Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.24 KB, 125 trang )

1

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nớc ta đã từng bớc tiến hành cải
cách về mặt tổ chức và hoạt động của các cơ quan t pháp,
trong đó có cơ quan thi hành án dân sự. Nhằm đa chủ trơng của Đảng tại Đại hội IX về cải cách t pháp vào cuộc sống,
trong những năm vừa qua, Đảng, Nhà nớc đã ban hành nhiều
nghị quyết và các Luật liên quan đến cải cách tổ chức và
hoạt động của cơ quan t pháp nói chung và cơ quan thi hành
án dân sự nói riêng nh: Nghị quyết số 08/NQTW ngày
2/1/2002 của Bộ Chính trị về những nhiệm vụ trọng tâm
của công tác t pháp trong thời gian tới, Chỉ thị số 20/2001/CTTTg ngày 11/9/2001 của Thủ tớng Chính phủ về tăng cờng và
nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lợc
cải cách t pháp đến năm 2020; Pháp lệnh Thi hành án dân sự
sửa đổi năm 2004 và hàng loạt các văn bản pháp luật có liên
quan đến thi hành án dân sự khác. Những văn bản này đã
tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới về tổ chức và hoạt động
của cơ quan thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó, nhiều bản
án, quyết định có hiệu lực của Tòa án án (quyết định dân
sự trong bản án hình sự; bản án dân sự, hành chính, lao
động, kinh tế...) đã đợc các cơ quan thi hành án dân sự kịp
thời đa ra thi hành theo quy định của pháp luật đạt kết quả
tơng đối cao. Điều này, đã góp phần đảm bảo an ninh trật


2


tự xã hội, giữ gìn kỷ cơng phép nớc và thực hiện dân chủ,
công bằng xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt đợc, trong
thi hành án dân sự vẫn còn có những bất cập cha đợc giải
quyết kịp thời nh: Hệ thống văn bản pháp luật nói chung và
các văn bản pháp luật thi hành án dân sự nói riêng vẫn còn
nhiều khoảng trống, cha điều chỉnh hết các quan hệ phức
tạp nảy sinh trong thực tiễn thi hành án dân sự; mô hình tổ
chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự cha thực sự
khoa học..., trong đó có một nguyên nhân quan trọng là
giám sát thi hành án dân sự còn nhiều bất cập, cha thực sự
trở thành công cụ bảo đảm thực hiện quyền lực nhà nớc
trong thi hành án dân sự. Do đó, đã làm giảm hiệu lực, hiệu
quả của thi hành án dân sự. Nhiều bản án, quyết định về
dân sự đã có hiệu lực pháp luật, nhng không đợc tổ chức thi
hành dứt điểm, đặc biệt, tình trạng vi phạm pháp luật, tiêu
cực, sách nhiễu trong tổ chức thi hành án dân sự vẫn diễn ra
nhiều. Đúng nh phát biểu của Phó Thủ tớng Chính phủ Phạm
Gia Khiêm tại Lễ kỷ niệm 60 năm ngày truyền thống ngành T
pháp và Đại hội thi đua yêu nớc ngành T pháp lần thứ II tháng 8
năm 2005 là "thi hành án dân sự vẫn cha có bớc chuyển biến
đáng kể, vẫn còn sự phàn nàn của nhân dân đối với thi
hành án dân sự", đã làm cho công bằng xã hội không đợc
đảm bảo ở mức độ cao, hiện tợng vi phạm quyền tự do, dân
chủ trong thi hành án dân sự vẫn còn xảy ra đã làm giảm sút
lòng tin của quần chúng nhân dân đối với các cơ quan thi
hành án dân sự nói riêng và làm suy giảm hiệu quả, hiệu lực
của bộ máy nhà nớc ta nói chung.



3

Xuất phát từ những lý do nêu trên cho thấy, giám sát thi
hành án dân sự là một vấn đề cần đợc quan tâm nghiên cứu
một cách có hệ thống cả lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tác giả
đã lựa chọn đề tài "Giám sát thi hành án dân sự ở Việt
Nam hiện nay" để làm đề tài luận văn Thạc sĩ, chuyên
ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nớc và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trớc đây (trớc tháng 7/1993), thi hành án dân sự đợc
đặt dới sự quản lý của Tòa án, do Tòa án đảm nhiệm. Tuy
nhiên, nhiệm vụ chính của Tòa án là xét xử. Vì vậy, thi hành
án dân sự nh là việc làm "kiêm nhiệm" của Tòa án, nên thi
hành án dân sự còn cha đợc quan tâm nghiên cứu, ít có
những công trình khoa học hay các bài nghiên cứu của các nhà
khoa học đề cập đến thi hành án dân sự. Từ khi thi hành án
dân sự đợc chuyển giao sang cho Chính phủ thống nhất quản
lý, vấn đề thi hành án dân sự đã đợc đặt ra và triển khai
nghiên cứu ở mức độ nhất định: Đề tài "Thừa phát lại" do Viện
Nghiên cứu khoa học Pháp lý Bộ T pháp và Sở T pháp Thành phố
Hồ Chí Minh phối hợp thực hiện; đề tài khoa học cấp Bộ về
"Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án" do Cục
quản lý Thi hành án dân sự - Bộ T pháp chủ trì; Luận văn thạc
sĩ Luật học "Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động thi hành
án dân sự Việt Nam" của tác giả Trần Văn Quảng; Luận văn
thạc sĩ Luật học "Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự"
của Nguyễn Thanh Thủy; Đề tài khoa học cấp nhà nớc độc lập
"Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức hoạt
động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" do Bộ T pháp
chủ trì. Ngoài ra, còn một số công trình khoa học khác đợc



