Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Phát triển hoạt động huy động vốn tại ngân hàng chính sách xã hội việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 124 trang )

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
TÓM TẮT LUẬN VĂN
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG HUY
ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI.................3
1.1. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI......3

1.1.1. Khái quát về Ngân hàng Chính sách xã hội...................................3
1.1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng chính sách xã hội.......14
1.2. PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH
SÁCH XÃ HỘI..........................................................................................20

1.2.1. Quan niệm về phát triển hoạt động huy động vốn của ngân
hàng chính sách xã hội.................................................................20
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển hoạt động huy động vốn
của ngân hàng chính sách xã hội.................................................20
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG HUY
ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI...............................24

1.3.1. Nhân tố chủ quan...........................................................................24
1.3.2. Nhân tố khách quan.......................................................................28
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
TẠI NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VIỆT NAM .............31
2.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VIỆT NAM..................31

2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Chính sách



xã hội Việt Nam.............................................................................31
2.1.2. Cơ cấu tổ chức và quản trị điều hành...........................................32
2.1.3. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam.....35
2.1.4. Tổng quan kết quả hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội
giai đoạn 2003 -2008......................................................................39
2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN
HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VIỆT NAM.......................................................45

2.2.1. Thực trạng hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Chính
sách xã hội Việt Nam...................................................................45
2.2.2. Phân tích mức độ phát triển................................................................53
2.3. ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN
HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2003 – 2008.................68

2.3.1. Những kết quả đạt được................................................................68
2.3.2. Hạn chế...........................................................................................71
2.3.3. Nguyên nhân..................................................................................71
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VIỆT NAM .............78
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH
XÃ HỘI VIỆT NAM........................................................................................78

3.1.1. Mục tiêu phát triển của NHCSXH đến năm 2020.......................78
3.1.2. Lộ trình phát triển của NHCSXH.................................................79
3.2. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VIỆT NAM..................................................................83

3.2.1. Nhận thức đúng đắn hơn về tầm quan trọng của phát triển
hoạt động huy động vốn...............................................................84

3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện Chiến lược phát triển hoạt động nói chung


và chiến lược phát triển hoạt động huy động vốn nói riêng...............85
3.2.3. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn....................................93
3.2.4. Tăng cường khả năng tiếp cận của NHCSXH với các tổ chức
tài chính, tín dụng quốc tế...........................................................98
3.2.5. Nâng cao năng lực điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn của các phòng, ban tại NHCSXH các cấp...........100
3.2.6. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực........................................101
3.2.7. Nâng cao tiềm lực tài chính.......................................................104
3.2.8. Đẩy mạnh và tối ưu hóa việc ứng dụng công nghệ thông tin
và hệ thống thông tin quản lý....................................................106
3.3. KIẾN NGHỊ ................................................................................................107

3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ.............................................................107
3.3.2. Kiến nghị với các cơ quan quản lý Nhà nước...........................108
KẾT LUẬN......................................................................................................111
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................113


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1: Quy trình huy động tiền gửi tiết kiệm của NHCSXH.......................19
Sơ đồ 2: Mô hình tổ chức của NHCSXH.........................................................34
BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1 : Tổng dư nợ các chương trình cho vay........................................42

Biểu đồ 2.2 : Tổng tài sản của NHCSXH qua các năm...................................43
Biểu đồ 2.3: Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động qua các năm...............55
Biểu đồ 2.4: Nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ (quy đổi theo VND)...........63
Biểu đồ 2.5 : Lãi suất huy động và cho vay bình quân của NHCSXH giai đoạn
2003 - 2008 ..............................................................................73
Biểu đồ 2.6: Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động bình
quân của NHCSXH..................................................................67
BẢNG

Bảng 2.1: Bảng cân đối kế toán của NHCSXH giai đoạn 2003 - 2008...........39
Bảng 2.2 : Một số kết quả hoạt động của NHCSXH giai đoạn 2003-2008.....44
Bảng 2.3 : Khối lượng vốn huy động của NHCSXH......................................54
Bảng 2.4 : Cơ cấu vốn phân theo hình thức huy động.....................................56
Bảng 2.5: Nguồn tiền gửi 2% của các tổ chức tín dụng nhà nước tại NHCSXH
giai đoạn 2003 -2008......................................................................58
Bảng 2.6: Cơ cấu vốn huy động phân loại theo lãi suất huy động..................61
Bảng 2.7 : Tỷ lệ tăng trưởng nguồn vốn ngoại tệ qua các năm.......................64
Bảng 2.7: Các dự án huy động vốn bằng ngoại tệ (quy đổi ra VNĐ)..............65



LỜI CẢM ƠN
Tác giả chân thành cảm ơn tới các thầy giáo, cô giáo Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân Hà Nội đã cung cấp kiến thức, hướng dẫn tác giả trong việc
học tập, nghiên cứu và hoàn thành các môn học trong chương trình học.
Tác giả đặc biệt bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc của mình tới TS. Lê Thanh Tâm
- Khoa Tài chính Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội - người
đã dành nhiều thời gian, kiến thức, kinh nghiệm và công sức, trực tiếp hướng
dẫn tác giả nghiên cứu và hoàn thiện đề tài nghiên cứu và bản luận văn này.
Tác giả chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo và cán bộ các phòng, ban

chuyên môn thuộc Hội Sở chính của Ngân hàng Chính sách xã hội, người
thân trong gia đình đã cung cấp thông tin cần thiết, đóng góp, bổ sung ý kiến
hữu ích và động viên tác giả trong việc nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHCSXH

Ngân hàng Chính sách xã hội

NHTM

Ngân hàng thương mại

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

NSNN

Ngân sách Nhà nước

TCTD

Tổ chức tín dụng

HĐQT

Hội đồng quản trị


UBND

Uỷ ban nhân dân

TKVV

Tiết kiệm và vay vốn

RIDP

Dự án Đa dạng hóa thu nhập nông thôn (Tỉnh Tuyên Quang)

OPEC

Dự án do Quỹ Phát triển quốc tế của tổ chức các nước xuất
khẩu dầu mỏ cho vay vốn

CWPD

Dự án Bảo vệ và phát triển những vùng đất ngập nước
ven biển miền Nam Việt Nam

KFW

Dự án Chương trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ

IFAD

Dự án Toàn dân tham gia quản lý nguồn lực (Tỉnh Tuyên Quang)


