Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG và VAI TRÒ điều TIẾT vĩ mô nền KINH tế của NGÂN SÁCH NHÀ nước VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 41 trang )

Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng

CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.Khái niệm ngân sách nhà nước :
Trong các xã hội hiện đại, Nhà nước luôn có các chức năng, nhiệm vụ nhiều mặt như
chức năng quản lý hành chính, chức năng kinh tế, chức năng trấn áp và các nhiệm vụ chính
trị, nhiệm vụ xã hội. Để thực hiện các chức năng nhiệm vụ đó Nhà nước cần phải nắm một
lượng của cải vật chất nhất định. Lượng của cải vật chất đó được hình thành chủ yếu từ thuế.
Từ các nguồn thu đó mà quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước hình thành, nó được gọi
là quỹ ngân sách, đó là cơ sở vật chất đảm bảo cho nhà nước tồn tại và hoạt động. Việc sủ
dụng quỹ Ngân sách để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước chính là quá trình chi tiêu
của ngân sách. Chi tiêu ngân sách luôn gắn liền với việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của
Nhà nước trên mọi lĩnh vực và trong từng thời kì nhất định.
Trong thời đại hiện nay, các chức năng kinh tế của Nhà nước càng trở nên quan trọng.
Nhà nước phải can thiệp vào các quá trình kinh tế để sửa chữa những sai lầm của thị trường,
để đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh và đảm bảo tính hiệu quả, công bằng và ổn
định của nền kinh tế. Sự can thiệp của Nhà nước ở đây là sự can thiệp gián tiếp, thông qua
chính sách thuế khóa, chính sách chi tiêu và các luật lệ của Nhà nước. Như vậy bên cạnh
“bàn tay vô hình” của thị trường còn còn có “bàn tay hữu hình” của Nhà nước là thuế khóa,
chi tiêu chính phủ và các luật lệ Nhà nước.
Phát triển kinh tế hiện nay đang là mục tiêu cơ bản trong chính sách kinh tế vĩ mô của hầu
hết các chính phủ, phát triển kinh tế không chỉ đơn thuần là sự tăng trưởng kinh tế, mà nó còn
bao hàm nhiều vấn đề khác, như sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế, sự đô thị hóa và sự tham
giá các thành viên trong xã hội vào quá trình phát triển đó. Để thực hiện được mục tiêu chiến
lược này, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ khác nhau, trong đó chính sách Ngân sách là một
công cụ quan trong nhất của Nhà nước.


Vậy ngân sách nhà nước là gì?
Theo luật ngân sách nhà nước 2009 : “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu và
chi của Nhà nước đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước”
Về hình thức biểu hiện bên ngoài, ngân sách nhà nước là một bản liệt kê các khoản thu,
chi bằng tiền của nhà nước được dự kiến và được phép thực hiện trong một khoảng thời gian
nhất định.
Về cơ cấu, ngân sách nhà nước bao gồm toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước.
Về mặt pháp lý, ngân sách nhà nước phải được cơ quan có thẩm quyền quyết định. Thẩm
quyền quyết định ngân sách nhà nuớc ở hầu hết các nước là do các cơ quan đại diện (nghị
viện). Ở Việt Nam, Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền quyết định ngân sách nhà nước về
tổng mức và cơ cấu phân bổ. Mọi hoạt động thu, chi của ngân sách nhà nước đều được tiến
hành trên cơ sở pháp luật do nhà nước ban hành.
SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 1


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng

Về thời gian thực hiện, ngân sách nhà nước được thực hiện trong một năm, năm này gọi
là năm ngân sách hay năm tài khóa.
Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước. Ngân sách nhà nước
vừa điều tiết nền kinh tế vừa giải quyết các vấn dề xã hội.
2. Nguyên tắc cơ bản trong quản lý ngân sách nhà nước:
 Nguyên tắc thống nhất:

Thống nhất trong quản lý ngân sách nhà nước là việc tuân thủ theo một khuôn khổ
chung từ việc hình thành, sử dụng, thanh tra, kiểm tra, thanh quyết toán, xử lý phát sinh trong
quá trình thực hiện ngân sách nhà nước. Việc thực hiện nguyên tắc này nhằm tăng cường sức
mạnh vật chất trong tay Nhà nước, khắc phục tình trạng chia cắt, phân tán ngân sách, đảm
bảo tính công bằng, bình đẳng giữa các đối tượng có nghĩa vụ hoặc được thụ hưởng ngân
sách nhà nước.
 Nguyên tắc dân chủ:
Một ngân sách tốt là một ngân sách phản ánh lợi ích của các tầng lớp nhân dân trong
xã hội trong các chính sách, hoạt động thu chi ngân sách nhà nước. Sự tham gia của cán bộ,
công chức, dân chúng được thể hiện trong suốt chu trình ngân sách từ khâu lập dự toán ngân
sách, chấp hành dự toán cho đến khâu quyết toán ngân sách. Sự tham gia theo quy chế dân
chủ làm chi ngân sách minh bạch hơn, các thông tin về các khoản thu , chi của ngân sách nhà
nước được chính xác, trung thực hơn.
 Nguyên tắc đầy đủ, trọn vẹn, chính xác:
Nguyên tắc này đòi hỏi mọi khoản thu, chi ngân sách phải được phản ánh đầy đủ,
chính xác vào ngân sách nhà nuớc. Nghiêm cấm việc lập quỹ ngoài ngân sách nhà nước, để
ngoài ngân sách nhà nước các khoản thu, chi phát sinh trong thực tế. Thực hiện nguyên tắc
này đảm bảo tính minh bạch của các khoản thu - chi, tạo điều kiện cho các nhà quản lý có các
số liệu trung thực về diễn biến thu - chi ngân sách nhà nước từ đó đưa ra các quyết định quản
lý chính xác.
 Nguyên tắc công khai, minh bạch:
Ngân sách nhà nước được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của nhân dân theo quy
định của pháp luật, nên người dân có quyền được biết Nhà nước thu họ như thế nào, chi vào
những việc gì, các nhà tài trợ cũng muốn biết tiền của họ có được chi đúng mục đích hay
không. Chính vì thế mà ngân sách nhà nuớc phải được trình bày dễ hiểu, công bố công khai
để dân chúng được biết. Thực hiện nguyên tắc này góp phần làm lành mạnh hóa công tác
quản lý ngân sách nhà nước.
 Nguyên tắc cân đối:
Cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa thu và chi ngân sách nhà nước. Nguyên
tắc này đòi hỏi chỉ được phép chi khi có nguồn thu bù đắp ngân sách nhà nước của Việt Nam

được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường
xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển. Trong trường hợp bội chi
thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách. Bội
SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 2


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng

chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong và ngoài nước, khoản vay bù đắp
cho bội chi ngân sách không được sử dụng cho tiêu dùng, chỉ sử dụng cho mục đích phát
triển.
 Nguyên tắc quy trách nhiệm:
Nguyên tắc này đòi hỏi trách nhiệm giải trình về các hoạt động ngân sách của các tổ
chức, cá nhân trong quá trình quản lý ngân sách. Quy trách nhiệm yêu cầu phân định rõ ràng
quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện ngân sách.
3. Tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước và phân cấp quản lý ngân sách nhà nước:
Hệ thống ngân sách nhà nước là tổng thể các cấp ngân sách có quan hệ hữu cơ với
nhau trong quá trình thực hiện huy động, quản lý các nguồn thu và nhiệm vụ chi của mỗi
cấp ngân sách. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, hệ thống ngân sách nhà nước đều
được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức bộ máy quản lý hành chính nhà nước
Ngân sách nhà nước quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai,
minh bạch, có phân công , phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm.
Chế định pháp lý về phân cấp quản lý ngân sách bao gồm các quy phạm pháp luật xác
định quyền hạn, nhiệm vụ của các cấp chính quyền nhà nước trong việc quản lý và điều

hành hoạt động ngân sách nhà nước. Khẳng định sự tồn tại của hệ thống ngân sách nhà
nước gồm cấp ngân sách trung ương và cấp ngân sách địa phương dẫn đến yêu cầu tất yếu
phải phân định quyền hạn, nghĩa vụ, lợi ích của các cấp chính quyền đối với các vấn đề
liên quan đến ngân sách nhà nước. Thực chất nội dung phân cấp ngân sách là giải quyết
các mối quan hệ giữa chính quyền nhà nước trung uơng và các cấp chính quyền nhà nước
ở địa phương trong toàn bộ hoạt động của ngân sách nhà nước. Chính vì vậy nên nội dung
phân cấp ngân sách bao gồm:
 Phân cấp về quyền lực ban hành các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn định mức tài

chính.
 Phân cấp về vật chất (xác định các khoản thu và chi cho các cấp ngân sách).
 Phân cấp về chu trình ngân sách (quan hệ về quản lý trong chu trình vận động của
ngân sách nhà nước).
Cần phải giải quyết các mối quan hệ giữa chính quyền nhà nước trung ương với các cấp
chính quyền địa phương một cách đùng đắn, hợp lý, công bằng ; từ đó mới có thể nâng cao
hiệu quả của việc sử dụng công cụ ngân sách nhà nước trong quản lý kinh tế xã hội.
4.Đặc điểm của ngân sách nhà nước :
 Các hoạt động tạo lập và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước gắn chặt với quyền lực kinh
tế, chính trị của Nhà nước và việc thực hiện các chức năng của Nhà nước.
 Các hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước đều được tiến hành trên cơ sở những luật
lệ nhất đinh, đó là các luật thuế, pháp lệnh thuế, chế độ thu, chế độ chi tiêu, định mức
chi tiêu,… do Nhà nước ban hành.
SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 3