4

công bố trên các sách, tạp chí nh: "Đối tợng giám sát thi hành án
của Quốc hội" của Trần Thanh Hơng đợc đăng trên Tạp chí Lập
pháp, số 2 năm 2003; "Quan niệm về giám sát thực hiện
quyền lực nhà nớc" của Đào Trí úc đăng trên Tạp chí Nhà nớc và
pháp luật, số 6/2003...
Những công trình nghiên cứu trên ở chừng mực nhất
định có đề cập một số khía cạnh của pháp luật về thi hành án
dân sự, đề xuất cơ chế thuận tiện cho việc tiến hành các
hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự. Nhng đến nay,
cha có một bài báo, công trình nào đề cập và luận giải một
cách cụ thể, trực tiếp hệ thống về giám sát thi hành án dân
sự. Vì vậy, luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu tơng
đối có hệ thống, toàn diện về giám sát thi hành án dân sự ở
Việt Nam. Mặc dù vậy, những công trình đợc công bố trên
đây là những tài liệu tham khảo có giá trị để tác giả nghiên
cứu và hoàn thành luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của
luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và
thực trạng, giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay,
luận văn đa ra một số quan điểm và giải pháp bảo đảm giám
sát giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt đợc mục đích đã nêu trên, luận văn có một số
nhiệm vụ sau:



5

- Phân tích cơ sở lý luận về giám sát thi hành án dân
sự;
- Phân tích, đánh giá thực trạng giám sát thi hành án
dân sự ở Việt Nam hiện nay;
- Nêu một số quan điểm và giải pháp bảo đảm giám sát
thi hành án dân sự ở Việt Nam thời gian tới.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Giám sát thi hành án dân sự là đề tài nghiên cứu có
nhiều nội dung khác nhau, trong phạm vi luận văn này chỉ tập
trung nghiên cứu khái niệm, đặc trng, chủ thể, đối tợng, hình
thức, phơng pháp, nội dung giám sát thi hành án dân sự ở Việt
Nam. Trên cơ sở đó đề ra những quan điểm và giải pháp bảo
đảm giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, nên luận văn chỉ nghiên
cứu giám sát thi hành án dân sự từ năm 1989, thời điểm có
Pháp lệnh Thi hành án dân sự đầu tiên đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn đợc nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh về Nhà nớc và pháp luật
và hoạt động giám sát của các cơ quan nhà nớc.
4.2. Phơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phơng pháp nghiên cứu của chủ nghĩa
duy vật biện chứng với các phơng pháp nghiên cứu cụ thể nh:
phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể và các phơng pháp



6

nghiên

cứu

khác

nh:

so

sánh,

thống

kê,

điều

tra

xã hội,...
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu tơng đối
có hệ thống và toàn diện về giám sát thi hành án dân sự ở
Việt Nam. Vì vậy, luận văn có những điểm mới cụ thể là:
- Nghiên cứu xác định khái niệm giám sát thi hành án
dân sự và những đặc trng cơ bản của giám sát thi hành án

dân sự;
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng hoạt động giám sát thi
hành án dân sự. Trên cơ sở đó chỉ ra những kết quả, hạn chế
và nguyên nhân của giám sát thi hành án dân sự;
- Đa ra một số quan điểm và đề xuất các giải pháp bảo
đảm giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Với kết quả đạt đợc, luận văn góp phần làm sáng tỏ một
số vấn đề lý luận về giám sát thi hành án dân sự, từ đó nâng
cao nhận thức của xã hội đối với giám sát thi hành án dân sự.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy về vấn đề liên quan đến thi hành án
dân sự trong các trờng đại học, cao đẳng, Học viện T pháp và
xây dựng Luật thi hành án.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, Nội dung của luận văn gồm 2 chơng, 7 tiết.


7
Chơng 1 cơ sở lý luận về giám sát thi hành án dân sự
1.1. Khái niệm, đặc trng, vai trò của thi hành án dân sự ở Việt
Nam

1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự

Quan niệm về thi hành án dân sự, cho đến nay vẫn
còn là một câu hỏi lớn đối với các nhà khoa học pháp lý. Hiện
nay, có rất nhiều sách, báo và các công trình khoa học đề
cập đến thuật ngữ "thi hành án dân sự", đặc biệt là từ khi

chúng ta chủ trơng xây dựng một Bộ luật thi hành án thống
nhất áp dụng chung cho cả thi hành án hình sự và thi hành
án dân sự. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn cha có một quan
niệm chuẩn về thi hành án dân sự, đợc thừa nhận chung.
Qua nghiên cứu các sách báo, tài liệu hiện hành cho thấy có
một số quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, thi hành án dân sự là
hoạt động tố tụng hành chính vì từ khi công tác thi hành án
dân sự đợc chuyển giao từ tòa án sang các cơ quan thuộc
Chính phủ thì cơ quan tiến hành tố tụng thi hành án không
phải là tòa án nữa. Việc giải quyết khiếu nại, kháng nghị
trong thi hành án đã khác hẳn về hình thức, thủ tục so với
việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị trong tố tụng dân sự
[36, tr. 60].
Quan điểm thứ hai cho rằng, thi hành án dân sự là thủ
tục tố tụng thi hành các bản án, quyết định về dân sự, hôn
nhân, gia đình, lao động, quyết định về tài sản trong bản
án, quyết định về hình sự, hành chính và quyết định
khác do cơ quan thi hành án dân sự thực hiện theo quy định
của pháp luật [39, tr. 15].