FAO

Dự án Tăng cường năng lực quốc gia để thực thi chương
trình hoạt động lâm nghiệp nhiệt đới tại Việt Nam

FSDP

Dự án Phát triển ngành Lâm nghiệp


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam là một tổ chức tín dụng mới
được thành lập (chính thức hoạt động từ tháng 3/2003), thực hiện hỗ trợ về
tài chính đối với nhiều đối tượng chính sách xã hội. Vì vậy, bước đầu nguồn
vốn hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam được “ tập hợp từ
các chương trình khác nhau”[3]. Mỗi loại vốn có những căn cứ hình thành
và theo đó có quy mô khác nhau. Tuy nhiên, đặc điểm chung của các nguồn
này là bắt buộc hoặc đóng góp tự nguyện….. Điều này đưa đến những khó
khăn nhất định trong hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam.
So với các ngân hàng thương mại khác, Ngân hàng Chính sách xã hội
Việt Nam có nhiều đặc điểm khác biệt, nhu cầu vốn cho vay các đối tượng
chính sách xã hội vừa lớn lại vừa có những đặc trưng riêng. Phần lớn nguồn
vốn hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam đều do Chính phủ
cấp chính vì vậy tính tự chủ trong hoạt động chưa cao. Với mục tiêu trở
thành một định chế tài chính hàng đầu trong lĩnh vực tài chính vi mô, tự chủ
trong hoạt động và tài chính, được các nhà đầu tư trong và ngoài nước đánh
giá cao, Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam cần phải nỗ lực hết mình để

vừa hoàn thành nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước giao phó trong
công cuộc xóa đói giảm nghèo vừa hoạt động có hiệu quả và bền vững từ đó
giảm thiểu tiến tới xóa bỏ sự trợ cấp từ Ngân sách nhà nước.
Để đạt được mục tiêu trên, vấn đề đặt ra là Ngân hàng Chính sách xã
hội Việt Nam cần nghiên cứu cả về lý thuyết và thực tiễn nhằm tìm giải pháp
thích hợp trong việc huy động vốn đối với loại hình ngân hàng đặc trưng này
từ đó có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn của đối tượng phục vụ.
Từ cách đặt vấn đề trên, đề tài: “Phát triển hoạt động huy động vốn tại
Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam” được lựa chọn với mong muốn đề
xuất một số giải pháp góp phần phát triển hoạt động huy động vốn của Ngân
hàng Chính sách xã hội Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
(i) Luận giải cơ sở lý luận về phát triển hoạt động huy động vốn của
Ngân hàng Chính sách xã hội.


2
(ii) Phân tích và đánh giá thực trạng sự phát triển hoạt động huy động
vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam giai đoạn 2003- 2008.
(iii) Đề xuất các giải pháp phát triển hoạt động huy động vốn của Ngân
hàng Chính sách xã hội Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung vào nghiên cứu, phân tích các nội dung liên quan trực
tiếp đến công tác huy động vốn từ bên ngoài của Ngân hàng Chính sách xã
hội Việt Nam, trong thời gian chủ yếu kể từ khi Ngân hàng Chính sách xã
hội thành lập (năm 2003) đến hết năm 2008.
4. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển hoạt động
huy động vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội.
5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu: phương pháp luận duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử, tổng hợp và phân tích trên cơ sở các số liệu
điều tra về thống kê, các báo cáo, các kết quả nghiên cứu.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, trong quá trình thực hiện luận văn, các phương pháp nghiên cứu
được sử dụng bao gồm:
- Phân tích tổng hợp, kết hợp phân tích định lượng và định tính để giải
thích số liệu, liên hệ với các nguyên nhân từ thực tiễn.
- Thống kê so sánh sử dụng số liệu theo chuỗi thời gian và tại một thời
điểm để so sánh và phân tích sự phát triển của hoạt động huy động vốn của
Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam.
BỐ CỤC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, bảng biểu, các hình vẽ minh hoạ và danh
mục các tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được chia làm 3 chương với
tiêu đề như sau:
Chương 1: Các vấn đề lý luận cơ bản về phát triển hoạt động huy động
vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội
Chương 2: Thực trạng phát triển hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng
Chính sách xã hội Việt Nam
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động huy động vốn của Ngân hàng
Chính sách xã hội Việt Nam


3

CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG HUY
ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
1.1. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH
SÁCH XÃ HỘI


1.1.1. Khái quát về Ngân hàng Chính sách xã hội
1.1.1.1. Tín dụng ngân hàng đối với đối tượng chính sách xã hội
Ở hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, luôn tồn tại
nhóm đối tượng có điều kiện sống, mức sống, thu nhập thấp hơn so với các bộ
phận dân cư còn lại. Họ có thể là người nghèo đói, người có thu nhập thấp
hoặc thậm chí thu nhập trung bình hoặc khá nhưng điều kiện sản xuất, kinh
doanh không thuận lợi (là những yếu tố mang tính khách quan). Những đối
tượng này thường được phân vào nhóm đối tượng mang tính “chính sách xã
hội” vì: việc thoát khỏi nghèo đói, vươn lên hòa nhập với cộng đồng, phát
triển ở những vùng có điều kiện không thuận lợi,… không chỉ mang ý nghĩa
về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa: ổn định về xã hội, chính trị.
Hiện tượng đói nghèo là tình trạng chung của hầu hết các nước đang
phát triển. Việc một bộ phận dân cư không đủ sống, có mức sống thấp hơn
so với bình quân không chỉ là vấn đề cần giải quyết về mặt kinh tế, mà
còn là vấn đề mang tính xã hội, chính trị đặt ra đối với bất cứ Chính phủ
nào. Xóa đói giảm nghèo (XĐGN) không chỉ mang tính quốc gia mà còn
mang tính quốc tế, không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực cho sự phát
triển. Nhiệm vụ XĐGN, tạo công ăn việc làm, giảm bớt bất công xã hội,
cải thiện điều kiện về y tế, giáo dục,... là tất yếu trong quá trình phát triển.
Tuy nhiên, cơ chế thị trường mặc dù có nhiều ưu điểm nhưng tự bản
thân nó không thể giải quyết tận gốc vấn đề trên, hơn nữa nó có thể làm
vấn đề trở nên trầm trọng hơn. Phân phối nguồn lực có hiệu quả không
đồng nghĩa với phân phối thu nhập công bằng, tăng trưởng kinh tế cao


