Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

CHINH SACH TAI KHOA VA TIEN TE TRONG GIAI DOAN SUY THOAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.36 KB, 22 trang )

Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ TIỀN TỆ TRONG GIAI ĐOẠN
SUY THOÁI: MINH CHỨNG TỪ CÁC NƯỚC G7
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu này không đại diện cho quan điểm của IMF. Quan điểm thể hiện
trong bài nghiên cứu này là của các tác giả và không nhất thiết đại diện cho IMF hay
chính sách của IMF. Bài nghiên cứu của tác giả được công bố để gợi ra những ý kiến
và tranh luận thêm.
Bài nghiên cứu này phân tích chính sách tài khóa và tiền tệ thường phản ứng như
thế nào trong quá trình suy thoái ở các nước G7. Nó đánh giá phản ứng của chính sách
tài khóa tùy ý trong suy thoái có đúng lúc và kịp thời không, và so sánh phản ứng của
chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Kết quả cho thấy rằng trong khi chính sách tài khóa truyền thống đáp ứng yếu
hơn và chậm hơn so với chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa tùy ý là kịp thời hơn so
với sự hiểu biết thông thường, đặc biệt trong các quốc gia "Anglo-Saxon", nhưng phản
ứng khác biệt đáng kể giữa các công cụ tài chính. Sự hiểu biết thông thường ở đây là
trong khi chính sách tiền tệ là một công cụ phản chu kỳ kịp thời và mạnh mẽ, thì chính
sách tài khóa cung cấp vừa ít sự kích thích vừa quá chậm.
Sự suy thoái kinh tế hiện tại và sự nới lỏng mạnh mẽ các chính sách tài khóa và
tiền tệ ở nước Mỹ đã phục hồi lãi suất với vai trò của chính sách tài khóa trong việc ổn
định chu kỳ. Tuy nhiên, quan điểm được mọi người chấp nhận là trong khi chính sách
tiền tệ là một công cụ phản chu kỳ kịp thời và mạnh mẽ, thì chính sách tài khóa cung
cấp vừa ít sự kích thích vừa quá chậm. Tương tự, có quan điểm cho rằng trong khi các
ngân hàng trung ương điều chỉnh chính sách cân đối theo chu kỳ, thì chính sách tài
khóa phản ứng ngược lại, nới lỏng trong thời kỳ suy thoái và không thắt chặt một cách
hiệu quả trong thời kỳ hưng thịnh. Thế nhưng bài phân tích này đã khám phá ra
rằng,với chính sách tài khóa tùy ý thì nó mang nhiều sắc thái và có ý nghĩa hơn so với
nhận thức thông thường đó.
I.


GIỚI THIỆU
Có sự thiếu hụt đáng ngạc nhiên của các nghiên cứu định lượng về động thái

của các chính sách tài khóa và tiền tệ trong suốt thời kỳ suy thoái trong nhóm 7 quốc
gia (G7). Trong khi tác động phản chu kỳ của chính sách tiền tệ đã được nghiên cứu kỹ
Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 1 / 22


Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

(Taylor 1993, Clarida te vào 1999), nhìn chung các lý thuyết này cho rằng chính sách
tài khóa phản chu kỳ hay có tính chu kỳ trong các nước G7 đều yếu ( Gali và Perotti
2003, Lane 2003, Auerbach 2003). Romer và Romer (1994) tiến hành một nghiên cứu
về chính sách tài khóa và tiền tệ xung quanh thời kỳ suy thoái và hồi phục của Mỹ, và
nhận thấy trong khi chính sách tiền tệ và cân đối cơ bản có tính chu kỳ (tự động)
thường nới lỏng một cách nhất quán trong suốt thời kỳ suy thoái thì nới lỏng tài khóa
tùy ý được đại diện bởi cân đối cơ bản được điều chỉnh có tính chu kỳ, thường đến sau
khi kết thúc thời kỳ suy thoái, và mang đến mức kích thích kinh tế yếu.
Việc sử dụng dữ liệu hàng quý, bài báo này tập trung vào các tác động có tính chu kỳ
của các chính sách tài khóa và tiền tệ trong nhóm G7 từ năm 1980. Nội dung chủ yếu
của bài báo này bao gồm các phần chủ yếu sau:
+

Phần II: phân tích phản ứng của chính sách tài khóa đối với thời kỳ suy thoái

thường xuyên và nhanh chóng như thế nào. Phân tích cho thấy tốc độ phản ứng khác
nhau thông qua các công cụ tài chính và so sánh với phản ứng công cụ của chính sách
tiền tệ.
+ Phần III: sử dụng một vecto tự động hồi quy để phân tích độ mạnh phản ứng của

chính sách tài khóa và tiền tệ đối với cú sốc tăng trưởng. Ngoài ra, phần này dẫn
chứng có bao nhiêu các kích thích tài khóa bị triệt tiêu trong quá trình phục hồi sau đó,
và mức độ cân đối chính sách tài khóa so sánh với sự cân đối của chính sách tiền tệ.
+ Phần IV: Cuối cùng, phần này phân tích tầm quan trọng của tính bất định của nền
kinh tế. Phần này tập trung vào kinh nghiệm của Mỹ, dữ liệu hàng quý chi tiết về sự
thay đổi luật thuế có từ những năm 1960. Đặc biệt là tính đúng lúc và kịp thời của luật
thuế phản chu kỳ được đánh giá dựa trên cơ sở dữ liệu mới của Romer và Romer
(2007).
II.

CÁC TỪ KHÓA

Cân đối cơ bản là những khoản chính phủ vay hoặc cho vay ròng không bao gồm các
khoản thanh toán lãi suất trên khoản nợ chính phủ hợp nhất.
Output gap (chênh lệch sản lượng đầu ra) là độ chênh lệch, thường được tính bằng
% giữa sản lượng thực tế và sản lượng tiềm năng của nền kinh tế quốc gia. Output gap
lớn hơn 0 thường được coi là dấu hiệu của dư cầu, gây áp lực tăng giá, do đó sẽ phải
tăng lãi suất nhằm tránh cho nền kinh tế phát triển quá nóng cũng như kiềm chế lạm
phát. Output gap nhỏ hơn 0 được coi là dấu hiệu lạm phát sẽ giảm.
Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 2 / 22


Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

Basic point – điểm cơ bản – là một đơn vị bằng 1/100 của 1% và được sử dụng để biểu
thị sự thay đổi của các công cụ tài chính, ví dụ như: lãi suất …
Chu kỳ kinh tế là sự biến động của GDP thực tế của nền kinh tế quốc gia theo trình tự
ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng nổ). Cũng có quan điểm coi
pha phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ gồm hai pha chính là suy thoái và

hưng thịnh (hay mở rộng).