8

Quan điểm thứ ba cho rằng, thi hành án dân sự là hoạt
động tố tụng dân sự, giai đoạn thi hành án là giai đoạn cuối
cùng của tố tụng dân sự vì nó mang đầy đủ tính chất, đặc
trng của tố tụng dân sự. Theo quan niệm này, thì cơ quan thi
hành án dân sự hiện nay, tuy đợc đặt trong hệ thống các
cơ quan hành chính, nhng nó không có chức năng quản lý

hành chính mà chỉ có chức năng thực hiện các bản án,
quyết định của tòa án - cơ quan xét xử. "Do vậy thực chất
cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan tiến hành tố tụng
thực hiện nhiệm vụ của tố tụng dân sự là thi hành các bản
án, quyết định của tòa án" [1, tr. 6].
Ngoài ra, cũng còn một số quan điểm khác cũng cho
rằng, thi hành án dân sự cũng giống nh thi hành án hình sự,
đợc quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Vì vậy, thi hành
án dân sự phải đợc coi là một giai đoạn của tố tụng dân sự
và là hoạt động mang tính chất t pháp thuần túy.
Có thể nói, hầu hết các quan điểm nêu trên đều lấy
xuất phát điểm từ luật thực định, cụ thể là vị trí, tính chất
của chủ thể tiến hành các hoạt động thi hành án dân sự,
tính chất loại công việc cơ quan thi hành án dân sự tổ chức
thi hành để xác định thi hành án dân sự là loại tố tụng gì,
có tính chất nh thế nào. Tuy nhiên, các quan điểm này vẫn
cha thể giải quyết đợc thỏa đáng các vấn đề đặt ra. Cụ
thể:
Hiện tại, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2002, thì việc thi hành án hình sự đợc giao cho các cơ
quan thuộc Chính phủ tổ chức thi hành (Bộ Công an tổ chức
thi hành hình phạt tù, ủy ban nhân dân xã, phờng, thị trấn


9

tổ chức thi hành án quản chế, các cơ quan tổ chức nơi ngời
bị án treo, đảm trách việc thi hành án treo đối với cá nhân,
công dân thuộc sự quản lý của cơ quan tổ chức đó). Nhng
việc thi hành án phạt tù vẫn đợc coi là một giai đoạn của quá

trình tố tụng. Đồng thời, theo quy định của pháp luật, thì
cơ quan điều tra và một số cơ quan khác thuộc chính phủ
đợc giao nhiệm vụ điều tra đối với một số tội phạm thuộc
lĩnh vực quản lý nh: Công an, Hải quan, Kiểm lâm, Điều tra
quân đội, những cơ quan này đều là các cơ quan thuộc
Chính phủ, nằm trong hệ thống các cơ quan hành pháp, nhng các hoạt động do các cơ quan này tiến hành vẫn là hoạt
động tố tụng. Chính vì vậy, không thể căn cứ vào việc cơ
quan nào đảm nhận việc tổ chức thi hành các bản án, quyết
định dân sự để xác định hoạt động thi hành án dân sự là
tố tụng hay không tố tụng; mang bản chất là hoạt động t pháp
hay hoạt động hành chính.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 1, Điều 2 Pháp lệnh Thi
hành án dân sự năm 2004, thì ngoài việc tổ chức thi hành
các bản án, quyết định về dân sự có hiệu lực pháp luật hoặc
cha có hiệu lực pháp luật của Tòa án, nhng đợc thi hành ngay,
thì cơ quan thi hành án còn tổ chức thi hành cả quyết định
của Trọng tài Thơng mại là cơ quan không nằm trọng hệ thống
các cơ quan t pháp. Do đó, việc căn cứ vào công việc cơ quan
thi hành án dân sự phải thực hiện để xác định thi hành án
dân sự là một giai đoạn của tố tụng là cha thuyết phục.
Để có thể xem xét thi hành án dân sự có phải là hoạt
động tố tụng hay không, mang bản chất hành chính hay t
pháp, cần phải xem xét một số vấn đề sau:


10

Thứ nhất, mục đích của thi hành án dân sự
Trong quá trình tố tụng, cũng nh sau khi đã kết thúc
quá trình tố tụng, Tòa án cho ra một bản án hoặc quyết

định giải quyết một cách tổng thể về nội dung vụ án (trờng
hợp vụ án đợc đa ra xét xử). Bằng bản án, quyết định của
mình Tòa án nhân danh Nhà nớc xác định rõ sự thật khách
quan của vụ án; xác định rõ quyền, nghĩa vụ của các bên
tham gia vào quá trình tố tụng. Tuy nhiên, lúc này quyền và
nghĩa vụ của các bên mới chỉ xác định đợc về mặt lý
thuyết, trên cơ sở áp dụng các quy định của pháp luật có liên
quan để giải quyết vụ việc và còn nằm trên giấy. Tơng tự
nh vậy, khi giải quyết các tranh chấp, Trọng tài Thơng mại
cũng mới chỉ vận dụng các quy định của pháp luật để giải
quyết vụ việc và kết quả của quá trình giải quyết tranh
chấp đó cũng vẫn chỉ nằm trên giấy. Để các quyền, nghĩa
vụ này đợc thực thi trên thực tế, cần thiết phải có một hoạt
động tiếp theo để tổ chức thực hiện các quyền và nghĩa
vụ đã đợc xác định trong bản án, quyết định đó. Do đó, có
thể thấy, mục đích của thi hành án dân sự là tổ chức thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án và Trọng tài Thơng
mại, biến các quyền, nghĩa vụ về mặt lý thuyết thành các
quyền, nghĩa vụ thực tế. Thông qua thi hành án dân sự, trật
tự pháp luật, tình trạng ban đầu của các quan hệ do bị hành
vi vi phạm xâm hại đợc khôi phục.
Nh vậy, nếu coi mục đích của tố tụng là khôi phục lại
trật tự pháp luật đã bị xâm hại, đa nó trở về trạng thái ban
đầu nh trớc khi bị vi phạm, thì thi hành án dân sự là một
giai đoạn của tố tụng. Có thể nói, mục đích của quá trình tố


