Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cho học sinh lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.72 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
I- ĐẶT VẤN ĐỀ

Trang
2

1. Lý do chọn đề tài

2

2. Mục đích nghiên cứu

2

3. Phương pháp nghiên cứu, phạm vi và kế hoạch nghiên cứu cứu

2

II- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sớ lí luận
2. Thực trạng của vấn đề
3. Các biện pháp tiến hành
4. Kiểm nghiệm
III- KẾT LUẬN, VÀ ĐỀ XUẤT

3
3
3-5
5 - 16
16


16-17

1


Rèn luyện kĩ năng
làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cho học sinh lớp 9
Người thực hiện: Nguyễn Thị Xuyến

I- ĐẶT VẤN ĐỀ.
1. Lí do chọn đề tài
Trong nhà trường văn nghị luận chiếm một vị trí rất quan trọng, giúp học
sinh hình thành và phát triển tư duy, khả năng lập luận. Vì vậy trong chương trình
THCS văn nghị luận được bố trí dạy ngay từ lớp 7 tiếp tục rèn luyện và nâng cao ở
lớp 8 và lớp 9. Tuy nhiên việc tạo lập được một văn bản nghị luận là vô cùng khó
đối với học sinh THCS bởi văn nghị luận không chỉ đòi hỏi phải có kiến thức chính
xác sâu rộng phong phú, những suy nghĩ quan điểm đúng dắn về đời sống xã hội
mà còn đòi hỏi cả sự tư duy lô gíc chặt chẽ với những cách lập luận sâu sắc thấu
tình, đạt lí thì bài văn mới có thể hấp dẫn, thuyết phục người đọc, người nghe. Đặc
biệt để làm được bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ lại càng khó hơn, vì đây là
kiểu bài thuộc nhóm nghị luận văn chương. Để làm được kiểu bài này đòi hỏi học
sinh ngoài có những kĩ năng trên, còn phải có năng lực cảm nhận, nhận xét đánh
giá về thơ, vừa phải có kiến thức về bài thơ, đoạn thơ ấy (về tác giả, hoàn cảnh ra
đời của tác phẩm, giá trị nội dung, nghệ thuật….)
Trong nhiều năm qua, bản thân tôi luôn được phân công giảng dạy môn Ngữ
văn lớp 9, tôi luôn có ý thức trong công tác giảng dạy, đặc biệt chú trọng rèn luyện
cho học sinh kĩ năng làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ vì đây là dạng bài
khó luôn có trong các đề thi lớp 9 mà hầu hết học sinh lại không làm được.
Xuất phát từ tầm quan trọng và thực trạng của việc làm bài văn nghị luận về
một đoạn thơ, bài thơ trong nhà trường THCS hiện nay nên tôi đã quyết định chọn

nghiên cứu đề tài “Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài
thơ cho học sinh lớp 9”
2. Mục đích nghiên cứu.
Từ những lí do thực tiễn, tôi nghiên cứu đề tài này nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn
của người học và nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn, nhất là nghị luận về
văn chương nói chung và nghị luận về tác phẩm thơ nói riêng. Đồng thời nhằm
trao đổi với đồng nghiệp một vài kinh nghiệm, qua đó giúp cho học sinh lớp 9 nắm
vững hơn phương pháp làm kiểu bài này, nâng cao chất lượng bài thi, bài kiểm tra
và kết quả học tập cho các em.
3. Phương pháp nghiên cứu, phạm vi và kế hoạch nghiên cứu
a. phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận văn học
- Phương pháp điều tra sư phạm.

2


- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Đối chiếu kết quả bài làm của hai lớp
9ABtrước và sau khi áp dụng kinh nghiệm của đề tài trong giảng dạy.
b. phạm vi và kế hoạch nghiên cứu:
- Nghiên cứu đối tượng học sinh trung học lớp 9AB thông qua các tiết dạy
chương trình chính khóa, chương trình bổ trợ,...
- Nghiên cứu cách thức đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực
của đồng nghiệp.
- Nghiên cứu đề tài qua việc các em ôn tập, thực hành tạo lập văn bản nghị
luận văn chương và nhất là thơ.
- Kết quả làm bài văn nghị luận về tác phẩm thơ.
II- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Cơ sở lí luận:
Chúng ta đã biết rằng tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật mà người

nghệ sĩ mất bao công sức, bao trải nghiệm để sáng tạo nên. Thơ chỉ thật sự có giá
trị khi mang ý nghĩa đời sống, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm tư, tình cảm nhận thức
của con người.
Đứng trước một tác phẩm văn học, một đoạn thơ hay một bài thơ người đọc
suy nghĩ và bộc lộ tình cảm, cách hiểu, cách đánh giá về tác phẩm ấy chính là quá
trình nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ.
Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là kiểu bài thuộc nhóm nghị luận văn
chương. Mục đích của kiểu bài này là qua việc tìm hiểu các tín hiệu nghệ thuật
(như hình ảnh, ngôn ngữ, nhịp điệu…) nhận xét, đánh giá được giá trị nội dung và
nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ ấy.
Tìm hiểu, phân tích thơ là một việc khó, đánh giá thơ lại càng khó và phức tạp
hơn, bởi lẽ thơ là sản phẩm của cảm xúc, trí tưởng tượng mang dấu ấn cá nhân. Quá
trình tiếp nhận thơ ca cũng đồng thời là quá trình tiếp nhận mang tính chất chủ
quan sâu sắc. Bài nghị luận vì thế mà cần có sự kết hợp giữa việc trình bày hiểu
biết về những “dấu ấn cá nhân” của tác giả,đồng thời phải nói lên được những cảm
nhận, đánh giá chủ quan của bản thân người viết.
Kiến thức được thể hiện trong một bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là
kiến thức tổng hợp, kết hợp của nhiều hiểu biết về đặc trưng thể loại, về tác giả, về
hoàn cảnh sáng tác…Vì vậy việc rèn luyện giúp cho học sinh có kĩ năng làm tốt bài
nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là một việc làm rất cần thiết.
2. Thực trạng của vấn đề:
a. Thực trạng chung:
Thực trạng học và làm văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ của học sinh
hiện nay đang là vấn đề đáng lo ngại. Theo thống kê kết quả thi học kì và thi vào
THPT của học sinh lớp 9 Trường THCS Nga An nói riêng, nhiều trường trong
huyện Nga Sơn nói chung mấy năm gần đây thì bài thi môn văn của học sinh
điểm cao rất ít, phần lớn là điểm trung bình và dưới trung bình nhất là những năm
3