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ




Khoa tài chính ngân hàng

 Nguồn tài chính chủ yếu hình thành nên ngân sách nhà nước là từ giá trị sản phẩm
thặng dư của xã hội và được hình thành chủ yếu qua quá trình phân phối lại mà trong
đó thuế là hình thức thu phổ biến.
5. Chức năng ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước có hai chức năng cơ bản là chức năng phân phối và chức năng giám
đốc.
 Chức năng phân phối của NSNN không dừng lại ở khâu phân phối thu nhập (kết quả
kinh doanh) mà bao gồm cả phân phối các yếu tố đầu vào, cụ thể là phân bổ các nguồn tài
chính. Đối tượng phân phối của NSNN là các nguồn lực tài chính, thu nhập mới sáng tạo ra
có liên quan đến nhà nước, phần do nhà nước làm chủ sở hữu, gắn liền với các khả năng thu
chi, vay mượn của chính phủ, gắn liền với việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung
của nhà nước ( quỹ NSNN, quỹ dự trữ tài chính…) và có quan hệ chặt chẽ với các chủ thể
khác của nên kinh tế (doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân, các đoàn thể, tổ chức phi lợi
nhuận…) trong quá trình thực hiện chức năng phân phối. Phạm vi phân phối NSNN được
giới hạn ở các nghiệp vụ có liên quan đến quyền chủ sở hữu và quyền lực chính trị của Nhà
nước. Nhà nước thực hiện chức năng phân phối nguồn lực tài chính khi cung cấp, tài trợ vốn
cho các doanh nghiệp (thường là các doanh nghiệp mà nhà nước là chủ sở hữu toàn bộ hay bộ
phận); hoặc chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng bằng nguồn vốn tập trung từ NSNN.
Chức năng phân phối thu nhập của NSNN được thực hiện khi phát sinh các nhiệp vụ thu, chi
NSNN. Phân phối Nhà nước có mặt trong các khâu phân phối lần đầu (Nhà nước tham gia
vào quá trình phân chia kết quả sản xuất, kinh doanh với tư cách là chủ sở hữu vốn và tài sản
trong các doanh nghiệp có vốn của Nhà nước…) và phân phối lại kết quả kinh doanh thông
qua thuế và chi tiêu công cộng.
 Chức năng giám đốc ở đây được hiểu là việc giám sát, đôn đốc, kiểm tra, được tiến
hành một cách thường xuyên, liên tục, cùng với quá trình vận động của các đối tượng phân
phối của NSNN. Chức năng giám đốc của NSNN gắn liền với chức năng phân phối NSNN,
thông qua phân phối để giám sát, kiểm tra và nhờ có kiểm tra, giám sát mà quá trình phân

phối NSNN được thực hiện đúng pháp luật, có hiệu quả. Công cụ giám đốc NSNN là các
nghiệp vụ thống kê, kế toán, kiểm toán , nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra tài chính, chế độ công
khai tài chính, ngân sách và bằng các phương tiện thông tin đại chúng. Giám đốc NSNN thực
hiện cả ở tầm vi mô và mĩ mô, trực tiếp và gián tiếp. Giám đốc NSNN cung cấp thông tin về
các cân đối thu chi NSNN, về thực tế thu chi và tổng ngân quỹ NSNN tại các thời điểm cần
thiết, về thực trạng gánh nợ của nhà nước và khả năng thanh toán của Chính phủ. Thông qua
chức năng giám đốc của NSNN, nhà nước kiểm soát tình hình tài chính vĩ mô. Giám đốc
NSNN còn xem xét mức độ thực hiện chế độ, hạn chế mức thu chi của NSNN tại cơ sở, xem
xét việc chấp hành luật tài chính tại các doanh nghiệp Nhà nước và các đơn vị sử dụng
NSNN.
Nếu thực hiện tốt chức năng này, một mặt nhà nước sẽ được cung cấp những hình ảnh
đúng đắn, trung thực, sống động về thực trạng, về quá trình diễn biến, về xu hướng vận động
SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 4


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng

của NSNN. Mặt khác trên cơ sở kết quả giám đốc, Nhà nước tiếp tục vững bước hoặc có
những điều chỉnh cần thiết trong điều hành NSNN, tiến tới các mục tiêu chiến lược đã xác
định một cách có hiệu quả.
6. Vai trò ngân sách nhà nước:
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của NSNN được thể hiện:
 Đảm bảo nguồn tài chính thực hiện chức năng nhà nước công quyền, duy trì sự tồn tại
của thể chế chính trị.

 Công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều chỉnh kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
 Công cụ bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, bảo đảm công bằng xã hội, bảo
vệ môi trường sinh thái
7. Hoạt động ngân sách nhà nước:
7.1. Thu ngân sách nhà nước:
7.1.1.Khái niệm và phân loại thu ngân sách nhà nước:
Theo nghĩa rộng, thu ngân sách nhà nước là bao gồm toàn bộ các khoản tiền được tập
trung vào tay Nhà nước để hình thành quỹ ngân sách Nhà nước đáp ứng cho các nhu cầu chi
tiêu đã xác định của Nhà nước. Thu ngân sách nhà nước trước hết và chủ yếu gắn liền với các
hoạt động kinh tế trong xã hội. Do đó, mức độ phát triển kinh tế, tỷ lệ tăng trưởng GDP hằng
năm là tiền đề khách quan quyết định mức độ động viên các khoản thu ngân sách nhà nước.
7.1.1.1.Xét theo nguồn hình thành các khoản thu, thu ngân sách nhà nước được chia
thành 2 nguồn:
 Nguồn thu trong nước : Gồm các nguồn thu được hình thành và thực hiện từ hoạt
động kinh tế của mọi thành phần kinh tế, các khoản thu từ hoạt động sự nghiệp, thu về
bán và cho thuê tài sản của nhà nước…
 Nguồn thu ngoài nước: Bao gồm các khoản thu từ vay nợ và nhận viện trợ từ nước
ngoài.
Đặc điểm của các nguồn thu này là gắn chặt với tình hình kinh tế chính trị, xã hội và
ngoại giao của đất nước. Nguồn thu này thường không ổn định và có tính chất bù đáp một
phần trong quá trình cân đối ngân sách.
7.1.1.2.Xét theo tác động của các khoản thu đối với quá trình cân đối ngân sách, thu
ngân sách nhà nước bao gồm các loại sau:
 Thu trong cân đối ngân sách nhà nước: Gồm các khoản thu mang tính chất “thu thực”,
Nhà nước không phải hoàn trả lại, như:
• Thu từ thuế, phí, lệ phí.
• Thu từ bán và cho thuê các loại tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
• Thu lợi tức cổ phần của Nhà nước tại các công ty, doanh nghiệp mà nhà nước
có vốn góp cổ phần…
Trong các khoản thu trên, thuế là khoản thu quan trọng nhất. Vì thuế không chỉ là

khoản thu chiếm tỉ trọng lớn mà còn là công cụ để Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế.
SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 5


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng

 Thu bù đắp sự thiếu hụt ngân sách nhà nước : Gồm các khoản thu nhà nước phải hoàn
trả lại, như:
• Vay trong nước : Gồm các khoản vay của chính phủ đối với các tầng lớp dân
cư, các tổ chức kinh tế, xã hội trong nước. Việc nay này thể hiện dưới việc phát
hành các loại tín phiếu, trái phiếu kho bạc nhà nước, công trái quốc gia.
• Vay ngoài nước: Được thể hiện qua các hình thức vay nợ, các khoản viện trợ
có hoàn lại của các nước, các tổ chức tài chính quốc tế.
7.1.2. Tác động vĩ mô của thu ngân sách nhà nước:
Để thúc đẩy kinh tế phát triển phải tăng cường đầu tư của Nhà nước và đặc biệt là đầu tư
tư nhân. Nguồn đầu tư là tiết kiệm nên muốn tăng cường đầu tư thì phải tăng cường tiết kiệm.
Tiết kiệm của Nhà nước có thể tăng bằng cách tăng thuế hoặc giảm chi tiêu của Chính phủ.
Việc tăng thuế là một việc khó khăn và nó có ảnh hưởng đến đầu tư tư nhân. Để tăng tiết
kiệm tư nhân, Nhà nước có thể giảm thuế. Ngoài ra việc áp dụng các biện pháp ưu đãi về thuế
cũng như trợ cấp cho các doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc khuyến
khích sử dụng đầu tư. Để khuyến khích phát triển một lĩnh vực nào đó, Nhà nước có thể miễn
giảm về thuế cho lĩnh vực đó trong một thời gian nhất định. Trên thực tế nhiều khi biện pháp
này bị lạm dụng và các quy định ưu đãi nhiều đến mức làm cho việc tính thuế trở nên phức
tạp, gây nhiều khe hở cho việc tránh thuế, trốn thuế. Nhà nước sử dụng các chính sách về

thuế để đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư , kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh
doanh.
Thu NSNN còn có vai trò thực hiện công bằng xã hội, giảm bớt sự bất công trong phân
phối thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng. Thuế thu nhập và thuế lợi tức có vai
trò quan trọng nhằm điều tiết thu nhập để phân phối lại cho các đối tượng có thu nhập thấp,
thúc đẩy công bằng xa hội. Tuy nhiên đối với thuế doanh thu và thuế hàng hóa là những loại
thuế thường làm cho quá trình phân phối trở nên mất công bằng hơn vì thu phần nhiều hơn về
những người có thu nhập thấp hơn.
Thuế là một nguồn thu quan trọng và chủ yếu của thu NSNN. Thuế là khoản đóng góp bắt
buộc, được quy định thành luật của các tổ chức kinh tế và dân cư cho nhà nước.Thuế thể hiện
mối quan hệ phân phối lại thu nhập của dân cư và các tổ chức kinh tế cho Nhà nước.Nộp thuế
là nghĩa vụ của các tổ chức kinh tế và dân cư. Người ta phân biệt thuế thành hai loại là thuế
gián thu và thuế trực thu. Thuế gián thu là đánh vào hang hóa và dịch vụ, như vậy nó chỉ
đánh gián tiếp vào người sử dụng hàng hóa và dịch vụ đó. Còn thuế trực thu là đánh thuế trực
tiếp vào thu nhập của các tổ chức kinh tế và người dân.
Các loại thuế như thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng, thuế hàng hóa, thuế xuất nhập
khẩu được coi là thuế gián thu, chúng được cấu thành trong giá bán các loại hàng hóa và nó
làm cho giá bán tăng lên. Thuế doanh thu là loại thuế đánh vào hành động lưu thông của tất
cả các loại hàng hóa và dịch vụ. Nó động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng nhưng
lại nằm trong giá bán nên dễ bị che khuất và việc đánh thuế ít gây trở ngại, chống đối từ
SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 6