11

tụng bao trùm lên mục đích của thi hành án dân sự. Mục

đích của thi hành án dân sự là nhằm củng cố thêm mục
đích của tố tụng.
Thứ hai, tính chất công việc mà cơ quan thi hành án
phải thực hiện
Theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
2004, thì cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm tổ
chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật (Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm; bản án, quyết định của Tòa án
cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
của Tòa án; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nớc ngoài,
quyết định của Trọng tài nớc ngoài đã đợc Tòa án Việt Nam
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định của
Trọng tài Thơng mại Việt Nam có hiệu lực thi hành) và những
bản án, quyết định của Tòa án cha có hiệu lực pháp luật nhng đợc thi hành ngay (bản án, quyết định sơ thẩm về cấp
dỡng, trả lơng, trả công lao động, trợ cấp mất việc làm, bảo
hiểm xã hội hoặc bồi thờng thiệt hại về tính mạng, sức khỏe;
nhận ngời lao động trở lại làm việc; quyết định khẩn cấp
tạm thời để bảo đảm lợi ích cấp thiết của đơng sự, bảo
đảm cho việc xét xử và thi hành án...) đều là kết quả của
quá trình giải quyết tranh chấp, nhng tính chất lại khác
nhau. Bản án, quyết định của Tòa án là kết quả của quá
trình tố tụng, nên nó mang bản chất t pháp. Còn quyết định


12

của Trọng tài Thơng mại, là kết của quá trình giải quyết
tranh chấp thông thờng, nên nó không mang bản chất t pháp.

Thứ ba, tính chất các hoạt động cơ bản do cơ quan thi
hành án tiến hành để tổ chức thi hành một bản án, quyết
định về dân sự
Nếu coi xét xử là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố
tụng và bản án, quyết định là điểm nút kết thúc giai đoạn
đó và đồng thời kết thúc quá trình tố tụng, thì thi hành án
dân sự là một giai đoạn sau của giai đoạn xét xử, mang tính
chấp hành. Lúc này sự thật khách quan về vụ án đã đợc sáng
tỏ, các quyền và nghĩa vụ của các bên đã đợc xác định rõ,
cơ quan thi hành án dân sự sẽ căn cứ vào đó để tổ chức thi
hành theo đúng các trình tự đã đợc quy định trong Pháp
lệnh Thi hành án dân sự và các văn bản hớng dẫn thi hành.
Cơ quan thi hành án dân sự phải tổ chức thi hành đúng nội
dung phần quyết định của bản án (trờng hợp chủ động thi
hành án); thi hành đúng nội dung bản án và đơn yêu cầu thi
hành án (trờng hợp thi hành án theo đơn yêu cầu). Cơ quan
thi hành án không đợc tổ chức thi hành án trái với nội dung
quyết định của bản án. Đồng thời, trong quá trình tổ chức
thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự, sử dụng quyền lực
nhà nớc trực tiếp tác động đến các bên có liên quan đến
việc thi hành án. Mặc dù, trong quá trình thi hành án, quyền
định đoạt của các bên đơng sự vẫn đợc tôn trọng, ngời đợc
thi hành án, ngời phải thi hành án có quyền thỏa thuận với
nhau về cách thức thi hành án. Tuy nhiên, nếu nh các bên
không thỏa thuận đợc về phơng thức thi hành án, hoặc đã


13

thỏa thuận nhng bên phải thi hành án không tự nguyện thực

hiện đúng, thì cơ quan thi hành án dân sự sử dụng quyền
lực nhà nớc thông qua việc áp dụng các biện pháp cỡng chế
cần thiết để tổ chức thi hành dứt điểm bản án, quyết
định của Tòa án, quyết định của Trọng tài Thơng mại. Đây
là một trong những dấu hiệu rất đặc trng thể hiện bản chất
hành chính của thi hành án dân sự. Tất cả các trờng hợp, nếu
nh đơng sự có điều kiện thi hành án, nhng không tự nguyện
thi hành, đều dẫn tới việc áp dụng biện pháp cỡng chế để thi
hành dứt điểm bản án, quyết định của Tòa án và quyết
định của Trọng tài Thơng mại.
Mặt khác, mặc dù trong quá trình tổ chức thi hành
bản án, quyết định, chấp hành viên - ngời đợc Nhà nớc giao
nhiệm vụ trực tiếp tổ chức thi hành án, chịu trách nhiệm trớc
pháp luật về toàn bộ hoạt động của mình. Tuy nhiên, với t
cách là ngời thừa hành nhiệm vụ, chấp hành viên vẫn phải
tuân theo sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của cơ quan quản
lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và của thủ
trởng cơ quan thi hành án dân sự. Trong quá trình tổ chức
thi hành án, nếu nh chấp hành viên có vi phạm về mặt thủ
tục thi hành án dẫn tới việc khiếu nại của đơng sự, thì việc
giải quyết khiếu nại đợc thực hiện thông qua thủ tục hành
chính. Ngời có thẩm quyền sẽ giải quyết khiếu nại bằng một
quyết định giải quyết khiếu nại. Trong quyết định giải
quyết khiếu nại sẽ chấp nhận, không chấp nhận, chấp nhận
một phần hay chấp nhận toàn bộ khiếu nại của đơng sự. Trờng hợp chấp nhận khiếu nại của đơng sự, ngời có thẩm
quyền sẽ hủy bỏ các quyết định có vi phạm của chấp hành