Hình: các pha trong chu kỳ kinh tế
Trước đây, một chu kỳ kinh tế thường được cho là có bốn pha lần lượt là suy thoái,
khủng hoảng, phục hồi và hưng thịnh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, khủng
hoảng làm cho kinh tế tiêu điều, thất nghiệp tràn lan, các nhà máy đóng cửa hàng loạt,
v.v… không xảy ra nữa. Vì thế, toàn bộ giai đoạn GDP giảm đi, tức là giai đoạn nền
kinh tế thu hẹp lại, được gọi chung là suy thoái.
Suy thoái được định nghĩa là thời kỳ mà trong đó tốc độ tăng trưởng là âm hoặc sự
chênh lệch giữa sản lượng thực tế và sản lượng tiềm năng là âm “ bất thường” (định
nghĩa là độ lệch chuẩn bé hơn 0). Định nghĩa này tổng quát hơn so với định nghĩa đơn
giản theo quan điểm tăng trưởng âm (như trong Romer và Romer (1994)), bởi vì điều
đó sẽ làm bỏ qua thời kỳ sản lượng đầu ra tăng nhưng vẫn ít hơn đáng kể so với sản
lượng tiềm năng. Suy thoái kinh tế có thể liên quan sự suy giảm đồng thời của các chỉ
Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 3 / 22


Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

số kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế như việc làm, đầu tư, và lợi nhuận doanh
nghiệp. Các thời kỳ suy thoái có thể đi liền với hạ giá cả (giảm phát), hoặc ngược lại
tăng nhanh giá cả (lạm phát). Một sự suy thoái trầm trọng và lâu dài được gọi là khủng
hoảng kinh tế.
Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy thoái.
Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế. Sau khi vượt qua giai đoạn khó
khăn, cùng với sự tiến bộ nâng cao năng lực sản xuất hơn những chu kỳ trước, nền
kinh tế phát triển ở tầm cao hơn trong chu kỳ tiếp theo.
Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy thoái, nền
kinh tế bước vào pha hưng thịnh (còn gọi là pha mở rộng hoặc bùng nổ). Kết thúc pha

hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy
thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính quy luật. Không có hai chu kỳ
kinh tế nào hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay phương pháp nào dự
báo chính xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế.
Theo học thuyết Keynes, chu kì kinh tế hình thành do thị trường không hoàn hảo,
làm tổng cầu biến động. Chính sách tài khóa là việc sử dụng ngân sách Nhà nước để
tác động vào nền kinh tế. Chính sách tài khóa được sử dụng để chống lại chu kỳ kinh
tế hay còn gọi là chính sách tài khóa tùy ý có thể được tách ra thành 2 phần: chính
sách tài khóa mở rộng (được sử dụng để kích thích kinh tế thông qua chính sách kích
cầu xã hội hiệu quả) và chính sách tài khóa kiềm chế (được sử dụng để kiềm chế sức
ép lạm phát). Chính sách tài khóa tùy ý hướng vào ổn định nền kinh tế.
Một hình thức khác của chính sách tài khóa phản chu kỳ là ổn định tự động
(automatic stabilizers). Nghĩa là có những chính sách được thiết kế tự nó điều chỉnh
làm cho chính sách tài khóa mở rộng trong thời kỳ suy thoái và thu hẹp trong thời kỳ
tăng trưởng cao như là chính sách bảo hiểm, an sinh xã hội, thuế thu nhập…
Chính sách tiền tệ là tổng hòa các phương thức được Ngân hàng Nhà nước sử dụng
nhằm tác động đến khối tiền trong lưu thông, phục vụ cho các mục tiêu kinh tế xã hội
của quốc gia trong thời kì nhất định. Các mục tiêu phổ biến cần ổn định của chính sách
tiền tệ là: giá cả, lãi suất, tỉ giá hối đoái, tỉ lệ tăng trưởng, tỉ lệ thất nghiệp … Tùy vào
từng thời điểm của nền kinh tế mà mục tiêu nào sẽ được chọn làm trung tâm. Chính
sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai hướng: chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung
Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 4 / 22


Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy đầu tư sản xuất, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng –
chính sách tiền tệ chống thất nghiệp) hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền,

tăng lãi suất làm giảm đầu tư sản xuất từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng
– chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền).
Theo quan điểm của Keynes thì tiền ảnh hưởng đến nền kinh tế thông qua lãi suất (do
ảnh hưởng đến tiết kiệm, đầu tư …) và lãi suất được quyết định bởi cung – cầu trên thị
trường tiền tệ. Cầu tiền không ổn định do sự thay đổi vòng quay của đồng tiền, số
vòng quay ít trong thời kì suy thoái và nhiều trong thời kì bùng nổ.
Bài viết này sử dụng sự thay đổi lãi suất danh nghĩa ngắn hạn là chỉ số của chính sách
tiền tệ và đo lường kích thích của chính sách tài khóa bằng cân đối cơ bản
III. PHÂN TÍCH NGHIÊN CỨU SỰ KIỆN
A.

Dữ liệu và phương pháp

Trong bài viết này, suy thoái được định nghĩa là thời kỳ mà trong đó tốc độ tăng
trưởng là âm hoặc sự thiếu hụt sản lượng đầu ra là âm “ bất thường”. Sự thay đổi trong
mức lãi suất danh nghĩa ngắn hạn được sử dụng để đo lường chính sách tiền tệ, sự thay
đổi trong cân đối cơ bản được sử dụng để đo lường kích thích tài khóa. Sự thay đổi
trong cân đối tài khóa cơ bản tức là sự chênh lệch giữa tổng doanh thu của chính phủ
nói chung và tổng nợ của chính phủ. Sự thay đổi trong cân đối cơ bản có thể tăng một
cách thụ động, khi mà doanh thu và chi tiêu tăng hoặc giảm cùng với các hoạt động
kinh tế, đó là sự thay đổi có tính chu kỳ, hoặc chủ động khi các chính phủ có những
lựa chọn chính sách về thuế, chi chuyển nhượng và sử dụng chi tiêu hay sự thay đổi
điều chỉnh theo chu kỳ. Do vậy bài viết này nghiên cứu hai thước đo là cân đối cơ bản
theo chu kỳ và cân đối cơ bản điều chỉnh theo chu kỳ. Trong đó cân đối cơ bản điều
chỉnh theo chu kỳ phản ánh những thay đổi trong chính sách hay phản ứng của chính
sách tài khóa tùy ý, và thước đo cân đối cơ bản theo chu kỳ phản ánh sự phản ứng của
chính sách tài khóa đối với những thay đổi trong hoạt động kinh tế, hay chính sách tài
khóa bình ổn tự động.
Phân tích nghiên cứu sự kiện xác định những thay đổi tùy ý như là sự thay đổi
“lớn” trong các công cụ chính sách. Những thay đổi lớn trong các biến tài khóa tùy ý,

