri (2700 TCN), các cuộn
giấy papirus của người Ai Cập (1700 TCN) [13],[36]. Trong nhiều ghi chép cổ để lại, rễ cây
Thục quỳ (Althea oficinalis), cây Lan dạ hương (Hyacinthus), cây Cỏ thi (Achillea
milefolium) được cất giữ trong các bộ xương có niên đại vào thời kỳ đồ đá ở Iraq. Cũng
trong khoảng thời gian này, việc sử dụng cây thuốc cũng bắt đầu phát triển ở Ấn Độ và
Trung Quốc.
Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều kế thừa và phát triển những kinh nghiệm của tổ
tên, tếp thu những kiến thức y học của các dân tộc, quốc gia khác đã dần làm cho kinh
nghiệm sử dụng thuốc của loài người ngày càng phong phú.


Trung Quốc là quốc gia có nền y học cổ truyền phát triển rất sớm và
được coi là cái nôi của nền y học cổ truyền. Thần Nông (3320 – 3080 TCN) một nhà dược

học đã nghiên cứu và tìm hiểu tác dụng của các cây thảo bằng cách uống, nếm rồi ghi
chép chi tiết. Trong cuốn “Thần Nông bản thảo” 365 vị thuốc có giá trị đã được ông
thống kê lại dùng để chữa khoảng 170 loại bệnh trong đó có nhiều loài cây vẫn còn
được sử dụng tới ngày nay như Gai mèo (Cannabis sp.) sử dụng để chống nôn, Đại
phong tử (Hydnocarpus kurzii) làm thuốc chữa bệnh phong [13],[14],[36]. Vào thời Tam
Quốc, danh y Hoa Đà đã sử dụng Đàn hương, Tử đinh hương để chế hương nang
(túi thơm) để phòng và chữa trị bệnh lao phổi và bệnh lỵ. Ông cũng đã sử dụng hoa
Cúc, Kim ngân phơi khô cho vào hương chẩm (chiếc gối) để chữa chứng đau đầu, mất
ngủ, huyết áp cao. Năm 168 TCN (từ thời nhà Hán) trong cuốn sách “Thủ hậu bị cấp
phương” của danh y Cát Hồng, tác giả đã đề cập tới 52 đơn thuốc chữa bệnh có nguồn
gốc từ thảo dược. Ông là người đi tiên phong trong việc bào chế thuốc bằng phương
thức hóa học [13],[24],[26]. Giữa thế kỷ XVI, Lý Thời Trân trong tập “Bản thảo cương
mục” đã thống kê 12.000 vị thuốc và phương thuốc trong đó có 1892 vị thuốc với 1094 vị
thảo dược được nhà xuất bản Y học trích dẫn năm 1963, tác phẩm có tầm quan trọng
trong việc phân loại thuốc, điều chỉnh các đơn thuốc để tránh nhầm lẫn xảy ra trong quá
trình điều trị[58]. Gần đây nhất cuốn sách “Cây thuốc Trung Quốc” xuất bản năm 1985 đã
liệt kê hầu hết các loại cây cỏ chữa bệnh có tại Trung Quốc.
Ấn Độ là nước có nền y học phát triển và có tầm ảnh hưởng lớn tới các
nước trong khu vực. Các kiến thức y học và việc sử dụng cây thuốc của người
Ấn Độ được đề cập sớm nhất trong kinh Vệ đà (Ayurveda) xuất hiện khoảng
4000 – 1000 năm TCN. Trong đó có nhiều loài cây được xem là những “cây thiêng” dành
cho những vị thần đặc biệt, như cây Trái nấm (Aegle marmelos) là cây dành riêng cho
thánh thần của người Hindu, thánh Lakshmi (thánh


mang loại sự giàu có và may mắn), thánh Samhita (vị thánh của sức khỏe). Hai thầy
thuốc Ấn Độ sống vào đầu công nguyên là Charaka (thế kỷ thứ 2) và Susruta (thế kỷ thứ
4) đã ghi chép lại kinh nghiệm sử dụng cây thuốc trong các tác phẩm của họ[9],[13],
[14]. Vào khoảng những năm 400 TCN cuốn “Charaka Samhita” đã trình bày chi tiết
350 loài thảo dược được sử dụng chữa bệnh trong đó nổi bật có Cần ami (Ammi

