Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Đổi mới hoạt động thông tin – thư viện đáp ứng yêu cầu đào tạo theo tín chỉ tại trường đại học hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.85 MB, 116 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang chứng kiến sự phát triển không ngừng và ngày càng lớn
mạnh của các nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến trên thế giới, để
đất nước Việt Nam có thể theo kịp sự phát triển đó thì quá trình đổi mới đất
nước và hội nhập quốc tế là nhiệm vụ hết sức cần thiết. Quá trình đổi mới
không chỉ diễn ra ở một ngành, một lĩnh vực mà phải đổi mới toàn diện. Là
một ngành, một lĩnh vực góp phần quan trọng được coi là nhân tố quyết định
sự phát triển của mỗi quốc gia, ngành giáo dục và đào tạo luôn không ngừng
tăng cường đổi mới và có những bước đi hợp lý đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
phát triển giáo dục đào tạo trong nước nói chung và thế giới nói riêng.
Chiến lược đổi mới chương trình đào tạo:“Chuyển từ mô hình đào tạo
theo niên chế sang mô hình đào tạo theo tín chỉ” đã được hầu hết các trường
đại học trên cả nước áp dụng.
Đào tạo theo tín chỉ đòi hỏi nhà trường phải chuyển biến toàn diện từ
việc thiết kế chương trình, giáo trình, bài giảng, đổi mới phương phức dạy học,
phương pháp kiếm tra, đánh giá đến việc thay đổi cách thức quản lý đào tạo
cũng như hoàn thiện cơ sở vật chất phục vụ công tác giảng dạy và học tập.
Đồng thời, đào tạo theo tín chỉ đòi hỏi người học phải tham gia với thái độ tích
cực, họ có thể đăng ký các môn học theo điều kiện của bản thân. Trong quá
trình học, người học phải chủ động và tích cực tìm kiếm tài liệu cho phù hợp
với từng môn học của mình. Mặt khác, họ cũng có cơ hội để thay đổi chuyên
môn trong quá trình đào tạo, có thêm ngành mới. Đào tạo theo tín chỉ cũng đòi
hỏi đội ngũ cán bộ giảng dạy phải đổi mới phương pháp giảng bài và thường
xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, đầu tư nhiều hơn cho việc biên soạn bài
giảng, chuẩn bị tài liệu và hướng dẫn biên soạn.
Trong sự nghiệp giáo dục đào tạo, ngoài vai trò của người thầy, người
học… thì thư viện là một trong những yếu tố không thể thiếu góp phần thúc

1



đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển. Thư viện là một yếu tố căn bản và quan
trọng, là cơ sở để các phòng ban chuyên môn trong trường đại học thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình để đảm bảo hiệu quả giảng dạy và học tập.
Thư viện là nơi cung cấp nguồn thông tin cho bạn đọc, là cầu nối giữa thông
tin và người sử dụng và đặc biệt trong sự nghiệp giáo dục đổi mới với phương
thức đào tạo theo niên chế thì vai trò của thư viện ngày càng được khẳng định
hơn. Sinh viên sẽ đến thư viện nghiên cứu, học hỏi và tìm kiếm tài liệu trên cơ
sở định hướng của người thầy. Thầy giáo sẽ đến thư viện để nghiên cứu, tham
khảo tài liệu làm cho bài giảng của mình thêm phong phú và hoàn chỉnh hơn.
Khi các giờ thảo luận nhóm, tự học, tự tìm hiểu, thì thư viện chính là nơi tốt
nhất để sinh viên có thể trao đổi thảo luận và nghiên cứu.
Tại Hội nghị Giáo dục Đại học (từ ngày 1/10 đến ngày 3/10/2011), Thủ
tướng Phan Văn Khải đã nói: “Trường đại học cần giúp sinh viên thu nhận
những kiến thức và kỹ năng cơ bản nhất và chủ yếu dạy cho sinh viên biết
cách học, cách tư duy sáng tạo thì mới có thể thích ứng với mọi tình huống
trong thị truờng lao động và trong đời sống xã hội khi ra trường”.
Để thực hiện nhận định trên của Thủ tướng đặc biệt là khi áp dụng
phương thức đào tạo theo tín chỉ thì vai trò của thư viện càng phải được khẳng
định. Vì vậy, thư viện cần phải đổi mới về mọi mặt, nâng cao chất lượng, đáp
ứng yêu cầu thông tin của giảng viên, sinh viên khi đào tạo theo tín chỉ. Giảng
viên và sinh viên sẽ được tạo điều kiện tốt hơn trong việc tìm kiếm và sử dụng
tài liệu tham khảo theo yêu cầu môn học, giúp hình thành tính tích cực trong
học tập của sinh viên, cũng như khả năng cập nhật thông tin trong bài giảng.
Trong những năm gần đây, các trung tâm thông tin – thư viện đã và
đang phát triển, ngày càng đạt được những thành tựu đáng kể, tuy nhiên để trở
thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho công tác học tập và giảng dạy, phục vụ cho
sứ mệnh giáo dục và đào tạo của các trường đại học trong giai đoạn chuyển đổi

2



từ phương thức đào tạo theo niên chế sang tín chỉ, cần phải đổi mới phương thức
hoạt động thông tin - thư viện sao cho phù hợp với điều kiện thực thế của mỗi
đơn vị đào tạo cũng như của trung tâm thông tin – thư viện.
Là một thành viên trong hệ thống các trường đại học trên địa bàn cả
nước nói chung và là trường đại học công lập duy nhất trên địa bàn tỉnh Hải
Dương, từ năm 2012 đến nay Trường Đại học Hải Dương bắt đầu áp dụng
phương thức đào tạo theo tín chỉ. Tuy nhiên, do là trường đại học mới được
thành lập trên cơ sở nâng cấp từ Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Hải
Dương, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, đội ngũ cán bộ còn mỏng, vì vậy, hoạt
động đào tạo của Trường Đại học Hải Dương còn gặp rất nhiều khó khăn, nhà
trường đang từng bước đổi mới và hoàn thiện.
Một trong những khâu quan trọng có ảnh hưởng không nhỏ tới chất
lượng đào tạo theo học chế tín chỉ tại Trường Đại học Hải Dương là Trung
tâm Thông tin – Thư viện. Cùng với sự ra đời và hoạt động của Trường Đại
học Hải Dương, Trung tâm Thông tin – Thư viện Trường Đại học Hải Dương
cũng được hình thành và đang trên đường hoàn thiện. Mặc dù đã từng bước
đạt được một số thành tựu đáng kể, phát huy được vai trò của mình trong việc
thu thập, xử lý, cung cấp thông tin, tài liệu khoa học phục vụ cho cán bộ giảng
viên và sinh viên trong Trường, nhưng do Trung tâm Thông tin - Thư viện
mới được nâng cấp từ Trung tâm Thông tin - Thư viện Trường Cao đẳng lên
Trung tâm Thông tin - Thư viện Trường Đại học và do từ năm 2012 Nhà
trường áp dụng phương thức đào tạo theo tín chỉ cho nên Trung tâm Thông tin
- Thư viện Trường Đại học Hải Dương không tránh khỏi những bỡ ngỡ, đòi
hỏi Trung tâm cần phải có những bước chuyển mình mạnh mẽ để đổi mới
hoạt động thông tin – thư viện, áp dụng các chuẩn nghiệp vụ, phát triển vốn
tài liệu phong phú đa dạng, cải tiến phương thức phục vụ, nâng cao trình độ
đội ngũ cán bộ thông tin – thư viện, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật


3


hạ tầng CNTT, đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong tất cả mọi hoạt động của
Trung tâm. Đây là những yêu cầu cấp bách đặt ra cho Trung tâm Thông tin –
Thư viện, đồng thời Trung tâm cũng cần tìm ra các giải pháp phù hợp nhất
nâng cao hiệu quả hoạt động, đáp ứng yêu cầu của NDT trong giai đoạn mới.
Với những lý do nêu trên, có thể thấy rằng đề tài: “Đổi mới hoạt động
thông tin – thư viện đáp ứng yêu cầu đào tạo theo tín chỉ tại Trường Đại
học Hải Dương” là đề tài cần thiết và có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo tại Trường Đại học Hải Dương, chính vì lí do
đó tôi đã chọn đề tài trên làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trước sự đổi mới của ngành giáo dục đào tạo, mà điển hình là quá trình
áp dụng phương phức đào tạo từ niên chế sang đào tạo theo tín chỉ, hoạt động
thông tin - thư viện trong các trường đại học và cao đẳng cũng cần có sự đổi
mới đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục. Đã có khá nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề này, dưới đây là một số công trình tiêu biểu:
* Các bài viết, bài báo:
- “Cải cách giáo dục đại học Việt Nam: đào tạo theo tín chỉ” của TS
ELI

MAZUR

&

TS

PHẠM


THỊ

LY

bình

luận

trên

trang

Web://vietbao.vn/Giao-duc/cai-cach-giao-duc-dai-hoc-VN-Dao-tao-theo-tinchi/. Bài viết bàn về tính cấp thiết đổi mới giáo dục và khái quát về đào tạo tín
chỉ ở Mỹ.
- “Đào tạo tín chỉ: nhận thức và những vấn đề đặt ra” của PGS.TS
Trịnh Thị Hoa Mai Chủ nhiệm khoa TC-NH, Truờng Đại học Kiến Trúc bình
luận trên trang />- “Đào tạo theo hệ thống tín chỉ: Kinh nghiệm thế giới và thực tế ở Việt
Nam” của TS. Nguyễn Kim Dung - Viện Nghiên cứu Giáo dục - Trường ĐH
Sư phạm TPHCM (26-3-2008). Bài viết trình bày một số kinh nghiệm của thế

4


giới trong việc xây dựng và phát triển hệ thống đào tạo theo tín chỉ. Các mô
hình chuyển đổi tín chỉ cũng được giới thiệu kèm theo các chức năng và ưu
điểm của chúng. Sau đó, các kinh nghiệm của Việt Nam trong việc áp dụng hệ
thống chuyển đổi tín chỉ trong đào tạo và các ưu khuyết điểm của các hệ
thống này sẽ được tổng kết và phân tích. Được đăng trên trang:
/>- “Đào tạo theo hệ thống tín chỉ – Hướng tới đổi mới toàn diện” của PGS.TS
Vương Ngọc Lưu Q. Hiệu trưởng Trường Đại Học Kiến trúc Hà Nội trong

cuộc trao đổi với Tạp chí Kiến trúc Việt Nam. Bình luận trên trang:
/>- “Tác động của CNTT và công nghệ số đối với công tác đào tạo bậc đại
học” của Thạc sỹ Nguyễn Thị Thuý Hạnh đăng trên kỷ yếu hội thảo khoa học
Ngành Thông tin – Thư viện trong xã hội thông tin của Trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn năm 2006. Bài viết đưa ra những ảnh hưởng tốt và tiến
bộ của công nghệ số đối với công tác đào tạo bậc đại học và các phương pháp
dạy học ứng dụng CNTT và công nghệ số để từ đó nhận thấy tầm quan trọng của
CNTT và công nghệ số đối với việc dạy học”.
- “Vấn đề về việc xây dựng hệ thống thư viện có hiệu quả trong một
trường đại học” của Thạc sỹ Nguyễn Xuân Hoà, Đại học Quốc Gia TP.Hồ
Chí Minh đăng trên Bản tin thư viện – CNTT, tháng 10 năm 2007.
- “Thư viện đại học Việt Nam trong xu thế hội nhập” của Tiến sỹ Lê
Văn Viết và Thạc sỹ Võ Thu Hương đăng trên tạp chí Thư viện Việt Nam số 2
năm 2007. Bài viết đề cập đến vai trò của thư viện đại học, từ đó nhận diện về
thực tiễn thư viện đại học Việt Nam hiện nay, thách thức đối với thư viện đại
học Việt Nam trong xu thế hội nhập và cuối cùng là tác giả đề xuất mô hình
thư viện đại học trong tương lai.

5


- “Vai trò của Trung tâm Thông tin - Thư viện Truờng Đại học Huế
trong việc nâng cao chất lượng đào tạo theo phương thức tín chỉ” của Lê Thị
Hồng Hạnh đăng trên Tạp chí Thư viện Việt Nam số 03 năm 2011.
- “Xây dựng tiêu chuẩn về tổ chức và hoạt động cho thư viện đại học
Việt Nam” của Đàm Viết Lâm đăng trên Tạp chí Thư viện Việt Nam số 02
năm 2013.
- “Xây dựng thư viện đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục
đại học” của PGS.TS. Nguyễn Thị Lan Thanh đăng trên Tạp chí Giáo dục số
107 năm 2005. Bài viết đưa ra một số yêu cầu nâng cao chất lượng vốn tài

liệu, các hoạt động phục vụ phong phú về hình thức và nội dung, đa dạng hoá
các sản phẩm và dịch vụ thông tin… trong giai đoạn đổi mới.
- Bài báo “Đổi mới hoạt động thông tin – thư viện tại các trường đại
học phục vụ đào tạo theo học chế tín chỉ” đăng trên “ kỷ yếu hội thảo Khoa
học và thực tiễn hoạt động thông tin - thư viện năm 2007.
* Luận văn tốt nghiệp của học viên đề cập đến việc đổi mới hoạt
động thông tin thư viện đáp ứng yêu cầu đào tạo theo tín chỉ được bảo vệ
tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn như:
- “Nghiên cứu hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Trung tâm Thông
tin – Thư viện Trường Đại học Hà Nội trước yêu cầu đổi mới sự nghiệp đào
tạo của nhà trường”: của Phạm Lan Anh.
- “Hiện đại hoá hoạt động thông tin - thư viện tại Trường Đại học Dân lập
Phương Đông đáp ứng yêu cầu đào tạo theo tiến chỉ” của Phan Cúc Phương.
- “Hiện đại hóa công tác tổ chức và hoạt động các phòng tư liệu thuộc
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà nội”
của Nguyễn Phúc Chí.
- “Đổi mới hoạt động thông tin - thư viện đáp ứng yêu cầu đào tạo theo
học chế tín chỉ tại Đại học Quốc gia Hà Nội” của Nguyễn Thị Phương Thảo.
Các đề tài trên được bảo vệ năm 2010.