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng


người chịu thuế. Hơn nữa đối tượng đánh thuế là rất rộng rãi và tương đối ổn định nên thuế
doanh thu là một trong những nguồn thu quan trọng và khá ổn định của ngân sách.
Thuế hàng hóa thường được đánh vào các mặt hang không khuyến khích tiêu dùng và
những mặt hàng xa xỉ. Việc đánh thuế cao vào những mặt hàng này làm giá của chúng trên thị
trường tăng lên và như vậy sẽ hạn chế tiêu dùng.
Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của các tổ chức kinh tế và dân cư.
Thuế trực thu bao gồm thuế lợi tức và thuế thu nhập các nhân… Thuế lợi tức hay còn gọi là
thuế thu nhập công ty là loại thuế thu trên tổng lợi nhuận kinh doanh của các doanh nghiệp.
Thuế lợi tức là loại thuế có tác động lớn tới các quyết định đầu tư của các doanh nghiệp. Việc
tăng hay giảm thuế lợi tức có thể dẫn tới sự thu hẹp hay mở rộng quy mô của vốn đầu tư nói
chung. Việc áp dụng các quy định miễn giảm thuế lợi tức có tác dụng khuyến khích đầu tư
thật sự nhưng nó còn làm việc tính thuế thêm phần phức tạp gây ra những hiện tượng mất
công bằng và không đảm bảo tính chắc chắn trong chính sách thuế.
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu có tính chất lũy tiến cao nhất. Trong các nước
phát triển thì thuế thu nhập cá nhân là loại thuế thu nhập quan trọng nhất của NSNN. Thuế
thu nhập cá nhân là loại thuế được coi là tiến bộ nhất vì nó có vai trò giảm bớt khoảng cách
giữa người có thu nhập cao và những người có thu nhập thấp trong xã hội. Nhờ có hệ thống
thuế suất lũy tiến mà thuế thu nhập cá nhân là một trong những công cụ điều tiết rất tốt: Nếu
sản lượng tăng, thu nhập tăng thì thuế cũng tăng; nếu sản lượng giảm, thu nhập giảm thì thuế
cũng giảm. Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế nhạy cảm về thu nên có vai trò điều tiết vĩ mô
rất quan trọng.
Ngoài tác dụng là thúc đẩy kinh tế phát triển và thực hiện công bằng xã hội thì thu ngân
sách còn có tác động đến sự ổn định kinh tế, ngăn ngừa sự thụt lùi, giảm lạm phát và thất
nghiệp. Các nguồn vay nợ từ trong nước và nước ngoài sẽ tạo thêm nguồn vốn cho nền kinh
tế. Tuy nhiên nếu để tăng thu ngân sách mà nhà nước phát hành thêm tiền thì nó sẽ gây ra
tình trạng lạm phát gia tăng. Nếu dùng biện pháp vay dân (thông qua việc phát hành trái
phiếu) sẽ góp phần làm giảm lượng tiền mặt trong nền kinh tế, tạo ra sự cân đối tiền hàng và
làm giảm tốc độ lạm phát. Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát cao thì cần phải tăng thuế
và khống chế tiêu dùng của chính phủ.

7.2. Chi ngân sách nhà nước:
7.2.1. Khái niệm và phân loại chi ngân sách nhà nước:
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước theo
những nguyên tắc nhất định nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chắc năng của Nhà nước.
Chi ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà
nhà nước đảm nhận.
Hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước được xem xét khác với hiệu quả sử dụng
vốn của các doanh nghiệp. Tính hiệu quả của chi ngân sách nhà nước phải được xem xét ở
tầm vĩ mô, nghĩa là phải xem xét hiệu quả trên nhiều mặt về kinh tế, xã hôi, an ninh quốc

SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 7


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng

phòng…phải dựa vào việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng để
đánh giá hiệu quả các khoản chi ngân sách nhà nước.
Chi ngân sách nhà nước phần lớn mang tính cấp phát không hoàn trả trực tiếp, mang tính
bao cấp. Đặc điểm này giúp phân biệt cơ chế cấp phát chi ngân sách nhà nước khác với cơ
chế tín dụng. Từ đó đòi hỏi các nhà quản lí cần phải tính toán, phân tích đầy đủ trước khi ra
quyết định chi ngân sách nhà nước nhằm tránh sự lãng phí vốn ngân sách nhà nước, nâng cao
hiệu quả của chi ngân sách nhà nước.
7.2.1.1 phân loại chi ngân sách nhà nước:
Tùy theo mục đích, yêu cầu của việc phân tích, đánh giá và quản lí ngân sách nhà nước

mà người ta có thể phân chia chi ngân sách nhà nước theo nhiều tiêu thức khác nhau.
 Căn cứ theo lĩnh vực chi, nội dung chi ngân sách nhà nước được chia thành:
• Chi kiến thiết kinh tế
• Chi văn hóa-xã hội
• Chi quản lí hành chính
• Chi an ninh quốc phòng
• Các khoản chi khác
Cách phân loại này được sử dụng phổ biến trong thời kì quản lí theo cơ chế kế hoạch
hóa tập trung ở nước ta, nó nhằm đánh giá chi ngân sách nhà nước theo từng lĩnh vực, trong
đó lĩnh vực chú trọng nhất là chi về kiến thiết kinh tế.
 Căn cứ vào sự phát huy tác dụng của các khoản chi, nội dung chi ngân sách nhà nước
được chia thành:
• Chi thường xuyên
• Chi đầu tư phát triển
7.2.2. Tác động vĩ mô của chi ngân sách nhà nuớc:
Chi ngân sách có tác động to lớn đến việc thực hiện các mục tiêu của chính sách Ngân
sách. Thông thường chi ngân sách được đưa ra nhằm mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế,
thực hiện công bằng xã hội và ổn định kinh tế. Để thực hiện các mục tiêu đó, Nhà nước
thường sử dụng các biểu số như cấp phát cho đầu tư, trợ cấp, chi mua hàng hóa và dịch vụ
công cộng.
Chi đầu tư của chính phủ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế vì nó
tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân,
hay nói cách khác là đầu tư chính phủ tạo ra sự khởi động ban đầu, kích thích quá trình vận
động vốn để hướng tới sự tăng trưởng. Đối tượng đầu tư của nhà nước thường là những công
trình thuộc kết cấu hạ tầng, các ngành kinh tế mũi nhọn và những công trình kinh tế mà
không thể dựa vào đầu tư tư nhân nhưng hoạt động của chúng lại cần thiết cho xã hội. Hệ
thống cơ sở hạ tầng phát triển là tiền đề cho sự phát triển kinh tế nói chung, nó tạo điều kiện
thuận lợi cho việc mở mang đầu tư vào các ngành kinh tế và sự ra đời của các doanh nghiệp
này sẽ kéo theo sự ra đời của các doanh nghiệp khác. Ngược lại hệ thống cơ sở hạ tầng kém
SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2


Trang 8


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng

phát triển sẽ kìm hãm sự phát triển của nên kinh tế. Việc xây dựng các công trình thuộc cơ sở
hạ tầng đòi hỏi số vốn đầu tư lớn, thời gian dài và chúng không mang lại lợi nhuận trực tiếp
mà hiệu quả của chúnh thể hiện ở sự phát triển kinh tế nói chung. Các ngành công nghiệp non
trẻ cũng cần vốn đầu tư của nhà nước. Sự phát triển của các ngành này sẽ tạo điều kiện phát
triển của cá ngành kinh tế khác.
Chính sách chi cũng có tác động nhất định đến việc thực hiện các mục tiêu ổn dịnh kinh
tế. Trong trường hợp chi vượt thu quá nhiều sẽ dẫn đến lạm phát. Vì vậy để kìm hãm lạm
phát phải khống chế tiêu dùng của chính phủ. Trong những trường hợp bình thường, việc tiết
kiệm chi tiêu dùng của chính phủ góp phần làm tăng tiết kiệm và từ đó có thể mở rộng đầu tư,
thúc đẩy kinh tế phát triển.
Cơ chế thị trường tạo ra sự phân hóa lớn giữa những người có thu nhập cao và những
người có thu nhập thấp trong xã hội. Để làm giảm khoảng cách đó, nhà nước sử dụng hình
thức trợ cấp từ ngân sách nhà nước. Các khoản trợ cấp đó có ý nghĩa lớn đối với các tầng lớp
có thu nhập thấp, chúng làm tăng đáng kể thu nhập của họ. Các khoản trợ cấp cho giáo dục, y
tế có ý nghĩa lớn đối với việc nâng cao dân trí và đảm bảo sức khỏe cho dân cư.
Chi văn hóa xã hội bao gồm các khoản chi của ngân sách cho các nhu cầu của xã hội về
đào tạo, gíao dục, y tế, phúc lợi xã hội. chi văn hóa là khoản chi cần thiết không thể thiếu đối
với xã hội vì nó liên quan trực tiếp đến việc nâng cao dân trí và đảm bảo sức khỏe cho nhân
dân. Chi văn hóa xã hội là phương tiện để nhà nước thực hiện phân phối lại thu nhập nhằm
mục tiêu công bằng xã hội.