14


viên và yêu cầu chấp hành viên tổ chức thi hành lại theo
đúng trình tự thủ tục đã đợc quy định trong Pháp lệnh Thi
hành án dân sự và các văn bản hớng dẫn thi hành, mà không
trực tiếp rút lên để giải quyết theo một trình tự, thủ tục
khác nh trong tố tụng.
Nh vậy, có thể thấy rằng, thi hành án dân sự là hoạt
động mang đậm tính chấp hành và điều hành.
Thứ t, mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự
với các cơ quan khác trong quá trình tổ chức thi hành bản
án, quyết định về dân sự
Khác với các hoạt động tố tụng khác nh hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử, mối quan hệ giữa cơ quan điều tra, truy
tố, xét xử đợc quy định chặt chẽ trong luật tố tụng, quan hệ
trên cơ sở luật tố tụng, thì trong hoạt động thi hành án dân
sự, mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ
quan chức năng khác chủ yếu dựa trên cơ sở của Pháp lệnh Thi
hành án dân sự và các luật, pháp lệnh, nghị định quy định
về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Do đó, các quan hệ của cơ quan thi hành án với các cơ quan
khác chủ yếu là các quan hệ mang bản chất hành chính, có
tính chấp hành và điều hành. Thậm chí ngay cả các quan
hệ với cơ quan tố tụng nh Tòa án, Công an, thì các quan hệ
này cũng hầu nh không đợc quy định cụ thể trong luật tố
tụng.
Từ các phân tích trên cho thấy, thi hành án dân sự là
hoạt động mang tính chất hành chính - t pháp, không phải là


15


hoạt động tố tụng, không phải là một giai đoạn của quá
trình tố tụng.
Ngoài ra, khác với các hoạt động tố tụng khác đòi hỏi
thủ tục rất chặt chẽ và chỉ do các cơ quan tiến hành tố tụng
thực hiện, thì việc thi hành bản án, trong một số trờng hợp
có thể để ngời dân tự chịu trách nhiệm, tức là có thể tiến
hành xã hội hóa một số hoạt động thi hành án.
Tóm lại, thi hành án sự đợc hiểu là trình tự, thủ tục thi
hành các quyết định về dân sự trong các bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật hoặc cha có hiệu lực pháp luật
nhng đợc thi hành ngay của Tòa án và các quyết định về tài
sản khác theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc trng của thi hành án dân sự
1.1.2.1. Thi hành án dân sự là hoạt động mang
bản chất hành chính - t pháp, thể hiện tính chấp hành
và điều hành
Nh đã phân tích ở trên, căn cứ để cơ quan thi hành án
dân sự tổ chức thi hành án là các bản án, quyết định về
dân sự của Tòa án và quyết định của Trọng tài Thơng mại
có hiệu lực thi hành. Sau khi bản án, quyết định có hiệu lực,
cơ quan thi hành án sẽ căn cứ vào nội dung của bản án, quyết
định (trờng hợp cơ quan thi hành án chủ động thi hành án),
căn cứ vào đơn yêu cầu thi hành án và bản án, quyết định
(trờng hợp thi hành án theo đơn yêu cầu của ngời đợc thi
hành án, ngời phải thi hành án) để thi hành án. Cơ quan thi
hành án có trách nhiệm tổ chức thi hành đúng nội dung của
bản án, quyết định; ngời đợc thi hành án, ngời phải thi hành


16


án, ngời có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án
phải nghiêm chỉnh thi hành, các cơ quan nhà nớc, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức
xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang và cá
nhân tôn trọng [43]. Chính vì vậy, ở đây thể hiện rất rõ
tính chấp hành trong hoạt động thi hành án dân sự. Đồng thời,
chấp hành viên với t cách là ngời đợc Nhà nớc trao quyền và
chịu trách nhiệm chính, trong quá trình tổ chức thi hành án,
chấp hành viên căn cứ vào các quy định của pháp luật về thi
hành án chủ động phối hợp với các cơ quan hữu quan để giải
quyết các vấn đề có liên quan đến thi hành án. Đặc biệt,
trong nhiều trờng hợp chấp hành viên còn chịu trách nhiệm
và điều hành cả các thành viên thuộc các cơ quan, tổ chức
khác có tham gia vào quá trình thi hành án. Ví dụ: làm Chủ
tịch Hội đồng cỡng chế, Chủ tịch Hội đồng định giá tài sản,
tiêu hủy tài sản...
Mặt khác, hầu hết các hoạt động thi hành án đều hớng
đến việc thực hiện các nghĩa vụ về tài sản, trực tiếp tác
động đến tài sản của các đơng sự. Theo quy định tại Điều
1 và Điều 2 Pháp lệnh Thi hành án dân sự, thì cơ quan thi
hành án chịu trách nhiệm tổ chức thi hành các bản án, quyết
định của Tòa án về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao
động, kinh tế; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nớc
ngoài, quyết định của Trọng tài nớc ngoài đợc Tòa án Việt
Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định về
dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản,
truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí trong bản án,
quyết định của Tòa án về hình sự; quyết định về phần tài