6


- “Tăng cường hoạt động thông tin - thư viện Trường Đại học Y tế
công cộng trong giai đoạn hiện nay” của Bùi Thị Ngọc Oanh bảo vệ năm
2012.
- “Hiện đại hoá công tác tổ chức hoạt động thông tin tại Trung tâm học
liệu Trường Đại học Điện lực” của Lê Đình Hoàng bảo vệ năm 2013.
* Ngoài ra còn một số luận văn được bảo vệ tại Trường Đại học Văn
hoá cũng đề cập đến vấn đề này:

- “Tăng cường hoạt động thông tin - thư viện Trường Đại học Hằng
Hải trong giai đoạn hiện nay” của Đặng Quang Hiệp bảo vệ năm 2006.
- “Xây dựng và phát triển thư viện Trường Đại học Công nghiệp Hà
Nội trong giai đoạn đổi mới đất nước” của Lê Ngọc Diệp bảo vệ năm 2006.
- “Đổi mới công tác tổ chức quản lý tại Trung tâm Thông tin - Thư viện
Trường Đại học Giao thông Vận tải trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn
Anh Minh bảo vệ năm 2010.
- “Nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm Thông tin - Thư viện
Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội trong giai đoạn đổi mới giáo dục hiện
nay” của Đinh Thị Kim Liên bảo vệ năm 2010.
- “Tăng cường hoạt động thông tin - thư viện tại Trường Đại học Thể
dục thể thao Bắc Ninh” của Lê Thị Nhung bảo vệ năm 2010.
- “Tổ chức và quản lý hoạt động tại Trung tâm Thông tin – Thư viện
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội” của Phạm Phương Hảo bảo vệ năm 2011.
- “Đổi mới tổ chức và hoạt động thông tin - thư viện tại Học viện Báo chí
và Tuyên truyền trong giai đoạn hội nhập” của Nguyễn Thị Kim Oanh bảo vệ
năm 2011.
- “Đổi mới tổ chức và hoạt động thông tin khoa học ở Học viện Hậu cần
trong giai đoạn hiện đại hoá quân đội” của Đỗ Duy Hưng bảo vệ năm 2011.
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu như vậy, tôi nhận thấy chưa có một
đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn hay bài viết nào nghiên cứu về đổi mới

7


hoạt động thông tin - thư viện đáp ứng yêu cầu đào tạo theo tín chỉ tại Trung
tâm Thông tin -Thư viện Trường Đại học Hải Dương. Chính vì vậy, đề tài
“Đổi mới hoạt động thông tin - thư viện đáp ứng yêu cầu đào tạo theo tín
chỉ tại Trường Đại học Hải Dương” là đề tài mới và không trùng lặp với bất
kỳ một đề tài nào đã nghiên cứu trước đó.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn mong muốn tìm ra các giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao
hiệu quả hoạt động thông tin - thư viện tại Trường Đại học Hải Dương để đáp
ứng tốt hơn nhu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ của Nhà trường.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên luận văn sẽ giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu đặc điểm của đào tạo theo tín chỉ và yêu cầu của Trường Đại
học Hải Dương khi chuyển sang đào tạo theo tín chỉ.
- Khảo sát nhu cầu tin và NDT tại Trung tâm Thông tin – Thư viện
Trường Đại học Hải Dương trong giai đoạn đào tạo theo tín chỉ.
- Khảo sát thực trạng hoạt động thông tin - thư viện tại Trường Đại học
Hải Dương.
- Đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới hoạt động thông tin – thư viện
Trường Đại học Hải Dương để đáp ứng nhu cầu thông tin phục vụ cho đào tạo
theo tín chỉ.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết đặt ra cho công trình nghiên cứu này là: Hoạt động thông tin
- thư viện của Trường Đại học Hải Dương còn yếu kém, mang tính truyền
thống chưa đáp ứng được yêu cầu khai thác và sử dụng thông tin, tài liệu của
cán bộ, giảng viên, sinh viên trong toàn trường đặc biệt là từ khi Nhà trường

8


áp dụng phương thức đào tạo theo tín chỉ. Do vậy cần đổi mới hoạt động
thông tin - thư viện tại Trường Đại học Hải Dương một cách phù hợp như: phát
triền nguồn lực thông tin, đa dạng hoá các sản phẩm và dịch vụ thông tin, chuẩn
hoá công tác nghiệp vụ, triển khai nâng cấp, hoàn thiện phần mềm chuyên dụng

tích hợp, đào tạo NDT, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, đầu tư cơ sở vật chất
và hạ tầng CNTT …để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động
thông tin – thư viện đáp ứng yêu cầu đào tạo theo tín chỉ của Nhà trường.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài lấy hoạt động thông tin - thư viện của Trung tâm Thông tin - Thư
viện Trường Đại học Hải Dương làm đối tượng nghiên cứu.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Trung tâm Thông tin – Thư viện Trường Đại học Hải Dương.
- Thời gian: Từ năm 2012 đến nay, từ khi Trường Đại học Hải Dương
áp dụng đào tạo theo tín chỉ.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử và các quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác
thông tin – thư viện.
6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Thu thập, phân tích, tổng hợp, thống kê;
- Quan sát;
- Điều tra bằng phiếu hỏi;
- Phỏng vấn.
7. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài
7.1. Ý nghĩa khoa học

9


Góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận về đổi mới hoạt động thông tin – thư
viện trong các trường đại học phục vụ phương thức đào tạo theo tín chỉ.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn

Đưa ra những giải pháp cụ thể, khả thi nhằm đổi mới hoạt động thông
tin – thư viện tại Trường Đại học Hải Dương đáp ứng yêu cầu đào tạo theo tín
chỉ tại Trường Đại học Hải Dương.
8. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phục lục,
cấu trúc luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Hoạt động thông tin - thư viện Trường Đại học Hải Dương
với nhiệm vụ phục vụ đào tạo theo tín chỉ
Chương 2: Thực trạng hoạt động thông tin - thư viện tại Trường Đại
học Hải Dương
Chương 3: Giải pháp đổi mới hoạt động thông tin - thư viện Trường
Đại học Hải Dương phục vụ đào tạo theo tín chỉ

10


NỘI DUNG
Chương 1
TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI
DƯƠNG VỚI NHIỆM VỤ PHỤC VỤ ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Đào tạo theo tín chỉ
- Khái niệm tín chỉ:
Tín chỉ (credit) là đại lượng đo khối lượng lao động học tập trung bình
của người học, tức là toàn bộ thời gian mà một người học bình thường phải sử
dụng để học 1 môn học, bao gồm: Thời gian học tập trên lớp; thời gian học
tập trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc làm các phần việc tự học ngoài lớp
như đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề hoặc chuẩn bị bài… Tín chỉ còn
được hiểu là khối lượng kiến thức và kỹ năng theo yêu cầu của môn học mà
người học cần phải tích lũy được trong một khoảng thời gian nhất định.