được xác định là những gì vượt quá 0,25% GDP mỗi quý. Tương tự như vậy, sự thay
đổi tùy ý trong lãi suất danh nghĩa ngắn hạn được xác định là những gì vượt quá
0,25% trong một quý.
Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 5 / 22


Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

Dữ liệu hàng quý từ 1980Q1-2007Q4 được lấy từ báo cáo kinh tế OECD Outlook
và cơ sở dữ liệu IFS của IMF. OECD công bố điều chỉnh theo chu kỳ của các khoản
mục ngân sách, trong đó sử dụng một ước tính sự thiếu hụt sản lượng đầu ra cùng với
độ co giãn được xây dựng để rút ra các thành phần theo chu kỳ từ các khoản mục ngân
sách. Dữ liệu hàng quý về sự thiếu hụt sản lượng đầu ra và tăng trưởng GDP thực được
lấy từ OCED Economic Outlook, và được điều chỉnh theo mùa. Những thay đổi trong
chính sách tiền tệ được đại diện bởi sự thay đổi hàng quý của mức lãi suất danh nghĩa
ngắn hạn được lấy từ cơ sở dữ liệu của Quỹ IFS. Tất cả những thay đổi là từ quý này
sang quý khác và không thường niên.
B.

Kết quả

Bảng 1 và 2 tóm tắt số liệu thống kê liên quan đến tác động có chu kỳ của chính
sách tiền tệ và tài khóa trong các thời kỳ suy thoái và tăng ứng tương ứng. Bảng 1 cho
thấy suy thoái xảy ra trong khoảng 26 % mẫu. Toàn bộ nhóm G7, nhân tố kích thích tài
chính tùy ý chiếm đến 21% trong các quý suy thoái, ít hơn một nửa so với mức độ
thường xuyên của việc nới lỏng lãi suất. Tuy nhiên, sự kích thích tài khóa tùy ý xuất
hiện trung bình 2.4 quý sau khi bắt đầu suy thoái, 1.6 quý sau khi nới lỏng lãi suất.
Khoản chi tiêu cơ bản có tần suất phản ứng thấp nhất với việc nới lỏng trong chỉ 13 %
trong suốt các quý suy thoái, và đến đáy hầu hết 4 quý. Ngược lại, như mong đợi chích

sách tài khóa nới lỏng tự động, đại diện bởi sự suy giảm trong cân đối cơ bản theo chu
kỳ xảy ra trong hầu hết các cuộc suy thoái trong các quý của cuộc suy thoái.
Tuy nhiên, phát hiện ra rằng sự khác biệt quan trọng giữa các quốc gia G7 bị ẩn
đi. Đặc biệt, chính sách tài khóa nới lỏng tùy ý được dùng thường xuyên hơn trong ở
các quốc gia "Anglo-Saxon" (Canada, Vương quốc Anh, và Hoa Kỳ) hơn là các thành
viên G7 khác. Đặc biệt, sự nới lỏng chính sách tài khóa tùy ý xảy ra trong 34, 39, và
26% của các quý suy thoái ở những nước này tương ứng, so với trung bình là 12% của
các quốc gia khác. Sự khác biệt này là thuộc tính do nới lỏng thường xuyên hơn trong
cả thu và chi hiện hành.
Bảng 1: Các nhân tố kích thích tài chính đưa ra nhanh chóng và thường xuyên như
thế nào trong quá trình suy thoái
G7: Khoảng thời gian đo lường chính sách, 1980-2007
Quý của chính sách nới lỏng đầu tiên tương ứng với sự bắt đầu cuộc suy thoái

Số lần suy thoái
Chiều dài của chu kỳ suy thoái

G7
104
2.3

Canada
9
3.8

Đức
24
1.5

Pháp

14
1.5

Ý
17
2.1

Nhật
22
1.6

Anh
7
3.3

Mỹ
11
2.0

Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 6 / 22


Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

Quý của chính sách nới lỏng đầu tiên sau khi bắt đầu cuộc suy
thoái
Cân đối cơ bản điều chỉnh theo chu kỳ
2.4
Cân đối cơ bản theo chu kỳ

0.0
Doanh thu điều chỉnh theo chu kỳ
2.3
Chi tiêu thường xuyên điều chỉnh theo chu kỳ
1.8
Chi tiêu vốn
3.8
Chính sách lãi suất danh nghĩa
0.8

2.4
0.0
1.1
1.8
5.9
1.7

2.6
0.0
1.7
1.5
1.3
0.5

4.2
0.0
5.5
2.2
8.5
1.0


2.5
0.0
3.0
1.5
0.9
0.8

1.8
0.0
3.3
1.7
1.9
0.5

1.2
0.0
0.6
1.0
2.6
0.6

2.1
0.2
0.9
3.0
5.4
1.6

Tỷ lệ của chính sách nới lỏng trong suy thoái

Cân đối cơ bản điều chỉnh theo chu kỳ
Cân đối cơ bản theo chu kỳ
Doanh thu điều chỉnh theo chu kỳ
Chi tiêu thường xuyên điều chỉnh theo chu kỳ
Chi tiêu vốn
Chính sách lãi suất danh nghĩa

21
96
17
28
13
51

34
100
34
48
7
72

3
100
6
11
17
44

10
90

0
24
0
48

19
97
14
25
28
53

17
97
6
8
8
22

39
96
30
52
22
70

26
91
26
30

13
48

204
784
26

29
112
26

36
112
32

21
112
19

36
112
32

36
112
32

23
112
21


23
112
21

Các điểm ghi nhớ
Số lần các quý suy thoái
Tổng số lần các quý trong mẫu
Phần trăm thời gian dành cho suy thoái

Bảng 2: Các nhân tố kích thích tài chính đưa ra nhanh chóng và thường xuyên như
thế nào trong quá trình tăng trưởng
G7: Khoảng thời gian đo lường chính sách, 1980-2007
Quý của chính sách thắt chặt đầu tiên tương ứng với sự bắt đầu cuộc tăng trưởng