17

sản trong bản án, quyết định về hành chính; quyết định
tuyên bố phá sản, quyết định của Trọng tài Thơng mại Việt
Nam và bản án, quyết định khác do pháp luật quy định. Nh
vậy, có thể thấy mọi hoạt động của cơ quan thi hành án đều
nhằm tới việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ liên quan
đến tài sản theo nội dung quyết định của bản án, quyết
định của Tòa án - kết quả của hoạt động t pháp. Trừ duy
nhất một trờng hợp là cơ quan thi hành án tổ chức thi hành
nghĩa vụ liên quan đến nhân thân đó là tổ chức cỡng chế
cấm hoặc buộc ngời phải thi hành án không làm hoặc làm
công việc nhất định.
1.1.2.2. Thi hành án đề cao tính chủ động của
chấp hành viên
Trong thi hành án dân sự, tính chủ động trong hoạt
động tác nghiệp của chấp hành viên đợc đề cao. Chấp hành
viên căn cứ vào các quy định của pháp luật về thi hành án
dân sự, căn cứ vào tình hình thực tế của vụ việc để lựa
chọn các biện pháp thi hành phù hợp. Ví dụ, vụ việc đơn giản,
ý thức chấp hành pháp luật của ngời phải thi hành án tốt, thì
chấp hành viên lựa chọn biện pháp giáo dục, thuyết phục ngời
phải thi hành án tự nguyện thi hành các nghĩa vụ của mình
theo đúng phán quyết của Tòa án hoặc của Trọng tài Thơng
mại (trờng hợp ngời đợc thi hành án yêu cầu ngời phải thi hành
án thi hành toàn bộ các nghĩa vụ theo quyết định của bản
án, quyết định của Tòa án). Ngợc lại, nếu sau khi xác minh
thấy đơng sự có điều kiện để thi hành án, nhng xét thấy
ngời phải thi hành án ý thức chấp hành pháp luật không tốt,



18

có biểu hiện tẩu tán tài sản, hoặc cố tình chây ỳ không tự
nguyện thi hành án, thì chấp hành viên lựa chọn, áp dụng
một hoặc nhiều biện pháp cỡng chế đợc quy định trong
Pháp lệnh Thi hành án dân sự (khấu trừ tài khoản, trừ vào
tiền, thu hồi giấy có giá của ngời phải thi hành án; trừ vào thu
nhập của ngời phải thi hành án; phong tỏa tài khoản, tài sản
của ngời phải thi hành án tại ngân hàng, tổ chức tín dụng,
kho bạc; kê biên, xử lý tài sản của ngời phải thi hành án kể cả
tài sản của ngời phải thi hành án đang do ngời thứ ba giữ;
buộc giao nhà, chuyển quyền sử dụng đất hoặc giao vật, tài
sản khác; cấm hoặc buộc ngời phải thi hành án không làm
hoặc làm công việc nhất định) để tổ chức thi hành dứt
điểm bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của
Trọng tài Thơng mại.
1.1.2.3. Tôn trọng quyền tự định đoạt của đơng
sự
Khác với thi hành án hình sự, ngời bị kết án phải chấp
hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án, các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền thi hành án hình sự có trách
nhiệm phải tổ chức thi hành dứt điểm các hình phạt đối với
ngời phạm tội. Trong thi hành án dân sự, ngoài các trờng hợp
cơ quan thi hành án phải chủ động ra quyết định thi hành
án (án phí, lệ phí Tòa án, trả lại tiền tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án; hình phạt tiền; tịch thu tài sản, truy thu thuế, truy
thu tiền, tài sản thu lợi bất chính; xử lý vật chứng, tài sản đã
thu giữ; thu hồi đất theo quyết định của Tòa án; quyết

định khẩn cấp tạm thời của Tòa án), cơ quan thi hành án chỉ


19

tổ chức thi hành án trên cơ sở yêu cầu thi hành án của ngời
đợc thi hành án và ngời phải thi hành. Cơ quan thi hành án
chỉ ra quyết định trong phạm vi yêu cầu của ngời đợc thi
hành án, ngời phải thi hành án. Đồng thời, ngời đợc thi hành án
có quyền yêu cầu không thi hành án, hoặc cho ngời phải thi
hành án hoãn việc thi hành án; thỏa thuận với ngời phải thi
hành án về phơng thức, địa điểm thi hành án.
1.1.3. Vai trò của thi hành án dân sự
1.1.3.1. Thi hành án dân sự là phơng tiện đa bản
án, quyết định của Tòa án, của Trọng tài Thơng mại
vào thực tiễn cuộc sống
Việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án ảnh hởng
trực tiếp đến quyền lợi của ngời phải thi hành án. Chính vì
vậy, ngời phải thi hành án thờng xuyên tìm mọi cách lẩn trốn,
chây ỳ không tự nguyện thi hành án. Trong quá trình tổ
chức thi hành án dân sự, sau khi áp dụng các biện pháp giáo
dục, thuyết phục ngời phải thi hành án không đạt kết quả, cơ
quan thi hành án sử dụng quyền lực nhà nớc thông qua việc
áp dụng các biện pháp cỡng chế cần thiết để tổ chức thi
hành dứt điểm bản án. Do đó, thi hành án trở thành công cụ
hữu hiệu để đảm bảo cho các bản án, quyết định của Tòa
án và của Trọng tài Thơng mại đợc thực hiện trên thực tế.
1.1.3.2. Thi hành án dân sự là thớc đo kiểm
nghiệm quá trình tố tụng
Trong các giai đoạn tố tụng trớc đó nh điều tra, truy tố,

xét xử của Tòa án và quá trình giải quyết tranh chấp của
Trọng tài Thơng mại, các cơ quan này mới chỉ xem xét nội