visnaga) gần đây đã được chứng minh có hiệu quả trong điều trị bệnh hen suyễn.
Susruta cũng đã mô tả
760 loại dược liệu trong đó có Gai dầu (Cannabis) và Hyoscyamus làm thuốc
gây tê [14]. Hiện nay Ấn Độ là quốc gia rất phát triển về nghiên cứu thảo
dược như tổng hợp chất hữu cơ, tách chiết chứng minh cấu trúc, sàng lọc sinh học, thử
nghiệm độc tính và nghiên cứu tác dụng hóa học của các chất tới cơ thể con người. Hầu
hết các viện nghiên cứu dược liệu của Ấn Độ đang nghiên cứu chuyển hóa các loại thuốc
và hợp chất có hoạt tính từ thực vật.
Ở châu Phi, việc sử dụng liệu pháp điều trị bằng cây thuốc đã có từ thời xa xưa.
Những bản viết tay có từ thời Ai Cập cổ đại (1950 TCN) đã liệt kê hàng chục loài cây thuốc
và công dụng của chúng. Trong bản giấy cói của dân tộc Ebers (khoảng 1500 TCN) đã ghi
lại hơn 870 toa thuốc và công thức, 700 loại dược thảo và các chứng bệnh, từ bệnh phổi
và các vết thương do Cá sấu cắn. Vào khoảng thế kỷ XIII, nhà thực vật học Ibn El Beitar đã
xuất bản cuốn “Các vấn đề y khoa” thống kê chủng loại thuốc ở Bắc Phi [9],[13].
Dược thảo ở châu Âu rất đa dạng và phần lớn dựa trên nền tảng của y học
truyền thống cổ điển. Hy Lạp và Roma là hai quốc gia có nền văn minh phát triển, những
hiểu biết của họ về thảo dược được sử sách ghi nhận từ khá sớm. Hippocrates (460 – 377
TCN) là thầy thuốc nổi tiếng của Hy Lạp, ông được xem là người thầy thuốc giỏi nhất
của cổ đại. Ngoài những công trình về giải phẫu ông còn đưa vào sử dụng hơn 200 cây
thuốc [9],[13],[22]. Ông được


mệnh danh là cha đẻ của y học hiện đại phương Tây. Hippocrates tn rằng “bệnh
là do tác động của môi trường chứ không phải do các thế lực siêu nhiên”.
Văn minh La Mã thừa hưởng rất nhiều các thành tựu của văn minh Hy Lạp. Celsus
viết bộ sách “De Medicina” vào khoảng năm 25 – 35. Đây là một bộ sách về y khoa rất có
giá trị của nền y học La Mã. Dioscorides (khoảng năm 40 – 90) đã viết tập sách “De
Materia medica”. Ông đã mô tả trên 600 loài cây có tác dụng chữa bệnh, là tài liệu tham
khảo chính cho y học Châu Âu thế kỷ XVII [13],[14]. Cuốn sách được dịch ra nhiều ngôn
ngữ khác nhau như tiếng Anh cổ, tếng Ba Tư, tiếng Hebrew. Galen (129 – 199), một thầy

thuốc của hoàng đế La Mã Marcus Aurelius, là người có ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát
triển của các vị thuốc bào chế từ thảo mộc. Ông đã viết rất nhiều cuốn sách và áp dụng
trong ngành y ở châu Âu hơn 1.500 năm [13].[14].
Vào thời kỳ Trung cổ, những hiểu biết và cách sử dụng thảo dược chủ yếu được các
thầy tu sưu tầm, nghiên cứu như vào khoảng thế kỷ XI SCN.Tại Scotlan các thầy tu đã sử
dụng cây Thuốc phiện (Papaver omnirierum) và cây Cần sa (Cannabis sativa) để làm thuốc
giảm đau và thuốc gây mê. Họ trồng cây thuốc và dịch các tài liệu về cây thuốc bằng tiếng
Ả Rập. Năm 1649, Nicolas Culpeper (1616 – 1654) đã viết cuốn sách “A Physical Directory”,
sau đó vài năm ông tiếp tục xuất bản cuốn “The English Physician” [13],[14]. Đây là cuốn
dược điển có giá trị và là một trong những tài liệu hướng dẫn giành cho nhiều đối tượng
và người không chuyên có thể sử dụng trong việc điều trị, chăm sóc sức khỏe. Cho đến nay
cuốn sách vẫn được tham khảo và trích dẫn rộng rãi.
Y học dân tộc Bungari “Đất nước của hoa hồng” đã coi Hoa hồng là một vị
thuốc chữa được nhiều bệnh, người ta dùng cả hoa, lá, rễ để làm thuốc tan huyết ứ và
bệnh phù thũng. Ngày nay, người ta đã chứng minh rằng trong cánh Hoa hồng có một
lượng tanin, glycosid, tnh dầu đáng kể. Tinh dầu này không chỉ để chế nước hoa mà còn
được dùng để chữa nhiều bệnh [13],[37].