đề ra làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ, trong đó có nhiều bài văn của
học sinh khiến người chấm dở khóc dở cười bởi những sai sót quá cơ bản của học
sinh. Ngoài các lỗi về chính tả, dùng từ, diễn đạt…nhiều em còn sai kiến thức cơ
bản do suy diễn theo cảm tính, rất ít học sinh biết rung động trước những tác
phẩm văn học, đặc biệt là thơ. Do vậy khi làm bài học sinh thường suy luận chủ
quan hoặc tái hiện một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên giảng, hoặc
là diễn nôm bài thơ mà chưa biết phân tích. Bình luận sâu sắc các tín hiệu nghệ
thuật thậm chí có chỗ ‘râu ông nọ cắm cằm bà kia” nhầm nội dung tác phẩm này
với tác phẩm khác, tác giả này với tác giả khác. Bố cục bài làm chưa rõ ràng,
mạch lạc ố một số bài yếu còn gạch đầu dòng ở mỗi ý…Sở dĩ chất lượng bài làm
văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ của học sinh thấp như vậy là do nhiều
nguyên nhân.
b. Về phía giáo viên:
Mặc dù những năm gần đây hầu hết giáo viên đã có ý thức đổi mới phương
pháp dạy học, nhưng việc thực hiện chỉ mới mang tính chất hình thức chứ chưa
đem lại hiệu quả như mong muốn. Ngay trong những giờ dạy các văn bản thơ bước chuẩn bị quan trọng đầu tiên để các em làm tốt bài văn nghị luận nhiều giáo
viên vẫn cứ quen thói cũ dạy theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều : giáo viên
giảng giải, học sinh lắng nghe ghi chép nên giờ học tác phẩm văn chương chưa
thu hút được sự chú ý của học sinh, nhiều em tỏ ra bàng quan, thờ ơ. Mặt khác
trong giờ hướng dẫn rèn luyện cách làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ
hầu hết giáo viên chỉ hướng dẫn học sinh một cách chung chung theo 2 tiết trong
sách giáo khoa nên học sinh không có kĩ năng vận dụng kiến thức vào để làm bài.
c. Về phía học sinh:
Phần lớn học sinh hiện nay không ham muốn học tập môn Ngữ văn, nhất là
ngại làm những bài văn. Có lẽ ngoài nguyên nhân khách quan từ xã hội, thì một
phần cũng do làm văn quá khó, lại mất nhiều thời gian. “Công thức” làm văn cho
các em lại không được hình thành cụ thể. Các em không phân biệt rõ các thao tác
nghị luận chính mà mình sử dụng. Càng ngày, kĩ năng tạo lập văn bản của học
sinh càng kém hơn, và rất hiếm có những bài văn nghị luận có được sức hấp dẫn,
thuyết phục bởi cách lập luận rõ ràng, chính xác, đầy đủ và chặt chẽ từng luận

điểm luận cứ…Bài viết của các em khi thì sai về yêu cầu thao tác nghị luận, khi
lại không sát, không đúng với nội dung nghị luận của đề bài. Ví dụ, đề bài yêu cầu
cảm nhận các em lại làm như một bài phân tích, thiếu cảm xúc, thái độ tình cảm;
đề bài yêu cầu nghị luận về một nội dung của tác phẩm các em lại nghị luận về
toàn bộ tác phẩm đó; các em không không phân biệt được viết như thế nào là bài
bình giảng, viết như thế nào là bài phân tích một đoạn thơ bài thơ; hoặc khi nghị
luận kết hợp giải quyết một ý kiến nào đó liên quan tới tác phẩm, các em lại quên
mất việc giải quyết ý kiến đó (quên giải thích ý kiến, quên xoáy vào tác phẩm để
làm rõ ý kiến) mà cứ sa vào nghị luận toàn bộ tác phẩm… Khi chưa áp dụng đề tài
4


này vào thực tế giảng dạy thì chất lượng bài kiểm tra nghị luận về một đoạn thơ,
bài thơ kết quả lớp tôi giảng dạy là:
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Lớp TSHS
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%

9A
38
1
2.6
8
21
13 34.2 12 31.5 4
10.5
9B

35

0

0

7

20

10

28.5

15

42.8

3


8.5

Kết quả trên cho thấy nguyên nhân mấu chốt học sinh không biết làm bài nghị luận
về một đoạn thơ, bài thơ là do các em không có kiến thức về bài thơ, đoạn thơ đó
hoặc thiếu kĩ năng làm kiểu bài văn nghị luận này.
Vậy nên, việc nâng cao mở rộng, luyện tập thêm cho học sinh kĩ năng làm bài
văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là rất cần thiết.
3. Các giải pháp và biện pháp tổ chức thực hiện:
Để học sinh có kĩ năng làm được bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ
Tôi thực hiện theo các bước sau:
a. Tích hợp với giờ dạy văn bản:
Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ hội tụ cả hai yếu tố: năng lực cảm thụ
văn chương và phương pháp làm bài nghị luận. Lời văn của bài phải chặt chẽ, thể
hiện chính kiến của người viết(yếu tố nghị luận) lại vừa gợi cảm sinh động thể hiện
sự rung động với tác phẩm(yếu tố văn chương). Đây là điểm khác biệt với các dạng
văn nghị luận khác. Thực tế không phải học sinh nào cũng có khả năng cảm thụ
ngay từ khi tiếp xúc với tác phẩm. Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học,
học sinh làm trung tâm của quá trình tiếp nhận nhưng không thể coi nhẹ vai trò chỉ
đạo, hướng dẫn của thầy, đặc biệt là sự dẫn dắt để học sinh phát hiện và khắc sâu
những điểm sáng và chi tiết nghệ thuật trong bài thơ, và đó cũng là việc làm thường
xuyên của tôi trong mỗi giờ dạy văn bản thơ. Ví dụ khi dạy văn bản thơ bước đầu
bao giờ tôi cũng cho học sinh phát biểu, trình bày nêu cách hiểu và cảm nhận về tác
phẩm sau khi đã soạn bài ở nhà. Đây là bước chuẩn bị quan trọng để các em làm tốt
kiểu bài này.
b. Củng cố và khắc sâu kiến thức lí thuyết bài nghị luận về một đoạn thơ,
bài thơ:
- Khái niệm:
Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là trình bày những nhận xét, đánh giá của
mình về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy.
- Yêu cầu đối với bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ:

Thơ là nghệ thuật của ngôn từ. Tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật của thơ
được thể hiện qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, vần, nhịp, cách sử dụng dấu câu..
Vì vậy yêu cầu:

5


+ Nôi dung: bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần nêu lên được các nhận
xét, đánh giá và sự cảm thụ riêng của người viết. Những nhận xét, đánh giá ấy phải
gắn với sự phân tích, bình giá ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nội dung cảm xúc của
tác phẩm.
+ Lời văn: phải gợi cảm, thể hiện những rung động chân thành của người viết.
+ Bố cục: Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần có bố cục rõ ràng, mạch
lạc
-Các bước làm bài văn nghị luận về bài thơ, đoạn thơ:
Bước 1: Tìm hiểu đề, tìm ý:
-Tìm hiểu đề: Đây là bước đầu tiên và rất quan trọng nhưng lâu nay nhiều khi học
sinh thường bỏ qua dẫn đến tình trạng làm lệch hướng, lạc thể loại của đề bài yêu
cầu (lạc đề). Vậy chúng ta phải làm thế nào?
+ Giáo viên yêu cầu học sinh phải đọc kĩ đề bài, tìm và gạch chân những từ ngữ
quan trọng để xem xét, xác định chính xác thể loại nghị luận cần hướng tới?
+ Xác định thể loại, kiểu bài nghị luận? (chú ý từ: suy nghĩ, phân tích, cảm nhận để
thực hiện đúng phương pháp làm bài).
Hiện nay nhiều em học sinh lớp 9 đang băn khoăn lo lắng: “Nhiều lúc em không
biết cái mình đang viết là phân tích hay cảm nhận.” Và nếu thầy cô ra hai đề “Em
hãy phân tích đoạn thơ trên” hoặc cảm nhận của em về đoạn thơ trên” thì em sẽ làm
hoàn toàn giống nhau…Đó là những lời bộc bạch chân thành dễ hiếu. Bởi vì phân
tích và cảm nhận là những thao tác cơ bản của kiểu bài nghị luận văn chương. Mà
trong chương trình Ngữ văn 9 tâp 2 có 6 tiết cung cấp kiến thức về nghị luận văn
chương (Nghị luận về thơ và nghị luận về truyện) nhưng lại không có một tiết học

nào dạy về cách làm bài cụ thể ở hai dạng phân tích và cảm nhận. Trong lúc đó, đề
môn ngữ văn thi vào THPT thì ngày càng tăng cường kiểm tra sự vận dụng sáng tạo
kiến thức đã học với hai yêu cầu cụ thể là phân tích và cảm nhận.
Theo tôi, để học sinh tháo gỡ được băn khoăn, viết đúng hai dạng đề này cần phải
giúp các em phân biệt sự khác nhau giữa phân tích và cảm nhận. Tuy nhiên sự phân
biệt này chỉ mang tính chất tương đối.
“Phân tích”, theo từ điển đã định nghĩa: “là cơ sở để tổng hợp, tổng hợp là mục
tiêu của phân tích”. Phân tích và tổng hợp gắn bó chặt chẽ với nhau. Vậy khi làm
bài phân tích đòi hỏi học sinh phải xem xét một cách toàn diện, khách quan từ hình
thức đến nội dung. Ngòi bút của các em phải sắc bén để chia cắt đối tượng. Nếu là
thơ thì phải tìm hiểu ngôn từ, hình ảnh giọng điệu….Nếu là chuyện thì tìm hiểu
nhân vật, nghệ thuật kể, ý nghĩa cốt truyện…khi gặp các dạng đề này nên phân tích
dẫn chứng trước để rút ra nhận xét, đánh giá sau.
Còn cảm nhận là trình bày những suy nghĩ, cảm xúc, những nhận xét, đánh giá
của mình về cái hay, cái đẹp của tác phẩm . Cảm nhận xoáy vào những ấn tượng
chủ quan của người viết về những điểm sáng thẩm mĩ trong văn bản văn chương.
Vì vậy yêu cầu người viết phải biết lắng nghe, chắt lọc những xúc cảm, những rung
6


động của chính mình xem yếu tố nào gây thành ấn tượng đậm nhất, nắm lấy nó rồi
viết ra. Ấn tượng của các em về tác phẩm càng sâu đậm, ám ảnh bao nhiêu thì bài
viết cảm nhận càng xúc động, sâu sắc bấy nhiêu.
Có thể nói “cảm nhận” nghiêng về “cảm” còn phân tích nghiêng về “hiểu”. Nếu
như phân tích thì tác động vào nhận thức, trí tuệ thì cảm nhận tác động vào cảm
xúc, tâm hồn.
Tuy nhiên nếu phân tích mà không có cảm nhận thì bài viết sẽ rất khô khan. Chúng
ta nên lồng cảm nhận vào phần tổng hợp của bài phân tích, tức là phần cuối đoạn
hoặc cuối bài.
Ngược lại cảm nhận mà không có phân tích thì cảm nhận ấy thiếu cơ sở thuyết

phục. Trong cảm nhận phải có phân tích để đào sâu, làm điểm tựa, làm đòn bẩy cho
cảm xúc thăng hoa cất cánh. Hay nói cách khác, mọi rung động, cảm xúc của người
viết bắt nguồn từ sự phân tích bình giá ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu…nhân vật, cốt
chuyện hay chủ đề của tác phẩm . Sau đây xin dẫn ra một ví dụ cụ thể để các em
cùng xem xét:
Ví dụ: Cho đoạn thơ: Vẫn còn bao nhiêu nắng/ Đã vơi dần cơn mưa/ Sấm cũng bớt
bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi. (Sang thu, Hữu Thỉnh, Ngữ văn 9, tập hai)
Đề 1: Phân tích đoạn thơ trên
Bài làm…”Sang thu, cảnh vật thời tiết thay đổi. Tất cả còn những dấu hiệu mùa hạ
nhưng đang giảm dần mức độ, cường độ, từ gay gắt chuyển hóa thành dịu êm. Phép
tiểu đối giữa nắng và mưa, vẫn còn và đã vơi thể hiện sự phân hóa mong manh giữa
hai mùa. Bởi vì làm sao có thể đong đếm đầy vơi những dấu hiệu của thiên nhiên
lúc giao mùa. Khi đất trời sang thu, những hàng cây lâu năm không còn bất ngờ
trước những tiếng sấm chuyển mùa nữa. “Sấm “ và “hàng cây đứng tuổi” là hình
ảnh ẩn dụ. Sấm chỉ những vang động, những sóng gió cuộc đời. Còn “hàng cây
đứng tuổi” chỉ những người từng trải, thường điềm tĩnh chín chắn thêm trước
những vang động sóng gió cuộc đời.
Từ những thay đổi của mùa thu đời người, để rồi ta thấu hiểu rằng “Hãy biết chấp
nhận bình tĩnh sống với lòng tin. Hãy mở rộng lòng mình để yêu thiên nhiên, đất
nước, con người”
Đề 2: Trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ trên.
Bài làm: …“Vẫn là nắng, mưa, sấm chớp, bão giông nhưu mùa hạ, nhưng mức độ
đã khác rồi. Để ý sẽ thấy cái gì cũng bắt đầu đi vào chừng mực, vào thế ổn định. Và
cái “đứng tuổi” của cây là cái chốt cửa để mở sang một thế giới khác: thế giới sang
thu của hồn người. Vẻ chín chắn điềm tĩnh của cây trước sấm sét bão giông hay
chính là sự từng trải chín chắn của con người sau những dâu bể cuộc đời?
Ở cái tuổi ấy, con người một mặt sâu sắc thêm, mặt khác lại khẩn trương gấp gáp
hơn vì quỹ thời gian không còn nhiều nữa.Thì ra, trước mắt việc đi mãi, ngoảnh
đầu thu đến rồi. Bốn mùa luân chuyển vô hình, lặng lẽ; bỗng chợt thu. Đời người