Chi quản lí hành chính là khoản chi không liên quan trực tiếp đến sản xuất nhưng rất cần
thiết cho xã hội. Nó đảm bảo kinh phí hoạt động cho các cơ quan hành chính và các cơ quan
chính quyền nhà nước.
Chi quốc phòng bao gồm chi đầu tư xây dựng các công trình quốc phòng, chi mua sắm,
bảo dưỡng các phương tiện kỹ thuật phục vụ cho hoạt động quốc phòng, chi trang bị cho
quân đội, chi luơng, chi nuôi quân vá các chi phí khác.
8. Cân đối ngân sách nhà nước và thâm hụt ngân sách nhà nước:
8.1. Cân đối ngân sách nhà nước:
Cân đối ngân sách nhà nước về hình thức là cân đối giữa thu và chi ngân sách. Cân đối
ngân sách nhà nước truớc hết biểu hiện ở mối quan hệ tương đương về lượng và sự bằng
nhau giữa hai con số. Cân đối còn được thể hiện ở việc bố trí cơ cấu và quan hệ số lượng giữa
các yếu tố cơ cấu thu, chi ngân sách nhà nước.
Cân đối ngân sách nhà nước nhằm bảo đảm nhu cầu tài chính cho các cấp chính quyền đủ
khả năng thực hiện các nhiệm vụ mà hiến pháp quy định. Cân đối ngân sách nhà nước phải
được thực hiện ngay từ khâu lập dự toán ngân sách, đồng thời phải xác lập cân đối thu chi
trong quá trình chấp hành ngân sách. Các khoản chi chỉ được phép thực hiện khi đã có đủ các
nguồn thu bù đắp.
8.2. Thâm hụt ngân sách nhà nước:

SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 9


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng


Thâm hụt NSNN trong một thời kì là tình trạng khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước
vượt quá các khoản thu không phải hoàn trả của NSNN. Có 2 nhóm nguyên nhân chính:

Nguyên nhân khách quan do diễn biến của chu kì kinh tế, có những giai
đoạn đòi hỏi nhà nước phải đầu tư lớn để điều chỉnh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho giai
đoạn phát triển kế tiếp. Mặt khác thâm hụt ngân sách nhà nước xuất hiện là do tình hình
đặc biệt của đất nước (chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh lớn) khi nguồn dự trữ thường
xuyên không còn đủ và buộc nhà nước phải sử dụng nguồn lực đặc biệt này.

Nguyên nhân mang tính chủ quan, thuộc về quá trình điều hành quản lí
ngân sách nhà nước của Nhà nước.
Chính phủ các nước đã nghiên cứu và sử dụng nhiều giải pháp cho vấn đề thâm hụt ngân
sách như: Phát hành tiền để bù đặp thâm hụt, Sử dụng dự trữ ngoại hối, vay trong nước và
nước ngoài….

SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 10


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ

Khoa tài chính ngân hàng



CHƯƠNG II :
TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG VÀ VAI TRÒ ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ
NỀN KINH TẾ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1. Tổ chức hệ thống và ngân sách và phân cấp quản lý ngân sách ở Việt Nam:

1.1. Tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước Việt Nam:
Ở Việt Nam, trên cơ sở hiến pháp năm 1992, bộ máy quản lý hành chính nhà nước Việt
Nam được tổ chức theo cấp chính quyền trung ương và cấp chính quyền địa phương. Cấp
chính quyền địa phương bao gồm chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, chính
quyền huyện, quận và chính quyền xã, phường. Mỗi cấp chính quyền đại phương lại có hội
đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Căn cứ quy định của hiến pháp, luật tổ chức quốc hội,
luật tổ chức chính phủ, luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp thì các bộ
có chức năng quản lý nhà nước về ngành, chính quyền nhà nước các cấp có nhiệm vụ quản lý
các mặt kinh tế xã hội trên địa bàn. Vì vậy các cấp chính quyền đều phải có ngân sách để
thực hiện các nhhiệm vụ được giao theo luật định và phù hợp với khả năng quản lý của các
cấp chính quyền. Như vậy, phù hợp với hệ thống hành chính, hệ thống ngân sách nhà nước
Việt Nam hiện nay bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách địa
phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính có cấp hội đồng nhân dân và ủy ban nhân
dân. Cơ cấu hệ thống ngân sách nhà nước được mô tả theo sơ đồ sau:
Hệ thống ngân sách nhà nước

Ngân sách địa phương

Ngân sách trung ương

Ngân sách tỉnh(thành phố thuộc trung
ương)

Ngân sách
Thành phố
thuộc Tỉnh

Ngân sách
thị xã


Ngân sách
Quận, Huyện

Ngân sách xã, phường, thị trấn

Trong hệ thống ngân sách nhà nước, Ngân sách Trung ương giữ vai trò chủ đạo đảm bảo
thực hiện các nhiệm vụ chiến lược quan trọng, mang tính chất toàn quốc của quốc gia và hỗ
trợ nguồn lực tài chính cho các địa phương còn gặp khó khăn chưa cân đối được ngân sách.
SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 11


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng

Còn ngân sách địa phương các cấp nói trên giữ vai trò đảm bảo nguồn tài chính cho chính
quyền địa phương thực hiện các nhiệm vụ về quản lý kinh tế - xã hội trên địa bàn địa phương.
1.2. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở Việt Nam:
Việt Nam trong giai đoạn bắt đầu hình thành hệ thống ngân sách (giai đoạn 1967-1983) đã
thực hiện chế độ phân cấp ngân sách nhà nước. Tuy nhiên khi chiến tranh kết thúc thì nó có
nhược điểm là các cấp ngân sách với nội dung quản lý chặt chẽ từng cấp Ngân sách theo
phương tập trung chủ yếu vào ngân sách trưng uơng với mục đích thực hiện tập trung mọi
nguồn lực của quốc gia vào việc thống nhất đất nước, có sự thụ động, phụ thuộc vào ngân
sách trung ương và vì vập nên không khai thác triệt để các cấp ngân sách.
Giai đoạn 1983-1989, chế độ phân cấp Ngân sách thực hiện theo nội dung quy định rõ
khoản thu chi nào do Trung ương thực hiện, khoản thu nào do địa phương thực hiện. Với việc

phân cấp như vậy, chúng ta đã bắt đầu khơi dậy tính chủ động, sáng tạo của từng cấp ngân
sách. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện ở giai đoạn này thì vẫn còn nhược điểm là chưa tạo
ra sự cân đối giữa các cấp ngân sách cũng cấp.
Giai đoạn từ 1989 đến nay chúng ta quản lý phân cấp theo hướng đảm bảo tập trung dân
chủ, đảm bảo tính thống nhất của nền tài chính và xác định rõ trách nhiệm của từng cấp trong
quản lý tài chính. Cụ thể:
 Chi ngân sách : Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng cấp ngân sách mà hệ thống
ngân sách được phân cấp: NSTW thực hiện các khoản chi liên quan đến quốc phòng,
ngoại giao, chi bộ máy quản lý nhà nước nói chung và chi trả nợ chính phủ. Còn ngân
sách địa phương thực hiện các khoản chi nhằm xây dựng các công trình kinh tế, văn
hóa, xã hội của địa phương và chi các khoản cho bộ máy quản lý địa phương.
 Về thu ngân sách: quy định rõ các khoản thu cố định và thu điều tiết cho từng cấp
ngân sách địa phương. Trong đó thu cố định là khoản thu mà ngân sách là khoản thu
mà ngân sách địa phương được giữ lại 100% như thu từ việc trồng rừng, học phí, viện
phí từ trường học, bệnh viện địa phương, thu từ sổ xố…
Công khai tài chính là một biện pháp không thể thiếu của hoạt động NSNN nhằm tạo điều
kiện cho việc kiểm tra giám sát của các cơ quan đoàn thể, các tổ chức xã hội và nhân dân
trong phân bổ và sử dụng NSNN các cấp, góp phần thực hiện chính sách tiết kiệm, chống
lãng phí, phát hiện và ngăn ngừa kịp thời các hành vi vi phạm chế độ quản lý tài chính. Để
thực hiện việc này, thời gian qua chúng ta đã từng bước thựuc hiện quy chế công khai quy tắc
quản lý NSNN các cấp một cách rộng khắp.
Cho đến năm 2008, sau ba năm thực hiện, nhìn chung quy chế đã thực hiện một cách
nghiêm túc theo đúng các quy định của quy chế và các thông tư hướng dẫn của bộ tài chính,
bước đầu đã phát huy tác dụng và đựoc các tầng lớp dân ủng hộ, các tổ chức quốc tế và các
nhà tài trợ đánh giá cao.
2. Thu, chi ngân sách và vai trò điều tiết vĩ mô của ngân sách nhà nước Việt Nam trong
giai đoạn 2008-2012:
2.1. Tình hình kinh tế xã hội ở Việt Nam 2008-2012:
SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2


Trang 12


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng

2.1.1. Những thành tựu đạt được:
Bước vào kế hoạch 5 năm 2008-2012, bên cạnh những thuận lợi của bối cảnh kinh tế
-chính tri thế giới, nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn của nền kinh tế. Tuy
nhiên, hoạt động kinh tế xã hội trong nước vẫn đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, thể
hiện tập trung ở những điểm lớn sau:

Nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước là
tiền đề quan trọng để tăng thu NSNN và thực hiện các chính sách xã hội.
Tính chung cho cả giai đoạn 2008-2012, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trung bình
7,5% năm, đạt xấp xỉ kế hoạch và cao hơn nhiều so với 5 năm 1996-2007 (6,9%), trong
đó nông lâm ngư nghiệp đạt 3,6%; công nghiệp và xây dựng đạt 10,3%; các ngành dịch
vụ đạt 7,0%.
Bảng 1- Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2008-2012
Năm
2008 2009 2010 2011 2012 2008-2012
Tốc độ
6,90 7,08 7,34 7,7
8,4
7,5
tăng trưởng
Trong đó:

2008 2009 2010 2011 2012 2008-2012
Nông –lâm-ngư nghiệp
3,0
4,2
3,6
4,4
4,0
3,6
Công nghiệp và xây dựng 10,4 9,5 10,5 10,2 10,6
10,3
Dịch vụ
6,1
6,5
6,5
7,3
8,5
7,0
Nguồn : Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2013-2017
Do kết quả đó, quy mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2012 đạt gấp
đôi năm 1995. Thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm 2012 đạt trên 600 USD, vượt
mức thu nhập thấp 500USD
Kinh tế tăng trưởng cao là tiền đề quan trọng làm tăng nguồn thu tài chính trong nước
và tăng tỷ lệ thu từ nội địa. Mặt khác, nhờ kinh tế tăng trưởng mà công tác xóa đói giảm
nghèo đạt được thành tựu đáng kể. Nhiều biện pháp xóa đói giảm nghèo đã được thực
hiện. Nguời nghèo đã từng bước tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản; cơ sở hạ tầng ở vùng
nghèo, xã nghèo đã được tăng cường. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2012 đã giảm một nửa so với
năm 2007; từ 33% năm 2007 xuống còn 22% năm 2012. Đời sống của người nghèo đã
nâng lên được một bước.