4
không đồng nghĩa với phát triển cũng như việc đảm bảo ổn định xã hội
như mục tiêu quản lý của Nhà nước. Sự thất bại của “bàn tay vô hình” của
cơ chế thị trường dẫn đến sự cần thiết can thiệp của Chính phủ. Chính phủ

cần phải quan tâm tới nhóm đối tượng này thông qua các chính sách, biện
pháp, giải pháp hỗ trợ cụ thể. Sự quan tâm, ưu tiên của Chính phủ nhằm
tới các mục tiêu như:
- Nâng cao mức sống cho nhóm đối tượng này (không chỉ cải thiện
và nâng cao thu nhập mà còn tạo điều kiện cải thiện các mặt khác như: tạo
công ăn việc làm, học tập, y tế sức khỏe, điều kiện sống: giao thông, hoạt
động văn hóa,…).
- Bảo vệ an toàn cho họ: Các nghiên cứu cho thấy những đối tượng
chính sách xã hội có các đặc trưng: Nguồn lực hạn chế và nghèo nàn,
trình độ học vấn thấp, thiếu việc làm và không ổn định, nguy cơ dễ bị tổn
thương do ảnh hưởng của thiên tai và rủi ro, bệnh tật và sức khỏe yếu
kém, không đủ điều kiện tiếp cận với pháp luật, chưa được bảo vệ quyền
lợi và lợi ích hợp pháp.
Hơn nữa, với bản chất tốt đẹp của Chủ nghĩa xã hội (CNXH), các
quốc gia đi theo con đường này càng phải quan tâm nhiều hơn tới nhóm
đối tượng này, xem đây không chỉ là một nhiệm vụ thuần túy mà phải coi
đó như nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, thể hiện trách nhiệm và bản
chất tốt đẹp của chế độ.
Nhằm tới mục tiêu trên, các Chính phủ có thể có những chính sách,
giải pháp và thông qua các hình thức khác nhau như: đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng, tạo thêm các công ăn việc làm, đầu tư cho y tế, giáo dục, văn
hóa,… cho không hoặc trợ giá cho hàng hóa thiết yếu,... Đối với các hình
thức hỗ trợ cho cá nhân, có thể phân vào thành các nhóm như:
- Trợ cấp: Chính phủ thực hiện trợ cấp (dưới hình thức bằng tiền
hoặc hiện vật) trực tiếp cho đối tượng hưởng lợi, thông qua đó làm tăng
thu nhập, cải thiện mức sống và điều kiện sống, sản xuất của đối tượng


5
hưởng lợi. Ưu điểm của hình thức này: nếu xác định đúng đối tượng thì có

thể đạt được mục đích đề ra một cách trực tiếp, nhanh chóng. Hạn chế của
hình thức này là: dễ tạo ra tâm lý trông chờ, ỷ lại của đối tượng hưởng lợi.
Chính vì vậy, hình thức này thường được áp dụng trong thời gian ngắn
(khắc phục hậu quả thiên tai,…), hoặc cho đối tượng không còn khả năng
lao động, nơi nương tựa;
- Trợ giá: Trợ giá cho một số hàng hóa, dịch vụ nhất định (thường là
thiết yếu) tại những vùng nhất định (thường là khó khăn). Đây là hình thức hỗ
trợ gián tiếp, tuy nhiên cũng có những hạn chế như: vì hỗ trợ thông qua giá
hàng hóa, dịch vụ nên chỉ khi nào đối tượng cần được hỗ trợ mua hàng hóa,
dịch vụ thì họ mới nhận được sự hỗ trợ của Chính phủ (trong khi đa phần là
người dân có thu nhập thấp, chi tiêu hạn chế), mặt khác có thể cả những
người không thuộc nhóm mục tiêu cũng được hưởng hỗ trợ này nếu như họ
mua loại hàng hóa, dịch vụ tại khu vực vào thời điểm đó;
Các hình thức nêu trên không có tính loại trừ nhau, có thể sử dụng
đồng thời để bổ sung cho nhau và giữa chúng cũng có điểm chung, đó là:
sự cho không (phần trợ cấp, trợ giá) từ Nhà nước mà không có bất cứ yêu
cầu hoàn trả nào từ người thụ hưởng. Điều này thường dẫn đến các hạn
chế như: Tạo tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Chính phủ; phát
sinh nhu cầu hỗ trợ rất lớn (thậm chí nhu cầu giả tạo); không bền vững vì
người dân luôn cần sự hỗ trợ từ Chính phủ; do vậy một gánh nặng lớn
luôn đặt ra đối với ngân sách Nhà nước. Thực tế đã chứng minh các
chương trình trợ giá, trợ cấp thường thất bại nếu thực hiện trên quy mô
lớn và trong thời gian dài.
Trên cơ sở mục tiêu hỗ trợ hiệu quả, các chương trình tín dụng dành
cho các đối tượng chính sách xã hội đã được các Chính phủ của nhiều
nước trên thế giới sử dụng. Các chương trình tín dụng như vậy của Chính
phủ chủ yếu xuất hiện tại các nước đang phát triển, hướng tới các đối
tượng người nghèo, người có thu nhập thấp, có hoàn cảnh và điều kiện