Trong đời sống xã hội, thầy lang và các bài thuốc cổ truyền đóng một vai trò quan
trọng đối với sức khỏe con người. Cùng với các phương thức chữa bệnh theo kinh
nghiệm dân gian, các nhà khoa học trên thế giới đã tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu cơ chế
và các hợp chất hóa học trong cây có tác dụng chữa bệnh, ghi chép và đúc rút thành
những cuốn sách có giá trị. Các nhà khoa học trên thế giới đều công nhận rằng hầu hết
các cây cỏ đều có tính kháng sinh, đó là khả năng miễn dịch tự nhiên của thực vật. Cho
đến nay, nhiều hợp chất từ thảo dược có tác dụng kháng khuẩn đã được xác định cấu trúc
như phenolic, antoxy, các dẫn xuất quino, alcaloid, flavonoid, saponin,… Gotthall (1950)
đã phân lập được chất Glucosid barbaloid từ cây Lô hội (Aloe vera), chất này có tác dụng
với Baccilus subtlis và vi khuẩn lao ở người. Lucas và Lewis (1994) đã chiết xuất một
hoạt chất có tác dụng với các vi khuẩn gây bệnh tả, lị, mụn nhọt từ Kim ngân (Lonicera

sp.). Từ cây Hoàng liên (Coptis teeta), người ta đã chiết xuất được berberin. Trong lá
và rễ cây Hẹ (Allium odorum) có các hợp chất sulfua, saponin và chất đắng. Năm 1948,
Shen Chi Shen phân lập được hoạt chất odorin ít độc đối với động vật bậc cao nhưng lại có
tác dụng kháng khuẩn. Reserpin và serpentin là chất hạ huyết áp
được chiết xuất từ cây Ba gạc (Rauvolfa spp.). Đặc biệt, ở cây Dừa cạn đã chiết xuất được
chất vinblastin và vincristin có tác dụng hạ huyết áp và làm thuốc chống ung thư. Digitalin,
strophantin dùng làm thuốc trợ tm được chiết xuất từ cây Sừng dê (Strophanthus spp.),
Dương địa hoàng (Digitalis spp.). Từ những nghiên cứu về cấu trúc và hoạt tính, nhiều
loại thuốc đã ra đời bằng phương pháp tổng hợp hoặc bán tổng hợp. Tuy nhiên, các
chất này thường gây độc cho tế bào và các tác dụng không mong muốn. Do tác dụng
chữa bệnh là sự kết hợp của nhiều thành phần có trong cây thuốc [14]. Vì vậy, việc sử
dụng thảo dược chữa bệnh được quan tâm nhiều hơn.


Từ năm 1950 – 1980 sau khi thử tác dụng chống ung thư của 40.000 loài thảo
mộc, người ta phân lập được một số chất có hoạt tính chống ung thư, trong đó có chất
paclitaxel có tác dụng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư buồng trứng được phân lập
từ cây Taxus brevifolia [13],[14]. Viện Ung thư Hoa Kỳ (CNI) đã điều tra nghiên cứu sàng
lọc hơn 40.000 mẫu cây thuốc, phát hiện hàng trăm cây thuốc chữa bệnh ung thư [13],
25% đơn thuốc ở Mỹ sử dụng chế phẩm có dược tnh mạnh được điều chế từ một loại
hoa hồng Cantharanthus roseus, đặc biệt ở Madagasca người ta dùng cây này chữa bệnh
máu trắng và tăng tỉ lệ sống của trẻ em từ 10 lên 90% [13].
Theo thống kê của WWF, trên thế giới có khoảng 250.000 - 270.000 loài thực
vật bậc cao thì có đến 35.000 - 70.000 loài được sử dụng làm thuốc chữa bệnh. Trong đó
Trung Quốc có trên 10.000 loài, Ấn Độ có khoảng 7.500
- 8.000 loài, Indonesia có khoảng 7.500 loài, Malaysia có khoảng 2.000 loài, Nepal có hơn
700 loài, Srilanka có khoảng 550 - 700 loài [18]. Theo thống kê của WHO hiện có trên
20.000 loài thực vật bậc cao có mạch và ngành thực vật bậc thấp được sử dụng trực tiếp
làm thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất tự nhiên. Trong đó, vùng nhiệt đới châu Mỹ có hơn
1.900 loài, vùng nhiệt đới châu Á có khoảng 6.500 loài thực vật có hoa được dùng làm