7


vất vả, tất bật, bộn rộn, lo toan, bỗng chốc thấy mái tóc pha sương: sững sờ mình
cũng đã sang thu.
Nhan đề Sang thu vừa bao chùm lại vừa thấm vào cảnh vật: hương quả sang thu,
ngọn gió, màn sương sang thu…Nhưng trong từng cảnh sang thu của thiên nhiên
đất trời tạo vật là lồng lộng hồn người sang thu…
- Tìm ý:
Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ phải tìm hiểu nhà thơ, cuộc đời sự nghiệp, phong
cách sáng tác, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, đặc biệt phải bám sát bố cục của bài
để tìm luận điểm.
Bước 2: Lập dàn bài.
Đây là bước mà học sinh coi là khó nhất khi làm bài. Và các em cũng hay bỏ
qua để thực hiện bước viết bài. Tại sao vậy? Vấn đề này cũng dễ lí giải: thứ nhất,
các em có một tâm lí sợ mất nhiều thời gian khi làm bài. Thứ hai, không có thói
quen, chưa tập thành nếp lập dàn bài trước khi viết bài hoàn chỉnh. Thứ ba, không
thuộc bài cũ cho nên cũng không thể lập được dàn bài. Thứ tư, do thói quen chủ
quan của một số em. Như vậy, dẫn đến hậu quả hệ thống luận điểm sắp xếp không
theo trật tự lô gic, các ý lộn xộn, hoặc bỏ ý, bỏ luận điểm trong bài bài viết. Vậy,
bước này, giáo viên cần phải làm gì để giúp các em tránh khỏi những tồn tại trên?
+ Xác định về thời gian làm bài cho một đề cụ thể. Đây là khâu chuẩn bị làm bài
mà giáo viên nên rèn cho học sinh thói quen tốt để các em khỏi lúng túng trong
việc phân bố thời gian sao cho hợp lí khi làm bài, tránh tình trạng thiếu giờ hoặc
thừa giờ.
+ Yêu cầu các em xác định bố cục bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. Tìm ý
cho mỗi phần của bố cục chính là chuẩn bị các yếu tố, điều kiện cần thiết cho việc
xây dựng bài văn. Nếu các em tìm được các luận điểm chính xác, điểm sáng trong
bài thơ sẽ là điều kiện phân tích, bình luận trong bài văn đúng và hay tạo nên cách
viết riêng cho mình

Bố cục chung của bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ:
Mở bài: Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ và bước đầu nêu nhận xét, đánh giá của
mình.
Thân bài: Lần lượt trình bày những suy nghĩ, nhận xét, đánh giá về nội dung và
nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ.
Kết bài: Khái quát chung về giá trị và ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ.
Bước 3: Viết bài.
-Khi thực hiện bước này, nhất thiết người viết phải bám sát vào dàn bài đã lập
để triển khai hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng.
-Về hình thức bài văn: bố cục của bài viết, các đoạn trong bài phải được trình
bày theo trình tự lô gic, có sự liên kết chặt chẽ cả nội dung lẫn hình thức, các câu
trong đoạn phải thống nhất với nội dung của đoạn. Các đoạn trong bài được trình
bày theo các cách lập luận (diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp, song hành…)
8


-Về nội dung của bài văn: tùy từng yêu cầu của đề bài và phần dàn ý đã lập mà
chúng ta triển khai các luận điểm rõ ràng. Tránh tình trạng diễn nôm bài thơ.
Bước 4: Đọc và sửa lỗi.
Đây là bước cuối cùng khi hoàn thiện bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ.
Người viết phải có thói quen rà soát lại bài làm của mình để sửa lỗi về nội dung lẫn
hình thức.
- Về nội dung, người viết phải soát lại hệ thống luận điểm, luận cứ.
-Về hình thức, người viết phải soát lại bố cục, các đoạn văn, các câu văn diễn
đạt, lỗi chính tả thường mắc phải.
c. Các dạng bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ:
Lưu ý đối tượng nghị luận một đoạn thơ, bài thơ rất đa dạng, bao gồm: nghị luận
về một đoạn thơ, nghị luận về một bài thơ, nghị luận về một khía cạnh nội dung,
nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ hoặc có thể là nghị luận tổng hợp từ hai ba đoạn,
bài thơ trở lên.

Với mỗi kiểu bài, yêu cầu nghị luận có sự khác nhau.Vì thế học sinh phải căn cứ
vào yêu cầu cụ thể để làm bài, tránh ôm đồm, tham lam kiến thức hoặc sơ sài, hời
hợt.
c1. Dạng bài nghị luận về một bài thơ:
Khi tiếp xúc với dạng đề này, khá nhiều học sinh thắc mắc, băn khoăn là có cần
chép hết bài thơ trong phần mở bài không? Làm thế nào để học thuộc cả một bài
thơ dài ? Phân tích nội dung hay nghệ thuật trước? Phân tích nội dung thì phân tích
như thế nào? Để giải đáp những băn khoăn, thắc mắc của học sinh, giáo viên hướng
dẫn học sinh cách làm cụ thể.
Cách làm: Đối với dạng đề này học sinh có thể làm theo cách sau:
+ Khi giới thiệu bài thơ (nên để ở phần mở bài) học sinh không cần dẫn
nguyên bài thơ, chỉ cần giới thiệu tên bài thơ, tác giả, hoàn cảnh ra đời, chủ đề
chính của bài thơ.
+ Để tìm hiểu giá trị bài thơ (bao gồm giá trị nội dung và nghệ thuật) có thể
chọn phân tích cắt ngang (tức phân tích theo bố cục – các đoạn của bài thơ) hoặc bổ
dọc(tức theo các ý trong thơ). Với cách phân tích thứ nhất, học sinh cần nắm chắc
bố cục bài thơ, từ đó lần lượt phân tích từng đoạn cho đến hết bài thơ. Với cách thứ
hai, trước hết cần bao quát được hệ thống ý(cũng có thể hiểu là những biểu hiện,
diễn biến cảm xúc của nhân vật trữ tình) sau đó tập hợp, phân tích những câu thơ
có cùng nội dung cảm xúc ấy.
Quá trình phân tích, cảm nhận bài thơ phải theo trình tự từ nghệ thuật đến nội
dung. Đây là quá trình ngược lại với quá trình sáng tác của nhà thơ, là quá trình
người đọc tự giải mã những tín hiệu ngôn ngữ để tìm đến nội dung tư tưởng, nội
dung cảm xúc của nhà thơ gửi gắm.