6
sản xuất và đời sống không thuận lợi, những vùng và những lĩnh vực ưu
tiên có ý nghĩa về kinh tế, chính trị - xã hội to lớn. Các chương trình tín
dụng như vậy có thể được thực hiện bởi một tổ chức tín dụng do Chính
phủ thành lập hoạt động chuyên phục vụ đối tượng nhất định (như Công
ty Tài chính Đời sống Quốc dân Nhật Bản - National Life Finance
Company), hoặc là chương trình tín dụng được thực hiện bởi một tổ chức
tín dụng của Chính phủ (như: Ngân hàng Nhân dân Indonesia - Bank
Rakyat Indonesia, Ngân hàng Nông nghiệp và Hợp tác xã Nông nghiệp ở
Thái Lan - Bank for Agriculture and Agricultural Cooperatives (BAAC)),
Ngân hàng Nông nghiệp Malaysia - Bank Pertania Malaysia (BPM)), hoặc
được Chính phủ cho phép hoạt động và nhận được sự ủng hộ của Chính
phủ (như Grameen Bank ở Bangladesh),…
So với các hình thức trợ cấp, trợ giá thì hỗ trợ thông qua tín dụng
ngân hàng có các ưu điểm sau:
- Khắc phục được những hạn chế của hình thức hỗ trợ thông qua trợ
cấp và trợ giá;
- Do có tính hoàn trả nên bảo tồn được nguồn vốn, chính vì vậy với
số vốn ban đầu nhất định có thể hỗ trợ cho nhiều người hơn và trong thời
gian dài hơn;
- Nhu cầu hỗ trợ thường sát thực tế hơn: Hầu như chỉ người có nhu
cầu thực sự mới có đề nghị được vay vốn;
- Giảm gánh nặng đối với Ngân sách quốc gia;
- Tính hiệu quả, tính bền vững cao hơn, như các kết luận rút ra từ các
chương trình tín dụng ưu đãi: “cho cần câu chứ không cho xâu cá”;
- Vừa có điều kiện hỗ trợ về tài chính (nguồn vốn ban đầu) vừa có
thể quản lý chi tiêu và sử dụng vốn cũng như các hoạt động sản xuất kinh
doanh của người vay thông qua hình thức như: phối hợp trong chuyển
giao kỹ thuật, giám sát mua sắm, chi tiêu và sử dụng vốn của người vay.
Mặt khác, thông qua việc vay vốn, buộc người vay phải tính toán, học hỏi



7
kinh nghiệm và kiến thức để thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh;
qua đó tạo ý thức học tập, ý thức lao động, làm quen với cơ chế thị
trường, sản xuất hàng hóa.
Chính vì các ưu điểm trên mà tín dụng ngân hàng phục vụ các đối
tượng mang ý nghĩa kinh tế, chính trị - xã hội này là sự cần thiết, xuất
phát từ thực tế đòi hỏi phải thực hiện nhằm hỗ trợ có hiệu quả và bền
vững đối với nhóm đối tượng này.
Một vấn đề đặt ra và hiện đang còn một số ý kiến khác nhau là: việc
hỗ trợ các đối tượng chính sách xã hội thông qua tín dụng ngân hàng nên
được thực hiện bởi một hoặc một số tổ chức?, tính chất sở hữu của tổ
chức này (thuộc sở hữu Nhà nước, hay sở hữu của cộng đồng hoặc của tư
nhân?), lãi suất cho vay (lãi suất ưu đãi, lãi suất thị trường hoặc lãi suất
bền vững?).
- Xem xét dưới giác độ tính chất sở hữu: Xuất phát từ đối tượng phục
vụ là đối tượng chính sách xã hội, so với các đối tượng hoạt động thương
mại khác, thì điều dễ thấy là các tổ chức tín dụng phục vụ đối tượng chính
sách gặp phải nhiều bất lợi như: nguy cơ mức độ rủi ro cao, chi phí hoạt
động cao hơn (do quy mô khoản cho vay nhỏ hơn, thông thường địa bàn
hoạt động ở khu vực có điều kiện đi lại không thuận lợi,…),… Chính vì
vậy, phần lớn các tổ chức này thuộc sở hữu của Nhà nước và do Chính
phủ chủ động và trực tiếp thành lập. Tuy nhiên cũng có số ít trường hợp
không hoàn toàn thuộc sở hữu của Nhà nước, trường hợp điển hình là
Ngân hàng Grameen (Bangladesh).
- Xuất phát từ thực tế đối tượng chính sách xã hội bao gồm nhiều
nhóm đối tượng cần sự hỗ trợ của Chính phủ tùy thuộc chính sách của
Chính phủ trong từng giai đoạn: nhóm người nghèo, nhóm doanh nghiệp
vừa và nhỏ, nhóm doanh nghiệp nhỏ mới thành lập, nhóm đối tượng cần

sự hỗ trợ trong từng lĩnh vực cụ thể: nông nghiệp, thương mại dịch vụ,
xuất nhập khẩu,… Hơn nữa, những nhóm đối tượng chính sách xã hội


8
khác nhau có những đặc điểm khác nhau, do vậy cần có những hỗ trợ cụ
thể khác nhau. Chính vì vậy ở thời kỳ ban đầu thường có quan điểm: tín
dụng ngân hàng đối với đối tượng chính sách xã hội thường được thực
hiện bởi nhiều tổ chức tín dụng như là một nhiệm vụ được Chính phủ giao
hoặc kênh tín dụng nhận ủy thác từ Chính phủ, mỗi tổ chức đảm nhận
phục vụ một đối tượng chính sách cụ thể. Việc thực hiện như vậy có ưu
điểm: Chính phủ tranh thủ và tận dụng được mạng lưới và cơ sở vật chất
của các tổ chức tín dụng hiện có, qua đó tiết giảm được chi phí so với việc
hình thành một tổ chức hoàn chỉnh mới.
Theo thời gian hình thức trên cho thấy một số điểm còn hạn chế:
+ Đối với Chính phủ: có sự phân tán nguồn lực của Nhà nước, nhiều
khi đó là nguyên nhân làm giảm hiệu quả nguồn lực này; đôi khi xuất hiện
sự chồng chéo trong hỗ trợ: một đối tượng cụ thể có thể hưởng lợi từ
nhiều chương trình tín dụng khác nhau do nhiều tổ chức khác nhau thực
hiện; hơn nữa gây khó khăn trong việc quản lý, kiểm tra, giám sát việc sử
dụng và hiệu quả của nguồn lực đã bỏ ra, đôi khi khó tách biệt rõ tín dụng
thương mại thông thường và tín dụng chính sách.
+ Đối với tổ chức tín dụng thực hiện: Phải dành ra một số nguồn lực:
con người, cơ sở vật chất nhất định để thực hiện tín dụng chính sách, như
vậy xét trên giác độ thương mại thì trong nhiều trường hợp tín dụng chính
sách đã ảnh hưởng đến tín dụng thương mại của các tổ chức này, nhất là
trong điều kiện cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng ngày càng mạnh
trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa nền kinh tế.
+ Đối với đối tượng hưởng lợi: Đôi khi có những bất lợi nhất định
như: không phải tổ chức nào cũng có mạng lưới rộng rãi tiếp cận tới

người vay vốn, có những khó khăn nhất định về thông tin trong việc xác
định tổ chức tín dụng phục vụ đối với những đối tượng nhất là hộ nghèo,
những khu vực tiếp cận thông tin khó khăn,…