thuốc.
Song song với những nghiên cứu về sử dụng cây thuốc, vấn đề bảo tồn nguồn tài
nguyên cây thuốc, kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân tộc trên thế giới cũng được
quan tâm nhiều hơn. Theo Raven (1987) và Ole Harmann (1988) cho rằng trong vòng
hơn trăm năm trở lại đây có khoảng
1.000 loài thực vật đã bị tuyệt chủng. Có tới 60.000 loài đang ở mức độ nguy hiểm. Trong
số những loài thực vật bị mất đi hoặc đe dọa có nhiều loài cây thuốc quý hiếm và có giá trị
kinh tế cao như các loài Tylophora indica, Zannia indica, Rauvolfia serpentina. Nguyên
nhân gây nên sự suy giảm nghiêm trọng về mặt số lượng của các loài cây thuốc là do
thảm thực vật bị tàn phá, khai


thác quá mức và sử dụng lãng phí. Ngày nay, vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học nói chung
và bảo tồn cây thuốc nói riêng đang là nhiệm vụ hàng đầu của nhiều quốc gia.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam.
Việt Nam là nơi giao lưu của các nền văn hóa trong đó có văn hóa Trung Hoa
và Ấn Độ, là ngôi nhà chung của 54 dân tộc, với những kinh nghiệm và tri thức sử dụng
cây thuốc khác nhau.
Nền y học của dân tộc ta có một lịch sử lâu đời. Vào khoảng 4000 TCN Thần Nông
(Thần nông nghiệp – theo truyền thuyết là tổ tiên của vua Hùng) đã dạy cho người dân biết
sử dụng các loại ngũ cốc, thực phẩm và phân biệt cây cỏ có tác dụng chữa bệnh.
Vào thời Hồng Bàng (2879 TCN – 258 TCN) tổ tiên ta đã biết kết hợp một số dược
liệu (vỏ Lựu, Ngũ bội tử, Cánh kiến) để nhuộm răng, tục nhai trầu (Trầu, Cau, vôi) để
bảo vệ răng và da dẻ hồng hào, biết uống chè vối để dễ tiêu, sử dụng bột Đao trong thân
cây Bàn, quả Cọ, Móc để chống đói, biết dùng Gừng ăn với chim, cá, ba ba cho đỡ tanh và
dễ tiêu, thói quan ăn Tỏi, Hành, Gừng trong bữa ăn để phòng tránh bệnh. Từ thời Hùng
Vương người dân đã biết ủ và cất rượu dùng để uống và làm thuốc. Theo nhiều tài liệu sử
học, dưới thời Nam Việt – Giao Chỉ đã có nhiều vị thuốc được phát hiện như Cau, Ý dĩ,
Long nhãn, Trầm hương,.. [14],[22],[9],[36].
Thời nhà Lý (1010 – 1224) năm 1136 vua Lý Thần Tông bị bệnh điên cuồng, lông lá

mọc đầy người, miệng gào thét đã được Minh Không thiền sư ở chùa Giao Thủy nấu
nước lá Bồ hòn cho tắm đã trở lại bình thường.
Thời nhà Trần (1225 – 1399) xuất hiện một số lương y tiêu biểu. Lương y Tuệ Tĩnh
với chủ trương “thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt”. Trong tác phẩm “Nam dược
thần hiệu” gồm 11 quyển nói về dược tnh của 499 vị thuốc nam, 3.932 phương thuốc trị
184 loại bệnh của 10 khoa lâm sàng [26].