9


+ Trong quá trình phân tích không nhất thiết phải trích dẫn tất cả những câu,
đoạn trong bài thơ (nếu là bài thơ dài) mà các em có thể chọn những câu thơ, đoạn

thơ tiêu biểu để phân tích và làm dẫn chứng minh hoạ.
Ví dụ: Em hãy phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh
Cách làm: Đối với đề này bài làm cần đáp ứng được các yêu cầu sau:
Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
Hữu Thỉnh thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Ông
là người viết nhiều, viết hay về quê hương và cuộc sống con người, đặc biệt là về
mùa thu. Với tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, Hữu Thỉnh đã phát hiện ra những chuyển
biến rất nhẹ nhàng của đất trời khi mùa thu đến mà với những bộn bề công việc
người ta rất khó có thể nhận ra. Với bài thơ “Sang thu”(sáng tác 1977) Hữu Thỉnh
đã góp vào nền thơ hiện đại Việt Nam một bức tranh thu với những nét mới mẻ,
sáng tạo, đầy ắp hơi thở của sự sống.
Thân bài: Phân tích bài thơ - học sinh có thể đi phân tích theo nhiều cách
khác nhau có thể phân tích theo từng khổ cũng có thể phâm tích theo mạch cảm
xúc.
Khổ 1: Là những dự cảm mùa thu đã về
Phân tích những hình ảnh, hiện tượng thể hiện sự biến chuyển của đất trời
lúc sang thu: tác giả đã cảm nhận qua nhiều yếu tố, bằng nhiều giác quan và qua sự
rung động thật tinh tế.
- Hương ổi lan vào không gian, phả vào gió se
- Sương giăng mắc nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm nơi đường thôn ngõ
xóm.
- Tâm trạng nhà thơ ngỡ ngàng, cảm xúc bâng khuâng qua các từ “bỗng”,
“hình như”
Khổ 2 và 3: Miêu tả bức tranh thiên nhiên đất trời lúc sang thu
- Từ khung cảnh chật hẹp nơi làng quê, nhà thơ đã dần hé mở thêm cho
không gian cả chiều cao, rộng, sâu. Đầu tiên nhà thơ quan sát sự vật ở tầng thấp sau
đó đến tầng cao. Chú ý phân tích hình ảnh “có đám mây mùa hạ- Vắt nửa mình
sang thu”. Đây là hình ảnh thú vị thể hiện sự liên tưởng phong phú và sự sáng tạo
độc đáo, mới mẻ của nhà thơ.
- Phân tích hình ảnh thiên nhiên khổ cuối: Khi mùa thu sang, những dấu hiệu

thiên nhiên mùa hạ vẫn còn: nắng, mưa, sấm nhưng đã giảm dần về mức độ, cường
độ: nắng bớt nắng chói, gay gắt; mưa nhẹ hạt hơn; sấm bớt đến bất ngờ; hàng cây
già hơn. Song các hình ảnh “nắng, mưa, sấm” còn là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng
cho những khắc nghiệt, chuyển biến của ngoại cảnh, cuộc đời. Hàng cây đứng tuổi
chỉ những con người từng trải. Qua hình ảnh này nhà thơ gửi gắm triết lí: Con
người đã từng trải luôn vững vàng trước những tác động, biến đổi của ngoại cảnh,
cuộc đời.
Kết bài: đánh giá chung
10


Tóm lại: Đọc “Sang thu”, ta không chỉ cảm nhận được những khoảnh khắc
giao mùa tuyệt vời của mùa thu nơi làng quê Bắc Bộ mà còn thấy được tâm hồn
tinh tế, nhạy cảm và tấm lòng yêu thiên nhiên cùng bài học triết lí, kinh nghiệm
sâu xa mà Hữu Thỉnh gửi gắm qua những nét mới mẻ, sáng tạo của một tiếng thu
đầy ắp sự sống.
c2. Dạng bài nghị luận về một đoạn thơ:
Phạm vi kiến thức của dạng bài nghị luận này hẹp hơn so với nghị luận về
một bài thơ, nhưng điều đó không có nghĩa là đơn giản, nhẹ hơn so với yêu cầu
nghị luận về một bài thơ. Đây là dạng đề đòi hỏi người viết phải thể hiện được
những kiến thức, khả năng cảm thụ cụ thể của bản thân.
+ Khi nghị luận ngoài việc phân tích đánh giá về nội dung và nghệ thuật của
đoạn thơ, cần phải đánh giá được vai trò, vị trí của đoạn thơ trong việc góp phần
thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Điều đó cũng có nghĩa là khi phân tích trình
bày cảm nhận về một đoạn thơ không bao giờ được tách rời với tổng thể là cả bài
thơ.
+ Những đoạn thơ mở đầu tác phẩm thường khơi gợi cảm hứng chủ đạo của
bài thơ. Những đoạn cuối thường kết tinh giá trị, bộc lộ rất rõ thi tứ hoặc thể hiện
tính chất triết lí của bài thơ đó. Việc nắm được ý nghĩa của những vị trí đắc địa này
cũng tạo thuận lợi nhất định cho quá trình làm bài.