9
Một quan điểm khác là tập trung tín dụng chính sách xã hội vào một
hoặc một số ít các tổ chức tín dụng trên cơ sở thành lập mới hoặc sử dụng
tổ chức hiện có nhằm khắc phục các bất cập trên, qua đó hình thành tổ
chức tín dụng chuyên phục vụ đối tượng chính sách xã hội. Thông qua đó,
nguồn lực của Chính phủ được tập trung hơn, thuận tiện hơn trong việc
thực thi chính sách đối với đối tượng chính sách xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm ngân hàng chính sách xã hội
Một cách chung nhất, ngân hàng chính sách là một loại hình ngân hàng
chuyên thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ trong
thời kỳ nhất định. Đây là các khoản cho vay phi lợi nhuận đối với các đối
tượng ưu tiên của các chính sách của Chính phủ khó có thể đáp ứng hoặc tiếp
cận tới các tiêu chí thương mại. Việc thực hiện tín dụng chính sách góp phần
quan trọng đối với phát triển kinh tế, ổn định chính trị và xã hội.
Tín dụng chính sách thường được thực hiện thông qua một số loại
hình ngân hàng, tổ chức tài chính với nhiều tên gọi khác nhau như:
- Ngân hàng chính sách hoặc tổ chức tài chính phục vụ các chính
sách phát triển, thường gọi là ngân hàng hoặc tổ chức tài chính phát triển
(ví dụ như: Ngân hàng đầu tư phát triển, Ngân hàng Tái thiết, Quỹ hỗ trợ
phát triển,…);
- Ngân hàng chính sách phục vụ một lĩnh vực nhất định (ví dụ: Ngân
hàng tài trợ xuất nhập khẩu, ngân hàng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ,…);
- Ngân hàng chính sách xã hội phục vụ các chính sách xã hội;
Như vậy có thể nói: Ngân hàng chính sách xã hội là một tổ chức tín
dụng, là một loại hình ngân hàng chính sách có nhiệm vụ chủ yếu là thực thi

tín dụng chính sách của Chính phủ đối với nhóm đối tượng chính sách xã hội.
Tuy nhiên, hiện tại còn nhiều quan điểm khác nhau về việc hỗ trợ
thông qua tín dụng ngân hàng chính sách xã hội như:
- Có quan điểm cho rằng nên thành lập ngân hàng chuyên phục vụ đối
tượng chính sách xã hội; trong khi có ý kiến cho rằng các chương trình tín
dụng này có thể giao cho các ngân hàng thương mại (NHTM) thực hiện;


10
- Có quan điểm cho rằng: đối với đối tượng này cần thực hiện ưu đãi
trong đó nhất thiết phải có ưu đãi về lãi suất (lãi suất cho vay thấp hơn lãi
suất cho vay của NHTM); trong khi đó lại có ý kiến khác: chỉ cần ưu đãi
về các điều kiện và thủ tục vay vốn mà không nhất thiết phải ưu đãi về lãi
suất cho vay.
Việc thực hiện theo quan điểm nào tùy thuộc đặc điểm, quan điểm và
chính sách của từng Chính phủ và mỗi quốc gia. Thực tế cho thấy mỗi
quan điểm trên đều có những ưu điểm và hạn chế, tùy theo yêu cầu và
từng giai đoạn mà có thể thực hiện theo những quan điểm khác nhau nhằm
phát huy tính tích cực và ý nghĩa kinh tế - xã hội, chính trị của tín dụng
chính sách.
Ngân hàng chính sách được phân loại theo nhiều cách khác nhau dựa
trên đối tượng phục vụ, cụ thể như sau:
- Ngân hàng chính sách phục vụ các chính sách phát triển như phát
triển cơ sở hạ tầng, chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp, ... được gọi là
Ngân hàng phát triển
- Ngân hàng chính sách phục vụ các chính sách an sinh xã hội nh ư
chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách tạo việc làm và nâng cao thu
nhập cho người dân nghèo, ... được gọi là Ngân hàng chính sách xã hội.
Tuy nhiên, theo thực tiễn hoạt động của các ngân hàng hoặc tổ chức
tài chính thực hiện tín dụng chính sách của nhiều quốc gia trên thế giới,

mô hình ngân hàng chính sách hiện nay bao gồm hai loại chính, đó là: (i)
mô hình Ngân hàng Chính sách có nguồn vốn hoạt động do sự đóng góp
của người dân và huy động vốn dựa trên nguyên tắc thị trường (mô hình
ngân hàng Grameen của nước Cộng hòa nhân dân Bangladesh) và (ii) mô
hình ngân hàng chính sách có nguồn vốn hoạt động do Chính phủ cấp.
Với những ngân hàng chính sách hoạt động theo mô hình thứ hai thì ngân
hàng không có chính sách huy động vốn đúng nghĩa của một ngân hàng;
không tự quyết định được quy mô vốn huy động vì bị phụ thuộc vào quy


11
mô cấp bù chênh lệch lãi suất của Nhà nước (mô hình của tổ chức Tài
chính hỗ trợ nhân sinh – NLFC Nhật Bản, Ngân hàng nông nghiệp
Malaysia, ngân hàng nông nghiệp và các hợp tác xã tín dụng Thái Lan,
Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam...).
1.1.1.2 . Những đặc điểm cơ bản của ngân hàng chính sách xã hội
Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) là một loại hình ngân hàng
đặc thù, phục vụ cho những mục tiêu chuyên biệt trong lĩnh vực phát triển
xã hội có mục tiêu hoạt động không phải là lợi nhuận mà vì mục tiêu xoá
đói giảm nghèo, ổn định xã hội. NHCSXH có nhiều đặc trưng so với các
ngân hàng thương mại khác, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về đối tượng vay vốn:
NHCSXH thực hiện cho vay các đối tượng khách hàng, các dự án
phát triển, các đối tượng đầu tư ở những nơi mà người dân còn đói nghèo
do thiếu vốn sản xuất kinh doanh nhưng không đủ các điều kiện cơ bản để
vay vốn của các ngân hàng thương mại. Những đối tượng vay vốn này ở
nhiều nước thường do Chính phủ chỉ định
Đây là những khách hàng có rất ít các điều kiện để tiếp cận với dịch
vụ tín dụng của các ngân hàng thương mại, là các khách hàng dễ bị tổn
thương, cần có sự hỗ trợ tài chính từ Chính phủ và cộng đồng để vươn lên

