Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ NGOÀI TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ KINH NGHIỆM VỀ ĐA DẠNG HOÁ DỊCHVỤ NGOÀI TÍN DỤNG CỦA CÁC NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.04 KB, 24 trang )

TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ NGOÀI TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VÀ KINH NGHIỆM VỀ ĐA DẠNG HOÁ DỊCHVỤ NGOÀI
TÍN DỤNG CỦA CÁC NƯỚC
1.1 Mối quan hệ giữa phát triển quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam với đa
dạng hoá việc cung ứng các dịch vụ ngân hàng
1.1.1 Vai trò của dịch vụ ngân hàng trong nền kinh tế
Sau một thời gian dài phát triển, DVNH ngày càng khẳng định được vai trò
quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Thứ nhất, DVNH có vai trò thúc đẩy sự luân chuyển vốn trong nền kinh tế.
Thông qua chức năng thanh toán hộ cho khách hàng đã đẩy mạnh tiêu dùng cá
nhân, thúc đẩy luân chuyển hàng hoá, từ đó đẩy mạnh quá trình luân chuyển vốn.
Đồng thời góp phần tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo nên sự ổn
định trong đời sống kinh tế xã hội.
Thứ hai, thông qua hoạt động huy động vốn, ngân hàng đã tập trung những
khoản tiền nhãn rỗi trong dân cư, sau đó tiến hành cho các doanh nghiệp vay để
mở rộng sản xuất kinh doanh, hay tự ngân hàng thực hiện đầu tư. Với dịch vụ huy
động vốn và sử dụng vốn thì DVNH đã góp phần thúc sản xuất phát triển, tăng
trưởng kinh tế.
Thứ ba, thông qua dịch vụ cung ứng vốn vào trong nền kinh tế thì DVNH
còn là công cụ để NHNN thực hiện chính sách tiền tệ của mình nhằm bình ổn thị
trường tiền tệ nói riêng và thị trường kinh tế nói chung.
1.1.2 Mối quan hệ giữa phát triển quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam với đa
dạng hoá việc cung ứng các dịch vụ ngân hàng
Sau hơn 20 năm mở cửa thị trường, Việt Nam đã thu được những thành tựu
to lớn: Đời sống nhân dân được nâng cao, nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng và được
đánh giá là một nước có tốc độ tăng trưởng cao vào bậc nhất thế giới, chỉ sau
Trung Quốc và Ấn Độ. Đồng thời quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam đang rất
rộng mở, Việt Nam có quan hệ với rất nhiều Quốc gia và tổ chức trên thế giới. Tuy
nhiên, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập như hiện nay thì nhu cầu phát triển
quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu, rộng hơn. Để đáp ứng được
điều đó thì nền kinh tế của Việt Nam cần mở rộng hơn nữa, tạo điều kiện cho các


ngành nghề, dịch vụ phát triển, trong đó phải kể đến DVNH. Vậy giữa phát triển
quan hệ kinh tế quốc tế và đa dạng hoá việc cung ứng các DVNH có mối quan hệ
như thế nào? Đây chính là mối quan hệ tương hỗ, giúp đỡ cùng nhau phát triến.
* Quan hệ kinh tế quốc tế phát triển sẽ thúc đẩy việc cung ứng các DVNH
phát triển theo
Quan hệ kinh tế quốc tế là tổng thể các quan hệ về vật chất và tài chính, các
quan hệ không những diễn ra trong lĩnh vực kinh tế mà trong cả lĩnh vực khoa
học-công nghệ có liên quan tất cả các giai đoạn của quá trình tái sản xuất, chúng
diễn ra giữa các quốc gia với nhau, giữa các quốc gia với các tổ chức kinh tế quốc
tế.
Trước khi mở cửa nền kinh tế, quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam chỉ
xoay quanh các nước Xã hội chủ nghĩa cũ: Liên Xô, Đông Âu. Và nội dung của
các quan hệ này chỉ là quan hệ một chiều: Việt Nam nhận viện trợ từ các nước Xã
hội chủ nghĩa cũ.
Sau khi mở cửa nền kinh tế, quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam được mở
rộng rất nhiều và đa dạng hơn. Bước tiến đầu tiên của Việt Nam trong tiến trình
mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế là chính thức gia nhập ASEAN (1995), đồng thời
gia nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Đặc biệt là sau khi Việt Nam
kí hiệp định thương mại Việt-Mỹ (2000) và gia nhập tổ chức thương mại thế giới
WTO (2007).
Các hoạt động chủ yếu trong quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam
- Thương mại quốc tế
Đây là hoạt động phát triển nhanh nhất. Hiện nay Việt Nam có quan hệ
buôn bán với hơn 200 Quốc gia trên thế giới, trong đó Việt Nam có vị thế xuất
siêu đối với 159 nước và nhập siêu với 47 nước. Một khi mối quan hệ buôn bán
này càng phát triển thì các nhu cầu kèm theo đó cũng tăng lên.
+ Nhu cầu về tiền tệ
Các Quốc gia khác nhau có các đồng tiền khác nhau. Để buôn bán được với
nhau thì họ phải có chung một đồng tiền. Điều này đã thúc đẩy dịch vụ mua bán
ngoại tệ tại các ngân hàng phát triển hơn. Các ngoại tệ được mua bán không chỉ là:

USD, GBP, EUR mà còn nhiều loại tiền khác như: FRF, JPY . . .
+ Nhu cầu về thanh toán
Thông thường để thực hiện thanh toán xuất- nhập khẩu, các doanh nghiệp
thường đến NH để tiến hành giao dịch. Để đáp ứng được nhu cầu của doanh
nghiệp thì các ngân hàng sẽ cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế, đồng thời kèm
theo đó là các dịch vụ: Tư vấn hợp đồng, bảo hiểm cho hợp đồng . . .
+ Nhu cầu vay vốn
Trong hoạt động nhập khẩu hoặc sản xuất hàng xuất khẩu các doanh nghiệp
thường gặp phải một vấn đề khó khăn là thiếu vốn. Để các hoạt động này không bị
gián đoạn, các doanh nghiệp thường đi vay vốn. Họ có thể vay ở các tổ chức tín
dụng, các công ty tài chính, nhưng ngân hàng là điểm đến mà nhiều doanh nghiệp
lựa chọn. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có thể vay vốn được bởi
có các điều kiện kèm theo khá khắt khe, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Để có thể phục vụ tốt cho tất cả các khách hàng đến vay, ngân hàng đã tiến
hành cung cấp nhiều dịch vụ tín dụng khác nhau đối với mỗi đối tượng khác nhau.
- Đầu tư quốc tế
Hoạt động đầu tư quốc tế cũng không kém phần sôi động, đặc biệt là đầu tư
trực tiếp nuớc ngoài. Trong những năm qua Việt Nam nhận ngày càng đuợc nhiều
vốn FDI. Năm 2006, số vốn FDI mà Việt Nam nhận đuợc là 10,2 tỉ USD. Sang
năm 2007, sau một năm kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO thì vốn FDI mà VIệt
Nam nhận đuợc là 20,3 tỉ USD. Các Quốc gia đầu tư nhiều vào Việt Nam là: Nhật
Bản, Đức, Hàn Quốc . . .Tuy nhiên, trong quá trình đầu tư, các doanh nghiệp nước
ngoài cũng gặp một số khó khăn nhất định như: Không thông thạo luật pháp Việt
Nam, đặc biệt là khó nắm bắt được tâm lý tiêu dùng của người Việt . . . Do đó, để
tạo thuận lợi cho quá trình đầu tư, các doanh nghiệp sẽ tìm kiếm sự tư vấn. Lúc
này các ngân hàng sẽ đưa ra các dịch vụ tư vấn đầu tư như: Lĩnh vực đầu tư, địa
điểm đầu tư . . . và đưa thêm vào các dịch vụ dành riêng cho các nhà đầu tư nước
ngoài.
- Chuyển giao công nghệ.
Hiện nay, Việt Nam có quan hệ hợp tác với các nước phát triển như: Đức,