+ Trình tự cơ bản của bài nghị luận về một đoạn thơ cần lưu ý:
Mở bài: Giới thiệu khái quát về vị trí, nội dung của đoạn thơ trong toàn bài thơ (chú
ý các thao tác trích dẫn đoạn thơ nếu là đoạn ngắn)
Thân bài: Tập trung phân tích giá trị về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ được
yêu cầu nghị luận, tránh lạm dụng trích dẫn tư liệu mở rộng quá nhiều.
Kết bài: đánh giá chung về đoạn thơ trong mối quan hệ với tư tưởng, chủ đề của tác
phẩm.
Ví dụ:
Phân tích đoạn thơ :
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
Mùa xuân nho nhỏ- Thanh Hải
Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn thơ “Mùa xuân nho nhỏ”
là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Thanh Hải, sáng tác 1980- không bao
lâu trước khi nhà thơ qua đời.Bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với
11


thiên nhiên, đất nước, cuộc đời thể hiện ước nguyện chân thành được cống hiến,
góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc. Đoạn thơ thể
hiện rõ nhất lẽ sống cao đẹp ấy của nhà thơ là:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
Thân bài:
- Phân tích lẽ sống cao đẹp của nhà thơ qua đoạn “Ta làm………xao xuyến”
Đoạn thơ chinh phục ta bởi những lời tha thiết của một cái tôi trữ tình tự nhiên,
dung dị. Nếu ở đầu bài thơ hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, “một con chim
chiền chiện”là nét vẽ của mùa xuân thiên nhiên, thì giờ đây chính Thanh Hải lại
muốn làm nên một nét xuân hồng của mùa xuân đất nước. Làm một con chim hót
để gọi xuân về, làm bông hoa đẹp toả hương sắc cho vườn hoa cuộc đời, làm một
nốt trầm trong bản hoà ca thanh bình của đất nước. “con chim”, “cành hoa”, “nốt
trầm” còn là những hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho cái đẹp, cho niềm vui và tài
năng của con người. Với điệp ngữ “ta làm” nhà thơ đã bày tỏ ước mơ giản dị mà
cao đẹp của mình. Như Tố Hữu đã từng nói:
“Nếu là con chim chiếc lá
Thì con chim phải hót chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.
Đó cũng là lẽ sống, là ước nguyện chung của mỗi người dân Việt Nam. Làm
con chim, cành hoa, chỉ nhỏ bé khiêm nhường vậy thôi nhưng đáng quý, đáng trân
trọng biết nhường nào.
- Phân tích lẽ sống cao đẹp của nhà thơ qua đoạn: “Một mùa xuân.....tóc bạc”
Đoạn thơ gieo vào lòng người đọc những cảm xúc trong trẻo, ngọt ngào
“Một mùa xuân nho nhỏ” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho những dâng hiến của
tác giả với cuộc đời, ấy là cái đẹp, là niềm vui, tài năng mà Thanh Hải muốn góp
phần tô điểm cho mùa xuân đất nước. Sự dâng hiến của ông là tự nguyện, khiêm
nhường “lặng lẽ” và hết mình “tuổi đôi mươi” hay ”khi tóc bạc”. Lẽ sống cao cả ấy
của Thanh Hải đã làm nên triết lí sống cao đẹp.

Kết bài: Khái quát chung
Tóm lại, với thể thơ 5 chữ, nhịp thơ tha thiết sâu lắng, hình ảnh thơ đẹp giàu
ý nghĩa, ngôn ngữ thơ giàu nhạc điệu. Đoạn thơ đã đem đến cho người đọc một bản
12


tình ca yêu đời,một lẽ sống cao đẹp của nhà thơ sông Hương núi Ngự. Đây cũng là
đoạn thơ đặc sắc kết tinh vẻ đẹp của cả bài thơ tiêu biểu cho hồn
thơ Thanh Hải: nồng nàn, dịu ngọt, thiết tha và sâu lắng.
c3. Dạng bài nghị luận về một khía cạnh của bài thơ, đoạn thơ:
+ Đề nghị luận có thể tập trung ở một phương diện, một khía cạnh cụ thể về
nội dung hay nghệ thuậtcủa bài thơ, đoạn thơ. Ví dụ với bài “Bếp lửa” của Bằng
Việt đề có thể yêu cầu học sinh trình bày cảm nhận về hình ảnh người bà và tình bà
cháu(nội dung),hoặc phân tích ý nghĩa của hình tượng bếp lửa(nghệ thuật). Hay với
bài “Đồng chí” của Chính Hữu, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến
Duật đề có thể yêu cầu cảm nhận về hình tượng người lính(nội dung), hay bàn về
bút pháp hiện thực, lãng mạn(nghệ thuật).
+ Khi làm kiểu bài này, cần xác định trọng tâm nghị luận(tức khía cạnh cụ
thể mà đề yêu cầu). Tuy nhiên cần tránh tình trạng tách rời hoàn toàn nội dung và
nghệ thuật trong quá trình phân tích, cảm nhận. Khi gặp đề bài có yêu cầu thiên về
khai thác phương diện nội dung cần đánh giá được các yếu tố nghệ thuật thể hiện
nội dung đó. Trái lại gặp đề bài có yêu cầu thiên về khai thác phương diện nghệ
thuật cần rút ra nội dung thể hiện.
Ví dụ 1: Phân tích nét nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Du trong việc miêu tả
chân dung nhân vật qua đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” (Trích “Truyện Kiều”)
Cách làm: Đây là đề yêu cầu nghị luận về khía cạnh nghệ thuật của đoạn thơ. Đối
với đề này, bài làm cần đáp ứng một số yêu cầu sau:
Mở bài: Giới thiệu khái quát về Nguyễn Du
Trên thi đàn văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Du là thiên tài văn học.
Đặc biệt là ngòi bút miêu tả chân dung nhân vật.Với đoạn trích “Chị em Thuý

Kiều” (Trích “Truyện Kiều”) ta sẽ thấy rõ nét đặc sắc ấy.
Thân bài: Phân tích nét đặc sắc trong việc miêu tả chân dung nhân vật trong đoạn
trích
- Tác giả đi theo bút pháp lí tưởng hoá, ước lệ tượng trưng (lấy chuẩn mực vẻ
đẹp của thiên nhiên để miêu tả vẻ đẹp của con người ) - Dẫn chứng
- Dùng bút pháp cổ điển truyền thống, tác giả đi theo trình tự từ khái quát
đến cụ thể: đầu tiên tác giả miêu tả vẻ đẹp chung của hai chị em Thuý Kiều sau đó
miêu tả vẻ đẹp riêng của từng người.
- Dùng nghệ thuật đòn bẩy, họa mây lẫy trăng: Miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân
trước làm nền rồi tập trung miêu tả làm nổi bật vẻ đẹp của Thuý Kiều.
- Cái tài của Nguyễn Du còn thông qua việc miêu tả chân dung nhân vật để
ngầm dự báo cho cuộc đời, số phận của nhân vật sau này. Vẻ đẹp của Thuý Vân
phúc hậu đoan trang dự báo một cuộc sống bình lặng êm ả, suôn sẻ.Còn vẻ đẹp của
Thuý Kiều là vẻ đẹp sắc sảo mặn mà, có chiều sâu nội tâm ngầm dự báo một cuộc
đời truân chuyên, trắc trở đầy đau khổ của nàng sau này.