Số lần tăng trưởng
Chiều dài của chu kỳ tăng trưởng

G7
101
8.1

Canada
10
7.0

Đức
25
3.3


Pháp
15
6.0

Ý
18
4.1

Nhật
23
3.3

Anh
7
21.7

Mỹ
12
11.0

Quý của chính sách thắt chặt đầu tiên sau khi bắt đầu cuộc tăng trưởng
Cân đối cơ bản điều chỉnh theo chu kỳ
2.1
Cân đối cơ bản theo chu kỳ
0.5
Doanh thu điều chỉnh theo chu kỳ
1.9
Chi tiêu thường xuyên điều chỉnh theo chu kỳ
1.9
Chi tiêu vốn

2.9
Chính sách lãi suất danh nghĩa
2.2

0.6
0.2
2.3
0.5
4.1
3.3

1.8
0.4
1.6
1.3
1.0
0.6

3.4
1.5
3.0
1.5
5.8
4.6

2.8
0.1
1.6
2.2
1.2

1.0

3.9
0.2
2.1
4.5
2.3
1.2

1.3
0.0
1.8
0.9
1.5
0.4

0.7
0.9
0.7
2.8
4.6
4.7

Tỷ lệ của chính sách thắt chặt trong tăng trưởng
Cân đối cơ bản điều chỉnh theo chu kỳ
Cân đối cơ bản theo chu kỳ
Doanh thu điều chỉnh theo chu kỳ
Chi tiêu thường xuyên điều chỉnh theo chu kỳ
Chi tiêu vốn
Chính sách lãi suất danh nghĩa


24
68
23
14
18
27

37
73
30
33
14
36

36
67
14
13
39
24

13
58
13
3
3
24

24

67
30
14
28
28

11
75
14
3
21
17

35
67
36
27
22
27

33
65
24
6
7
33

580
784
74


83
112
74

76
112
68

91
112
81

76
112
68

76
112
68

89
112
79

89
112
79

Các điểm ghi nhớ

Số lần các quý tăng trưởng
Tổng số lần các quý trong mẫu
Phần trăm thời gian dành cho tăng trưởng

Bảng 2 cung cấp tóm tắt số liệu thống kê tương tự cho thời kỳ tăng trưởng. Bảng
này chỉ ra rằng các thời kỳ tăng trưởng xảy ra khoảng 74 % của mẫu. Trong khi các
Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 7 / 22


Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

chính sách tài khóa thể hiện tác động có chu kỳ tương tự như trong thời kỳ suy thoái,
chính sách tiền tệ phản ứng đáng chú ý ít hơn (chỉ khoảng 27% thời kỳ tăng trưởng) và
với một sự chậm trễ kéo dài (trong 2.2 quý) hơn trong thời kỳ suy thoái. Trong khi
chính sách tiền tệ cung cấp sự nới lỏng nhanh hơn và thường xuyên hơn trong thời kỳ
suy thoái so với chính sách tài khóa, do đó hiệu quả của nó tương tự như chính sách tài
khóa trong thời kỳ tăng trưởng.
IV. MÔ HÌNH VECTƠ TỰ HỒI QUY
Để định lượng được tốc độ và độ mạnh của phản ứng mang tính chu kỳ của các
chính sách tài khóa, và so sánh phản ứng này với chính sách tiền tệ, một VAR được
ước tính bằng cách sử dụng dữ liệu hàng quý của mỗi quốc gia G7. Trong VAR bao
gồm nhiều biến, và thứ tự của chúng như sau : tăng trưởng GDP thực tế trừ đi tăng
trưởng GDP tiềm năng, lạm phát (dựa trên chỉ số giảm phát GDP); thay đổi trong lãi
suất danh nghĩa; thay đổi trong bảng cân đối tài chính điều chỉnh theo chu kỳ và thay
đổi trong sự cân bằng tài chính tự động (theo chu kỳ). Để đơn giản, trong VAR của
mỗi quốc gia bao gồm 2 độ trễ của từng biến.
Để hiểu được các mô hình phía dưới, chúng ta cần nắm các định nghĩa sau:
- Chỉ số của chính sách tiền tệ: sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa.
- Chỉ số đo lường ổn định tự động: thay đổi cân đối cơ bản theo chu kỳ có thể thụ

động hoặc chủ động.
- Chỉ số đo lường chính sách tài khóa tùy ý: thay đổi trong cân đối cơ bản điều
chỉnh theo chu kỳ.

Hình 1: Độ mạnh phản ứng của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ

Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 8 / 22


Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

Nhìn hình 1, từ năm 1980-1991, thể hiện giai đoạn suy thoái. Như chúng ta biết
lãi suất thể hiện cho chính sách tiền tệ, còn cân đối cơ bản thể hiện cho ổn định tự
động, khi sử dụng chính sách tiền tệ phản chu kỳ thì hiệu quả tác động của nó rất
nhanh, lãi suất giảm nhanh chóng trong thời kỳ suy thoái. Trong khi chính sách tài
khóa lại phản ứng rất chậm, sử dụng chính sách tài khóa thuận chu kỳ, tăng thu và
giảm chi trong thời kỳ suy thoái vì thế chính sách này không phát huy tác dụng và
phản ứng chậm hơn rất nhiều so với chính sách tiền tệ. Ngược lại, từ năm 1992-2007,
thể hiện giai đoạn phục hồi thì chính sách tài khóa lại phát huy tác dụng nhanh hơn so
với chính sách tiền tệ.
Hình 2: Phán ứng khác nhau trong các công cụ tài khóa giữa các thành viên G7
Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 9 / 22


Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

Từ năm 1980-1991, là giai đoạn suy thoái thì công cụ chính sách tiền tệ và ổn
định tự động thì nới lỏng một cách nhất quán, trong khi ở các nước quốc gia G7 thì có

sự khác biệt, ở các quốc gia Anglo3 thì sử dụng chính sách phản chu kỳ trong thời kỳ
suy thoái, giảm thu và tăng chi. Trong khi các quốc gia còn lại thì lại sử dụng chính
sách thuận chu kỳ. Trong giai đoạn phục hồi thì hầu hết sử dụng chính sách phản chu
kỳ.