tự cải thiện điều kiện sống của chính họ.
Thứ hai, về mục tiêu hoạt động:
Khách hàng của NHCSXH phần lớn là những đối tượng hầu như
không thể tiếp cận được với vốn tín dụng thông thường của các ngân hàng
thương mại. Do đó, khả năng sinh lời từ hoạt động cho vay những đối
tượng khách hàng này của NHCSXH là rất thấp, thậm chí không thể có
được. Chính vì lẽ đó, các NHCSXH thường hoạt động không vì mục tiêu
lợi nhuận mà vì mục tiêu xóa đói giảm nghèo.
Đây chính là điểm khác biệt rõ nét trong hoạt động của các NHCSXH so
với hoạt động của các ngân hàng thương mại. Hoạt động của ngân hàng
thương mại là kinh doanh tiền tệ. Trong mọi hoạt động của mình, các ngân
hàng thương mại luôn quan tâm tới lợi nhuận, tạo sức cạnh tranh để chiếm


12
lĩnh thị trường đối với tất cả các dịch vụ mà ngân hàng thương mại cung ứng.
Thứ ba, về nguồn vốn:
Trong khi hoạt động đặc trưng của các ngân hàng thương mại là đi
vay để cho vay, hay nói cách khác là đi huy động các nguồn vốn nhàn rỗi
để cho vay, đáp ứng nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế thì ngân hàng
chính sách xã hội với đặc trưng khác biệt về mục tiêu hoạt động và đối
tượng vay vốn so với các ngân hàng thương mại nên nguồn vốn của
NHCSXH được tạo lập chủ yếu từ nguồn vốn của Chính phủ (ngân hàng
nông nghiệp Malaysia, ngân hàng nhân dân Indonesia, ngân hàng nông
nghiệp và Hợp tác xã tín dụng ở Thái Lan ), hoặc do vốn góp của những
người dân nghèo (ngân hàng phục vụ người nghèo Grameen bank ở cộng
hòa nhân dân Bangladesh).
Thứ tư, về sử dụng vốn:
Xuất phát từ đặc thù về đối tượng khách hàng vay vốn là những đối
tượng dễ bị tổn thương, gặp khó khăn, sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng

kinh tế kém phát triển, ít có điều kiện tiếp cận với dịch vụ tín dụng của
các ngân hàng thương mại... nên việc sử dụng vốn của đối tượng khách
hàng này cũng là một đặc thù của NHCSXH, cụ thể như sau:
- Món cho vay nhỏ, chi phí quản lý cao.
- Vốn tín dụng đầu tư mang tính rủi ro cao vì đối tượng đầu tư
thường là các hộ gia đình nghèo thiếu vốn sản xuất, chủ yếu sống ở vùng
nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nơi môi trường thiên nhiên bị tàn phá,
thường xuyên xảy ra bão lụt, hạn hán. Hơn thế, bản thân họ lại có trình độ
dân trí thấp, thiếu kiến thức làm ăn chính vì vậy dễ bị thua lỗ trong sản
xuất kinh doanh.
- Các quy định về đảm bảo tiền vay, các quy trình về thẩm định dự
án, các thủ tục và quy trình vay vốn, quy định mức đầu tư tối đa, thời hạn
vay vốn, quy định về trích lập và xử lý rủi ro, quy trình xử lý nghiệp vụ
có những khác biệt so với các quy định của ngân hàng thương mại.
- Thực thi các chính sách tín dụng có ưu đãi như: Ưu đãi về các điều
kiện vay vốn, ưu đãi về lãi suất cho vay, …
- Thường áp dụng phương thức giải ngân ủy thác qua các tổ chức


13
trung gian như: các tổ chức tín dụng, các tổ chức chính trị xã hội,…
1.1.1.3. Một số hoạt động cơ bản của ngân hàng chính sách xã hội
NHCSXH có những hoạt động cơ bản như sau:
Thứ nhất, hoạt động tín dụng
NHCSXH thực hiện chức năng, nhiệm vụ và mục tiêu thông qua việc
sử dụng vốn để cho vay các đối tượng khách hàng của mình. Đặc trưng
nổi bật trong hoạt động cho vay của các NHCSXH là NHCSXH trực tiếp
cấp những khoản tín dụng ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay cho các đối
tượng chính sách xã hội, các đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội
nhằm góp phần thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí cho hộ nghèo và hộ

thu nhập thấp ở khu vực nông thôn và thành thị, xóa đói giảm nghèo, bảo
vệ môi trường, sức khỏe và an sinh xã hội.
Các NHCSXH thường thực hiện quy trình cho vay đơn giản, trực tiếp
cấp vốn tới đối tượng hưởng lợi hoặc cho vay ủy thác thông qua các tổ
chức chính trị xã hội (NHCSXH Việt Nam) hoặc cho vay trực tiếp thông
qua các tổ nhóm (Ngân hàng phục vụ người nghèo Grameen Bank ở
Bangladesh).
Thứ hai, hoạt động ủy thác
Do đối tượng vay vốn của NHCSXH là cộng đồng những người
nghèo, những người dễ bị tổn thương trong xã hội, sống tại các khu vực
vùng sâu, vùng xa nên khó tiếp cận với thông tin hay các dịch vụ tài
chính. Để tiếp cận được tới những đối tượng vay vốn một cách hiệu quả,
các NHCSXH đều thực hiện hoạt động ủy thác thông qua các tổ chức
chính trị xã hội (NHCSXH Việt Nam) hay ủy thác qua các nhóm tự vững,
nhóm đoàn kết (Ngân hàng phục vụ người nghèo ở Ấn Độ, Bangladesh,
Ngân hàng Nông nghiệp và Hợp tác xã tín dụng Thái Lan (BAAC),...)
Hoạt động ủy thác đem lại hiệu quả bởi huy động được sức mạnh
giám sát từ các tổ chức chính trị xã hội, các nhóm đoàn kết đối với việc
quản lý vốn vay của NHCSXH
Thứ ba, hoạt động thanh toán và ngân quỹ
Với chức năng của một ngân hàng thông thường, NHCSXH thực hiện
các hoạt động thanh toán cho các dịch vụ thanh toán, dịch vụ thu hộ, chi