13


- Nguyễn Du còn có cái tài trong việc chọn lọc chi tiết để lột tả cái thần thái
của nhân vật. Khi miêu tả nhân vật Thuý Vân tác giả miêu tả cụ thể khuôn mặt, lời
nói, làn da, mái tóc. Còn khi miêu tả Kiều lại theo bút pháp chấm phá điểm nhãn,
tập trung vào cái thần thái, cái hồn của vẻ đẹp qua đôi mắt, đôi mày “Làn thu thuỷ,
nét xuân sơn” tác giả chú ý lột tả chiều sâu nội tâm nhân vật để làm rõ nét tính cách
nhân vật: con người có trí tuệ thiên bẩm với tâm hồn đa sầu đa cảm.
Kết bài: Đánh giá chung
Đây là đoạn thơ đặc sắc tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật
của Nguyễn Du đáng để cho chúng ta trân trọng và học tập.
Ví dụ 2: Từ bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, hãy viết về những suy tư
của người lính sau chiến tranh.

Cách làm:
Với đề này yêu cầu học sinh chủ yếu nghị luận về phương diện nội dung
(Nhân vật trữ tình trong thơ- người lính sau chiến tranh). Vì vậy bài làm cần làm rõ
được các nội dung sau:
Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm hoặc giới thiệu về hình ảnh
người lính sau chiến tranh.
Thân bài: Phân tích những suy tư của người lính sau chiến tranh:
- Trong quá khứ(thời tuổi thơ và những năm tháng chiến tranh ở rừng) con
người sống gắn bó, giao hoà, thuỷ chung với thiên nhiên đồng,sông, bể, rừng
(biểu tượng cho hình ảnh đất nước bình dị, hiền hậu) tiêu biểu là ánh trăng. Trăng
và người trở thành tri kỉ tưởng như không bao giờ có thể quên được.
- Khi chiến tranh kết thúc, người lính trở về bị hấp dẫn bởi cuộc sống hiện
đại đầy đủ nơi đô thị mà thờ ơ, vô tình với những ngày gian khổ cùng đồng chí
đồng đội-> trăng trở thành người dưng qua đường.
- Trong hoàn cảnh bất ngờ, ánh sáng nhân tạo vụt tắt, bóng tối bao trùm,
vầng trăng xuất hiện khiến con người ngỡ ngàng. Trước người bạn vô tình ấy, trăng
chẳng nói chẳng trách, khiến người lính cảm thấy có cái gì rưng rưng
- Ánh trăng trước sau vẫn vậy: mộc mạc, giản dị và thuỷ chung, tình nghĩa.
Trăng vẫn lặng lẽ tròn đầy một cách trong sáng vô tư mặc cho thời gian trôi, mặc
cho bầu bạn xưa ai đó quay lưng. Nhưng trăng cũng nghiêm khắc nhắc nhở, khơi
gợi niềm xúc động, đánh thức lương tâm để con người nhận ra sự vô tình vô nghĩa
của mình.
Kết bài : Đánh giá chung
Với giọng điệu tâm tình, tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm. Bài thơ là lời
tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó
với thiên nhiên đất nước bình dị, hiền hậu. Qua đó gợi nhắc, củng cố ở người đọc
thái độ sống “Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ
c4. Dạng nghị luận tổng hợp về thơ:

14



Khác với dạng đề yêu cầu nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cụ thể, dạng đề
tổng hợp về thơ thường có phạm vi rộng, bao quát hơn(thường liên quan đến 2
đoạn, 2 bài thơ trở lên). Một trong những cơ sở để hình thành một đề bài tổng hợp
về thơ là những nét tương đồng đó. Học sinh cần phát hiện ra được cả những điểm
khác biệt- yếu tố tạo nên nét riêng, sự độc đáo, hấp dẫn. Chính vì thế nghị luận tổng
hợp về thơ thường đặt ra yêu cầu đối chiếu, so sánh …để hướng tới mục đích tìm ra
cả nét tương đồng lẫn khác biệt.
Khi làm bài cần tránh tình trạng phân tích, cảm nhận riêng lẻ, tách rời đoạn,
bài hay đối tượng nghị luận : chẳng hạn đề yêu cầu viết một bài văn với nhan đề
“Tình yêu Tổ quốc qua các bài thơ hiện đại đã học ở SGK Ngữ văn 9- tập I”,
nhiều học sinh chỉ phân tích lần lượt tình yêu Tổ quốc qua từng bài thơ mà quên
thao tác tổng hợp, đánh giá cần thiết. Với đề bài này, học sinh vẫn có thể chọn cách
viết như trên (chỉ tìm hiểu tình yêu Tổ quốc qua từng tác phẩm) nhưng sau đó cần
rút ra những nét chung, nét riêng (kể cả trong nghệ thuật biểu hiện).
Ví dụ: Vẻ đẹp của anh bộ đội cụ Hồ qua hai bài thơ “Đồng chí” của Chính
Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
Cách làm:
Đề bài này có phạm vi yêu cầu tương đối tự do: có thể phân tích, chứng minh,
bình luận, phát biểu cảm nghĩ về vẻ đẹp của anh bộ đội cụ Hồ qua hai bài thơ.
* Về trình tự làm: có thể phân tích từng bài thơ hay kết hợp phân tích cả hai bài,
song phải thể hiện được năng lực phân tích tác phẩm văn học tổng hợp, đánh giá.
* Về nội dung: Cần làm rõ, thấy được những điểm giống nhau và khác nhau của
hình tượng người lính trong hai bài thơ thuộc hai thời kì khác nhau.
- Giống nhau: Những người lính trong hai bài thơ đều có chung những phẩm chất
tốt đẹp như lí tưởng cao đẹp vì nền độc lập tự do của Tổ quốc, có tình cảm đồng chí
cao đẹp, có tinh thần dũng cảm kiên cường…
- Khác nhau: Những người lính thuộc hai thế hệ khác nhau, ở hai thời kì khác nhau
(thời chống Pháp và thời chống Mĩ), tính cách, phẩm chất có nét khác nhau, trong

môi trường chiến đấu khác nhau.
+ Anh bộ đội trong bài thơ “Đồng chí”, họ là những người lính xuất thân từ
nông dân bình dị, mộc mạc. Cuộc sống trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp
còn thiếu thốn gian khổ. Nét nổi bật ở những người lính này đó là tình đồng đội,
đồng chí của những con người cùng chung cảnh ngộ, cùng chung lí tưởng chiến
đấu, là tình thương của những con người tri âm tri kỉ.
+ Anh bộ đội trong bài “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến
Duật là những người lính tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ có học
vấn, có bản lĩnh chiến đấu, có đời sống tình cảm tâm hồn, khí phách, khí thế mới
mang tính thời đại. Họ trẻ trung, sôi nổi hơn và được đặt trong hoàn cảnh chiến
đấu ác liệt hơn.
- Đánh giá:
15