Hình 4: Tính bất cân xứng của chính sách tài khóa và tiền tệ

Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 10 / 22


Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

Nhìn hình 4.1 ta thấy sự nới lỏng của chính sách tiền tệ trong thời kỳ suy thoái
thì mạnh hơn rất nhiều so với sự thắt chặt của chính sách tiền tệ trong thời kỳ phục
hồi. Điều này cho thấy sự không tương xứng trong chính sách giữa hai thời kỳ. Tương
tự đối với chính sách tài khóa tùy ý thì lại tùy thuộc vào chính sách của từng nước.
Trong khi các nước EU3 thì thuận chu kỳ một cách đối xứng thì các nước Anglo3 thì
ngược lại giảm thu nhiều trong thời kỳ suy thoái nhưng tăng thu lại rất ít trong thời kỳ
phục hồi, điều này tạo ra một sự đối xứng mạnh mẽ giữa hai thời kỳ. Trái ngược với
những phản ứng bất đối xứng này, ổn định tự động phản ứng theo hướng đối xứng, với
sự nới lỏng được quan sát trong cuộc suy thoái thì hầu hết bù đắp một cách chính xác
bằng cách thắt chặt trong thời kỳ phục hồi.
Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 11 / 22


Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

Có 3 vấn đề cần phải quan tâm, chính sách tài khóa và tiền tệ thì nới lỏng một

cách nhất quán trong suy thoái nhưng không thắt chặt một cách hiệu quả trong thời kỳ
phục hồi dẫn đến một số bất ổn về sau. Thứ hai là ước lượng tăng trưởng sơ bộ thì
trong bài nghiên cứu này có hai loại sai lầm: sai lầm loại 1:tăng trưởng dương thì dự
báo là tăng trưởng âm, còn sai lầm loại 2: tăng trưởng âm thì dự báo lại tăng trưởng
dương dẫn đến trong giai đoạn vừa bước qua ngưỡng phục hồi bắt đầu suy thoái rồi
nhưng chính phủ các nước lại cứ nghĩ là còn giai đoạn phục hồi do đó tiếp tục đưa ra
chính sách phản chu kỳ tăng thu giảm chi nhưng thực tế nền kinh tế đang trong giai
đoạn suy thoái làm gia tăng tính bất ổn định của nền kinh tế họ sử dụng chính sách
phản chu kỳ nhưng vô tình khi áp dụng trong thực tiễn lại trở thành chính sách thuận
chu kỳ, mặt khác những chính sách tài khóa đưa ra thường có một độ trễ nhất định, khi
mà chính phủ và các nhà hoạch định chính sách thì đã qua một thời gian rồi sau đó lại
trình lên quốc hội để thông qua tiếp.

Hình 6: Có phải chính sách đã đáp lại một cách sai lầm các cú sốc tăng trưởng được
nhận biết

Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 12 / 22


Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

Nhìn hình 6, bài viết đưa ra quan điểm nên sử dụng công cụ ổn định tự động để đáp lại
những sai lầm, khi mà có những sai lầm thì công cụ ổn định tự động không phản ứng
gì cả, chính sách tiền tệ vẫn phản ứng, chính sách tài khóa các nước vẫn phản ứng như
vậy tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn định cho nền kinh tế.
Một quan tâm thường phát sinh liên quan đến các hoạt động tùy ý phản chu kỳ đó
là các nhà hoạch định chính sách có thể phản ứng lại theo kiểu bất đối xứng, nới lỏng
trong suy thoái và không thắt chặt một cách phù hợp trong tăng trưởng. Để điều tra
xem liệu chính sách tài tiền tệ và chính sách tài khóa trong các nước G7 có hiển thị

như một xu hướng bất đối xứng, mô hình VAR là phù hợp để cho phép một phản ứng
bất đối xứng đến tăng trưởng và suy thoái. Đặc biệt, với mỗi nước, mô hình VAR hiện
nay gồm các biến sau đây: tỷ lệ tăng trưởng trừ đi tỷ lệ tăng trưởng tiềm năng khi nền
Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 13 / 22


Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

kinh tế trong tình trạng suy thoái và ngược lại bằng 0, và các biến được bao gồm trước
đó tức là lạm phát, thay đổi trong lãi suất danh nghĩa, thay đổi trong công cụ tài khóa.
Chính sách tài khóa tùy ý thể hiện xu hướng cung cấp một nhân tố kích thích
kinh tế đáng kể trong suy thoái mà không phải là bù đắp bằng cách thắt chặt trong thời
kỳ tăng trưởng. Khi các nước Châu Âu thì thuận chu kỳ một cách đối xứng, các nước
Anglo-Saxon thể hiện động thái bất đối xứng một cách mạnh mẽ với sự nới lỏng lớn
trong cả chi tiêu và thu nhập trong thời kỳ suy thoái. Trái ngược với những phản ứng
bất đối xứng này, ổn định tự động phản ứng theo hướng đối xứng, với sự nới lỏng
được quan sát trong cuộc suy thoái thì hầu hết bù đắp một cách chính xác bằng cách
thắt chặt trong thời kỳ tăng trưởng
Một sự quan tâm bổ sung trong việc phân tích hoạt động tài khóa và tiền tệ phản
chu kỳ đó là các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với bản chất không ổn định
liên quan đến vị trí chu kỳ, và có nguy cơ gây bất ổn cho nền kinh tế qua việc phản
ứng với những nhận định sai lầm về suy thoái. Những phát hiện này chỉ ra rằng cần
quan tâm nhiều đến các lỗi chính sách là có căn cứ. Trong khi các nước Anglo-Saxon
cung cấp các kích thích kinh tế kịp thời và đáng kể trong suốt thời kỳ suy thoái. Những
hành động tùy ý này thường dẫn đến những nhận định sai lầm về suy thoái, nêu bật
những nguy hiểm của khuynh hướng tùy ý trong thực tiễn. Những phát hiện này là
những mối quan tâm đặc biệt, bởi vì những quyết định của chính sách tài khóa thì khó
khăn hơn việc quyết định chính sách tiền tệ, và những chính sách tài khóa sai lầm có
thể chứa đựng hậu quả tiềm ẩn về lâu dài cho các những khoản nợ.

V.