14
hộ bằng tiền mặt và không bằng tiền mặt và các dịch vụ khác
Thứ tư, hoạt động trao đổi, cung cấp thông tin
Bên cạnh các hoạt động mang tính chuyên môn nghiệp vụ như vừa
kể trên, các NHCSXH thực hiện hoạt động cung cấp thông tin cho các tổ
chức tài chính trong và ngoài nước, các tổ chức phi chính phủ hoạt động

trong lĩnh vực tài chính vi mô, ... nhằm trao đổi kết quả hoạt động và kêu
gọi sự hỗ trợ về vốn và kỹ thuật cho các hoạt động của ngân hàng.
1.1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng chính sách xã hội
1.1.2.1. Chính sách huy động vốn của ngân hàng chính sách xã hội
Do những đặc điểm riêng biệt trong việc cung cấp tín dụng chính sách,
chính sách huy động vốn của NHCSXH thường có sự tham gia mạnh mẽ của
các Chính phủ, các tổ chức, cá nhân hoạt động vì mục đích nhân đạo.
Đối với những ngân hàng do Chính phủ thành lập, nhằm thực hiện tín
dụng chính sách phục vụ các chính sách phát triển kinh tế, ổn định chính
trị - xã hội của Chính phủ, qua đó đạt được các mục tiêu mà Chính phủ đề
ra nguồn vốn huy động ban đầu của NHCSXH là vốn từ Nhà nước, do
ngân sách nhà nước cấp. Bên cạnh đó, NHCSXH còn huy động vốn từ các
tổ chức khác theo quy định của Chính phủ từng quốc gia.
Đối với hầu hết các ngân hàng chính sách trên thế giới, đặc trưng của
nguồn vốn huy động ban đầu từ Chính phủ có lãi suất bằng 0% hoặc lãi
suất rất thấp. Các NHCSXH không phải thực hiện bảo hiểm tiền gửi,
không phải gửi tiền dự trữ bắt buộc ở ngân hàng trung ương và được miễn
thuế phải nộp cho nhà nước.
Tùy theo chính sách của Chính phủ đối với đối tượng chính sách xã
hội từng thời kỳ, năng lực tài chính của bản thân NHCSXH, nhu cầu của
khách hàng của ngân hàng mà chính sách huy động vốn của NHCSXH sẽ
có những thay đổi cho phù hợp, NHCSXH có thể huy động và tiếp nhận
nguồn vốn từ các tổ chức khác theo quy định của Chính phủ. Tùy thuộc
vào quan điểm của từng Chính phủ, chính sách huy động vốn của các
ngân hàng chính sách sẽ có những quy định khác nhau.


15
Tại Thái Lan, Ngân hàng nông nghiệp và hợp tác tác xã tín dụng Thái
lan (BAAC) là NHTM quốc doanh do Chính phủ thành lập. Nguồn vốn tự có

ban đầu của BAAC do Chính phủ cấp 100%, Chính phủ bổ nhiệm Hội đồng
quản trị do Bộ trưởng Tài chính làm Chủ tịch. BAAC có nhiệm vụ:
- Hỗ trợ vốn nhằm phát triển toàn diện nông nghiệp và nông thôn.
- Cho vay nông nghiệp theo chương trình, dự án chỉ định của Chính phủ.
- Thực hiện việc kiểm soát chặt chẽ các nguồn vốn của nhà nước đầu
tư cho nông nghiệp, nông thôn.
- Hàng năm, BAAC được Chính phủ tài trợ vốn để thực hiện chương
trình hỗ trợ vốn cho nông dân nghèo. Ngân hàng cho vay vốn đối với
người nghèo không phải thế chấp tài sản, mà phải tín chấp bằng sự cam
kết bảo đảm của nhóm, tổ, hợp tác xã sản xuất. Lãi suất cho vay vốn đối
với nông dân nghèo thường được giảm từ 1 - 3%/năm so với cho vay các
đối tượng khác.
Ngoài ra, để tăng cường phát triển nông nghiệp, nông thôn, Chính
phủ quy định các NHTM khác phải dành 20% vốn huy động được để cho
vay đối với lĩnh vực nông thôn. Hàng năm, Chính phủ có chỉ tiêu bắt buộc
các Ngân hàng thương mại phải cho vay đối với các đối tượng hoạt động
sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Nếu Ngân hàng thương
mại không cho vay hết chỉ tiêu bắt buộc đó thì phải gửi số tiền còn lại vào
BAAC. Ngân hàng Trung ương bảo lãnh cho BAAC vay vốn nước ngoài.
Trong hoạt động, BAAC được miễn ký quỹ bắt buộc[29],[42].
Đối với Ngân hàng Nông nghiệp Malaysia (BPM), nguồn vốn cung cấp
cho lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn cũng do Chính phủ cấp 100% vốn ban
đầu. Trong quá trình hoạt động Chính phủ buộc các NHTM khác phải gửi
20,5% số tiền huy động được vào Ngân hàng Trung ương (trong đó 3% dự trữ
bắt buộc) để làm vốn cho vay đối với nông nghiệp, nông thôn. Ngân hàng
nông nghiệp Malaysia không phải gửi tiền dự trữ bắt buộc ở Ngân hàng Trung
ương và không phải nộp thuế cho Nhà nước[29],[43].