Ngoài ra ông còn một số các tác phẩm như “Thập tam phương gia giảm” , “Tuệ Tĩnh y
thư”, “Thương hàn tam thập thất trùng pháp” [13],[14],[26]. Tuệ Tĩnh là người mở đầu
cho nghiên cứu thuốc nam, xây dựng nền móng y học dân tộc và được nhân dân gọi là “Vị
thánh thuốc nam”.
Thời kỳ nhà Hồ (1400 – 1427) triều đình có chủ trương chữa bệnh rộng rãi cho
nhân dân. Thời kỳ này có Nguyễn Đại Năng biên soạn “Châm cứu tiệp hiệu diễn ca” bằng
thơ để phổ biến cho nhân dân, vận dụng 120 huyệt để chữa nhiều bệnh hiểm nghèo (sốt
rét, động kinh), ngoài ra còn có Vũ Toàn Trai, Lý Công Tuấn đều là những người biên soạn
các tác phẩm châm cứu giá trị [13].
Thời triều Lê (1428 – 1788), nhà Lê đã quan tâm và chú trọng tới việc phát triển
nền y học cổ truyền và quan tâm tới sức khỏe nhân dân. Thời kỳ này xuất hiện nhiều
lương y nổi tiếng như Hoàng Đôn Hòa với tác phẩm “Hoạt nhân toát yếu” gồm nhiều
phương thuốc chữa bệnh [13]. Nguyễn Trực với “Bảo anh lương phương” [14]. Tiêu biểu
nhất cho nền y học thời kỳ này là danh y Hải Thượng Lãn Ông, tên thật là Lê Hữu Trác
(1720 -1791). Ông là
người am hiểu nhiều về y học, sinh lý học, có đóng góp lớn cho nền y học cổ truyền Việt
Nam. Ông đã kế thừa dược học của Tuệ Tĩnh chép vào tập “Lĩnh nam bản thảo” nội dung
496 vị thuốc nam và bổ sung thêm 300 vị mới [26],[36]. Tác phẩm vĩ đại nhất của ông là
“Hải Thượng y tông tâm lĩnh” gồm
28 tập, 66 quyển đã mô tả khá chi tiết về đặc điểm, các đặc tnh chữa bệnh của thảo
dược như Mã tiền trị thấp khớp; Ba gạc, Tầm gửi trị trúng phong tê liệt... Tác phẩm này
được đánh giá là công trình y học xuất sắc trong thời trung đại Việt Nam. Ông được

mệnh danh là ông tổ sáng lập ra nghề thuốc Việt Nam[14],[23].
Dưới triều Tây Sơn (1789 – 1802), tiến sỹ Nguyễn Gia Phan biên soạn cuốn “Liệu
dịch phương pháp toàn tập”. Danh y Nguyễn Quang Tuấn biên soạn cuốn “La Khê
phương dược” gồm 13 cuốn và cuốn “Kim ngọc quyển”


viết bằng chữ nôm ghi lại nhiều phương thuốc gia truyền [14]. Lương y Nguyễn Hoành với
tập “Nam dược” với 620 vị với các phương thuốc kinh nghiệm trong Gia truyền bí phương
và Kinh nghiệm lương phương [14],[61].
Đầu triều nhà Nguyễn (1802 – 1845) có “Nam dược tập nghiệm Quốc
âm” của Nguyễn Quang Lượng ghi chép về các phương thuốc dân gian. “Ngư thiều y thuật
vấn đáp” của Nguyễn Đình Chiểu [25]. “Nam Thiên Đức Bảo toàn thư” của Lê Đức Huệ
với 511 vị thuốc nam và bệnh học. “Nam Bang thảo mộc” của Trần Nguyệt Phương
trong đó có viết nhiều cây thuốc theo kinh nghiệm[14],[22].
Trong thời kỳ Pháp thuộc (1884 - 1945), nền y học cổ truyền Việt Nam chịu ảnh
hưởng nhiều của dược học phương Tây. Các phương thức chữa bệnh mới được mang đến
qua quá trình khai thác thuộc địa, đã gián tiếp thúc đẩy quá trình nghiên cứu thực vật
của Việt Nam nói chung và nghiên cứu cây thuốc nói riêng. Tuy nhiên, trong thời kỳ này
y học cổ truyền nước ta vẫn có “Trung Việt dược tnh hợp biên” của Đinh Nho Chân và
Phạm Văn Thái gồm
16 cuốn với 1600 vị thuốc nam bắc viết công dụng và cách chế biến của hơn
1655 vị thuốc nam và bắc [14]; “Việt Nam Dược học” gồm 5 cuốn bằng tiếng việt của Phó
Đức Thành [13]. “Nam bang thảo mộc” nêu tên và mô tả công dụng của 100 loài cây
thuốc của tác giả Trần Nguyên Phương. “Y học Tùng thư” gồm 16 cuốn của Nguyễn An
Nhân [9],[14].
Trong thời kỳ này, tài nguyên thực vật phong phú ở nước ta đã hấp dẫn nhiều nhà
nghiên cứu phương Tây. Họ đã để lại một số công trình như: J. Loureiro (Bồ Đào Nha)
trong “Flora Cochinchinensis” năm 1970 đã mô tả
700 loài cây. L. Pierre (Pháp) trong “Flore Forestere dela Cochinchine” đã mô tả 800 loài
cây gỗ. Ch.Crevost và A.Pétélot vớiCatalogue des produits de l’Indochine – Produits