KẾT LUẬN
Bài viết này đã khám phá sự hiểu biết thông thường cho rằng chính sách tiền tệ

trong G7 là một công cụ phản chu kỳ đáng tin cậy trong khi chính sách tài khóa tùy ý
đã thất bại trong việc cung cấp các kích thích tài khóa trong thời kỳ suy thoái. Các
phân tích đã khẳng định rằng chính sách tiền tệ đã kịp thời nhất quán và phản chu kỳ
mạnh mẽ trong suốt thời kỳ suy thoái thông qua một loạt các đo lường. Việc đánh giá
các chính sách tài khóa, tuy nhiên, nhiều sắc thái hơn so với các nhận thức thông
thường của nó. Các động thái tài khóa tùy ý phần lớn bị trì hoãn và thuận chu kỳ ở các
nước lục địa châu Âu và Nhật Bản, nhưng nhìn chung phản chu kỳ và đúng lúc hơn ở
các nước Anglo-Saxon. Trong khi các phát hiện này chỉ ra rằng các động thái tài khóa
đúng lúc là hoàn toàn có thể, bài báo này cũng nhấn mạnh hai vấn đề trong thực hiện.
Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 14 / 22


Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

Các hoạt động chính sách không đối xứng qua chu kỳ và đáp ứng với các lỗi đo lường
của chu kỳ.
VI.

THỰC TRẠNG VIỆT NAM: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ HAY CHÍNH
SÁCH TÀI KHÓA QUYẾT ĐỊNH LẠM PHÁT
1.

Khái lược lý thuyết tài khóa tác động đến mức giá


Lý thuyết tài khóa tác động đến mức giá tiếp cận ở góc độ dựa trên phân tích mối
quan hệ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Lý thuyết này chia thành 2 mô
hình: (i) lý thuyết tài khóa tác động đến mức giá trong trường hợp ngân hàng trung
ương không kiểm soát được mức cung tiền (Weak – form FT: WFFT) và (ii) lý thuyết
tài khóa tác động đến mức giá trong trường hợp lạm phát không phải là một hiện
tượng thuộc về tiền tệ (Strong – form FT: SFFT). Với mô hình WFFT, lạm phát thực
sự là một hiện tượng thuộc về tiền tệ, nhưng sự tăng trưởng tiền tệ bị chi phối/quyết
định bởi chính sách tài khóa. Còn theo mô hình SFFT, nếu tăng trưởng tiền tệ không
thay đổi, thì chính sách tài khóa tác động độc lập với mức giá và lạm phát. Nhìn
chung, cả hai mô hình này hàm ý ngân hàng trung ương không thể cam kết với mục
tiêu lạm phát, hoặc bởi vì ngân hàng trung ương không thể kiểm soát cung tiền (Weak
- form: hình thức yếu) hoặc bởi vì lạm phát không nhất thiết là một hiện tượng thuộc
về tiền tệ (Strong - form: hình thức mạnh).
Về cơ bản, mô hình FT thừa nhận mối tương quan giữa chính sách tài khóa và
chính sách tiền tệ là là hiển nhiên. Chính phủ có các nguồn thu để chi tiêu: thuế, phí và
lệ phí. Trong trường hợp ngân sách bị thâm hụt mà phải viện đến ngân hàng trung
ương để tài trợ, thì ngân hàng trung ương “tạo tiền” thông qua cơ chế cho chính phủ
vay bằng việc cầm cố trái phiếu chính phủ. Tạo tiền làm gia tăng nguồn thu cho chính
phủ, nhưng lại gây ra tăng trưởng tiền tệ, có thể làm tăng giá cả và gây ra lạm phát.
Lạm phát tăng thì giá trị thực nợ công sẽ giảm. Cơ chế này cho phép chính sách tài
khóa giảm thuế hoặc gia tăng chi tiêu trong tương lai.
Với lập luận trên ta thấy, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong dài hạn
cùng bị quyết định bởi giới hạn đường ngân sách của tài khóa và cách thức tài trợ thâm
hụt ngân sách. FT gắn liền với giả thiết người hoạch định chính sách nào thay đổi
trước, ngân hàng trung ương hay cơ quan tài khóa. Với mô hình WFFT thì cơ quan tài
khóa là người quyết định trước. Nói khác đi, chính sách tiền tệ bị quyết định bởi chính
sách tài khóa. Vì thế, ngân hàng trung ương chỉ phản ứng theo sau những thay đổi của
Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 15 / 22



Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

chính sách tài khóa bằng việc thay đổi tăng trưởng tiền tệ hoặc trong hiện tại hoặc
trong tương lai. Một sự gia tăng thâm hụt tài khóa chắc chắn dẫn đến kết quả hoặc là
gia tăng tiền tệ ngay lập tức hoặc là gia tăng tiền tệ trong tương lai.
2.

Nhận định tính độc lập của chính sách tiền tệ

Ở Việt Nam, liệu chính sách tài khóa có quyết định chính sách tiền tệ hay không?
Ngân hàng Nhà nước có đặt quyết định của mình dựa vào hành động của cơ quan tài
khóa hay không? Xét về lịch sử, có thể thấy những bằng chứng rất rõ ràng về sự quyết
định của cơ quan tài khóa. Nạn siêu lạm phát xảy ra trong giai đoạn 1987 -1989 gắn
liền với bối cảnh Việt Nam thực hiện cải cách giá - lương - tiền và cấu trúc lại kinh tế;
trong khi hệ thống ngân hàng vẫn duy trì một cấp và chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Nhà nước vận hành chủ yếu phát hành tiền phục vụ cho chính sách bao cấp của tài
khóa.
Hình 1: Bội chi tài khóa và tiền phát hành giai đoạn 1985-1990 (Đơn vị tỷ đồng)

Nguồn: Bộ Tài chính.

Bắt đầu 1990, cải cách hệ thống ngân hàng được đặt ra rất cấp trong các chương
trình nghị sự của Chính phủ. Mục tiêu của cải cách là xây dựng một hệ thống ngân
hàng vững mạnh, khôi phục niềm tin của chính sách tiền tệ, qua đó kiểm soát lạm
pháp. Việt Nam đã có nhiều nỗ lực nâng cao tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước.
Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh ngân hàng thương mại, công ty ngân
hàng và hợp tác xã tín dụng (20/5/1990); tiếp đến, Luật Ngân hàng Nhà nước năm
1998 và bổ sung sửa đổi năm 2003 đã không ngừng tăng cường sức mạnh thể chế và
thay đổi cách thức điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Thế nhưng,


Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 16 / 22


Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

theo đánh giá của tôi, tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước còn quá thấp. Có thể đánh
giá tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam qua các tiêu chí sau:
-

Về xác lập mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước:

Luật Ngân hàng Nhà nước xác định trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước: ổn
định giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các
tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa
(điều 1, khoản 3 của Luật Ngân hàng Nhà nước). Phải nói rằng, các mục tiêu hoạt
động của Ngân hàng Nhà nước là quá rộng, đa mục tiêu, không xác định thứ tự ưu
tiên. Đa mục tiêu có thể tạo ra mâu thuẫn tiềm năng về chính sách. Hơn nữa, sẽ làm
cho Ngân hàng Nhà nước rất “lấn cấn” trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
-