+ Từ buổi đầu kháng chiến chống Pháp đến cuộc kháng chiến chống Mĩ ác
liẹt, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ đã liên tục phát triển lên một tầm cao mới, rõ nhất
là ở tư thế ung dung, hiên ngang của họ.
+ Hai bài thơ, trong hai giai đoạn văn học nhưng đều đã hoàn thành xuát sắc
sứ mạng của thi ca sau Cách mạng tháng Tám là thể hiện nhân vật trung tâm của
thời đại một cách cao đẹp – Anh bộ đội cụ Hồ. Đó là những người lính cùng chiến
đấu cho hoà bình, độc lập tự do của Tổ quốc. Đặc biệt họ đều là những con người
giàu lòng yêu nước, yêu quê hương, có tình đồng chí đồng đội sâu nặng, bền vững.
4. Kiểm nghiệm:
Trên đây là những biện pháp mà bản thân tôi đã áp dụng trong năm học
2012- 2013 để hướng dẫn học sinh làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. Sau
khi áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy, chất lượng làm bài nghị luận về một
đoạn thơ, bài thơ của học sinh lớp tôi trực tiếp giảng dạy đã nâng cao rõ rệt. Giờ
đây tình trạng học sinh làm một bài nghị luận về một đoạn thơ hay bài thơ chỉ có
nửa trang giấy hoặc chỉ viết có một đoạn văn không còn nữa. Bây giờ mỗi khi gặp

dạng đề này các em không còn phải lúng túng, băn khoăn lo lắng vì không biết làm
như thế nào, bắt đầu từ đâu nữa. Đa số các em đã biết cách vận dụng những kiến
thức đã học trong phần văn bản thơ vào làm bài, đồng thời biết phân tích, bình
giảng, đưa ra những nhận xét, đánh giá, cảm nhận của mình về giá trị nội dung,
nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ đó. Cũng nhờ áp dụng đề tài này mà trong năm
học 2012- 2013 chất lượng bài kiểm tra,bài thi học kì, và thi vào THPT môn văn
của lớp tôi giảng dạy đạt kết quả cao hơn so với trước khi áp dụng đề tài này vào
thực tế giảng dạy. Cụ thể là :
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Lớp TSHS
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A
38
4 10.5 12 31.5 17 44.7 5 13.1 0
0
9B


35

3

8.5

10

28.5

16

45.7

6

17.1

0

0

III - KÕt luËn vµ ĐỀ XUẤT:
Có thể nói nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là một dạng làm văn khó đối
với học sinh lớp 9. Mặc dù lí thuyết theo phân phối chương trình các em chỉ được
học 2 tiết nhưng đa số các bài thi học kì II và thi vào THPT câu tự luận đề lại ra
vào dạng này. Theo tôi đó là một cách tốt để đánh giá lực học của học sinh. Nó
buộc học sinh phải cải tiến cách học và biết phương pháp thể hiện kiến thức.
Những dạng bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ trên đây đòi hỏi học sinh phải
vận dụng kiến thức tổng hợp của mình từ bài học hiện tại, từ những năm trước và

thể hiện kĩ năng viết được rèn luyện qua nhiều bài mới mong có thành công tốt.
Kinh nghiệm mà tôi đã trình bày là rút ra từ thực tế hướng dẫn học sinh qua nhiều
16


năm giảng dạy, nhiều khoá học sinh đã học tập, thi cử đạt kết quả khá cao trong các
kì thi, từ kiểm định chất lượng, đến thi chuyển cấp. Hi vọng nó cũng có thể gỡ bí
cho một số học sinh hiện nay và gợi ý thêm một cách học văn lâu dài.
Qua áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy tôi thấy để việc rèn luyện kĩ
năng làm văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ giáo viên cần phải:
+ Chọn thời gian, phân chia nội dung kiến thức và hướng dẫn rèn luyện cho
học sinh cách làm bài cụ thể, phù hợp với các đối tượng học sinh.
+ Khi dạy học phải tích hợp với phần văn bản, đồng thời cần hướng dẫn kĩ
cho học sinh cả kĩ năng diễn đạt luận điểm, kĩ năng chuyển tiếp, liên kết các luận
điểm, các phần, các đoạn.
+ Cần rèn luyện cho học sinh kĩ năng bình giảng, kĩ năng so sánh văn học, kĩ
năng giải quyết các đề bài lí luận văn học, kĩ năng nghị luận về một chi tiết nghệ
thuật đối tượng học sinh dự thi học sinh giỏi các cấp, còn các kĩ năng khác thì rèn
luyện cho mọi đối tượng.
+ Kiến thức các kĩ năng có thể cung cấp, củng cố vào các buổi học thêm, song
song với chương trình học tập buổi sáng.
+ Đặc biệt, vào giai đoạn ôn luyện cho học sinh thi chuyển cấp đạt kết quả,
giáo viên nên có thao tác hệ thống lại tất cả các kĩ năng, và ra hệ thống bài tập rèn
luyện theo từng dạng bài nghị luận cụ thể sao cho học sinh rèn luyện thành thạo kĩ
năng và nắm vững kiến thức về các bài thơ, đoạn thơ đã học để có thể tự tin khi tạo
lập một văn bản nghị luận văn học bất kì.
Đề tài này chỉ là do bản thân học hỏi, đúc rút kinh nghiệm qua nhiều năm giảng
dạy, nên chắc chắn cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong các đồng
nghiệp tham khảo và góp ý chân thành để việc dạy học của tôi và tất cả chúng ta có
hiệu quả tốt hơn.

Nga An, ngày9 tháng 4 năm 2014
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Tôi xin cam đoan SKKN trên là của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Người thực hiện

Nguyễn Thị Xuyến

17


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN
MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ CHO HỌC SINH LỚP 9

Người thực hiện: Nguyễn Thị Xuyến
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Nga An
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ Văn

18
THANH HOÁ NĂM 2013-2014


19




×