Mỹ, Nhật Bản . . . Đây là những nước có công nghệ nguồn nên khi thực hiện
chuyển giao công nghệ với các nước này Việt Nam sẽ có được những công nghệ
hiện đại như: Công nghệ tự động hoá, các công nghệ về máy tính . . . Các công
nghệ này sẽ là nền tảng để phát triển các DVNH điện tử như: E- banking,
telephone banking . . .
Như vậy, sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế đã kéo theo sự phát
triển của DVNH, tạo điều kiện cho nhiều dịch vụ hiện đại ra đời.
* Sự đa dạng hoá trong việc cung ứng các DVNH sẽ làm cho quan hệ kinh
tế quốc tế diễn ra thuận lợi hơn
Trước khi đổi mới, DVNH còn rất hạn chế. Dịch vụ thanh toán quốc tế thì
hầu như không có, nếu có thì chỉ có ngân hàng ngoại thương được phép cung cấp
và cũng chỉ đặt quan hệ với một vài ngân hàng ở nước ngoài.
Sau khi đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước,
các DVNH phát triển ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Sự ra đời của các dịch
vụ đã tạo nhiều thuận lợi cho khách hàng. Chẳng hạn, dịch vụ chuyển tiền quốc tế
Westerm Union đã làm cho việc chuyển tiền từ Việt Nam đi các nước khác và
ngược lại trở nên dễ dàng hơn, tạo điều kiện cho dòng vốn luân chuyển nhanh hơn.
Hay dịch vụ thanh toán quốc tế với các phương thức: L/C, nhờ thu, mở tài khoản .
. . đã giúp đỡ các doanh nghiệp xuất-nhập khẩu thực hiện hợp đồng xuất-nhập
khẩu nhanh hơn. Và sự ra đời của các dịch vụ tư vấn, bảo lãnh . . . cũng đã giúp đỡ
cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài trong hoạt động
thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế.
Tóm lại, giữa phát triển quan hệ kinh tế quốc tế với đa dạng hoá việc cung
ứng các DVNH luôn tồn tại mối quan hệ tương hỗ, giúp đỡ nhau để cùng phát
triển. Trong thời gian tới, khi quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng và
các DVNH ngày càng gia tăng thì mối qua hệ này ngày càng khăng khít hơn. Do
đó, các Quốc gia nói chung cũng như Việt Nam nói riêng nên tạo cơ hội để mối
quan hệ này để phát triển hơn nữa, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
1.2 Tổng quan về dịch vụ của ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm ngân hàng thương mại

Ngân hàng ra đời đánh dấu một bước phát triển phát triển của loài người. Từ
buổi đầu sơ khai ngân hàng cũng chỉ cũng là nơi để người cần vốn đến vay và
nhận tiền gửi từ những người khác. Những người đến vay hay gửi tiền thường các
cá nhân, gia đình, doanh nghiệp và tổ chức. Trước đây, khi gửi tiền vào thì khách
hàng phải trả lệ phí cho ngân hàng bằng một số phần trăm nào đó. Nhưng hiện nay
chỉ khi khách hàng đến vay tiền mới phải trả một khoản phí gọi là lãi suất cho vay,
còn khi gửi tiền khách hàng lại nhận được nhận từ ngân hàng một khoản tiền gọi
lãi suất gửi tiền. Như vây, bản chất ngân hàng từ khi ra đời đến nay vẫn không
thay đổi, có chăng thì chuyển từ dạng này sang dạng khác. Khi các ngân hàng ra
đời thì cần có một ngân hàng đầu não quản lý. Do đó, ngân hàng được chia thành
hai dạng: NHNN và NHTM. Tuy nhiên, do thời gian có hạn và đề tài không cho
phép nên bài viết này chỉ tập trung vào hoạt động của NHTM.
Tại mỗi quốc gia có một quan niệm riêng về NHTM. Dù không thống nhất
với nhau, tuy nhiên về bản chất NHTM cũng là một doanh nghiệp, nhưng là doanh
nghiệp đặc biệt vì nó kinh doanh một một loại hàng hoá đặc biệt, đó là tiền.
Tại Mỹ, NHTM được hiểu là doanh nghiệp chuyên cung cấp dịch vụ tài
chính và hoạt động trong lĩnh vụ dịch vụ tài chính.
Tại Thổ Nhĩ Kỳ, NHTM được hiểu là một loại hình công ty trách nhiệm hữu
hạn được thành lập nhằm mục đích nhận các khoản tiền kí thác để cho vay, đầu tư
và thực hiện các các nghiệp vụ khác như: Chiết khấu, thanh toán . . .
Tại Việt Nam, theo Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 về tổ
chức và hoạt động của NHTM đã ghi rõ:” Ngân hàng thương mại là Ngân hàng
được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có
liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà
nước”, trong đó: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động về kinh doanh tiền tệ và các
DVNH như:Thường xuyên nhận tiền gửi các loại và sử dụng số tiền đó để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán cho khách hàng”.
1.2.2 Các nhóm dịch vụ cơ bản của ngân hàng thương mại
Các dịch vụ của NHTM được chia làm làm hai nhóm: Nhóm dịch vụ tín
dụng và nhóm dịch vụ ngoài tín dụng.