Về tính độc lập chính trị:

Từ Pháp lệnh cho đến Luật, chúng ta thấy tính độc lập chính trị của Ngân hàng
Nhà nước không cao. Ngân hàng Nhà nước là một phần của bộ phận hành chính của
chính phủ, chịu tránh nhiệm đối với chính phủ. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chỉ là
một ủy viên thường trực của Hội đồng tiền tệ quốc gia. Hội đồng thống đốc Ngân hàng
Nhà nước được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ của chính phủ. Theo đó, giám đốc các chi
nhánh Ngân hàng Nhà nước được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ của Hội đồng Thống đốc và

chịu sự lãnh đạo song trùng giữa trung ương và địa phương.
Với tính độc lập chính trị thấp như vậy, Ngân hàng Nhà nước không có chức
năng hoạch định mà chỉ là cơ quan chấp hành trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
Chính phủ chịu trách nhiệm chính trong việc xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc
gia, mức lạm phát dự kiến hàng năm trình Quốc hội quyết định; tổ chức thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia; quyết định lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông
hàng năm, mục đích sử dụng số tiền này (điều 3, khoản 3 của Luật Ngân hàng Nhà
nước).
-

Về tính độc lập trong điều hành chính sách tiền tệ:
Do không có độc lập về chính trị nên tính độc lập trong điều hành chính sách

tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam rất hạn chế. Hàng năm, Ngân hàng Nhà
nước vẫn phải cung ứng một lượng tiền không nhỏ cho ngân sách trung ương để xử lý
thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước. Khoản tạm ứng này phải được hoàn trả
trong năm ngân sách (điều 32 của Luật Ngân hàng Nhà nước). Tuy nhiên thực tế các
khoản tạm ứng này thường không có đảm bảo và không được hoàn trả trong năm theo
Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 17 / 22


Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

đúng như luật định. Thêm vào đó, các khoản tái cấp vốn cho các ngân hàng thương
mại quốc doanh được sử dụng cho mục đích ngân sách có nguy cơ dẫn đến những tác
động bất lợi cho điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Tính độc lập
chính trị của Ngân hàng Nhà nước còn hạn chế đã tạo sự phụ thuộc của chính sách tiền
tệ vào chính sách tài khóa. Chính sách tiền tệ vì phải theo đuổi đa mục tiêu nên có
nhiều khả năng xung đột với nhau trong trung và dài hạn, đặc biệt là ổn định giá trị

đồng tiền và tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, chính sách tiền tệ còn phải chịu sự tác động
bởi áp lực và phải neo vào các mục tiêu ngắn hạn của Chính phủ.
Vả lại, do là một cơ quan quan trực thuộc chính phủ, nên Ngân hàng Nhà nước bị
ràng buộc quá nặng nề vào chức năng quản lý nhà nước: can thiệp quá sâu vào nhiều
nghiệp vụ của ngân hàng thương mại, quá chi tiết đến công tác quản lý hành chính:
cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng; cấp, thu hồi
giấy phép hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; quyết định giải thể, chấp thuận
chia, tách, hợp nhất, sáp nhập các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật (điều 5,
mục 1, khoản d của Luật Ngân hàng Nhà nước)…trong khi không chú trọng đúng
mức vào thực hiện chức năng của bản thân ngân hàng trung ương bằng cơ chế thị
trường.
-

Về tính minh bạch và trách nhiệm:

Phải thừa nhận rằng, hệ thống thông tin báo cáo tài chính Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam còn quá kém, thiếu minh bạch. Cho đến hiện tại, các báo cáo tình hình hoạt
động tài chính, bảng cân đối tài sản của Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn không có
công bố trên các phương tiện thông tin. Thiếu minh bạch: (i) khó mà giám sát và đánh
giá trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước trong điều hành chính sách tiền tệ; (ii) gây
khó khăn trong việc dự báo về chính sách tiền tệ, từ đó gây rủi ro cho các nhà đầu tư
trên thị trường tài chính.
3.

Sự thống trị của chính sách tài khóa và tác động của nó đến tăng
trưởng tiền tệ

Nhìn lại giai đoạn từ năm 1990 đến nay, ta thấy chính sách tài khóa có tác động
mạnh đến tăng trưởng tiền tệ và lạm phát hơn là chính sách tiền tệ. Trước hết, điều này
được thể hiện mức độ bội chi ngân sách tăng dần theo thời gian. Giai đoạn 1991 –

1995, tỷ lệ bội chi ngân sách so với GDP bình quân là 2,85%; giai đoạn 1996 – 2000,
tỷ lệ bội chi bình quân 3,87 % GDP và giai đoạn 2000- 2007 tỷ lệ bội chi bình quân
Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 18 / 22


Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

thực hiện ở mức 4,9% – 5% GDP (hình 4). Bội chi gia tăng dẫn đến lượng trái phiếu
phát hành để cân đối rất lớn. Luật Ngân sách Nhà nước và luật Ngân hàng Nhà nước
không cho phép in tiền trực tiếp để tài trợ bội chi ngân sách, thế nhưng với cơ chế tiền
tệ hiện nay Ngân hàng Nhà nước gián tiếp phát hành một lượng tiền không nhỏ để
“tiền tệ hóa” trái phiếu Chính phủ. Từ năm 2002 trở lại đây, pháp luật ngân hàng cho
phép trái phiếu Chính phủ được giao dịch trên thị trường mở mặc dù nó là trái phiếu
dài hạn. Qua nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng Nhà nước đã tiền tệ hóa trái phiếu
Chính phủ một khi thị trường này có nhu cầu thanh khoản. Vả lại, sự cân đối bội chi
còn phải viện đến một phần vốn vay nước ngoài dưới hình thức ODA. Quy mô vốn
ODA tham gia vào bù đắp bội chi chiếm 1/3 tổng số thiếu hụt, tương đương 1,5% –
1,7% so với GDP hàng năm. Nếu cộng thêm phần vay về cho vay lại thì lượng tiền từ
bên ngoài chảy vào nền kinh tế nước ta qua kênh ngân sách lên đến 3% GDP. Lượng
ngoại tệ đổ vào trong nước đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải phát hành nhiều tiền
đồng hơn để nội tệ hóa vì đồng nội tệ mất giá so với ngoại tệ… Bên cạnh việc phát
hành tiền để tiền tệ hóa trái phiếu và nội tệ hóa ngoại tệ, hàng năm Ngân hàng Nhà
nước còn phải tạm ứng một lượng tiền không nhỏ để xử lý thiếu hụt tạm thời ngân quỹ
kho bạc. Thực tế, các khoản tạm ứng này không được hoàn trả trong năm theo đúng
như luật định. Thêm nữa, trái phiếu đặc biệt mà Chính phủ phát hành để tăng vốn cho
các ngân hàng thương mại Nhà nước cũng tham gia vào kênh chiết khấu khi các ngân
hàng này cần vốn thanh khoản...
Kết quả cơ chế tiền tệ trên dẫn đến hậu quả, trong 3 năm từ 2005 đến 2007 lượng
tiền trong lưu thông tăng tới 135%, trong khi tăng trưởng GDP của Việt Nam chỉ ở