Biểu đồ 1 : Thu nhập bình quân đầu người qua các năm ( 1988-2012) (USD)


SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 13


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng

 Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực đã tạo cơ sở vững chắc để tăng tỷ lệ
thu NSNN so với GDP
Bảng 2 – Cơ cấu kinh tế theo ngành và theo thành phần kinh tế
Chỉ tiêu
1995 2007 2012
Khu vực nông, lâm, thủy sản
27,2 24,5 19
Khu vực công nghiệp, xây dựng 28,8 36,7 42
Khu vực dịch vụ
44,0 38,8 39
Nhờ cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực nên tỷ lệ huy động thu NSNN so
với GDP có xu hướng tăng cao. Cơ cấu thu ngân sách bước đầu chuyển dịch theo hướng
tăng tỷ trọng các nguồn thu ổn định từ nền sản xuất trong nước, giảm tỷ trọng các nguồn
thu từ yếu tố bên ngoài.
 Kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối chủ yếu trong nền kinh tế có nhiều cải thiện, tạo cơ
sở vững chắc cho cân đối tài chính.
 Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính có nhiều kết quả tích cực
Cùng với quan hệ quốc tế được mở rộng, đã thực hiện các cam kết quốc tế và ký kết

nhiều hiệp định đa phương, song phương: đã thực hiện tốt các cam kết cắt giảm thuế
CEPT/AFTA; từng bước cắt giảm thuế xuất, nhập khẩu để hội nhập với tiến trình hội
nhập; đẩy nhanh tiến trình đàm phán và chủ động cam kết cắt giảm thuế trong tiến trình
gia nhập WTO; thực hiện mở cửa đối với một số lĩnh vực tài chính và dịch vụ tài chính
theo các cam kết hội nhập, tạo cơ sở để hội nhập nhanh với thế giới và khu vực.
Các quan hệ kinh tế và liên kết kinh tế khu vực và hợp tác song phương được tiếp tục
đẩy mạnh. Tích cực tham gia hợp tác giữa ASEAN với các nước Đông – Bắc Á theo cả
hai hình thức ASEAN+1 và ASEAN+3
2.1.2. Những tồn tại yếu kém:
 Chất lượng phát triển kinh tế-xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu.
Tăng trưởng kinh tế những năm qua chưa phát huy mạnh các nhân tố theo chiều sâu,
chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước.
 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, hiệu quả thấp
 Các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc
 Hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động đối ngoại còn nhiều khó khăn, hạn chế.
SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 14


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng

2.2. Đánh giá tình hình thực hiện ngân sách nhà nước:
2.2.1.Những thành tựu đạt được:
2.2.1.1. Về chính sách thu ngân sách nhà nước:
Trong giai đoạn 2008-2012, chính sách thuế được đổi mới theo hướng cắt giảm mức thuế,

phí trên diện rộng; thực hiện mạnh mẽ cải cách hành chính thuế; giảm thiểu, xóa bỏ các thủ
tục không cần thiết gây phiền hà cản trở đối với người nộp thuế; từng bước hiện đại hóa công
tác quản lý thuế của cơ quan quản lý thuế nhằm tránh gây thoát thuế. Cụ thể là:
Một là, chính sách động viên các nguồn lực tài chính thời gian qua đã thực hiện theo
hướng giảm dần thuế suất, nhưng vẫn đảm bảo nguồn thu cho NSNN
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp quy định áp dụng một mức thuế suất thống nhất và các
mức ưu đãi chung cho các thành phần kinh tế, theo đó thực hiện giảm thuế suất phổ thông từ
32% xuống 28% và được áp dụng chung cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mặc dù thực hiện
nâng mức thuế suất từ 25% - 28% nhưng lại đi kèm với quy định bãi bỏ thuế chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài nên tỷ lệ huy động chung vẫn tương đối ổn định.
Nhờ những đổi mới quan trọng trong lĩnh vực thuế mà môi trường đầu tư và kinh doanh
đã được cải thiện, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo cơ sở vững chắc để
tăng thu nguồn thu NSNN.
Hai là, tăng cường quản lý thu thuế, phí và hiện đại hóa trong hệ thống thuế.
Thứ nhất, trong giai đoạn 2008-2012, đã tập trung xây dựng chương trình hiện đại hóa
ngành thuế từ Trung ương đến địa phương và tiến hành cải cách hành chính thuế theo mô
hình một cửa, rút ngắn thời gian giải quyết công việc, tạo thuận lợi cho đối tượng nộp thuế.
Bên cạnh đó, đã tiến hành triền khai thực hiện thí điểm quản lý theo cơ chế cơ sở kinh doanh
tự kê khai, tự nộp thuế theo quyết định 197/203/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ.
Thứ hai, đã thực hiện sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy trình quản lý thuế; thủ tục hành
chính theo hướng từng bước chuẩn hóa công tác quản lý thuế. Cụ thể là sửa đổi bổ sung quy
trình quản lý thuế áp dụng đối với hộ kinh doanh theo hướng “tự tính – tự khai – tự nộp
thuế”, trong đó quy định rõ ràng các bước công việc và rút ngắn thời gian của mỗi bước; xóa
bỏ sự trùng hợp giữa các công đoạn, giữa các bộ phận trong cơ quan thuế, áp dụng công cụ
tin học vào quản lý thuế. Đồng thời thực hiện sửa đổi quy trình đăng ký cấp mã số thuế, rút
ngắn thời gian từ 15 ngày xuống còn 8 ngày đối với các doanh nghiẹp thuộc cục thuế quản lý.
Các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu sử dụng thống nhất mã số thuế do cơ quan
thuế cấp khi thực hiện hoạt động kinnh doanh xuất nhập khẩu.
Như vậy, trông giai đoạn 2008-2012, công tác quản lý thuế đã được đổi mới và hoàn thiện

theo hướng tôn trọng các quy trình nhiệp vụ quản lý thuế, tiêu chuẩn hóa từng khâu trong
quản lý thuế : quy trình quản lý thuế đối với doanh nghiệp, hộ kinh doanh từ cấp mã số thuế,
cấp sổ mua hóa đơn, sử lý theo dõi tờ khai, tình trạng nộp thuế của doanh nghiệp và quản lý
nợ đọng thuế, quy trình hỗ trợ đối tượng nộp thuế….Tiến hành thí điểm phương pháp quản lý

SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 15


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng

thu thuế hiện đại theo cơ chế, tụ khai, tự tính, tự nộp thuế tại một số địa phương, mở rộng áp
dụng từ năm 2012-2013 và tiến tới triển khai trong toàn quốc từ năm 2014.
Thứ ba, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế, chuyển từ thanh tra
theo phương pháp thủ công truyền thống sang phương pháp đánh giá rủi ro để lựa chọn
những đối tượng cần thanh tra, kiểm tra thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu lưu trữ của cơ quan
thuế. Điều đó góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra, tránh tình trạng
kiểm tra tràn lan gây lãng phí các nguồn lực. Tiếp tục triển khai quy chế phối hợp với lực
lượng cảnh sát kinh tế trong việc chống gian lận về thuế; xây dựng quy chế phối hợp 3 ngành
thuế-hải quan- kho bạc trong việc quản lý thu thuế, cung cấp thồn tin, tổ chức thu thuế, thu
hồi nợ đọng và chống các hành vi gian lận thuế. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ thuế; tăng cường quản lý nhà nước đối với công tác thuế.
Ba là, tiềm lực tài chính quốc gia ngày càng được củng cố và tăng cường, chuyển từ
thế bị động, phụ thuộc từ bên ngoài, sang nền tài chính chủ động, có tích lũy để đầu tư
phát triển.

Thứ nhất, quy mô thu NSNN ngày càng lớn: Tổng thu NSNN dự kiến thực hiện 5 năm
2008-2012 đạt khoảng 755.000 nghìn tỷ đồng, tăng 135 nghìn tỷ đồng so với mục tiếu kế
hoạch (mục tiêu là 620 nghìn tỷ đồng, vượt 21,8%), tốc độ tăng thu bình quân đạt 17,1%/năm
(mục tiêu là 12%/năm) góp phần làm gia tăng đáng kể quy mô ngân sách, đảm bào điều kiện
để thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2008-2012.
So sánh với các giai đoạn khác ta thấy: trong giai đoạn 1996-2007, tổng thu ngân sách
bình quân hàng năm giai đoạn 1991-1995 (31.794 tỷ đồng). Giai đoạn 2008-2012, số thu
ngân sách bình quân hàng năm tăng lên 153.934 tỷ đồng , tăng gấp hơn hai lần so với số thu
ngân sách bình quân năm giai đoạn 1996-2007.