1.2.2.1 Nhóm dịch vụ tín dụng
Tín dụng (hay còn gọi là cho vay) là hoạt động mà ngân hàng giao cho
khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định, trong một thời gian
nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi.
Phần lớn doanh thu của ngân hàng là từ hoạt động tín dụng. Các loại hình
tín dụng phổ biến:
* Căn cứ vào thời hạn cho vay:
- Tín dụng ngắn hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn dưới một năm. Tín
dụng ngắn hạn thường được dùng để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và để bổ xung
sự thiếu hụt tạm thời trong hoạt động kinh doanh.
- Tín dụng trung-dài hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn 1- 5 năm gọi là
tín dụng trung hạn và từ 5 năm trở lên gọi là tín dụng dài hạn. Tín dụng trung-dài
hạn thường được sử dụng để mua đất, thuê đất, xây dựng nhà xưởng, mua sắm
thiết bị máy móc, xây dựng cơ sở hạ tầng, mua phương tiện vận chuyển. . .
* Căn cứ vào mục đích tín dụng:
- Tín dụng nông nghiệp: Là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt động nông
nghiệp, nhằm hỗ trợ cho các hoạt động nông nghiệp như: Trồng trọt, chăn nuôi . . .
- Tín dụng công - thương nghiệp: Là các khoản tín dụng cấp cho các doanh
nghiệp để trang trải chi phí thu mua nguyên vật liệu, trả thuế, trả lương.
- Tín dụng cá nhân: Là khoản tín dụng cấp cho cá các nhân để mua sắm
hàng hoá - dịch vụ tiêu dùng: Ôtô, nhà cửa . . .
- Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Là khoản tín dụng cấp cho các công ty
tài chính , công ty bảo hiểm, ngân hàng và các tổ chức khác.
* Một số dịch vụ tín dụng khác:
- Chiết khấu thương phiếu.
Kỳ phiếu thương mại gọi tắt là thương phiếu (bao gồm hai loại: Hối phiếu
và lệnh phiều). Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán
hoặc cam kết thanh toán không điều kiện cho người thụ hưởng một số tiền xác
định khi có yêu cầu, hoặc thanh toán tại một thời điểm trong tương lai.
Chiết khấu thương phiếu là một loại tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hầng

chuyển nhượng thương phiếu chưa đến hạn cho ngân hàng để nhận được một số
tiền nhất định bằng mệnh giá trừ lãi suất chiết khấu và chi phí hoa hồng.
Chiết khấu thương phiếu là một loại hình tín dụng gián tiếp đã ra đời từ rất
lâu nhưng hiện nay vẫn được các NHTM sử dụng bởi chiết khấu thương phiếu đưa
lại rất nhiều lợi ích. Đối với doang nghiệp, chiết khấu thương phiếu sẽ giúp giải
quyết nhu cầu vốn kịp thời, giảm thiểu tình trạng nợ dây dưa giữa các doanh
nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Còn đối với ngân hàng, chiết khấu thương phiếu là
một loại tín dụng ít rủi ro, tạo cho độ luân chuyển vốn tăng nhanh và tạo tiền gửi,
nguồn vốn cho các NHTM.
- Cho thuê tài chính.
Khác với chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, còn
cho thuê tài chính là một nghiệp vụ tín dụng trung, dài hạn thông qua việc cho
thuê máy móc trang thiết bị, các bất động sản và động sản khác. Theo đó, ngân
hàng (bên cho thuê) sẽ tiến hành giao các trang thiết bị máy móc, bất động sản . . .
cho khách hàng (bên thuê) sử dụng trong một thời gian và nhận được một khoản
phí.
Để tiến hành hoạt động này, trước hết ngân hàng sẽ tiến hành mua các tài
sản cho thuê theo yêu cầu và đề nghị của khách hàng, sau đó mới tiến hành cho
thuê. Về mặt pháp lý, các tài sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng
nên trong quá trình sử dụng khách hàng không được phép bán, cầm cố, thế chấp
hay chuyển nhượng các tài sản này.
Cho thuê tài chính là một phương thức tín dụng ít rủi ro, đem lại hiệu quả
cho cả hai bên: Khách hàng có thể sử dụng tài sản ngay mà chỉ phải trả tiền dần
với giá hạ, ngân hàng không bị đọng vốn và có thêm thu nhập.
- Bảo lãnh.
Bảo lãnh là sự đảm bảo của người có uy tín (bên bảo lãnh) với đối tác của
người có quan hệ kinh tế (bên được bảo lãnh) là bên bảo lãnh sẽ đứng ra thực hiện
nghĩa vụ tài chính cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh
không thực hiện được nghĩa vụ của mình đã thoả thuận trong hợp đồng.
Thông thường người đứng ra bảo lãnh là NHTM và bảo lãnh cũng được