- Học chế tín chỉ:
Học chế tín chỉ là phương thức đào tạo, sinh viên chủ động lựa chọn
học từng học phần (tuân theo một số ràng buộc được quy định trước) nhằm
tích lũy từng phần và tiến tới hoàn tất toàn bộ chương trình đào tạo, được cấp
văn bằng tốt nghiệp.
Trên cơ sở lượng hóa quy trình đào tạo thông qua khái niệm tín chỉ, học
chế tín chỉ tạo điều kiện tối đa để cá nhân hóa quy trình đào tạo, trao quyền
cho sinh viên trong việc đăng ký sắp xếp lịch học, việc tích lũy các học phần,
kể cả sắp xếp thời gian học ở trường, thời gian tốt nghiệp. Về phía mình, sinh
viên cần phát huy tính tích cực, chủ động để thích ứng với quy trình đào tạo
này và để đạt những kết quả tốt nhất trong học tập, rèn luyện.
- Đơn vị tín chỉ
Một tín chỉ có một trong các giá trị sau:
+ 01 giờ học lý thuyết trên lớp với 2 giờ chuẩn bị bài trong 1 tuần, kéo dài
trong 1 học kì 15 tuần (Tương đương với 15 tiết lý thuyết và 30 tiết chuẩn bị ở
nhà/ học kỳ);

11


+ 2 giờ thực hành, thực tập ở studio hay trong phòng thí nghiệm với 1 giời
chuẩn bị bài trong 1 tuần, kéo dài trong 1 học kỳ 15 tuần (tương đương với 30 tiết
thực hành và 15 tiết chuẩn bị ở nhà/ học kỳ);
+ 3 giờ tự học, tự nghiên cứu được đánh giá và tích lũy vào kết quả cuối
cùng của môn học trong 1 tuần, kéo dài trong 1 học kỳ 15 tuần (tương đương với
45 tiết tự học, tự nghiên cứu/ học kỳ)
+ Giờ tiểu luận, đồ án học phần, khóa luận tốt nghiệp 45 giờ được tính 1
tín chỉ. Giờ thực tập xí nghiệp 60 giờ được tính 1 tín chỉ.
- Giờ tín chỉ
Giờ tín chỉ (Credit hour) là một trong các giá trị:( a) 1 giờ học trên lớp

và 2 giờ chuẩn bị bài/ tuần; (b) 2 giờ thực hành và 1 giờ chuẩn bị bài/ tuần; (c)
3 giờ tự học, tự nghiên cứu/ tuần.
Tùy theo tính chất đặc thù của môn học, hình thức tổ chức dạy học, giờ tín
chỉ có thể thay đổi, song thời gian tuyệt đối cho 1 giờ tín chỉ không nhỏ hơn 3.
Trong đó, giờ học lý thuyết hoặc giờ học lý thuyết hoặc các giờ thực
hành, thảo luận… được bố trí vào thời khóa biểu.
Điều kiện để đào tạo theo tín chỉ, ngay trong QĐ số 31/ 2001 của Bộ
GD&ĐT, đã nêu, ngoài những điều kiện về chương trình đào tạo, đội ngũ giảng
viên, các cơ sở đào tạo phải có điều kiện về học liệu “có đủ sách tham khảo, tài
liệu học tập”. Các đơn vị đào tạo có nhiệm vụ cụ thể hóa điều kiện về học liệu
trong các hướng dẫn về đào tạo theo tín chỉ của đơn vị mình.
* Để thực hiện tốt cho việc đào tạo theo tín chỉ cần kết hợp giữa nhà
trường, giảng viên và người học. Sự kết hợp này được cụ thể hóa như sau:
- Đối với giảng viên
+ Xác định các nội dung tự học và cách học cho sinh viên, các vấn đề,
các câu hỏi, bài tập, các loại tài liệu phải đọc, phải tìm kiếm bổ sung đề sinh
viên chuẩn bị lên lớp.

12


+ Xây dựng, thu thập, phân loại, hướng dẫn sử dụng các học liệu/ tài
liệu phục vụ cho việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên.
+ Lựa chọn và giao nội dung, các vấn đề, yêu cầu tài liệu tham khảo để
từng nhóm hoặc từng sinh viên chuẩn bị và trình bày. Chỉ rõ các địa chỉ mà
sinh viên có thể tìm được và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
+ Lựa chọn và giao nội dung, các vấn đề, công việc và các yêu cầu liên
quan cho các nhóm sinh viên thực hiện, nguồn tài liệu tham khảo tối thiểu…
+ Chỉ đạo và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sinh viên thực hành.
- Đối với sinh viên:

+ Lập kế hoạch chi tiết để thực hiện các nhiệm vụ đối với từng giờ học
mà giảng viên giao: tìm, đọc, ghi chép những tài liệu liên quan…
+ Nhận nội dung, vấn đề nghiên cứu, mở rộng, đi sâu vào bản chất, vận
dụng lý thuyết vào thực tiễn, chuẩn bị bài trình bày theo sự phân công…
+ Nhóm trưởng lên kế hoạch phân công đến từng thành viên với nhiệm
vụ, thời gian hoàn thành, nguồn tham khảo…
+ Làm bài thực hành, thực tập; viết báo cáo thực hành, thực tập…
+ Nhận và xây dựng kế hoạch chi tiết thực hiện nhiệm vụ tự học, tự
nghiên cứu mà giảng viên giao. Như vậy, nguồn tài liệu học hay học liệu là rất
cần thiết cho phương pháp đào tạo theo tín chỉ. Vấn đề là ở chỗ, các thư viện
đại học cần phải làm gì để đảm bảo nguồn tài liệu/ học liệu trước yêu cầu của
phương pháp đổi mới đào tạo đại học này.
- Các đặc điểm chính của hoạt động đào tạo theo tín chỉ
+ Kiến thức được cấu trúc thành các mô đun (học phần)
+ Quá trình học tập là sự tích lũy kiến thức của người học theo từng học phần
+ Sinh viên tự đăng ký học tập và tổ chức lớp học theo học phần
+ Đơn vị học vụ là học kỳ, xét kết quả học tập theo học kỳ chính (một năm
học có hai học kỳ chính và một học kỳ phụ)