16

Tại Indonesia, Ngân hàng nhân dân Indonesia – Bank Rakyat
Indonesia (BRI) là ngân hàng cung cấp dịch vụ tài chính vi mô cho nông
nghiệp, nông thôn (gồm cả dịch vụ tín dụng cho hộ nghèo). BRI được xem
như là một ngân hàng thành công nhất trong số những nước có nền kinh tế
nông nghiệp còn chiếm phần chủ yếu. Chính phủ Indonesia thực hiện bao
cấp cho hoạt động tín dụng nông thôn thông qua các chương trình chỉ định
của Chính phủ nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp như: chương trình
sản xuất gạo, ngô, mía.
Trong chính sách huy động vốn, ngân hàng chú trọng đến huy động
tiền gửi tiết kiệm của dân cư, coi tiết kiệm là hình thức tự nguyện của mọi
người dân. Huy động vốn bằng nguồn gửi tiết kiệm là nguồn vốn quan
trọng, quyết định sự thành công của BRI. Các lợi thế trong công cụ huy
động tiết kiệm là an toàn, thuận tiện, dễ dàng, có khuyến khích, lãi suất
cao, chất lượng dịch vụ với màng lưới các đơn vị rộng khắp hơn nhiều so
với bất cứ một đối thủ cạnh tranh nào. BRI đã thực hiện khá thành công
chương trình huy động tiết kiệm nông thôn để cho dân vay theo cơ chế thị
trường. Nhờ đó, BRI đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển nông
nghiệp ở Indonesia[12],[29],[41].
Trong khi đó, tại Nhật Bản, Tổ chức tài chính hỗ trợ dân sinh
(NLFC) - một tổ chức chuyên thực hiện chính sách quốc gia về hỗ trợ tài
chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là doanh nghiệp cực nhỏ (chỉ
có tối đa 03 nhân viên) và các doanh nghiệp mới khởi lập, các doanh nghiệp
không có đủ điều kiện vay vốn của các ngân hàng thương mại - lại không có
hoạt động huy động vốn, không được phép huy động tiền gửi tiết kiệm của
dân chúng, huy động tiền gửi của các tổ chức và cá nhân. Do đó, hầu hết toàn
bộ nguồn vốn của NLFC được Chính phủ cấp hoặc cho vay với lãi suất thấp
từ nguồn Ngân sách đặc biệt (nguồn vốn ngân sách, Tiết kiệm Bưu điện, Quỹ
Hưu trí) chiếm 90% và 10% còn lại là dưới dạng trái phiếu đầu tư tài chính
hoặc phát hành trái phiếu bảo lãnh của Chính phủ.



17
Đối với mô hình ngân hàng chính sách không thuộc sở hữu nhà nước, có
nguồn vốn hoạt động dựa trên sự đóng góp của người dân là chính và huy
động vốn dựa trên nguyên tắc thị trường thì chính sách huy động vốn lại có
những điểm khác biệt. Ngân hàng Grameen của nước Cộng hòa nhân dân
Bangladesh là một ngân hàng chuyên phục vụ người nghèo được sáng lập vào
năm 1976 và chính thức tổ chức lại từ năm 1983. Với 93% vốn điều lệ do các
thành viên nghèo đóng góp và Chính phủ chỉ góp 7% vốn điều lệ. Ngân
hàng Grameen hoạt động theo nguyên tắc:
+ Tự bù đắp chi phí
+ Áp dụng chính sách lãi suất thực dương
+ Cho vay trực tiếp đến hộ nghèo thông qua tổ nhóm
+ Không áp dụng biện pháp thế chấp tài sản
Ngân hàng Grameen chỉ phục vụ những thành viên trong hệ thống và
những hộ không có tài sản thế chấp không thể tiếp cận vay vốn của các
ngân hàng thương mại khác. Phương thức cấp tín dụng theo điều kiện đặc
biệt, chỉ cho người nghèo vay vốn gắn với gửi tiết kiệm bắt buộc hàng
tuần để tạo lập nguồn vốn xây dựng ngân hàng Grameen.
1.1.2.2. Công tác tổ chức huy động vốn của các ngân hàng chính sách
Ngoài nguồn vốn do Nhà nước cấp, phần lớn ngân hàng chính sách
phải huy động vốn từ các nguồn khác, như:
- Huy động tiết kiệm.
- Huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội.
- Nguồn đóng góp của các tổ chức và cá nhân từ thiện: Rất nhiều tổ
chức và cá nhân muốn hỗ trợ người nghèo. Thông qua NHCSXH, số tiền
hỗ trợ được quay vòng nhiều lần và có hiệu quả.
- Nguồn cho vay ưu đãi của Chính phủ và tổ chức tài chính: Những
khoản chi ngân sách cho các chương trình tín dụng của Nhà nước phù hợp
với mục tiêu của NHCSXH sẽ được chuyển về cho NHCSXH;



18
- Tài trợ của các chính phủ và tổ chức tài chính quốc tế cho Chính
phủ các nước phù hợp với mục tiêu của NHCSXH.
Để tổ chức huy động vốn một cách hiệu quả, ngân hàng chính sách
thường tập trung vào 3 yếu tố sau : con người, mạng lưới và công nghệ.
Do đặc điểm khách hàng của các NHCSXH là nhỏ, lẻ nên mạng lưới
các chi nhánh trải rộng và xuống tới tận cơ sở (làng, xã, ...) . Đây chính là
một lợi thế của các NHCSXH. Các ngân hàng chính sách không ngừng
mở rộng mạng lưới chi nhánh của mình vì trên thực tế những ngân hàng
sát địa bàn dân cư hoặc gần những trung tâm thương mại thì sẽ thuận lợi
hơn trong việc thu hút vốn. Khi đó số tiền nhàn rỗi trong dân cư sẽ được
họ đem đến ngân hàng gần nơi sinh sống để gửi vì họ sẽ tiết kiệm được
thời gian cũng như chi phí đi lại thêm vào đó là được an toàn hơn.
Mạng lưới hoạt động rộng tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động
nguồn vốn và đầu tư cho vay đồng thời giúp cho ngân hàng quản lý tốt
các khoản tín dụng, tăng cường kiểm soát và hạn chế rủi ro.
Các ngân hàng chính sách rất chú trọng tới việc đa dạng hóa các hình
thức huy động vốn, hướng tới từng đối tượng khách hàng cụ thể như huy
động dưới hình thức tiền gửi tiết kiệm, quỹ tương hỗ, quỹ thanh niên, quỹ phụ
nữ, ... Với sự đa dạng trong các hình thức huy động vốn và mạng lưới hoạt
động rộng, ngoài việc thực hiện huy động vốn theo quy trình bắt buộc của các
cơ quan Chính phủ từng quốc gia, các NHCSXH đều có một quy trình huy
động vốn từ dân cư rất đơn giản và cụ thể. Quy trình huy động tiền gửi tiết
kiệm của các ngân hàng có thể được mô hình hóa cụ thể như sau:
Khách hàng đến ngân
hàng gửi tiền

Ngân hàng và khách

hàng thực hiện giao
dịch gửi tiền

Khách hàng rút tiền,
tất toán tài khoản

Khách hàng gửi tiền
tại ngân hàng. Ngân
hàng sử dụng tiền để
tài trợ hoạt động


×