Nguồn: quyết toán NSNN
SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 16


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng

Thứ hai, tỷ lệ động viên bình quân vào NSNN ngày càng tăng: Giai đoạn 2008-2012 tỷ lệ
động viên bình quân đạt 23,0% GDP, trong đó thuế, phí dự kiến đạt 22%GDP; vượt mức tiêu
kế hoạch đề ra (khoảng 20-21% GDP; trong đó thuế, phí là 18-19% GDP); cao hơn so với
giai đoạn 1996-2007 (tỷ lệ động viên là 29,7% GDP, trong đó thuế, phí 19,7%GDP); tốc độ
tăng thu bình quân đạt 15,9%/năm (mục tiêu kế hoạch là 12%/năm).
Bảng 3 - Tỷ lệ động viên NSNN giai đoạn 2008-2012 (%)
Năm
2008 2009 2010 2011 2012 2008-2012

Tỷ lệ động viên NSNN
21,6 23,1 23,2 24,0 23,1
23,0
Tỷ lệ động viên qua thuế 20,4 21,1 21,5 20,7 21,7
22,0
Nguồn : Niêm giám thống kê tài chính 2011.
Bảng 4 - Tỷ lệ động viên NSNN giai đoạn 1996-2007 (%)
Năm
1996 1997 1998 1999 2007 1996-2007
Tỷ lệ động viên NSNN
22,9 20,8 19,6 19,6 20,5
20,7
Tỷ lệ động viên qua thuế 21,8 19,4 19,2 18,6 19,7
19,7
Nguồn: Niêm giám thống kê tài chính 2011
Thứ ba, cơ cấu nguồn thu có chuyển biến tích cực: Tỷ trọng và chất lượng các khoản thu
từ nội địa từ nền kinh tế ngày càng được nâng cao: Tỷ trọng thu nội địa tăng từ 50,7% năm
2008 lên 55,5% năm 2012, với tốc độ tăng thu nội địa trung bình 15%/năm; thu từ dầu thô
tương ứng giảm từ 25,3% xuống còn khoảng 24,2% năm 2011 và tăng lên 28,5 năm 2012; tỷ
trọng thu từ xuất nhập khẩu sau khi tăng từ 22,1% năm 2008 lên 25,9% năm 2009, đã giảm
xuống còn 18,2% năm 2012. Đặc biệt, một số khoản thu ít gắn với tăng trưởng kinh tế song
đạt tốc độ tăng khá cao như thu từ cấp quyền sử dụng đất. Hầu hết các địa phương đã thực
hiện đấu giá quyền sử dụng đất để thu quyền sử dụng đất phù hợp với giá thị trường. Kết quả
là tỷ trọng thu từ cấp quyền sử dụng đất tăng từ 1,3% giai đoạn 1996-2007 lên 5,5% giai đoạn
2008-2012, tốc độ tăng bình quân các năm gần đây là 71,3%.
Đồ thị 3 : Cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước 2008-2012 (%)

Thứ tư, tỷ lệ trả nợ ngày càng tăng: Tỷ lệ trả nợ nước ngoài của chính phủ tăng từ 5,7%
năm 2008 lên 5,9% năm 2010 và 7,2% tổng thu NSNN năm 2011
Thứ năm, dự trữ tài chính ngày càng tăng: dự trữ tài chính hằng năm được tăng cường và

bổ sung, bảo đảm nguồn dự trữ đề phòng những vấn đề bất thường về thời tiết và những rủi
ro khác, đáp ứng yêu cầu ổn định sản xuất và đời sống.
SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 17


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng

2.2.1.2. Chính sách chi ngân sách nhà nước:
Một là, ngân sách nhà nước được cơ cấu lại theo hướng tăng dần tỷ lệ chi cho đầu tư
phát triển, tập trung nguồn lực để giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc.
Thứ nhất, tổng số chi ngân sách nhà nước đạt cao, vượt chỉ tiêu kế hoạch: Nhờ nguồn
động viên thu NSNN đạt khá nên tổng chi tiêu NSNN trong giai đoạn 2008-2012 ước đạt
khoảng 912,6 nghìn tỷ đồng, vượt 162,6-192,6 nghìn tỷ đồng so với mục tiêu kế hoạch (mục
tiêu kế hoạch là 720-750 nghìn tỷ đồng), vớ tốc độ tăng bình quân 16,6%/năm (mục tiêu kế
hoạch là 12%/năm). Tỷ lệ tăng chi NSNN bình quân bằng 28,5%GDP, vượt mục tiêu kế
hoạch (25-26% GDP)
Biểu đồ : Tổng chi ngân sách nhà nước 1990-2012 ( Nghìn tỷ đồng)

Thứ hai, cơ cấu chi ngân sách nhà nước có sự chuyển biến tích cực theo hướng tăng
nhanh tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển và giảm chi thường xuyên. Chi đầu tư phát triển
chiếm khoảng 30% tổng chi ngân sách nhà nước, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra 25-26% tổng
chi NSNN, tăng so với giai đoạn 1996-2007 (giai đoạn 1996-2007 chi cho đầu tư phát triển là
26,3% tổng chi NSNN). Tỷ trọng chi thường xuyên có xu hướng giảm dần từ mức 60,7%
tổng chi giai đoạn 1991-1995 xuống còn 52,8% giai đoạn 2008-2012. Tỷ lệ chi trả nợ, viện

trợ đạt 13,4%.
Biểu đồ : Cơ cấu chi ngân sách nhà nước 1990-2012

Thứ ba, vốn ngân sách nhà nước đã tập trung giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội bức
xúc. Trong giai đoạn 2008-2012, vốn đầu tư NSNN, cùng với nguồn vốn tín dụng nhà nước
(với quy mô tương đương 64% vốn đầu tư từ NSNN, chiếm tỷ lệ 16-18% tổng tín dụng trong
nền kinh tế) đã chú trọng tập trung đầu tư nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội
SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 18


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng

(chương trình kiên cố hoá kênh mương, kiên cố hoá trường lớp học, chương trình tôn nền
vượt lũ Đồng Bằng sông Cửu Long, chương trình phát triển đội tàu Việt Nam, các công trình
giao thông chính như đường HCM, đường Hà Tĩnh - Ngọc Hồi; cải tạo, mở rộng và xây dựng
mới các cảng biển Hải Phòng, Cái Lân, Nghi Sơn, Cửa Lò, Dung Quất, Liên Chiểu và các cầu
lớn như cầu Cần Thơ, cầu Bãi Cháy, cầu Rạch Miếu, các sân bay Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Phú
Bài , Liên Khương…); chú trọng phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn (khí điện đạm, xi
măng, thép, thuỷ điện…), các vùng kinh tế động lực, các khu công nhiệp, khu công nghệ cao,
đồng thời ưu tiên phát triển các vùng sâu, vùng xa và vùng khó khăn (khu vực Tây Nguyên,
khu vực miền núi phía Bắc , các tỉnh miền Tây Nam Bộ..)
Vốn NSNN đã đầu tư vào các lĩnh vực nông nghiệp nông thôn khoảng 25%, công nghiệp
7,9%; giao thông vận tải, bưu điện 28,7%, khoa học công nghệ giáo dục và đào toạ, y tế, văn
hoá, thể dục thể thao 21,1%; các ngành khác 17,3%.

Trong giai đoạn 2008-2012 vốn NSNN đã đầu tư thêm trên 40.000 tỷ dồng cho khu vực
Tây Nguyên, miền núi phía Bắc, các tỉnh Tây Nam Bộ, vùng miền núi khó khăn để phát triển
hạ tầng, thực hiện ácc nhiệm vụ kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo và đảm bảo an ninh quốc
phòng.
Hai là, đảm bảo nguồn vốn NSNN cho việc thực hiện mục tiêu phát triển nguồn
nhân lực, đáp ứng nhu cầu cảu sự nghiệp giáo dục- đào tạo, khoa học và công nghệ.
Mặc dù chi thường xuyên giảm tỷ trọng trong tổng chi NSNN, song các nhu cầu chi tiêu
phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đều được đáp ứng và tốc độ
chi tăng nhanh qua các năm: Nếu năm 2007 chi NSNN cho giáo dục- đào tạo chỉ đạt 15%
tổng chi NSNN thì năm 2012 đạt 18% tổng chi, so với GDP tăng từ 3,7% lên 5,1%; bình
quân giai đoạn 2008-2012 là 16%/năm, cao hơn nhiều so với giai đoạn 1996-2007 (trung bình
chiếm 13,6% tổng chi NSNN); mức chi bình quân từ năm 1998-2011 đạt 18,7%/năm, cao
hơn tốc độ tăng chi NSNN (bình quân 13,8%/năm)
Chi NSNN cho giáo dục và đào tạo tăng từ 2,9%GDP (năm 1996) lên 3,5%GDP (năm
1998) và 4,7%GDP (năm 2011). Nếu kể cả chi bằng nguồn công trái giáo dục đã giải ngân
5.000 tỷ đồng trong kế hoạch 2010-2011, trong đó năm 2010 đã huy động 2.579 tỷ đồng, thì
chi cho giáo dục - đào tạo năm 2011 đạt 17,7% tổng chi NSNN, vượt qua mức chi tiêu cho
giáo dục-dào tạo tính trên GDP của châu Á (bình quân 3,8%GDP) và cao hơn nhiều nước
trong khu vực. ( Mức chi cho giáo dục của Trung Quốc là 2,2%GDP; Nhật Bản 3,5%GDP;
Singapore 3,7%GDP và Ấn Độ 4,1% GDP)
Chi cho khoa học – công nghệ đạt 2% tổng chi NSNN, trong đó 37% chi đầu tư phát triển,
63% là kinh phí sự nghiệp. Tốc độ chi bình quân đạt 10%/năm.
Biểu đồ - Chi NSNN so với GDP (2008-2012)

SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 19


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ




Khoa tài chính ngân hàng

Nguồn : Bộ tài chính
Ba là, công tác quản lý ngân sách nhà nước có nhiều đổi mới, tiến bộ; phân cấp ngân
sách được đẩy mạnh.
Công tác quản lý và phân cấp ngân sách đã có những đổi mới cơ bản, nâng cao quyền chủ
động và trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong việc quản lý tài chính – ngân sách
phù hợp với xu thế và cơ chế quản lý của nền kinh tế thị trường. Tăng số địa phương tự cân
đối được ngân sách và có đóng góp cho ngân sách nhà nước từ 5 tỉnh, thành phố lên 15 tỉnh,
thành phố vào năm 2011.
Phân định rõ thẩm quyền chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ quan trong quy
trình lập, quyết định, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước; Thủ thục hành chính
trong quản lý ngân sách nhà nước được cải tiến theo hướng giảm được nhiều khâu, nhiều thủ
tục không cần thiết trong cấp phát ngân sách, tạo điều kiện tập trung vào công tác kiểm tra và
giám sát tài chính.
Nâng cao vai trò và quyền hạn của Quốc Hội, Hội đồng nhân dân các cấp (đặc biệt là Hội
đồng dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) trong việc quyết định dự toán ngân sách
nhà nước, tổ chức giám sát việc phân bổ và thực hiện dự tóan NSNN đuợc đề cao, đồng thời
đã khắc phục được tình trạng chồng chéo về phía thẩm quyền của Quốc Hội và Hội đồng
nhân dân các cấp về lĩnh vực quản lý ngân sách.
Cơ chế tài chính đối với khu vực hành chính sự nghiệp được đổi mới về cơ bản theo
hương tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính. Trên cơ sở phân định rõ
các đơn vị hành chính với đơn vị sự nghiệp, tiến hành áp dụng cơ chế quản lý tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công theo hướng khoán biên chế và giao quyền tự chủ tài chính cho
đơn vị sự nghiệp có thu.
Bội chi ngân sách nhà nước được xử lý theo hướng tích cực và được kiềm chế dưới mức
5%GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5% GDP. Nếu chỉ xét ở tỷ lệ so với GDP, cũng thấy bội chi

NSNN trong 5 năm trở lại đây tăng cao hơn các năm trước đó khá nhiều (bình quân khoảng
4,95% GDP) vì giai đoạn năm 1991-1995, mức bội chi NSNN so với GDP chỉ ở mức 2,63%
và giai đoạn từ năm 1996-2007 ở mức 3,87% so với GDP.

SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 20


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ

Khoa tài chính ngân hàng



Biểu đồ - Bội chi NSNN so với GDP (1991-2012)
6
5
4
3
2
1
0
1991

1993

1995

1997


1999

2001

2003

2005

BÄÜ
I CHI NSNN/GDP

Nguồn: Bộ tài chính
Bốn là, nợ nước ngoài được cơ cấu lại và được duy trì trong trong giới hạn an toàn,
góp phần đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
Công tác quản lý nợ nước ngoài dần dần đã đi vào nề nếp và đạt nhiều kết quả tích cực,
trên các mặt sau đây:
Thứ nhất, hệ thống cơ chế chính sách quản lý nợ đã bao quát toàn diện các vấn đề quản lý
nợ trong và ngoài nước, góp phần tích cực thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo duy trì mức độ nợ ở giới hạn an toàn, khả năng trả nợ, không để xảy ra khủng hoảng
nợ, bước đầu quản lý nợ theo nguyên tắc thống nhất, chặt chẽ, an toàn, sử dụng các khoản
vay tiết kiệm, hiệu quả, đảm bảo khả năng trả nợ khi đến hạn.
Thứ hai, đã thực hiện thành công quá trình cơ cấu lại các khoản nợ của Việt Nam trước
đây đối với các chủ nợ nước ngoài, làm giảm đáng kể nghĩa vụ trả nợ của Việt Nam, tạo điều
kiện khai thông quan hệ tài chính – tín dụng với các tổ chức quốc tế và các chính phủ các
nước.
Trước năm 2007, đã sử lý thành công nợ quá hạn thông qua câu lạc bộ Paris và Luân Đôn;
giải quyết tốt nợ của Liên Bang Nga, trên cơ sở đó tạo điều kiện thuận lợi để huy động thêm
được nguồn tài trợ, vay nợ mới.
Bảng 5-Tình hình dư nợ nước ngoài của Việt Nam (tính đến 31/12/2007) ĐVT: Triệu USD

Chỉ tiêu
Nợ chính phủ
Trong đó: Nợ cũ (trước 1993)
Nợ mới (từ 1993 – 2007)
Nợ của các doanh nghiệp
Tổng số nợ nước ngoài của quốc gia
Nguồn: Bộ tài chính

SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Tổng nợ
8.890
3.706
5.184
4.500
13.390

Trang 21


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng

Nếu căn cứ vào các chỉ tiêu nợ nước ngoài theo tiêu chuẩn của ngân hàng thế giới thì tỷ lệ
nợ nước ngoài so GDP đến 31/12/2007 của nước ta chỉ là 43,9%, nằm trong giới hạn chấp
nhận được. Tuy nhiên, nhờ những tiến bộ trong công tác quản lý nợ nước ngoài mà chỉ tiêu
này ở nước ta có xu hướng giảm dần và được quản lý trong giới hạn an toàn cho phép.

Bảng 6 – Nợ nước ngoài giai đoạn 2008-2012 (%)
Chỉ tiêu
2008 2009 2010 2011 2012
Tổng dư nợ nước ngoài so GDP
39,2 35,1 33,5
32,9
33,6
Tổng dư nợ nước ngoài so tổng kim ngạch xuất
83,1 72,6 65,4
57,2
50,5
khẩu
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài soTổng kim ngạch xuất
7,6
6,9
7,9
7,5
3,7
khẩu
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của chính phủ so tổng
5,7
5,5
5,9
7,2
7,2
thu NSNN
Nguồn : Bộ tài chính
Thứ ba, quy trình quản lý nợ có nhiều tiến bộ đáng kể trong việc thanh toán trả nợ đối với
các khoản vay mới và các khoản đã cơ cấu lại nợ, đảm bảo trả đúng như các hợp định đã ký,
không để phát sinh nợ quá hạn; Đã linh hoạt xử lý nợ theo hướng theo hướng chuyển đổi một

phần nợ nước ngoài thành các khoản tài trợ cho các dự án đầu tư trong nước; xử lý giảm số
nợ thông qua mua lại nợ, chuyển đổi nợ, giảm nợ đặc biêt…; Tăng cường giám sát về nợ
nước ngoài, hợp lý hóa và hiện đại hóa nghiệp vụ quản lý nợ.
2.2.2. Những hạn chế, tồn tại:
Một là, chính sách thuế thiếu ổn định, còn nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ
quốc tế, bảo hộ sản xuất thông qua thuế chưa hợp lý, còn lồng ghép nhiều chính sách xã
hội nên đã ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn cho tăng trưởng kinh tế.
Hệ thống thuế trong giai đoạn 2008-2012 tuy đã có những cải cách mạnh xong chưa bao
quát được các khoản thu nhập từ đất đai, chuyển nhượng cổ phần, lãi cho vay vốn…. chưa có
thuế bảo vệ môi trường để điều tiết các đối tượng gây ô nhiễm thuế. Chính sách thuế nhập
khẩu, thuế TTĐB còn nặng về bảo hộ sản xuất, bảo hộ trên diện rộng thiếu sự chọn lọc nên
chưa tạo được áp lực nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Thêm vào đó, do lồng ghép
nhiều chính sách xã hội nên giảm tính hiệu quả của chính sách thuế.
Hơn nữa, do nội dung các sắc thuế còn phức tạp, năng lực trình độ quản lý thuế còn hạn
chế nên đã ảnh hưởng đến hoạt động thu thuế. Chưa có Luật quản lý thuế để quy định thống
nhất các thủ tục về thuế: quy định nghĩa vụ trách nhiệm của đối tượng nộp thuế; quy định
chức năng của cơ quan thuế và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan trong việc thực
hiện các luật thuế hiện hành. Việc thanh tra, kiểm tra thuế chứ dựa trên cơ sở phân loại đối
tượng nộp theo mức độ tuân thủ pháp luật. Chính những nguyên nhân trên đã và đang tạo ra
những lỗ hổng trong quản lý, gây thất thoát nguồn thu cho ngân sách, ảnh hưởng tới số thu
vào NSNN.
Hai là, tính bao cấp trong ngân sách chưa được xóa bỏ triệt để; chi tiêu ngân sách,
chi tiêu hành chính còn lãng phí, thiếu hiệu quả; chi ngân sách cho một số lĩnh vực tự
SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 22


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ




Khoa tài chính ngân hàng

phục vụ nhu cầu chăm lo phát triển con người như giáo dục, y tế chưa đáp ứng nhu cầu
cần thiết.
Cụ thể là chỉ tính riêng năm 2012 đã có 8 tỉnh, thành phố bố trí giảm chi lĩnh vực giáo
dục- đào tạo và dạy nghề, khoa hoc, công nghệ; 16 tỉnh, thành phố bố trí dự phòng ngân sách
thấp hơn mức Thủ tướng chính phủ giao. Một số tỉnh, thành phố bố trí kinh phí khám chữa
bệnh miễn phí cho người nghèo, cho trẻ em dưới 6 tuổi thấp hơn mức ngân sách Trung ương
đã bổ trợ; không bố trí nguồn ngân sách địa phuơng phải đảm bảo thực hiện các chế độ quan
trọng như: thực hiện quyết định số 139/2009/QĐ-TTg ngày 20/7/2011 của Thủ tướng chính
phủ về một số chính sách hỗ trợ sản xuất, đất đai, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào
dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn….
Ba là, tổ chức thực hiện chế độ công khai NSNN ở các đơn vị còn hình thức, chưa
thực hiện đúng theo các quy định; phân cấp ngân sách được đẩy mạnh về mặt khuôn
khổ pháp lý, song việc triển khai, giám sát quá trình này trên thực tế chưa ngang tầm
với yêu cầu.
Kiểm sóat chi qua kho bạc, công tác thanh tra, kiểm tra tài chính, xử lý kết quả thanh tra,
kiểm tóan được thực hiện khá hơn trước, nhưng công tác phòng chống, ngăn ngừa kết quả
còn hạn chế; chưa kết hợp được việc xử lý tài chính với việc thực hiện chế độ trách nhiệm đối
với cán bộ; Chế tài xử lý chưa đủ sức đẩy lùi tình trạng lãng phí, thất thóat trong quản lý, sử
dụng ngân sách.
Bốn là, nợ tiềm ẩn của quốc gia vẫn còn là một thách thức không nhỏ; Công tác
quản lý nợ nước ngoài còn nhiều bất cập.
Mặc dù chỉ số nợ chính thức nằm trong các giới hạn an toàn, nhưng nợ tiềm ẩn của nhà
nước là một vấn đề không nhỏ. Trong khi nợ tồn đọng trong khu vực DNNN vẫn còn nan
giải, thì cũng chưa có dấu hiệu rõ rệt về việc cải thiện chất lượng nợ mới của khu vực này.
Việc cơ cấu lại khu vực DNNN và khu vực trung gian tài chính ngân hàng chưa đủ mạnh để
tạo ra những thay đổi cơ bản đối với quản trị DNNN cũng như quản trị 4 ngân hàng thương