20

dung vụ án dới góc độ lý thuyết, vận dụng các quy định của
pháp luật, phân tích về mặt pháp lý các sự kiện để xác
định sự thật khách quan của vụ án, xác định ai là ngời có
quyền, ai là ngời có nghĩa vụ, quyền và nghĩa vụ của mỗi
ngời đến đâu và xác định ai là ngời có quyền, nghĩa vụ
liên quan và kết quả của quá trình đó là bản án, quyết
định của Tòa án và quyết định của Trọng tài thơng mại. Tuy
nhiên, lúc này các quyền, nghĩa vụ của các bên liên quan chỉ
mới đợc xác định về mặt pháp lý, cha đợc thực hiện trong
thực tiễn. Đến giai đoạn thi hành án, cơ quan thi hành án
dân sự tổ chức thực hiện các quyền, nghĩa vụ đó trên thực
tế, yêu cầu các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình. Lúc này sự phù hợp hay không phù hợp giữa các quyền,
nghĩa vụ đợc xác định trong bản án với thực tế sẽ đợc bộc lộ.
Mặt khác, trong quá trình tổ chức thi hành án, để
việc thi hành án đợc thuận lợi, cơ quan thi hành án nghiên cứu
kỹ nội dung bản án, các tình tiết có liên quan đến vụ án để
lên phơng án và lựa chọn biện pháp thi hành án. Chính trong
quá trình này, cơ quan thi hành án có thể phát hiện ra các
sai sót của các giai đoạn tố tụng trớc đó, từ đó sẽ kiến nghị
với ngời có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định theo
trình tự giám đốc thẩm hay tái thẩm.
Nh vậy, có thể thấy rằng, thi hành án dân sự là công
cụ, là thớc đo, để kiểm tra tính đúng đắn của các giai

đoạn tố tụng trớc đó. Nếu tính đúng đắn của các giai đoạn
tố tụng trớc đó đợc đảm bảo ở mức độ cao, thì việc thi
hành án sẽ thuận lợi, ngợc lại nếu các giai đoạn tố tụng trớc đó


21

có vấn đề, thì quá trình thi hành án dân sự sẽ gặp nhiều
khó khăn.
1.1.3.3. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ngời
đợc thi hành án, ngời phải thi hành án và ngời có
quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án
Nh trên đã nêu, thi hành án luôn đụng chạm trực tiếp
đến lợi ích về vật chất của ngời phải thi hành án, nên quá
trình thi hành án sẽ trực tiếp tác động đến đời sống của
ngời phải thi hành án và trong nhiều trờng hợp còn tác động
cả đến cuộc sống bình thờng của gia đình ngời phải thi
hành án. Do đó, trên thực tiễn có rất ít ngời phải thi hành án
tự nguyện thi hành án. Mặt khác, cũng có nhiều trờng hợp,
ngời phải thi hành án không thỏa mãn với kết quả xét xử của
Tòa án do quá trình xét xử không khách quan, hoặc có sự
không rõ ràng về pháp lý, nên ngời phải thi hành án tìm mọi
cách để trì hoãn, chống đối việc thi hành án. Chính vì vậy,
thi hành án dân sự sẽ là một cơ chế hữu hiệu để ngời đợc
thi hành án thực hiện quyền của mình.
Tuy nhiên, thi hành án dân sự không chỉ bảo vệ riêng
quyền lợi của ngời đợc thi hành án, mà thi hành án dân sự
còn bảo vệ cả quyền lợi của ngời phải thi hành án, những ngời có quyền lợi liên quan đến việc thi hành án. Thi hành án
dân sự một mặt bảo vệ quyền lợi của ngời đợc thi hành án,
nhng mặt khác, nó cũng bảo vệ ngời phải thi hành án trớc

những kiểu đòi nợ theo kiểu "luật rừng". Không những vậy,
trong pháp luật về thi hành án dân sự cũng có nhiều quy
định cho phép ngời phải thi hành án chống lại sự lạm dụng


22

quyền lực của cơ quan thi hành án, chấp hành viên trong tổ
chức thi hành án dân sự.
1.1.3.4. Thi hành án dân sự góp phần đảm bảo
trật tự pháp luật và nâng cao pháp chế xã hội chủ
nghĩa
Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nớc
để phán xử, nếu không đợc tổ chức thi hành, thì toàn bộ
kết quả của cả quá trình tố tụng trớc đó trở nên vô nghĩa,
dẫn đến kỷ cơng phép nớc bị coi thờng. Thông qua thi hành
án dân sự, các mối quan hệ xã hội bị xâm hại đợc khôi phục
lại tình trạng ban đầu, trật tự pháp luật đợc lập lại. Bản án
có hiệu lực pháp luật đợc thi hành một cách triệt để sẽ có
tác động đến ý thức chấp hành pháp luật của ngời đợc thi
hành án, ngời phải thi hành án nói riêng và nhân dân nói
chung, từ đó nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong
nhân dân, làm cho mọi ngời hiểu và làm theo pháp luật,
góp phần nâng cao pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.1.3.5. Thi hành án dân sự là kênh tuyên truyền,
giáo dục pháp luật cho nhân dân
Quá trình thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án
dân sự thông qua các hoạt động nghiệp vụ của mình động
viên, giáo dục, thuyết phục ngời phải thi hành án tự nguyện
thi hành án; tiến hành hòa giải để hai bên đơng sự thỏa

thuận với nhau về phơng thức thi hành án. Để làm đợc việc
này, đòi hỏi chấp hành viên cơ quan thi hành án phải phổ
biến, giải thích rõ các quy định của pháp luật về thi hành án
dân sự và các quy định của pháp luật có liên quan để các