13


+ Đánh giá học phần là đánh giá quá trình, sử dụng thang điểm 10, thang
điểm chữ và thang điểm 4, điểm trung bình chung tốt nghiệp phải đạt 2,0
+ Quy định khối lượng kiến thức phải tích lũy (số tín chỉ tích lũy tối thiểu)
cho từng văn bằng. Xếp năm học theo số tín chỉ tích lũy tại thời điểm xem xét
+ Có hệ thống cố vấn học tập am hiểu về chương trình đào tạo và nắm
vững tình hình học tập cụ thể của sinh viên
+ Chương trình đào tạo mềm dẻo, có tính liên thông cao, ngoài học phần
bắt buộc còn có học phần tự chọn để sinh viên có điều kiện tích lũy thêm tín chỉ

và định hướng chuyên môn, nghề nghiệp
+ Không thi tốt nghiệp, không tổ chức bảo vệ khóa luận tốt nghiệp với
các chương
+ Phải có đủ giáo trình, bài giảng, tài liệu tham khảo cho từng môn học
+ Giáo viên chủ động hướng dẫn sinh viên cách học, chỉ các nguồn tài
liệu để sinh viên tìm đọc
+ Nhu cầu tìm đọc tài liệu trong đào tạo tín chỉ nhiều hơn, vì vậy vốn tài
liệu phải đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng.
1.1.2. Hoạt động thông tin- thư viện
- Hoạt động thông tin - thư viện
Hoạt động thông tin – thư viện là hoạt động nhằm thu thập, xử lý, phân
tích, tổng hợp, lưu trữ, bảo quản và cung cấp thông tin đến NDT.
Động cơ của hoạt động thông tin - thư viện là xuất phát từ nhu cầu tin
của NDT. Nhu cầu tin là tính chất của một đối tượng cá nhân, tập thể hoặc
một hệ thống nào đó thể hiện sự cần thiết nhận thông tin phù hợp với hành vi
hay công việc mà đối tượng đó đang thực hiện. Như vậy để thực hiện trọn vẹn
một quá trình cần phải có một quá trình hoặc thông qua hàng loạt yêu cầu,
đồng thời có sự điều chỉnh và trao đổi qua lại giữa những NDT và cơ quan
thông tin – thư viện.

14


1.2. Các yếu tố tác động đến hoạt động thông tin - thư viện
1.2.1. Nhận thức của lãnh đạo
Trung tâm thông tin- thư viện các trường đại học là một bộ phận trong
cơ cấu tổ chức của trường. Hoạt động thông tin – thư viện được quy định cụ
thể trong chức năng, nhiệm vụ của trung tâm thông tin -thư viện. Hoạt động
thông tin – thư viện phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của lãnh đạo bao gồm
cả lãnh đạo nhà trường và lãnh đạo thư viện (Giám đốc, Phó giám đốc thư

viện). Vai trò của hoạt động thông tin – thư viện được nhìn nhận khác nhau ở
mỗi lãnh đạo, họ nhận thấy được tầm quan trọng của hoạt động thông tin –
thư viện để từ đó có thể trực tiếp hoặc gián tiếp chỉ đạo hoạt động thông tin –
thư viện, có những chính sách cụ thể, ngắn hạn, dài hạn cho hoạt động thư
viện, đồng thời có những phương hướng, kế hoạch đầu tư: tài chính, cơ sở vật
chất, nguồn nhân lực, vốn tài liệu giúp cho hoạt động thông tin - thư viện có
hiệu quả, sự quan tâm chu đáo của các lãnh đạo sẽ là một trong những điều
kiện thúc đẩy hoạt động thông tin - thư viện.
1.2.2. Cán bộ thư viện
- Cán bộ thư viện
Cán bộ thư viện là các nhân viên đảm nhiệm các công việc chuyên môn
trong các thư viện. Họ là những người được đào tạo để nắm vững nghiệp vụ
thư viện và nắm giữ những cương vị nhất định trong thư viện. N.C Crupxcaia
đã ví họ là linh hồn của thư viện. Người cán bộ thư viện giữ vai trò quan trong
trong công tác thư viện. Đối với tài liệu và các nguồn thông tin người cán bộ
thư viện phải nắm bắt, tiến hành việc lựa chọn, thu thập, xử lý, sắp xếp, bảo
quản, khai thác và tuyên truyền giới thiệu chúng với người đọc. Đối với người
đọc và NDT, người cán bộ không chỉ là người đơn thuần giữ sách và tài liệu,
thực hiện việc lấy tài liệu phục vụ nhu cầu đọc và nhu cầu thông tin của họ
mà người cán bộ thư viện còn phải tiến hành việc hướng dẫn đọc, nghiên cứu
về người đọc và tạo ra các dịch vụ tối ưu để thỏa mãn các nhu cầu đó. Đối với

15


cơ sở vật chất trong thư viện, người cán bộ thư viện cần phải được trang bị
kiến thức, nắm được cách vận hành, sử dụng các phương tiện kỹ thuật và duy
trì chúng ở tình trạng tốt nhất.
- Trình độ cán bộ thư viện
Trình độ cán bộ thư viện có vai trò quan trọng góp phần nâng cao hiệu

quả hoạt động thông tin – thư viện. Người cán bộ thư viện không chỉ là những
người “thủ kho giữ tài liệu” với phương châm “vui vẻ, hòa nhã, nhiệt tình”
mà còn là những “hoa tiêu” trong "đại dương” thông tin; năng động, thạo
nghề, có trình độ ngoại ngữ, tin học để chỉ ra những tài liệu độc giả cần một
cách nhanh nhất, chính xác nhất.
Theo Bách khoa toàn thư Britannica (2011), những yêu cầu về năng lực
nghề nghiệp của cán bộ thư viện hiện nay bao gồm: “hiểu biết về tính chất
của tài liệu và vai trò của chúng trong xây dựng vốn tài liệu, các kỹ năng tổ
chức tri thức thông qua việc biên mục và phân loại, khả năng phân tích và
điều tra nhu cầu, khả năng phổ biến thông tin, đáp ứng các yêu cầu thông tin,
và cần có trình độ cao về tin học.”
Người cán bộ thư viện trong giai đoạn hiện nay, ngoài các kỹ năng về
thư viện truyền thống, cần phải có trình độ kiến thức CNTT: có hiểu biết về
các công nghệ liên quan tới thư viện số và các kỹ thuật phân phối các dạng
thức mới của nguồn và dịch vụ thông tin, tạo lập website, xây dựng và duy trì
mạng máy tính, thiết kế giao diện tìm kiếm thông tin, trình độ sư phạm để đào
tạo NDT. Ngoài ra người cán bộ thư viện cần phải có trình độ kiến thức ngoại
ngữ. Thành thạo ngoại ngữ của các nước đặc biệt là tiếng anh để vận dụng
vào hoạt động chuyên môn trong thư viện.
1.2.3. Cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ
Cơ sở vật chất là 1 trong 4 yếu tố cấu thành lên thư viện. Cơ sở vật chất
của thư viện bao gồm hệ thống các phòng làm việc, phòng đọc, phòng mượn,

16


phòng tra cứu…, hệ thống chiếu sáng (đèn điện), quạt mát, điều hòa, máy hút
bụi, bình cứu hỏa, hệ thống các giá sách, tủ trưng bày, tủ mục lục, bàn ghế..
Cơ sở vật chất đầy đủ, khang trang, hiện đại tạo điều kiện tối ưu cho
các hoạt động của thư viện phát triển.