médicinaux. Nổi bật phải kể đến bộ sách “Catalogue des produits de L’Indochine” của
Pétélot (1928 – 1935) trong đó tập V


(Produits medicinaux, 1928) đã mô tả 368 cây thuốc và vị thuốc là các thực vật có hoa.
Đến năm 1952 tác giả tái bản lại cuốn sách, bổ sung và đặt tên mới là “Les plantes
medicinales du Cambodge, du Laos et du Vietnam” gồm
4 tập, 1.050 trang và đã thống kê được 1.482 loài thảo mộc trên ba nước Đông
Dương [14],[70].
Từ ngày cách mạng tháng tám năm 1945 cho đến nay, đất nước ta rất quan tâm
tới việc kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại. Trong thư gửi cán bộ y tế ngày
27/02/1955 Bác Hồ có viết “Y học phải dựa trên nguyên tắc khoa học, dân tộc, đại
chúng. Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng
thuốc Ta, thuốc Bắc. Để mở rộng phạm vi y học các cô, các chú cũng nên chú trọng
nghiên cứu và phối hợp thuốc Đông và thuốc Tây”. Nhiều cơ sở và tổ chức y dược học
cổ truyền đã được thành lập như Viện nghiên cứu Đông y, Viện Y dược học dân tộc, Viện
Dược liệu, Hội Đông y,... Các nhà khoa học Việt Nam đã có nhiều thuận lợi trong việc sưu
tầm, nghiên cứu nguồn tài nguyên cây thuốc và đã có rất nhiều công trình
điều tra cây thuốc được tiến hành và công bố.
Đỗ Tất Lợi (1957) biên soạn bộ “Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam” gồm 3
tập. Năm 1961 tái bản in thành 2 tập, trong đó tác giả mô tả và nêu công dụng của hơn
100 cây thuốc nam.
Đỗ Tất Lợi (1962;1965) xuất bản bộ “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” gồm
6 tập. Bộ sách tái bản lại nhiều lần và bổ sung thêm các vị thuốc có nguồn gốc thảo
mộc. Gần đây nhất là lần tái bản lần thứ 10 (2005); trong đó, ông đã mô tả tỉ mỉ tên khoa
học, phân bố, công dụng, thành phần hoá học, chia tất cả các cây thuốc đó theo các nhóm
bệnh khác nhau [43].
Vũ Văn Chuyên (1976) khi nghiên cứu về tài nguyên cây thuốc tác giả đã tóm tắt các
đặc điểm cơ bản của 259 họ cây thuốc, cơ sở để tìm hiểu, nghiên cứu về cây thuốc, đồng
thời có kèm theo danh sách các cây thông thường thuộc về họ đó [21].