xem là một hình thức tín dụng. Tuy nhiên, trong bảo lãnh ngân hàng không ứng
tiền ra ngay từ đầu mà chỉ ứng tiền ra khi bên được bảo lãnh không thực hiện được
nghĩa vụ của mình nên bảo lãnh được xem như một khoản tín dụng dự phòng. Tuỳ
thuộc vào nhu cầu của khách hàng mà ngân hàng sẽ cung cấp các dịch vụ bảo lãnh
như: Bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán . . .
1.2.2.2 Nhóm dịch vụ ngoài tín dụng
Trong nhóm này, DVNH được chia thành ba nhóm lớn:
* Dịch vụ huy động vốn
Để có thể tồn tại và phát triển thì các NHTM cần phải có một nguồn vốn lớn
và vững mạnh. Hầu hết nguồn vốn của NHTM được thu hút chủ yếu qua hai kênh
sau: Nhận tiền gửi và vay vốn trên thị trường.
- Nhận tiền gửi
Các ngân hàng nhận tiền gửi dưới các hình thức cơ bản như: Tiền gửi không
kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm.
+ Tiền gửi không kì hạn: Là loại nguồn vốn hình thành khi khách hàng (các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, cá nhân) gửi tiền vào ngân hàng với mục địch
chính là để thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu
dùng. Với tiền gửi này khách hàng có thể yêu cầu ngân hàng phát hành séc để
thanh toán. Đặc điểm của tiền gửi không kì hạn là khách hàng có thể rút tiền bất kì
lúc nào trong phạm vi số dư tài khoản.Và với mục đích là để thanh toán chứ không
phải để hưởng lãi và tích luỹ lợi ích nên tiền gửi không kì hạn thường không được
ngân hàng trả lãi hoặc được trả nhưng với mức lãi suất thấp.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại nguồn vốn hình thành khi khách hàng (các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, cá nhân) gửi tiền vào ngân hàng với mục đích
hưởng lãi. Đặc điểm của tiền gửi có kỳ hạn là khách hàng chỉ được rút tiền khi đến
hạn. Tuy nhiên, do những lý do khác nhau, khách hàng có thể rút tiền khi chưa đến
hạn nhưng trong trường hợp này khách hàng sẽ không được hưởng tiền lãi hoặc
nếu được hưởng thì với lãi rất thấp.
+ Tiền gửi tiết kiệm: Là khoản tiền của cá nhân gửi vào ngân hàng với mục
đích hưởng lãi và tích luỹ. Khoản tiền gửi tiết kiệm này sẽ được ngânhàng xác

nhận trên thẻ tiết kiệm và được hưởng lãi theo quy định.
Xét theo tính chất kì hạn, tiền gửi tiết kiệm có hai loại: Tiết kiệm không kì
hạn và tiết kiệm có kì hạn.
Đối với tiết kiệm không kì hạn thì khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào
mà không cần báo trước. Đối với tiết kiệm có kỳ hạn thì khách hàng không được

×