Hạ tầng CNTT bao gồm hệ thống máy tính, mạng máy tính gồm máy
chủ và máy chạm, cùng các thiết bị ngoại vi: máy scan chuyên dụng, máy in,
photocoppy, cổng từ… vừa phục vụ bạn đọc tra cứu tìm tin vừa thực hiện các
khâu tác nghiệp chuyên môn nghiệp vụ. Hệ thống mạng máy tính: mạng
internet, Lan, Wan, phần mềm quản lý thư viện.
Cơ sở vật chất, hạ tầng CNTT có vai trò quan trọng đối với hoạt động
thư viện, là tiền đề tạo điều kiện thúc đẩy thư viện phát triển. Trong thời đại
CNTT bùng nổ mạnh mẽ việc trang bị cơ sở vật chất và hạ tầng CNTT đầy đủ
hiện đại là rất quan trọng vì vậy thư viện cần phải đề ra các chiến lược xây
dựng bổ sung cơ sở vật chất và hạ tầng CNTT cho thư viện.
1.2.4. Ứng dụng CNTT
CNTT theo nghĩa rộng của thuật ngữ bao gồm các phương pháp khoa
học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật, các giải pháp công nghệ nhằm giúp
cho con người nhận thức đúng đắn và thông tin trong mọi lĩnh vực hoạt động
của con người. Theo nghĩa trực tiếp CNTT là ngành công nghệ về xử lý thông
tin bằng các phương tiện điện tử, trong đó nội dung “xử lý” thông tin bao gồm
các khâu cơ bản như thu thập, lưu trữ, xử lý và phân phối thông tin.
Từ những năm của thể kỷ XX, trên thế giới CNTT đã được ứng dụng
vào công tác thư viện. Với những máy tính mạnh đã có khả năng làm việc
theo chế độ xử lý bao gói các dữ liệu. Dạng xử lý này phù hợp nhất với các
quá trình bổ sung, biên mục, xử lý các ấn phẩm định kỳ, thống kê vòng quay
của tài liệu. Vào đầu những năm 70 sự liên kết giữa kỹ thuật máy tính với các
phương tiện viễn thông đã tạo ra một bước tiến lớn. Đó là sự ra đời của các

17


mạng máy tính khác nhau: mạng Lan, Wan, quốc gia, quốc tế… có thể truyền
dữ liệu đi khắp nơi trên thế giới.
Hiện nay, với sự ra đời của nhiều loại phần mềm quản lý thư viện đã

góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của thư viện.
Việc ứng dụng CNTT vào hoạt động của thư viện rất quan trọng và cần
thiết. Vì vậy các thư viện cần phải tăng cường ứng dụng CNTT vào hoạt động
của thư viện mình.
1.2.5. Trình độ kiến thức thông tin của NDT
Trình độ kiến thức thông tin của NDT có tác động đến hoạt động thông
tin - thư viện.
Theo Hiệp hội các thư viện Đại học và thư viện nghiên cứu Mỹ (ACRL,
1989), kiến thức thông tin là sự hiểu biết và một tập hợp các khả năng cho
phép các cá nhân có thể “nhận biết thời điểm cần thông tin và có thể định vị,
thẩm định và sử dụng thông tin cần thiết một cách hiệu quả” .
Cần hiểu rõ rằng kiến thức thông tin không chỉ đơn thuần là những kỹ năng
cần thiết để tìm kiếm thông tin (xác định nhu cầu thông tin, xây dựng các biểu
thức tìm tin, lựa chọn và xác minh nguồn tin), mà bao gồm cả những kiến thức về
các thể chế xã hội và các quyền lợi do pháp luật quy định giúp NDT có thể thẩm
định thông tin, tổng hợp và sử dụng thông tin một cách hiệu quả.
NDT cần phải trang bị cho mình kiến thức thông tin: biết tìm và lựa chọn
các thông tin phù hợp với yêu cầu của mình đặc biệt là phải biết tổng hợp
phân tích các thông tin trên cơ sở đã tìm kiếm, sử dụng thành thạo các phương
tiện tra cứu của thư viện.
Để góp phần nâng cao trình độ kiến thức thông tin cho NDT thì thư
viện cần phải có kế hoạch, chương trình mở các lớp tập huấn, đào tạo kiến
thức thông tin cho NDT, giới thiệu và hướng dẫn sinh viên sử dụng các sản
phẩm và dịch vụ của thư viện, tra cứu, tìm kiếm tài liệu phù hợp với nhu cầu
tin của họ…

18


1.2.6. Kinh phí đầu tư

Kinh phí đầu tư là một trong những cơ sở góp thúc đẩy hoạt động thông
tin - thư viện.
Để đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường, vai trò của thư viện cần
phải được nâng cao. Vì vậy, thư viện cần phải được đầu tư đúng mức để trở
thành một trung tâm thông tin, không chỉ thu thập thông tin mà còn xử lí các
dạng thông tin theo hướng tích cực, giúp độc giả tiếp cận tri thức một cách
nhanh nhất, chính xác nhất, thỏa mãn yêu cầu ngày càng cao của NDT.
Tăng cường đầu tư huy động nhiều nguồn kinh phí: Ngoài nguồn kinh
phí, ngân sách nhà nước cấp hàng hằng năm thì thư viện cần chủ động huy
động nguồn vốn khác như: xã hội hóa, các nhà tài trợ trong và ngoài nước.
Thực tế cho thấy nếu chỉ phụ thuộc vào nguồn kinh phí, ngân sách được cấp,
các thư viện sẽ không thể xây dựng, mua sắm hệ thống trang thiết bị và bổ
sung nguồn tài liệu đầy đủ, đa dạng đặc biệt đối với CSDL điện tử.
1.2.7. Chuẩn nghiệp vụ
Trong hoạt động thông tin – thư viện các tiêu chuẩn nghiệp vụ về xử lý,
lưu trữ và phục vụ thông tin được ưu tiên hàng đầu, nhất là trong điều kiện tự
động hóa công tác thông tin – thư viện trên nền tảng CNTT phát triển mạnh
mẽ như hiện nay. Cho đến nay, sau nhiều lựa chọn, các thư viện đại học nước
ta đã đi đến đồng thuận áp dụng các tiêu chuẩn tiên tiến trên thế giới vào hoạt
động của mình và đã tạo ra những tiến bộ đáng kể về chất trong các sản phẩm
và dịch vụ thông tin – thư viện của mình, được bạn bè đánh giá cao và sử
dụng thông qua mạng INTERNET. Đó là các tiêu chuẩn về Biên mục: Khổ
mẫu MARC21; Qui tắc biên mục Anh – Mỹ AACR2 (phần mô tả, cơ bản dựa
trên tiêu chuẩn quốc tế về mô tả thư mục ISBD ); Bảng phân loại DDC. Ngày
7/5/2007, Bộ văn hóa – thể thao và du lịch đã ban hành văn bản số
1598/BVHTT-TV về hướng dẫn việc áp dụng các chuẩn nghiệp vụ trên phạm
vi cả nước.
- Ngày 23/7/2007, Vụ Thư viện ban hành công văn số 2667/BVHTTTV về triển khai áp dụng DDC, MARC21, AACR2 trong các thư viện.