Võ Văn Chi (1997) biên soạn “Từ điển cây thuốc Việt Nam” gồm hơn
3.100 loài cây thuốc, trong đó thực vật có hoa là 2.500 loài thuộc 1.050 chi,
230 họ [16]. Năm 2012 bộ sách được tái bản lại đã mô tả hình thái, bộ phận sử dụng,
nơi sống và thu hái, công dụng của 4.472 loài cây thuốc sắp xếp theo hệ thống Takhtajan
[18].
Võ Văn Chi và Trần Hợp (1999;2002) nghiên cứu về cây cỏ có ích ở Việt Nam đã
mô tả được khoảng 6.000 loài thực vật bậc cao có mạch với các đặc điểm hình thái, sinh
thái, phân bố và công dụng [17]. Ngoài ra còn công bố danh sách cây thuốc và bài
thuốc cho nhiều địa phương như: “Hệ cây thuốc của tỉnh Lâm Đồng” (1982); “Hệ cây
thuốc Tây Nguyên” (1985), “Cây thuốc An Giang” (1991).
Phạm Hoàng Hộ (1999;2000) khi nghiên cứu về thực vật, trong cuốn “Cây cỏ Việt
Nam” tác giả đã mô tả hình thái và sự phân bố của 9.963 loài thực vật, trong có đã giới
thiệu được công dụng làm thuốc của nhiều loài thực vật [32],[33],[34].
Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân Chương (1980) trong cuốn “Sổ tay cây thuốc Việt Nam” đã
thống kê được 519 loài cây thuốc, trong đó 150 loài mới được phát hiện [5].
Đỗ Huy Bích (1995) trong cuốn “Thuốc từ cây cỏ và động vật” đã giới thiệu 500
cây thuốc và 30 con thuốc. Các cây thuốc được mô tả hình thái, phân bố, bộ phận sử
dụng, liều dùng [7].
Trần Đình Lý và cộng sự (1993) nghiên cứu về các loài cây cỏ có ích, tác giả đã mô
tả được 1.900 loài cây có ích. Trong các loài thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam
có 76 loài cho nhựa thơm, 160 loài có tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600 loài chứa tanin,
500 loài cây gỗ có giá trị cao, 400 loài tre nứa, 40 loài song mây. Trong số các nhóm thực
vật này, rất nhiều loài có


công dụng làm thuốc. Đối với các thực vật được sử dụng làm thuốc tác giả
giới thiệu danh pháp, sinh thái, phân bố và giá trị sử dụng [44].
Nguyễn Nghĩa Thìn (1990;1995) đã giới thiệu 2.300 loài thuộc 1.136 chi, 234 họ

thuộc 6 ngành thực vật có mạch Việt Nam được sử dụng làm thuốc và giới thiệu hơn
1.000 bài thuốc trong Hội thảo quốc tế lần thứ hai về dân tộc sinh học tại Côn Minh –
Trung Quốc.
Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự (2001) trong cuốn “Cây thuốc của đồng
bào Thái ở Con Cuông, Nghệ An” [52] đã giới thiệu 551 loài cây thuốc thuộc
364 chi, 120 họ thực vật.
Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự (2007) tiến hành nghiên cứu cây thuốc truyền
thống của đồng bào dân tộc Thái xã Thạch Giám, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ
An. Kết quả nghiên cứu đã thu thập được 231 loài, 192 chi,
88 họ thuộc 4 ngành thực vật. Ông là người có nhiều cống hiến trong công tác nghiên cứu
cây thuốc dân tộc [51],[53].
Trong số những cuốn sách xuất bản về cây thuốc, có nhiều cuốn sách có giá trị về
tài nguyên cây thuốc đã được các nhà khoa học của Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật,
Viện Hàn lâm khoa học và Công nghệ Việt Nam biên soạn.
Lã Đình Mỡi và cộng sự (2001;2002) trong cuốn “Tài nguyên thực vật có tnh dầu ở
Việt Nam” đã giới thiệu các chi, loài thực vật có tinh dầu ở Việt Nam trong đó mỗi chi, mỗi
loài đều được giới thiệu về các nội dung như tên thường gọi, nguồn gốc phân bố, công
dụng, đặc tính của tnh dầu và các hoạt chất chính ở trong cây,...[46]. Năm 2005, giới thiệu
công trình “Những cây chứa các hợp chất có hoạt tnh sinh học” trong đó có giới thiệu 31
chi thực vật chứa các hợp chất có hoạt tính sinh học ở Việt Nam. Với mỗi chi thực vật
được trình bày những nội dung như tên thường gọi, vùng phân bố, công dụng, tnh hình
khai thác, thành phần hóa học, đặc tnh, nguồn gen và triển vọng,...[47].


×