mức 27%. Điều này có nghĩa rằng nhà nước đã phát hành thêm một lượng tiền lớn
hơn gấp nhiều lần trị giá của cải mà xã hội làm ra được trong 3 năm trên. Trong khuôn
khổ mô hình WFFT cho thấy chính sách tài khóa quyết định đến tăng trưởng tiền tệ và
gây ra lạm phát.

Hình 2: Bội chi tài khóa giai đoạn 1991 – 2007 (Đơn vị:%GDP)
Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 19 / 22


Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

Nguồn: Bộ Tài chính.

Hình 3: Chi tiêu công giai đoạn 2001 – 2007 (Đơn vị:%GDP)

Nguồn: Bộ Tài chính.

Thứ hai, tỷ lệ bội chi bằng khoảng 5% GDP hàng năm, cộng với đó là nguồn vốn
qua phát hành trái phiếu đầu tư để thực hiện các chương trình mục tiêu, chương trình
đầu tư không được cân đối trong ngân sách hàng năm làm cho chi tiêu công gia tăng
nhanh. Từ sau khủng hoảng tài chính – tiền tệ năm 1997, chính sách kích cầu của
Chính phủ đã làm cho quy mô đầu tư công luôn chiếm hơn ½ tổng chi đầu tư xã hội
(xem hình 5).

Hình 4:Cơ cấu chi đầu tư giai đoạn 1996 -2007 (%GDP)
Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 20 / 22



Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Trong khuôn khổ của mô hình SFFT, có sự hoài nghi về khả năng tác động của
chính sách tài khóa đến sản lượng thông qua tổng cầu. Giai đoạn 1997 -2007, hệ số
ICOR của Việt Nam tăng rất cao (>5), cho thấy khả năng hấp thụ vốn đầu tư cho tăng
trưởng rất thấp. Nghĩa là, tổng cầu đầu tư càng cao do kích thích tài khóa, cuối cùng
chỉ cho thấy giá cả càng cao và chứ không làm gia tăng sản lượng. Bởi vì mức sản
lượng trong dài hạn được quyết định không chỉ yếu tố cầu mà còn bởi các yếu tố
cung (vốn, lao động và kỹ thuật). Những yếu tố sản xuất này sẽ quyết định “mức tự
nhiên” của sản lượng suốt trong chu kỳ kinh tế và chính sách kinh tế vĩ mô chỉ có thể
gây ra những biến động nhất thời. Nỗ lực để giữ sản lượng ở mức tự nhiên bằng chính
sách kích cầu, trong dài hạn sẽ dẫn đến lạm phát tăng cao. Từ đó cho thấy, ảnh hưởng
dài hạn của chính sách tài khóa có khuynh hướng đối nghịch với ảnh hưởng ngắn hạn.
Chính sách tài khóa mở rộng trong ngắn hạn tuy có làm cho sản lượng tăng lên, song
trong dài hạn lại làm cho mức sản lượng tự nhiên giảm thấp. Bởi lẽ, lạm phát tăng sẽ
làm cho giá cả các nguồn lực tăng cao, kết quả là đường cung trong dài hạn sẽ giảm
xuống. Hình 6 minh chứng vấn đề này. Giả sử thị trường cân bằng trong dài hạn ở
điểm giữa AD0 và đường cung dài hạn LRAS ( Long – Run Aggregate Supply), ở đó
chỉ có tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Do nền kinh tế suy thoái nên sản lượng giảm từ Y0
xuống Y1 và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Khi đó, chính sách tài khóa mở rộng sẽ có tác
động kéo đường cầu từ AD1 đến AD0. Sự phục hồi kinh tế càng làm cho các nhà chính
trị chủ quan về chính sách kích cầu của tài khóa. Chính sách tài khóa mở rộng kéo dài
sẽ làm cho đường cầu dịch chuyển quá mức đến AD2.
Nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng nóng, giá cả trong nền kinh tế gia tăng từ P1
đến P2. Kéo theo giá cả các nguồn lực sản xuất tăng cao, làm cho đường cung ngắn
Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 21 / 22



Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn suy thoái: Minh chứng từ các nước G7

hạn SRAS1 (Short – Run Aggregate Supply) dịch chuyển thụt lùi đến SRAS2. Khi đó
mức giá cân bằng dài hạn của nền kinh tế tăng đến mức P3 và sản lượng cân bằng dài
hạn ở mức thấp hơn.
Hình 5: Chính sách tài khóa làm tăng giá trong dài hạn

4.

Kết luận

(i) Theo mô hình FT, chính sách tài khóa có tác động đến tăng trưởng tiền tệ và
lạm phát. Hay nói khác đi, ở Việt Nam chính sách tài khóa chi phối chính sách tiền tệ.
Điều này xảy ra bởi vì Ngân hàng Nhà nước hiện không có tính độc lập cao và mục
tiêu rõ ràng. Chính sách tài khóa gây ra lạm phát, thì Ngân hàng Nhà nước rất khó đạt
được mục tiêu kiểm soát lạm phát.
(ii) Sự gia tăng quy mô chi tiêu công bằng cách mở rộng bội chi và phát hành trái
phiếu đầu tư để kích thích tăng trưởng khó có thể đạt được kết quả như mong đợi, mà
trái lại gây ra tăng trưởng tiền tệ và lạm phát, bởi lẽ Chính phủ không kiểm soát được
hiệu quả của nguồn vốn đầu tư công. Trong ngắn hạn, quy mô đầu tư công tăng có thể
góp phần làm gia tăng sản lượng, nhưng trong dài hạn lại gây ra lạm phát.

Nhóm 1 – Lớp Ngân hàng Đêm 2 – K
Trang 22 / 22



×