19



1.3. Các tiêu chí đánh giá hoạt động thông tin – thư viện trong việc
đáp ứng đào tạo tín chỉ
Hoạt động thông tin – thư viện có một vai trò quan trọng đối với NDT
trong nhà trường đặc biệt là khi Nhà trường áp dụng chương trình đào tạo
theo tín chỉ. Để đánh giá hoạt động thông tin – thư viện cần phải dựa vào các
tiêu chí sau:
*Chất lượng đáp ứng nhu cầu tin của vốn tài liệu
Với vai trò là một động lực đóng góp vào việc cải tiến giáo dục, Thư
viện đại học có nhiệm vụ tuyển chọn và tiếp nhận các sách báo tài liệu phù
hợp của mọi lĩnh vực của chương trình giáo dục phản ánh tất cả những nguồn
kinh nghiệm và sự tiến bộ của toàn bộ thế giới, góp phần kích tích óc tò mò,
sáng tạo, tìm tòi, học hỏi của sinh viên, để hoàn thành được vai trò đó thì thư
viện phải có một nguồn lực thông tin đủ mạnh, có chất lượng cao để đáp ứng
được nhu cầu tin của NDT.
- Về loại hình tài liệu: Tài liệu trong thư viện cần phải có đầy đủ các
loại hình tài liệu đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung.
+ Tài liệu trên giấy như: sách, báo, tạp chí, bản đồ, bản vẽ được viết
hay in trên giấy.
+ Tài liệu phim ảnh như sách, tạp chí trên phim cuộn, phim tấm hay
còng gọi là tài liệu vi phim.
+ Tài liệu trên các vật mang tin từ tính như: băng từ, đĩa từ. Tùy theo
công nghệ và cách thức ghi thông tin mà trên mỗi băng từ, đĩa từ có thể ghi
được lượng thông tin khác nhau.
+ Tài liệu điện tử như sách điện tử (E-book), tạp chí điện tử (EJournal), bản tin điện tử (E-bulletin) là các loại tài liệu đã được số hóa, tức là
mã hóa ký tự (chữ cái, chữ số, ký hiệu) dưới dạng mã nhị phân, được lưu trữ
trên các vật mang tin điện tử như: băng từ, đĩa từ, đĩa CD-ROM, đĩa DVD hay
trên các máy chủ và chỉ có thể đọc được với sự trợ giúp của máy tính điện tử


20


Nhu cầu tin của NDT ngày càng nhiều vì vậy sự đa dạng và phong phú
về loại hình tài liệu tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu tin của NDT
- Nội dung tài liệu:
Nội dung tài liệu là một yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng
tài liệu.
Trong thư viện đại học cần phải có đầy đủ các lĩnh vực phù hợp với nhu
cầu tin của NDT ví dụ: Các tài liệu về kinh tế, chính trị, khoa học công nghệ,
xã hội, tiếng anh…
Các tài liệu trong thư viện cần phải được bổ sung thường xuyên và bổ
sung các tài liệu có chất lượng:
- Các tài liệu mới xuất bản;
- Tái bản lần mới nhất;
- NXB uy tín, đáng tin cậy: NXB Đại học Quốc Gia Hà TP. HCM,
NXB chính trị hành chính quốc gia, NXB trẻ, NXB lao động xã hội, NXB Đại
học Kinh tế Quốc dân….
Ngoài các yêu cầu thư viện bổ sung đầy đủ các loại hình tài liệu đa
dạng về hình thức phong phú về nội dung đáp ứng cả về số lượng và chất
lượng thì cán bộ thư viện cần phải dựa trên kết quả khảo sát điều tra, thu thập
đánh giá nhu cầu về tài liệu của NDT để từ đó xem xét mức độ thỏa mãn nhu
cầu về chất lượng vốn tài liệu của thư viện.
Ví dụ: căn cứ vào phiếu khảo sát vào đầu năm học của các khoa trong
trường. Nếu nhu cầu tin của họ là các giáo trình tái bản mới từ năm 2012 đến
nay thì căn cứ vào thực trạng vốn tài liệu trong thư viện nếu thư viện cũng có
các giáo trình đó tuy nhiên thì lần tái bản lại từ năm 2012 trở về trước khi đó
giáo trình không đáp ứng được yêu cầu tin của NDT.Vì vậy, có thể nói rằng
chất lượng tài liệu chưa đáp ứng được yêu cầu tin của NDT, cần phải tiến
hành bổ sung tài liệu phù hợp với yêu cầu tin của NDT.


21


* Mức độ thỏa mãn nhu cầu tin của người dùng tin.
Với vai trò quan trọng trong hoạt động thông tin – thư viện. Mức độ
thỏa mãn nhu cầu tin của NDT cũng là một trong những tiêu chí đánh giá hiệu
quả hoạt động thông tin – thư viện.
Mức độ thỏa mãn nhu cầu tin của NDT được thể hiện ở các nội dung sau:
- Không gian
Đào tạo theo tín chỉ đòi hỏi các Thư viện không chỉ có đầy đủ nguồn tài
liệu mà còn là môi trường tốt và không gian tốt để học tập và nghiên cứu.
Thời lượng học, tự nghiên cứu tại thư viện sẽ nhiều hơn. Một giờ tín chỉ có
giá trị bằng một giờ lên lớp và hai giờ chuẩn bị bài ở nhà/1 tuần, hay 2 giờ
thực hành và một giờ chuẩn bị bài / 1 tuần hoặc 3 giờ tự học, tự nghiên cứu/
tuần. Như vậy mô hình đào tạo này đòi hỏi học viên tính tự giác, tự lập cao
với thời lượng tự học, tự nghiên cứu tại thư viện nhiều hơn, nơi có không gian
học tập tốt (máy tính, chỗ ngồi, nguồn tài liệu đầy đủ…) sinh viên được đào
tạo theo hình thức tín chỉ sẽ phải thường xuyên thảo luận trên lớp. Như vậy,
mô hình tín chỉ không chỉ phát huy tính tự học mà còn rèn luyện kỹ năng là
việc theo nhóm. Chính vì vây nhu cầu dùng các phòng riêng dành cho thảo
luận và học nhóm là đòi hỏi tất yếu.
Để đánh giá không gian trong thư viện có thỏa mãn nhu cầu tin hay
không, cần phải xem xét các khía cạnh:
Hiện tại không gian trong thư viện đó như thế nào?
Bạn đọc thấy cách bố trí không gian như vậy đã hợp lý chưa?
Nếu chưa hợp lý thì bạn đọc có góp ý gì về không gian này?
Các phòng được bố trí có hợp lý không?
- Thời gian
Thời gian phục vụ tại thư viện cũng có vai trò quan trọng trong việc góp