23

bên thực hiện. Do đó, trong quá trình thi hành án dân sự cơ
quan thi hành án đã trực tiếp tuyên truyền, phổ biến các quy
định của pháp luật về thi hành án dân sự và pháp luật nói
chung đến ngời đợc thi hành án, ngời phải thi hành án. Mặt
khác, do thi hành án là hoạt động mang tính chất đặc thù,
quá trình thi hành án dân sự có sự tham gia của rất nhiều
cơ quan, tổ chức có liên quan, nên họ có điều kiện tiếp xúc,
nắm bắt các quy định của pháp luật về thi hành án và các
quy định có liên quan.
1.2. Khái niệm, đặc trng, nội dung, hình thức, phơng
pháp giám sát thi hành án dân sự

1.2.1. Khái niệm giám sát thi hành án dân sự
"Giám sát" theo thuật ngữ tiếng Anh là "supervise" (động
từ), "supervision" (danh từ) và thuật ngữ tiếng Pháp là
"superviser" (động từ), "supervision" (danh từ), có nghĩa là
trông nom, kiểm tra, theo dõi các đối tợng, công việc, hoạt
động... với mục đích để cho các đối tợng, công việc, hoạt
động đó đợc thực hiện theo đúng các trình tự, qui định,
qui tắc, đa lại kết quả tốt hoặc ở trong tình trạng đợc bảo
đảm.
Theo Từ điển tiếng Việt năm 1995 của Viện Ngôn ngữ

học, "giám sát" đợc hiểu là theo dõi, kiểm tra xem có thực
hiện đúng điều quy định không. Theo Đại từ điển tiếng
Việt năm 1999 của Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, thì
"giám" đợc hiểu là theo dõi để kiểm tra, đôn đốc: giám
binh, giám định, giám hộ, giám hiệu, giám khảo, giám sát,
giám sát viên... Còn thuật ngữ "giám sát" đợc hiểu là theo dõi,


24

kiểm tra thực thi nhiệm vụ. Còn theo quy định tại khoản 1
Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, thì "giám sát"
là việc Quốc hội, ủy ban Thờng vụ Quốc hội, Hội đồng Dân
tộc, ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu
Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan,
tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của ủy ban Thờng vụ Quốc hội.
Trong quá trình thực hiện giám sát, chủ thể giám sát
đợc thực hiện các biện pháp xử lý, giải quyết theo thẩm
quyền kiến nghị, yêu cầu, hủy bỏ, sửa chữa để bảo đảm
các mục đích giám sát. Ví dụ: khi thực hiện giám sát việc
giao nhận hàng, nếu thấy bên giao không thực hiện đúng
những điều khoản theo thỏa thuận có hiệu lực thì ngời đợc
giao giám sát có quyền yêu cầu bên giao thực hiện đúng thỏa
thuận.
Mặc dù vậy, giám sát không phải là một hoạt động
mang tính thụ động, chỉ đợc thực hiện sau khi có các vi
phạm chuẩn mực do chủ thể giám sát đề ra, mà nó còn là
một hoạt động mang tính chủ động, tích cực, thể hiện mối

quan hệ quan lại giữa đối tợng giám sát và chủ thể của giám
sát. Hoạt động giám sát không chỉ với ý nghĩa là phát hiện
các sai sót của đối tợng bị giám sát so với chuẩn mực đã đợc
đề ra, tìm nguyên nhân và khắc phục nó, mà giám sát ở
một giác độ khác nó còn mang tính tích cực, đó là chủ thể
giám sát cũng sẽ tự hoàn thiện mình. Trong quá trình giám
sát, chủ thể giám sát sẽ tự phát hiện ra những khiếm khuyết
trong các quy định, quyết định do mình đã đặt ra, từ đó


25

điều chỉnh các quy định, quyết định cho phù hợp với thực
tế, đảm bảo cho đối tợng giám sát hoàn thành tốt nhiệm vụ
của mình.
Nh vậy, có thể hiểu giám sát là việc chủ thể giám sát
theo dừi, quan sỏt hnh ng mang tớnh ch ng, thng xuyờn, liờn tc v
sn sng tỏc ng buc v hng hot ng ca i tng chu s giỏm
sỏt i vo ỳng trật tự đã định nhm t c mc ớch đã đề ra.
Thi hành án dân sự với tính cách là một hoạt động mang
tính chất hành chính - t pháp, trong quá trình tổ chức thi
hành bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật
hoặc cha có hiệu lực pháp luật, nhng đợc thi hành ngay và
các quyết định của Trọng tài Thơng mại, cơ quan thi hành
án, trực tiếp là cá nhân chấp hành viên, thay mặt nhà nớc, sử
dụng quyền lực nhà nớc để tổ chức thi hành bản án, quyết
định đó, cũng cần phải có sự giám sát chặt chẽ để đảm
bảo cho quyền lực đó đợc sử dụng một cách có hiệu quả nhất.
Từ các khái niệm thi hành án dân sự, khái niệm về giám
sát nêu trên, có thể hiểu giám sát thi hành án dân sự là sự

theo dõi, quan sát, thờng xuyên, liên tục của các chủ thể giám
sát thi hành án dân sự đối với các hoạt động của cơ quan thi
hành án dân sự, chấp hành viên, các công chức khác của cơ
quan thi hành án dân sự và các cơ quan, cá nhân có liên
quan đến việc thi hành án dân sự. Nhằm tổ chức thi hành
có hiệu quả nhất các bản án, quyết định có hiệu lực thi
hành của Tòa án và Trọng tài Thơng mại.
1.2.2. Đặc trng của giám sát thi hành án dân sự


×