mại nhà nước. Các nghĩa vụ nợ của Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển cũng cần phải tính đến quy
mô, tính chất và đặc biệt là chất lượng tín dụng của quỹ (trách nhiệm quản lý quỹ hỗ trợ đầu
tư của các cơ quan, bộ, ngành, địa phương không rõ ràng; quy mô hoạt động của quỹ không
phải là nhỏ và tăng liên tục, đạt xấp xỉ 12%GDP năm 2011; nguồn vốn của quỹ khá nhạy
cảm, chủ yếu từ hệ thống bảo trợ xã hội, tiết kiệm Bưu điện, vốn ODA và một phần từ phát
hành trái phiếu; 80% nguồn huy động trong nước dùng cấp tín dụng cho khu vực DNNN. Bên
cạnh đó, nợ của các bộ, ngành, địa phương…. Trong việc thực hiện các chương trình đầu tư
công cộng của quốc hội các giai đoạn 1996-2007 và 2008-2012 là con số đáng kể.
Quản lý nợ nước ngoài còn phân tán ở các cơ quan khác nhau; Hệ thống thông tin báo cáo
giữa các cơ quan tổng hợp, hoặc từ các dự án cho các cơ quan tổng hợp còn không kịp thời,
không đầy đủ và chính xác; Chưa xây dựng được cơ chế giám sát, phân tích rủi ro để đảm
bảo an toàn và bền vững về nợ nuớc ngoài của quốc gia.
3. Bối cảnh, tình hình thực hiện ngân sách nhà nước trong 3 năm 2013-2015:
SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 23


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng

3.1. Bối cảnh trong nước:
Thuận lợi
Thứ nhất, đây là giai đoạn Việt Nam chính thức bắt đầu tham gia WTO và thực hiện các
cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, môi trường kinh tế trong nước sẽ có bước phát triển
thuận lợi do mở rộng quan hệ kinh tế - tài chính quốc tế. Điều đó sẽ tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp trong nước hoạt động hiệu quả, một mặt, do tranh thủ được các thời cơ thận lợi;

mặt khác, sự cạnh tranh khốc liệt cũng áp đặt các doanh nghiệp Việt Nam phải phát triển
nhanh chóng nâng cao tiềm lực của mình để tồn tại và phát triển.
Thứ hai, kinh tế trong nước tiếp tục tăng trưởng cao.Dự báo tăng trưởng kinh tế trong
nước có khả năng đạt 7,5%-8%/năm.
Thách thức
Một là, nền kinh tế vẫn còn trong tình trạng kém phát triển, tụt hậu xa so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới.
Hai là, khoa học và công nghệ còn ở trình độ thấp.
Ba là, trong giai đoạn này Việt Nam cũng sẽ tiếp tục phải đối phó với những biến động
bất thường về thời tiết và khí hậu do ô nhiễm môi trường toàn cầu có chiều hướng tăng lên.
Các nạn dịch ảnh hưởng tới mùa màng và sản xuất nông nghiệp có thể bùng phát.
Có thể nói, trên đây là những nhân tố có tác động mạnh tới việc thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và kế hoạch phát triển tài chính trong giai đoạn 2013-2017 nói
riêng.
3.2.Tình hình thực hiện ngân sách nhà nước trong 3 năm 2013-2015:
3.2.1. Thành tựu đạt được:
Nền kinh tế tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, qui mô tổng sản phẩm trong
nước không ngừng tăng lên. Mặc dù chịu nhiều tác động của nền kinh tế thế giới cộng thêm
giá cả trong nước tăng cao nhưng nền kinh tế vân duy trì được tốc độ cao, bình quân tăng
trưởng kinh tế đạt 7,8 %/năm. GDP tính theo đầu người năm 2015 (qui ra USD) đã đạt 1033
USD xấp xỉ mục tiêu đề ra cho năm 2017 là 1050-1100 USD. Khu vực dịch vụ bình quân 3
năm 2013-2015 đạt 8,2%, có tốc độ tăng cao hơn tăng trưởng chung của nền kinh tế. Sản xuẩt
nông nghiệp mặc dù gặp nhiều thiên tai, dịch bệnh vẫn phát triển với tốc độ tăng khá cao đạt
xấp xỉ 3,6% với mục tiêu đề ra là 3-3,2%, bảo đảm an ninh lương thực cho nhu cầu trong
nước.Bên cạnh đó, kinh tế vĩ mô cơ bản được giữ vững, các cân đối lớn của nền kinh tế được
duy trì. Theo đó thu chi ngân sách Nhà nước đạt kết quả quả khá; tốc độ tăng thu và tỷ lệ huy
động GDP vào Ngân sách Nhà nước đạt mức cao hơn nhiều, cụ thể bình quân 3 năm đạt 27,7
% GDP so với so với mục tiêu Đại hội đề ra trong 5 năm là 21-22% GDP. Tiền tệ tín dụng
dần đi vào ổn định, cán cân thanh toán quốc tế thặng dư bảo đảm nguồn ngoại tệ cho các nhu
cầu nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu.

Công tác nghiên cứu, xây dựng ban hành hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
NSNN đã được thực hiện đầy đủ, kịp thời ở cả Trung ương và địa phương. Các Nghị định,
Quyết định, Thông tư được ban hành vào từng giai đoạn phát triển của đất nước, cơ bản phù
SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 24


Đề án nhập môn tài chính tiền tệ



Khoa tài chính ngân hàng

hợp với điều kiện thực tế đã góp phần thúc đẩy quản lý NSNN chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả,
thực hiện phân cấp và nâng cao trách nhiệm, quyền hạn của các Bộ, ngành, các cấp chính
quyền địa phương và đơn vị trong quản lý NSNN.
Việc phân cấp giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương khá rõ ràng. Theo quy
định của Luật NSNN, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã tổ chức
xây dựng phương án phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi khá rõ ràng giữa ngân sách Trung
ương với ngân sách địa phương theo hướng tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương và thúc
đẩy địa phương phấn đấu để chủ động cân đối ngân sách trong tổ chức điều hành ngân sách.
Điều này đã phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp chính quyền địa phương trong quản
lý điều hành ngân sách, đáp ứng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng
của địa phương.
Hiệu quả quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản được tăng cường; tăng tích luỹ nhằm thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối
ngoại. Thực hiện quản lý tập trung thống nhất NSNN: bảo đảm quyền quyết định của Quốc
hội và sự điều hành thống nhất của Chính phủ đối với NSNN; đảm bảo vai trò chủ đạo của

ngân sách trung ương; đồng thời tăng cường phân cấp quản lý, tạo thế chủ động gắn với tăng
cường trách nhiệm cho chính quyền địa phương.
Thực hiện cải cách hành chính trong việc lập, chấp hành, kế toán và quyết toán ngân sách,
thực hiện công khai, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý NSNN, kiểm soát chặt
chẽ hoạt động thu - chi NSNN qua các quy định về tăng cường trách nhiệm, thanh tra, kiểm
tra, kiểm toán gắn với xử lý vi phạm. Việc quản lý đã được thực hiện theo quy trình: dự toán cấp phát - quyết toán. Vai trò dự toán đã được coi trọng nên có tác dụng lớn trong việc điều
hành ngân sách, đảm bảo chi đúng, chi đủ. Các địa phương coi việc đạt dự toán thu và quản
lý chi theo dự toán là yếu tố quyết định sự ổn định ngân sách mỗi cấp.
Tăng cường thực quyền và tính chủ động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
trong việc quyết định dự toán ngân sách, quyết định phân bổ ngân sách và phê chuẩn quyết
toán ngân sách. Việc phân bổ, giao dự toán ngân sách đối với đơn vị sử dụng ngân sách đảm
bảo phù hợp đúng yêu cầu của Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn, đảm bảo phù hợp với
thực tế và tính đặc thù của từng đơn vị trực thuộc, đảm bảo đúng tổng mức, chi tiết theo từng
lĩnh vực của dự toán ngân sách được cấp có thẩm quyền giao.
Việc cải cách hành chính trong tổ chức thực hiện dự toán NSNN đã có bước tiến đáng kể.
Thực hiện quy trình chi ngân sách mới, chuyển từ hình thức cấp phát bằng hạn mức kinh phí
của cơ quan tài chính cho đơn vị sử dụng ngân sách (theo tháng, quý) sang phương thức các
đơn vị sử dụng ngân sách chủ động căn cứ chế độ chi ngân sách, khối lượng kết quả, nhiệm
vụ thực hiện rút kinh phí tại Kho bạc Nhà nước theo dự toán ngân sách được cấp có thẩm
quyền giao để chi tiêu. Đây là một nội dung đổi mới theo hướng cải cách, nhằm giảm thủ tục
hành chính, tăng quyền chủ động và trách nhiệm cho các đơn vị sử dụng ngân sách; đồng thời
thực hiện kiểm soát chi chặt chẽ hơn; góp phần tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong quản lý
SVTH : Lê Thị Hải Yến – 33k07.2

Trang 25


×