phần thỏa mãn nhu cầu tin của NDT. Ngoài giờ lên lớp bạn đọc có thể đến thư

22


viện để sử dụng thư viện với các mục đích khác nhau. Tuy nhiên, nhu cầu về
thời gian của bạn đọc đến thư viện khác nhau. Vì vậy để đánh giá mức độ phù
hợp về thời gian đáp ứng tại thư viện thì cũng phải tiến hành thống kê, so sánh
nhu cầu về thời gian bạn đọc đến thư viện với thời gian thư viện mở cửa.
Việc đánh giá như vậy sẽ góp điều chỉnh làm tăng hiệu quả phục vụ hay
mức độ thỏa mãn nhu cầu tin của bạn đọc.
+ Sản phẩm và dịch vụ
Để đánh giá các sản phẩm và dịch vụ thư viện cần phải thống kê được
thực trạng các sản phẩm và dịch vụ thư viện hiện có, điều tra các sản phẩm
dịch vụ đó bạn đọc sử dụng nhiều hay ít, bao nhiêu người sử dụng, tỷ lệ sử
dụng các sản phẩm dịch vụ đó có hợp lý không và ý kiến đánh giá chất lượng
của bạn đọc như thế nào, từ đó có các chính sách điều chỉnh hợp lý.
+ Thái độ phục vụ của cán bộ thư viện
Thái độ phục vụ, và trình độ của cán bộ thư viện là một trong những
yếu tố góp phần đáp ứng nhu cầu tin của NDT. Bạn đọc đến thư viện nếu cán
bộ thư viện có trình độ, thái độ phục vụ nhiệt tình, các yêu cầu tin được đáp
ứng mà không bị từ chối sẽ góp phần nâng cao chất lượng hoạt động thư viện.
Vì vậy đây cũng là một trong yếu tố cần phải tiến hành điều tra khảo sát
để đánh giá được mức độ thỏa mãn đối với bạn đọc.
- Lượt sử dụng thư viện
Lượt sử dụng thư viện, số lần bạn đọc đến sử dụng thư viện. Trong hoạt
động thư viện để nắm được số lượng bạn đọc đến thư viện có thể dựa vào sổ
đăng ký mượn, đọc tài liệu ghi theo phương pháp thủ công, số lần truy cập
vào CSDL của phần mềm quản lý thư viện để thống kê.
- Vòng quay của tài liệu

Cán bộ thư viện tính được trong thư viện cuốn sách được mượn bao
nhiêu lần / tuần hoặc tháng, năm. Tài liệu nào có số lần mượn, đọc nhiều, khi

23


đó vòng quay của sách tăng (tức sách quay vòng nhanh) điều đó chứng tỏ nhu
cầu của bạn đọc về tài liệu đó nhiều.
Khi đã tính được số lần mượn, đọc của tài liệu dựa vào kết quả đó mà
cán bộ biết được trong thư viện tài liệu nào bạn đọc có nhu cầu nhiều, tài liệu
nào bạn đọc có nhu cầu ít để từ đó có kế hoạch điều chỉnh các chỉnh chính
sách bổ sung tài liệu cho phù hợp.
1.4. Trung tâm Thông tin – Thư viện Trường Đại học Hải Dương
trước yêu cầu đào tạo theo tín chỉ
1.4.1. Trường Đại học Hải Dương
- Sơ lược lịch sử ra đời và phát triển
Trường Đại học Hải Dương (Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Hải
Dương) là Trường công lập trực thuộc UBND tỉnh Hải Dương, được thành lập
theo Quyết định số 1258/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26 tháng 07
năm 2011 trên cơ sở nâng cấp từ Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Hải
Dương và được đổi tên theo Quyết định số 378/QĐ-TTg ngày 01 tháng 3 năm
2013 của Thủ tướng Chính phủ.
Với truyền thống 52 năm xây dựng và trưởng thành, Nhà trường có uy
tín lãnh đạo và dạy nghề các bậc Trung cấp, Cao đẳng, Đại học theo các khối
ngành Kinh tế - Kỹ thuật - Xã hội. Xuất phát điểm là Trường Trung cấp Quản
lý Kinh tế Hải Hưng thuộc Ban Đào tạo và Tuyển sinh Hải Hưng được thành
lập năm 1979 trên cơ sở thống nhất 03 trường của 03 ngành: Tài chính, Kế
hoạch và Lao động; Năm 1993, sáp nhập Trường Thương nghiệp của Sở
Thương mại (nguyên từ Trường Thương nghiệp được thành lập vào năm 1960
trực thuộc Bộ Nội thương chuyển giao về Tỉnh). Sau đó, Trường được đổi tên

thành Trường Trung cấp Kinh tế Hải Hưng trực thuộc Sở Giáo dục Hải Hưng;
Năm 2001, Nhà trường được nâng cấp thành lập Trường Cao đẳng Kinh
tế - Kỹ thuật Hải Dương trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hải Dương
theo Quyết định số 272/2001/QĐ-BGD&ĐT– TCCB ngày 11/01/2001 của Bộ
trưởng Bộ GD&ĐT.
24


Năm 2007, Nhà trường được chuyển lên trực thuộc UBND tỉnh Hải
Dương; thực hiện vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
theo Quyết định số 1993/QĐ-UBND, ngày 04/6/2007 (nay là Quyết định số
1483/QĐ-UBND, ngày 07/6/2010) của UBND tỉnh Hải Dương
Năm 2011, Nhà trường được nâng cấp thành lập Trường Đại học Kinh
tế - Kỹ thuật Hải Dương trực thuộc UBND Tỉnh Hải Dương theo Quyết định
số 1258/2011/QĐ-TTg ngày 26/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ và được đổi
tên thành Trường Đại học Hải Dương theo Quyết định số 378/QĐ-TTg ngày
01 tháng 3 năm 2013. Đây là Trường Đại học công lập đầu tiên trực thuộc
Tỉnh, là kết quả sau phấn đấu của toàn thể cán bộ giảng viên, công nhân viên
trong Trường, đặc biệt là đội ngũ Ban Giám hiệu Nhà trường.
- Chức năng, nhiệm vụ
+ Chức năng
Trường Đại học Hải Dương có chức năng đào tạo sinh viên, học sinh có
trình độ Đại học, Cao đẳng, Trung cấp thuộc các khối ngành kinh tế, kỹ thuật,
xã hội, tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ giáo dục và
đào tạo theo quy định của Pháp luật.
+ Nhiệm vụ
Một số nhiệm vụ cơ bản của Nhà trường hiện nay là tổ chức đào tạo bồi
dưỡng cũng như thực hiện các hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu, chương
trình đào tạo các ngành nghề được các cấp có thẩm quyền phê duyệt; Xây
dựng và triển khai các chương trình, nội dung đào tạo trên cơ sở các chương

trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo và yêu cầu thực tiễn của xã hội. Để
đáp ứng yêu cầu tổ chức thực hiện nhiệm vụ và công tác quản lý từ ngày
thành lập đến nay nhà trường đã thường xuyên củng cố hoàn thiện cơ cấu tổ
chức bộ máy và nguồn nhân lực lao động để có một tập thể cán bộ công chức
với bộ máy tổ chức hoạt động tương đối nhịp nhàng đều tay.

25


×